Kinh tế ngoài quốc doanh đặc biệt là kinh tế hộ sản xuất trong giai đoạn hiện nay đã và đang chứng minh được vai trò của nó không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại, mặc dù trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những kết quả mà kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được còn đang phải đương đầu với rất nhiều thử thách lớn.
Với những chủ trương, chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước cùng với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá của nền kinh tế thế giới thì kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là những đối tượng có nhiều dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao và kinh tế ngoài quốc doanh sẽ mau chóng trở thành khách hàng chính của Ngân hàng.
Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp nông thôn. Đầu tư phát triển của kinh tế hộ sản xuất cũng chính là để thực hiện nội dung, phương hướng phát triển kinh tế của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII về phát triển toàn diện nông- lâm- ngư- diêm nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến, của thị trường trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, bộ mặt nông nghiệp nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực và căn bản, sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng trưởng liên tục cả về năng suất, sản lượng. Vấn đề căn bản về lương thực đã được giải quyết, từ chỗ thiếu ăn nay đã có dư thừa về xuất khẩu. Cơ cấu ngành nghề đã hình thành tương đối rõ nét, đã có các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo xu thế chung của cả nước, cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều nơi được quan tâm, đầu tư, cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới.
Nhờ những thành tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp mà nông thôn nước ta đã được khởi sắc, được đổi mới một cách đáng kể. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, làm cho dân giàu, nước mạnh.
Có được những thành quả to lớn trong nông nghiệp nông thôn là do có sự nỗ lực phấn đấu đóng góp của nhiều ngành, nhiều cấp, trong đó có vai trò to lớn của NHNo & PTNT huyện Từ Sơn nói riêng, trong việc đầu tư tín dụng- một sự cần thiết tất yếu khách quan và không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Cho vay hộ sản xuất- một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của NHNo & PTNT và đó cũng là khách hàng tiềm năng của NHNN&PTNT huyện Từ Sơn.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận kết hợp với quá trình thực tập tại NHNN&PTNT huyện Từ Sơn, em đã chọn đề tài : “Biện pháp mở hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Sơn”. Trong đề tài ngiên cứu đã thực hiện được một số nội dung sau:
Đã khái quát được những vấn đề về mặt lý luận, đã đưa ra được một số biện pháp để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư vốn trong cho vay hộ sản xuất của NHNN&PTNT huyện Từ Sơn.
Luận văn đã đi sâu vào phân tích thực tế, làm rõ thực trạng về cho vay hộ sản xuất và đặc biệt đã chỉ ra được những tồn tại, nguyên nhân của tồn tại trong quá trình cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn đã đưa ra được hệ thống các giải pháp cũng như các kiến nghị đối với Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam, Ngân hàng cơ sở có liên quan đến vấn đề đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất nhằm góp phần mở rộng hiệu quả tín dụng cũng như các vấn đề cho vay hộ sản xuất.
Hoàn thành bản luận văn này, bản thân em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào công tác cho vay hộ sản xuất. Song đây là nội dung nghiên cứu hết sức rộng lớn và phức tạp, cho nên bài viết còn cần phải hoàn thiện nhiều cả về nội dung lý luận và công tác thực tiễn. Vậy bản thân em rất mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng với các cô chú tại NHNN&PTNT huyện Từ Sơn để bản luận văn của em được hoàn thiện.
76 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, chiếm tỷ trọng 63,4% so với tổng dư nợ của chi nhánh và tăng 56.352 triệu đồng so với năm 2002 với tỷ lệ tăng 65,2%.
+) Dư nợ ngành dịch vụ thương mại khác năm 2003 đạt: 60.529 triệu đồng chiếm tỷ trọng 26.9% so với tổng dư nợ của chi nhánh và tăng 43.050 triệu đồng so với năm 2002, với tỷ lệ 246%.
Tổng dư nợ HSX của năm 2004 đạt: 208.007 triệu đồng so với năm 2003 giảm 17.092 triệu đồng, số tương đối giảm 7,6%.
+) Dư nợ sản xuất nông nghiệp năm 2004 đạt 21.363 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 10,3% so với tổng dư nợ của chi nhánh và giảm 403 triệu so với năm 2003, với tỷ lệ giảm 1,9%.
+) Dư nợ ngành CN-TTCN năm 2004 đạt 100.650 triệu đồng chiếm tỷ trọng 48,4% so với tổng dư nợ của chi nhánh và giảm 42.154 triệu đồng so với 2003 với tỷ lệ giảm 29,5%.
+) Dư nợ ngành dịch vụ thương mại khác năm 2004 đạt 85.994 triệu đồng chiếm tỷ trọng 41,3% so với tổng dư nợ của chi nhánh và tăng 25.465 triệu đồng so với 2003 với tỷ lệ tăng 42,07%.
Qua số liệu trên ta thấy tình hình dư nợ theo ngành kinh tế của Ngân hàng năm 2003 so với 2002 tăng nhất là ngành CN-TTCN và ngành dịch vụ thương mại vì các ngành này chiếm phần lớn trong các hộ sản xuất. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất các hộ không thể tránh khỏi những rủi ro có thể xảy ra như giá nguyên vật liệu tăng làm cho tình hình sản xuất bị giảm sút, khả năng trả nợ của các hộ trở lên khó khăn. Mà vốn đầu tư chủ yếu của Ngân hàng dành cho các hộ gia đình để phát triển các ngành nghề truyền thống chiếm tỷ trọng lớn. Trong năm 2004 doanh số cho vay của các ngành nông nghiệp, CN-TTCN giảm tình hình dư nợ cũng giảm lý do là trên địa bàn huyện có rất nhiều Ngân hàng được thành lập và theo quyết định của Giám đốc NHNo&PTNT tỉnh Bắc Ninh các Ngân hàng cần phải giàn xẻ cho nhau. Chính vì vậy NHNo&PTNT huyện Từ Sơn đã tích cực nâng cao chất lượng phục vụ đồng thời tích cực đầu tư cho vay các ngành dịch vụ thương mại để phục vụ nhu cầu đời sống của nhân dân.
2.2.3.2. Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay HSX.
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay HSX =
Biểu 10 : Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay HSX
ĐVT: Triệu đồng
Năm
2002
2003
2004
Dư nợ cho vay hộ sản xuất
126.006
225.099
208.007
D dư nợ
-
99.093
(17092)
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay HSX
-
78,64%
(7,6%)
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Từ Sơn)
Qua số liệu trên cho ta thấy năm 2003 đã tích cực mở rộng cho vay HSX trên địa bàn cụ thể. Dư nợ năm 2003 tăng so với năm 2002 là 99.093 triệu đồng, về tốc độ tăng 78,64%.
Vốn cho vay HSX tập trung chủ yếu ở các làng nghề cụm công nghiệp như sắt Đa Hội, gỗ Đồng Kỵ, xây dựng bê tông Đồng Nguyên nhằm phục vụ cơ cấu kinh tế.
Năm 2004 do khó khăn về nguồn vốn (vốn huy động giảm) do thực hiện bàn giao dịch vụ hộ nghèo về Ngân hàng chính sách xã hội, dư nợ HSX giảm 17092 triệu đồng tốc độ giảm là 7,6% so với năm 2003.
Qua đó phản ánh sự cố gắng của NHNo^PTNT Từ Sơn trong việc mở rộng cho vay HSX nhất là trong điều kiện trên địa bàn có nhiều Ngân hàng thương mại (như Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng thương mại cổ phần... và các tổ chức tín dụng khác).
2.2.3.3. Dư nợ bình quân hộ sản xuất
Với đặc thù là huyện có nhiều ngành nghề truyền thống, đa số hộ sản xuất còn thiếu vốn nên việc mở rộng cho vay của NHNo Từ Sơn là rất cần thiết. Do đó dư nợ bình quân của HSX ở Từ Sơn được thể hiện trong biểu sau:
Biểu 11: Dư nợ bình quân hộ sản xuất.
ĐVT: Triệu đồng.
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
± 03/02
± 04/03
Tổng dư nợ
126.006
225.099
208.007
99.093
(17.092)
Tổng số hộ
6394
7030
6892
636
(138)
Dư nợ bình quân
19,7
32,0
30,2
12,3
(1,8)
(Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Từ Sơn)
Qua số liệu trên cho ta thấy. Năm 2003 số hộ còn dư nợ là 7.030 hộ tăng 636 hộ so với năm 2002.
+) Năm 2004 số hộ còn dư nợ là 6892 hộ giảm 138 hộ so với năm 2003.
+) Dư nợ bình quân hộ sản xuất năm 2003 là 32,01 triệu đồng tăng 12,31 triệu đồng so với năm 2002, năm 2004 giảm 1,8 triệu đồng so với năm 2003. Điều đó chứng tỏ trong năm 2003 NHNo Từ Sơn đã thể hiện số lượng khách hàng ngày được mở rộng có chọn lọc, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế của huyện theo đề nghị của Đảng bộ Huyện đề ra. Trong năm 2004 NHNo&PTNT Từ Sơn chủ yếu chú trọng công tác nâng cao chất lượng, nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ tốt nhất cho người dân cũng như các hộ sản xuất, nên việc mở rộng có giảm đi so với năm 2003.
2.2.4: Dư nợ quá hạn hộ sản xuất.
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là khoản tiền (cả gốc và lãi) đã quá hạn thanh toán mà không được Ngân hàng gia hạn nợ nhưng khách hàng chưa thanh toán được cho Ngân hàng. Thực tế nợ quá hạn hộ sản xuất của NHNo&PTNT Từ Sơn được thể hiện qua biểu sau:
Biểu 12 : Dư nợ quá hạn hộ sản xuất.
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
03/02
04/03
ST
%
ST
%
Tổng dự nợ HSX
126.006
225.099
208.007
99.093
78,6
(17.092)
7,59
Nợ quá hạn
412
424
1.034
12
2,9
610
144
Tỷ lệ (%)
0,33
0,19
0,5
(0,14)
0,31
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Từ Sơn).
Qua biểu trên cho ta thấy nợ quá hạn của NHNo&PTNT Từ Sơn theo hướng tăng dần qua các năm cụ thể:
Năm 2002 dư nợ quá hạn là 412 triệu đồng chiếm 0,33% tổng dư nợ HSX, năm 2003 là 424 triệu đồng chiếm 0,19% tổng dư nợ HSX và năm 2004 là 1.034 triệu đồng chiếm 0,5% tổng dư nợ HSX
Biểu đồ: Nợ quá hạn HSX.
Qua biểu đồ ta thấy nợ quá hạn có chiều hướng tăng rõ rệt. Nếu so sánh năm 2003 với năm 2002 thì tăng 12 triệu đồng, năm 2004 so với năm 2003 tăng 610 triệu đồng.
Nguyên nhân làm cho NHNo&PTNT Từ Sơn có tình trạng dư nợ quá hạn quá cao đối với hộ sản xuất trong năm 2004 là do . Trong năm trên địa bàn huyện các khu CN mới đi vào hoạt động, việc mua sắm thiết bị máy móc ở các hộ sản xuất là quá lớn, sản phẩm mới làm ra chưa đứng vững được trên thị trường, do vậy Ngân hàng đã tạo điều kiện cho các hộ sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất .Do vậy việc nợ quá hạn của các hộ sản xuất đối với Ngân hàng tăng lên là đương nhiên.
Nhưng với số lượng khoản vay lớn với hàng nghìn lượt vay, hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh lại chịu ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện tự nhiên, biến động giá cả thị trường và trình độ nắm bắt khoa học kỹ thuật của người dân chưa đồng đều nên việc phát sinh nợ quá hạn là khó tránh khỏi.
2.2.5: Tình hình lãi suất cho vay.
Tuỳ thuộc vào từng đối tượng cho vay mà Ngân hàng có các mức lãi suất linh hoạt phù hợp với chính sách lãi suất hiện hành và chiến lược kinh doanh của Ngân hàng. Năm 2004 Ngân hàng mở rộng đối tượng cho vay với những người hưởng lương công nhân viên chức, cán bộ hưu trí cũng theo lãi suất thoả thuận giữa khách hàng và Ngân hàng như hộ sản xuất.
2.3. Đánh giá mở rộng cho vay hộ sản xuất thời gian qua.
Mở rộng cho vay hộ sản xuất đã góp phần quan trọng vào kết quả kinh doanh của Ngân hàng, đảm bảo được hiệu quả kinh doanh phục vụ kịp thời sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của huyện.
2.3.1. Kết quả đạt được:
2.3.1.1. Kết quả.
- Thị trường nông thôn là thị trường rộng lớn việc mở rộng cho vay hộ sản xuất của Ngân hàng Từ Sơn đã bám sát và thực hiện đúng định hướng kinh doanh của NHNo tỉnh Bắc Ninh, đảm bảo kết quả kinh doanh và đời sống cho đội ngũ cán bộ công nhân viên.
- Cho vay hộ sản xuất là một chủ trương lớn của Nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Vì vậy triển khai mở rộng tín dụng đối với hộ sản xuất được các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ. Vốn Ngân hàng cho vay đã phát huy hiệu quả kinh tế làm thay đổi bộ mặt kinh tế trong huyện. Mặt khác thông qua việc cho vay làm các cấp, các ngành, các đoàn thể xác định rõ trách nhiệm của mình, người dân hiểu rõ về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển kinh tế nông thôn. Thông qua việc cho vay tăng cường mối quan hệ đoàn kết giữa nhân dân với các cấp chính quyền, đoàn thể, hạn chế đi đến tệ xoá bỏ cho vay nặng lãi ở nông thôn, giữ vững an ninh trật tự xã hội.
- Thông qua việc cho vay hộ sản xuất từ đó đã giúp các hộ có thêm vốn sản xuất kinh doanh mua vật tư, nguyên liệu, con giống, cây trồng.. phát triển sản xuất không ngừng nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân, nhiều hộ đã thoát khỏi cảnh đói nghèo.
- Quá trình mở rộng cho vay hộ sản xuất đã giúp đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ Tín dụng nói riêng hiểu rõ thêm quy trình nghiệp vụ cho vay, tình hình đời sống thu nhập của bà con hộ nông dân, các hộ kinh doanh. Từ đó có các biện pháp triển khai phù hợp đồng bộ để không ngừng mở rộng cho vay, đảm bảo hiệu quả đồng vốn, chấp hành đầy đủ nguyên tắc chế độ của ngành, của pháp luật Nhà nước đã đề ra.
2.3.1.2. Nguyên nhân:
Đạt được thành tích trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Ngân hàng cấp trên trong việc kiểm tra, đôn đốc Ngân hàng cơ sở, các tổ chức hội thực hiện tốt thể chế quy định, hạn chế những sai sót xảy ra. Được sự quan tâm của huyện uỷ, hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân huyện, các ban ngành đoàn thể trong huyện trong việc chỉ đạo giúp đỡ Ngân hàng thực hiện tốt việc huy động vốn cũng như việc đầu tư vốn đến hộ sản xuất.
Sự quan tâm của Đảng uỷ, chính quyền, các tổ chức hội cơ sở trong việc phối hợp, kết hợp với Ngân hàng thực hiện mở rộng đầu tư vốn đến các HSX.
Ngân hàng đã khai thác tiềm năng to lớn của thị trường nông thôn, theo sát mục tiêu kinh tế của địa phương, xác định hướng tín dụng. Từ đó lập kế hoạch kinh doanh tại Ngân hàng khu vực để xác định hướng cho vay, mức cho vay đối tượng cụ thể.
Mở rộng và củng cố mạng lưới Ngân hàng cấp 3, các tổ chức cho vay lưu động tiếp cận cơ sở gần gũi với nhân dân.
2.3.2. Những hạn chế:
Bên cạnh những thành tích đã đạt được trong quá trình hoạt động, NHNo huyện Từ Sơn được NHNo tỉnh Bắc Ninh trao tặng danh hiệu lá cờ đầu trong số các chi nhánh trong tỉnh. Được Uỷ ban nhân dân huyện công nhận là đơn vị có thành tích góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2004. Nhưng trong quá trình hoạt động nói chung, mở rộng cho vay hộ sản xuất nói riêng vẫn có những hạn chế và những vấn đề đặt ra cần phải khắc phục đó là:
- Là một chi nhánh NHNo có nguồn vốn huy động không ngừng tăng và có số dư nguồn vốn tự huy động lớn nhất trong toàn tỉnh. Song quá trình cho vay các hộ sản xuất còn chưa cao, đặc biệt là chưa đầu tư nhiều trong quá trình cho vay đối với các đối tượng khác như: DNNN, doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn.. vì vậy việc mở rộng Tín dụng còn bị động do Ngân hàng cấp trên điều tiết nguồn vốn.
Việc mở rộng hình thức cho vay qua tổ nhóm còn thấp trong tổng dư nợ cho vay HSX, chủ yếu là các món vay nhỏ dư nợ dưới 10 triệu đồng các món vay trên 10 triệu đồng chiếm tỷ trọng thấp.
Quá trình thẩm định dự án của cán bộ tín dụng đối với dự án, phương án của khách hàng chưa thực hiện tốt theo quy định. Cả cán bộ tín dụng lẫn người vay đều không biết chắc chắn khả năng sinh lời của dự án.
Ngân hàng hầu như chưa có chính sách để khuyến khích những khách hàng vay vốn trả nợ đúng hạn nhằm mở rộng đầu tư cho vay.
2.3.3: Nguyên nhân:
2.3.3.1: Nguyên nhân khách quan:
Do môi trường kinh doanh chưa ổn định, nền kinh tế Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều hộ nông dân không bắt kịp những thay đổi của thị trường nhất là về chủng loạI hàng hoá, giá cả sản phẩm đa số hộ còn hạn chế về năng lực sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật sản xuất thủ công còn lạc hậu .. Vốn tích luỹ ban đầu còn rất nhỏ nên trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường việc sản xuất cũng như việc tiêu thụ sản phẩm gặp không ít khó khăn. Do vậy muốn sản xuất kinh doanh có hiệu quả để tăng thu nhập cũng như ổ định đời sống HSX rất cần đến nguồn vốn vay của Ngân hàng.
Huyện Từ Sơn là cửa ngõ thủ đô của Hà Nội chính vì thế luôn được Đảng và Nhà nước ưu ái quan tâm, cơ sở hạ tầng nông thôn tương đối tốt. Tuy nhiên mạng lưới cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cũng như việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra chưa ổn định ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất kinh doanh của nông dân. Điều này hạn chế việc mở rộng cho vay của Ngân hàng trong năm 2004 so với năm 2003.
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Uỷ ban nhân dân xã cho các cho HSX chưa kịp thời gây khó khăn cho các HSX cần vay thế chấp tài sản do hộ không đủ vốn để sản xuất, còn về phía Ngân hàng không thể mở rộng cho vay. Nhiều hộ sản xuất đấu thầu đất để nuôi trồng thuỷ sản trả tiền hàng năm do vậy đấu thầu không đủ điều kiện là tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng.
Cơ chế chính sách của ngành có nhiều thay đổi chưa đồng bộ nhất là về mặt thế chấp tài sản, quy định của Ngân hàng và theo thực tế thì việc làm của cơ quan công chứng huyện còn chưa thống nhất. Gây vướng mắc trong việc mở rộng cho vay hộ sản xuất.
2.3.3.2: Nguyên nhân chủ quan
- Công tác thẩm định trước khi cho vay, trong và sau khi cho vay, công tác kiểm tra sau ở một số cán bộ tín dụng còn sơ sài đôi khi hình thức. Tư tưởng “Sợ trách nhiệm” vẫn còn tồn tại ở một số cán bộ tín dụng nên chưa mạnh dạn cho vay. Mối quan hệ với Uỷ ban nhân dân các thôn, xã chưa đồng bộ, chặt chẽ, chưa thực sự kiên quyết xử lý thu hồi vốn. Trong năm 2004 nợ quá hạn còn cao so với năm 2003 là do một số món vay thiếu hiệu quả, một số hộ cho vay sử dụng vốn sai mục đích, phải ra hạn nợ hoặc chuyển nợ quá hạn, nợ đã quá hạn chậm được thu hồi kể cả phải xử lý tài sản thế chấp..
- Trách nhiệm của chính quyền một số thôn, xã chưa cao, thể hiện trong việc ký xác nhận, một số còn sợ và ngại trách nhiệm, chưa thực sự giúp đỡ Ngân hàng trong việc mở rộng cho vay cũng như thu hồi vốn, còn coi việc cho vay đến hộ sản xuất là việc làm và trách nhiệm của Ngân hàng. Đó là những nguyên nhân hạn chế trong quá trình mở rộng cho vay hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Từ Sơn cần được khắc phục, giải quyết.
- Thông tin phòng ngừa rủi ro trong việc mở rộng hoạt động tín dụng chưa được quan tâm sử dụng do đặc thù khách hàng của NHNo&PTNT Từ Sơn là nông dân nhỏ và lẻ.
Chương 3:
Các giảI pháp và kiến nghị mở rộng hoạt động tín dụng Ngân Hàng đối với khu vực kinh tế hộ sản xuấttại NHNo &PTNT huyện Từ Sơn
3.1: Những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Mục tiêu phát triển kinh tế của huyện trong thời gian tới là: Phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại yếu kém, giữ vững ổn định chính trị, không ngừng củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, tinh thần làm chủ của nhân dân, khai thác mọi nguồn lực, tranh thủ thời cơ, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật để từng bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhất là lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Đẩy nhanh sản xuất tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu, khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao hơn nữa đời sống vật chất tinh thần và trình độ dân trí của nhân dân, xây dựng huyện ngày càng văn minh giàu đẹp.
3.1.1: Những mục tiêu chủ yếu:
- Tổng sản phẩm xã hội tăng 16,5% so với năm 2004, để cuối năm 2005 cơ cấu kinh tế của huyện là:
+ Công nghiệp- xây dựng 66,0%
+ Dịch vụ 23,0%
+ Nông nghiệp 11,0%
- Giá trị trồng trọt 35 triệu đồng/ ha canh tác, giá trị sản xuất nông nghiệp lên 172 tỷ đồng.
- Giá trị sản xuất CN-TTCN đạt 1657 tỷ đồng tăng 22,45% so với năm 2004
- Tổng mức hàng hoá bán lẻ trên địa bàn: 620 tỷ đồng tăng 15% so với năm 2004.
- Kim ngạch xuất nhập khẩu trên địa bàn đạt 15,9 triệu U S D
- Tổng thu ngân sách huyện trên địa bàn 61,3 tỷ đồng (không kể thu tiền sử dụng đất của các dự án xây dựng nhà để bán).
3.1.2: Một số chỉ tiêu cụ thể trong thời gian tới:
Năng suất bình quân đạt 55 tạ/ ha
Bình quân lương thực đầu người là =450 kg/năm
Thu nhập bình quân đầu người đạt =8,5 triệu đồng /năm.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Nông- lâm nghiệp: 28%; Công nghiệp, xây dựng: 42%; Thương mại dịch vụ: 30%; Tỷ lệ hộ nghèo: 2%
3.1.3: Các biện pháp chủ yếu về phát triển kinh tế.
- Tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tốc độ đầu tư để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đặc biệt là cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông- thuỷ lợi- công trình đô thị.
- Đầu tư mở rộng sản xuất, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến và phát triển dưới nhiều hình thức như: Hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn... Tiếp tục rà soát lại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang tồn tại để có biện pháp quản lý củng cố. Đối với nông nghiệp, mục tiêu công nghiệp hoá trước hết là công nghiệp hoá các khâu phục vụ cho sản xuất như làm đất, vận chuyển xay xát, cần khuyến khích việc vay vốn, tổ chức liên doanh góp vốn để đầu tư cho việc mua sắm các công cụ máy móc phụcvụ sản xuất. Tập trung tháo gỡ những khó khăn cho các làng nghề. Có biện pháp để khôi phục và củng cố các làng nghề truyền thống trước hết là củng cố làng nghề hiện có, khôi phục các làng nghề yếu kém về sản xuất nhưng nhu cầu thị trường vẫn cần như: sơn mài, mây tre đan xuất khẩu.. Cùng với việc duy trì vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình, cần khuyến khích phát triển mạnh các hình thức hợp tác để người nông dân, người sản xuất liên kết với nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục triển khai việc chuyển đổi, giải thể, thành lập hợp tác xã, CN-TTCN để làm sao cho các doanh nghiệp này làm ăn có hiệu quả.
- Đẩy mạnh hoạt động tài chính, tiền tệ thực hiện thực hành tiết kiệm và thực hiện các chính sách xã hội.
Về tài chính: Chuyển mạnh hoạt động của các Ngân hàng theo cơ chế thị trường, tiếp tục tăng nguồn vốn huy động, tăng mức vốn đầu tư vào các ngành và lĩnh vực kinh tế, góp phần tích cực vào nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương. Nâng cao tỷ trọng cho vay vốn tín dụng trung, dài hạn. Mở rộng quỹ tín dụng ở các xã có điều kiện phát triển kinh tế để thu hút nguồn vốn tại chỗ phục vụ kịp thời cho sản xuất kinh doanh ở từng cơ sở. Để đạt được mục tiêu này cần chỉ đạo tốt việc thực hiện các dự án cho vay vốn đối với các hộ sản xuất, dự án giải quyết việc làm cho người lao động..
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế.
Các cấp uỷ Đảng phải nắm mục tiêu, phương hướng và biện pháp lớn về phát triển kinh tế tạo điều kiện cho cơ sở, lấy cơ sở là địa bàn để tháo dỡ những khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống của mọi tầng lớp nhân dân.
Lãnh đạo cần kiểm tra hoạt động của các cấp, các ngành nhất là lĩnh vực tài chính, tiền tệ để đảm bảo cho việc sử dụng nguồn vốn đúng hướng, đúng chủ trương, đảm bảo công khai dân chủ và có hiệu quả.
3.2 Định hướng phát triển cho vay hộ sản xuất trong thời gian tới của NHNo&PTNT huyện Từ Sơn.
Để tiếp tục không ngừng mở rộng tín dụng và nâng cao hiệu quả kinh doanh, NHNo&PTNT huyện Từ Sơn đã xây dựng mục tiêu sau:
* Tổng vốn huy động: 236 tỷ.
* Tổng dư nợ tín dụng cho vay: 233 tỷ.
* Dư nợ quá hạn: Đảm bảo dưới 0,5% tổng dư nợ tín dụng
3.3: Những giải pháp, đề xuất nhằm mở rộng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Từ Sơn.
3.3.1: Những giải pháp mở rộng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo&PTNT huyện Từ Sơn.
Để thực hiện tốt những mục tiêu trên, khắc phục những tồn tại thiếu sót nhằm mở rộng tín dụng đối với HSX. NHNo&PTNT huyện Từ Sơn cần thực hiện những giải pháp sau:
3.3.1.1: Lập kế hoạch cho vay.
Đối với NHNo&PTNT Từ Sơn, hoạt động cho vay hộ sản xuất tạo ra thu nhập hàng đầu của Ngân hàng. Sự tồn tại, phát triển của Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu, chất lượng vốn đầu tư và chỉ được đảm bảo khi có sự lựa chọn khách hàng cẩn thận, thẩm định kỹ càng. Tất cả những điều này đều thuộc chính sách cho vay hay chiến lược hoạt động cho vay của Ngân hàng. Do đó Ngân hàng phải lập kế hoạch cho hoạt động tín dụng như sau:
- Xác định thị trường: Để tạo ra phương hướng cho vay của Ngân hàng bao gồm việc lựa chọn các ngành hoặc hoạt động kinh tế phát triển, phục vụ có hiệu quả lâu dài, hạn chế cho vay các ngành kém hiệu quả.
- Đối với NHNo&PTNT Từ Sơn thị trường chính là nông nghiệp nông thôn, khách hàng là nông dân, các hộ sản xuất có quy mô vừa và nhỏ.
- Thiết lập đường lối tín dụng: Là xác định phương hướng chung, xác định cơ cấu cho vay khách hàng thuộc các nhóm ngành, thiết lập đường lối tín dụng Ngân hàng phân bổ một cách cân đối cơ cấu đầu tư, nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững đối với các ngành được tài trợ trong khi vẫn cho phép đa dạng hoá hoạt động, phân tán rủi ro trong cho vay.
- Đối với NHNo&PTNT Từ Sơn đường lối tín dụng được xác định là đầu tư cho vay phát triển, nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hóa, đầu tư cho chương trình thay đổi cơ cấu kinh tế của huyện, mở rộng cho vay nuôi trồng thuỷ sản, phát triển ngành nghề phụ tận dụng lao động trong lúc nông nhàn.
Việc lập kế hoạch căn cứ vào mục tiêu chương trình phát triển kinh tế của Tỉnh, huyện cũng như định hướng của ngành, phân định chức năng ro ràng với từng đơn vị cơ sở các chi nhánh Ngân hàng cấp 3, cung cấp dữ liệu thông tin kinh tế, xã hội báo cáo về cơ cấu cho vay, phân tích cung cầu tín dụng của hộ sản xuất tại địa bàn hoạt động. Yêu cầu đặt ra là: Thông tin phải đảm bảo độ chính xác, đầy đủ, kịp thời và thường xuyên cập nhật, NHNo&PTNT Từ Sơn sẽ sàng lọc thông tin, lập kế hoạch tín dụng hàng năm, 3 năm, 5 năm.
Việc lập kế hoạch chính xác và khoa học sẽ giúp cho nhân viên Ngân hàng nhất là cán bộ tín dụng tập trung nỗ lực vào đối tượng khách hàng chính của mình một cách có hiệu quả nhất.
3.3.1.2: Tăng cường tiếp cận hộ sản xuất.
Việc xây dựng và củng cố mạng lưới Ngân hàng rộng khắp với nhiều chi nhánh khu vực và các tổ cho vay, thu nợ lưu động đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho Ngân hàng tiếp xúc gần hơn với các hộ gia đình. Tuy nhiên vẫn còn không ít khách hàng chưa đến với Ngân hàng một số lý do các hộ sản xuất chưa tiếp cận với tín dụng Ngân hàng như sau:
Thiếu lòng tin về Ngân hàng và các chương trình tín dụng.
Chi phí cho vay còn cao ( Như lệ phí của Uỷ ban nhân dân xã, công chứng, lãi xuất).
- Yêu cầu thế chấp ngặt nghèo, giấy tờ hồ sơ đã giảm bớt song với hộ sản xuất vẫn cho là phức tạp, nhiều hộ chưa lập được dự án, phương án sản xuất kinh doanh, chưa hạch toán kinh tế được.
- Ngành nông nghiệp chịu rất lớn ảnh hưởng của thiên tai do một số còn e sợ rủi ro có thể dẫn đến không trả được nợ Ngân hàng. Do vậy việc tiếp xúc với từng hộ gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc mở rộng tiếp cận với khách hàng, Ngân hàng cần có những thông tin, tuyên truyền rộng rãi đến hộ sản xuất về lợi ích khi đến với Ngân hàng, Ngân hàng sẽ cùng họ tìm ra vướng mắc để tháo gỡ. Để mở rộng tiếp cận với hộ sản xuất Ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề sau:
- Triển khai việc mở rộng đăng ký vay vốn đến tất cả các thôn, xóm.
Mở rộng cho vay thông qua tổ tương hỗ không chỉ đối với hộ nông dân, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh mà còn các tổ chức khác nữa.
- Thành lập và duy trì các tổ cho vay, thu lưu động, cải tiến các phòng giao dịch của đội ngũ cán bộ, xoá bỏ phiền hà tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay trả tổ chức cho cán bộ công nhân viên học tập trau dồi kiến thức Marketinh để hoà nhập kinh tế thị trường.
- Cần tăng cường năng lực thẩm định các món vay nhỏ, xây dựng các mô hình mẫu trong sản xuất nông nghiệp để đơn giản hoạt động phân tích dự án.
3.3.1.3: Đa dạng hoá loại hình cho vay, phương thức cho vay.
Đa dạng hoá các hình thức cho vay, mạnh dạn áp dụng các phương tiện cho vay mới khi có điều kiện. Hiện nay NHNo&PTNT Từ Sơn cho hộ sản xuất vay theo phương thức cho vay từng lần. Phương thức này phù hợp cho vay vốn không thường xuyên, sản xuất theo mùa vụ, chu chuyển vốn chậm. Hiện nay những hộ vay vốn sản xuất theo quyết định 67/QĐ- TTg, vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp chỉ nộp cho Ngân hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thủ tục vay vốn đã đơn giản rất nhiều.
Với những khách hàng co vòng quay vốn nhanh có nhu cầu vốn thường xuyên qua quá trình vay trả sòng phẳng, có tín nhiệm trong quan hệ giao dịch với Ngân hàng khách hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng. Phương thức này cho phép khách hàng có thể duy trì một mức tín dụng trong thời gian nhất định (tối đa là 12 tháng) theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Trong phạm vi của hạn mức tín dụng và thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần vay vốn, khách hàng chỉ cần lập giấy nhận nợ tiền vay kèm theo bộ chứng từ vay phù hợp với mục đích sử dụng với vốn trong hợp đồng tín dụng. Phương thức này tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí quản lý hồ sơ của Ngân hàng.
Đối với vùng chuyên canh trồng lúa, có hai vụ liền kề, Ngân hàng có thể cho vay lưu vụ nếu xét thấy sự án sản xuất của các hộ có hiệu quả và hộ đã trả đủ lãi món vay trước, thời gian cho vay lưu vụ tối đa bằng một chu kỳ sản xuất (một vụ). Lãi suất cho vay lưu vụ được áp dụng lãi suất hiện hành. Theo phương thức này hộ dân sau một chu kỳ sản xuất chỉ cần trả hết lãi và lập giấy đề nghị vay lưu vụ mà không cần làm thủ tục vay. Đầu tư cho vay theo phương thức này giúp cho hộ sản xuất chủ động về vốn, giảm chi phí giao dịch, giảm các thủ tục về giấy tờ làm người nông dân gắn bó với Ngân hàng hơn.
Bám sát chương trình kinh tế xã hội của địa phương, tập chung chỉ đạo nắm chắc tình hình kinh tế trên địa bàn, điều tra các phân loại khách hàng để có hướng đầu tư phù hợp với từng địa bàn và thực hiện chính sách khách hàng của NHNo&PTNT Từ Sơn để đạt kết quả cao nhất.
3.3.1.4: Rà soát nợ đến hạn, phân tích nguyên nhân nợ quá hạn để đề ra biện pháp xử lý hữu hiệu, không nên để nợ quá hạn kéo về thời gian.
- Nếu nợ đến hạn do nguyên nhân khách quan chưa trả được cần tiến hành xem xét nếu có thể cho gia hạn nợ, cho vay thêm để giúp người vay có thời gian khôi phục lại sản xuất hoặc có thêm vốn để sản xuất (Đối với những trường hợp xét thấy có hiệu quả) hoặc đề nghị Ngân hàng cấp trên có biện pháp xử lý theo quy định. Không tiến hành chuyển nợ quá hạn dẫn đến nợ quá hạn kéo dài mà không thu hồi được.
- Nợ đến hạn hoặc nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan của khách hàng vay cần có biện pháp tích cực, kiên quyết trong việc xử lý để thu hồi vốn, kể cả phải xử lý tài sản thế chấp để thu hồi vốn hoặc khởi kiện trước pháp luật.
3.3.1.5: Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát:
Ban Giám đốc và lãnh đạo các phòng tổ cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát. Nhằm kiểm tra việc chấp hành chế độ thể lệ của cán bộ tín dụng phụ trách các địa bàn. Thực tế đã xảy ra (số ít) trường hợp cho vay trực tiếp đến hộ có tổ tín chấp, tổ trưởng đã lợi dụng xâm chiếm tiền (Các trường hợp tổ viên trả nợ nhưng tổ trưởng đã lợi dụng không nộp cho Ngân hàng..), đem cho vay trực tiếp đến hộ không có tổ tín chấp nhưng do khâu thẩm định kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay của cán bộ tín dụng sơ sài đã dẫn đến những trường hợp hộ vay sử dụng vốn sai mục đích. Qua kiểm tra của lãnh đạo mới phát hiện ra nhưng rất khó khăn thu hồi.
3.3.1.6: Thực hiện cơ chế khoán tài chính đối với từng cán bộ.
Nhất là trong điều kiện cạnh tranh về hoạt động tín dụng hiện nay trên địa bàn. Thực hiện trả lương theo kết quả lao động có như vậy mới khuyến khích được đội ngũ cán bộ tín dụng làm trực tiếp, có trách nhiệm cao trong công việc của mình. Từ đó phát huy trình độ và năng lực trong công việc.
3.3.1.7: Hoàn thiện hệ thống thông tin nhằm mở rộng thẩm định tín dụng.
Thông tin chính xác sẽ giúp Ngân hàng đánh giá khách hàng một cách toàn diện chính xác có thể thấy được những ưu nhược điểm của họ từ đó Ngân hàng có những kết luận đúng đắn về khách hàng của mình, thông tin đầy đủ có nhiều chiều với độ tin cậy cao sẽ góp phần mở rộng tín dụng thẩm định dự án.
Thông tin có thể thu thập được từ nhiều nguồn sau.
Thông tin từ khách hàng vay vốn: Trong quá trình hoàn tất hồ sơ thủ tục xin vay khách hàng vay vốn có trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết cho Ngân hàng, dự án đầu tư, kế hoạch vay vốn, trả nợ và các thông tin khác.
Để tránh được khả năng trả nợ của người vay Ngân hàng có thể phỏng vấn trực tiếp người xin vay vốn với mục đích để xem khách hàng có trung thực hay không, tuy nhiên sẽ không cần thiết nếu khách hàng là người quen thuộc có tín nhiệm. Cuộc phỏng vấn có thể là trao đổi những khó khăn vướng mắc về thủ tục vay vốn hay những khó khăn trong những đáp ứng về điều kiện vay vốn.. qua đó có thể nhận xét về tư cách, năng lực, phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm của người vay có thể thông tin phỏng vấn để làm sáng tỏ những điều còn mâu thuẫn hoặc chưa rõ ràng trong hồ sơ vay vốn. Qua phỏng vấn Ngân hàng có thể tìm hiều về nguồn gốc của sự tăng thu nhập, hay chi phí và lợi nhuận của khách hàng, bên cạnh đó Ngân hàng cần tìm hiều về loại hình sản phẩm mà khách hàng sản xuất và hoạt động trên thị trường như thế nào.
Khi đặt ra các câu hỏi phỏng vấn các cán bộ tín dụng cần tạo ra không khí thoải mái như một cuộc trò truyện trao đổi làm sao cho khách hàng cảm thấy không bị phỏng vấn, có thể gây ra sự gượng ép trả lời sai sự thật. Đặc biệt NH phải chú ý nắm bắt tâm lý và nắm bắt những vấn đề thuộc về Ngân hàng.
Khả năng tạo điều kiện cần và đủ để tạo ra thu nhập và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh từ vốn vay của Ngân hàng để trả nợ.
Các nguồn tiền khác có thể thay thế trả nợ Ngân hàng trong trường hợp phương án xin vay vốn bị rủi ro, không có nguồn trả nợ.
Những khó khăn, thuận lợi và những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình sử dụng vốn của Ngân hàng và có những biện pháp khắc phục.
- Thông tin thu thập từ các nguồn khác.
Ngoài các thông tin trực tiếp từ khách hàng vay vốn Ngân hàng có thể khai thác nhiều nguồn thông tin khác như: Thông tin từ khách hàng có quan hệ với khách hàng cần vay vốn, thông tin từ các thông tin tín dụng hay trung tâm phòng ngừa rủi ro.. nguồn thông tin có nhiều nhưng Ngân hàng cần biết chọn lọc và xử lý thông tin về khách hàng vay vốn và Ngân hàng khác đều tập trung tại đây.
Sau khi thu thập thông tin Ngân hàng cần lưu trữ thông tin liên quan đến khách hàng vay vốn cùng với hồ sơ vay vốn làm cơ sở để phân loại khách hàng. Do yêu cầu phải thu thập thông tin nhanh và chính xác đầy đủ, việc lưu trữ thông tin và phân loại khách hàng là cần thiết.
Đối với khách hàng có quan hệ lâu dài và thường xuyên với Ngân hàng thì Ngân hàng cần lưu giữ những tài liệu đã thu thập từ các lần vay trước để khi tiến hành thẩm định dễ dàng. Công việc lưu trữ thông tin của khách hàng cần được tiến hành thường xuyên và tập trung thành những hồ sơ để dễ dàng tìm kiếm, có thể lưu trữ trong máy tính. Theo định kỳ Ngân hàng cần tiến hành phân loại khách hàng theo chỉ tiêu đánh giá chất lượng khoản tiền vay và hiệu quả sản xuất kinh doanh.. qua đó giúp cán bộ thẩm định có căn cứ để đánh giá chính xác hơn về khách hàng vay vốn.
3.3.2: Những đề xuất đối với Ngân hàng, UBND huyện:
3.3.2.1: Đối với Ngân hàng.
Sau khi học tập và nghiên cứu trong nhà trường đối chiếu với văn bản 791 của Thống đốc Ngân hàng và nghị quyết 67- CP của Chính phủ và nghị định 1627/QĐ- NHNN về việc hướng dẫn cho vay vốn trực tiếp tới hộ sản xuất nông nghiệp, hộ kinh doanh và làm dịch vụ.
Qua thời gian thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT em xin mạnh dạn có những đề xuất sau.
- Trên một huyện nhỏ với nhiều tổ chức tín dụng ra đời, do đó việc huy động cho vay với lãi suất khác nhau để tạo điều kiện cho Ngân hàng hoạt động tốt thì Ngân hàng Nhà nước khu vực phải là người trung gian quy định cho các Ngân hàng Thương mại áp dụng lãi suất huy động và cho vay thống nhất. Có như thế mới tạo được niềm tin cho khách hàng, không có sự cạnh tranh khách hàng.
- Do đặc điểm cho vay vốn hộ sản xuất nông nghiệp là chủ yếu việc đầu tư vốn theo thời vụ cây trồng vật nuôi dẫn đến việc thu sản phẩm còn phụ thuộc vào thời tiết khi hậu. Trong quá trình đó không tránh khỏi những rủi ro trong việc sản xuất. Vì vậy đề nghị Nhà nước chỉ đạo các Ngân hàng Thương mại phải có quỹ đề phòng rủi ro, có như vậy thì mới tạo được điều kiện cho hộ sản xuất yên tâm sản xuất, yên tâm lao động.
- Trong quá trình đầu tư vốn của Ngân hàng tới hộ sản xuất, để đảm bảo việc thu nợ tốt. Tỷ lệ quá hạn thấp thì phải có sự kết hợp chặt chẽ thống nhất giữa Ngân hàng và chính quyền Nhà nước như chính quyền địa phương các cấp, các ngành pháp luật (công an, viện kiểm soát..) có sự phối hợp này mới gắn trách nhiệm giữa người vay vốn với Ngân hàng thông qua việc sác nhập thế chấp tài sản, các đoàn thể đứng lên tín chấp cho người vay.
Do việc chuyển đổi cơ cấu đầu tư vốn trong sản xuất Nông nghiệp và có sự chuyển dịch từng vùng, từng dự án, từng địa phương để khuyến khích hộ sản xuất Nông nghiệp phát huy được kinh nghiệm trong sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm cho xã hội, đưa mặt hàng truyền thống của địa phương phát triển thì Nhà nước phải có kế hoạch giao cho từng địa phương sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu, có thị trường tiêu thụ. Vì thế, Nhà nước phải trợ giá cho người sản xuất. Bên cạnh đó, Nhà nước kết hợp với địa phương giao đất lâu dài cho nông dân chủ động trong thâm canh tăng vụ.
Các Ngân hàng Thương mại tăng cường công tác giáo dục cho cán bộ thấy được việc chuyển vốn đầu tư cho Nông nghiệp, Nông thôn đối với NHNo&PTNT là chủ yếu. Vì vậy phải luôn bám sát địa bàn hoạt động cho vay đúng quy định, đúng thời hạn, đảm bảo thu nợ đúng hạn, thu lãi hàng tháng, hạn chế nợ quá hạn, tìm được lãi suất huy động thấp. Đẩy mạnh cho vay chung dài hạn đồng thời cải tiến trong lề lối làm việc, hạn chế tiêu cực xảy ra trong nghiệp vụ của mình. Có như vậy thì công tác tín dụng của Ngân hàng mới đạt hiệu quả cao cả về chất lượng tín dụng và số lượng tín dụng.
3.3.2.2: Đối với Uỷ ban nhân dân huyện Từ Sơn.
Cần chỉ đạo các xã, thôn tăng cường trách nhiệm của mình trong việc cho vay của Ngân hàng đến hộ sản xuất. Như trên đã trình bày ở một số xã cấp uỷ, chính quyền xã, thôn còn thiếu trách nhiệm của mình trong việc cho vay hộ sản xuất, coi việc làm này là việc làm của Ngân hàng không thực sự giúp đỡ Ngân hàng mở rộng cho vay cũng như giúp đỡ Ngân hàng thu hồi vốn... Đồng thời chỉ đạo các xã (Uỷ ban nhân dân) tiến hành rà soát điều tra phân loại các hộ sản xuất có mức thu nhập cao, trung bình hay thấp một cách nghiêm túc theo tiêu chuẩn, từ đó làm cơ sở để NHNo mở rộng cho vay có cơ sở.
Chỉ đạo các ngành, ban hội của huyện phối hợp chặt chẽ với NHNo Từ Sơn (Như ngành nông nghiệp, Hội phụ nữ, Hội nông dân..) trong việc cho vay hộ sản xuất để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất.. và các cơ quan nội chính có biện pháp tích cực giúp đỡ Ngân hàng trong việc thu hồi vốn, phòng tư pháp trong việc công chứng tài sản thế chấp .
3.4. Một số kiến nghị.
3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ.
Chính phủ nên sớm hoàn thiện các văn bản pháp quy trong lĩnh vực hoạt động tài chính, tiền tệ, đặc biệt là Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản dưới luật và các văn bản có liên quan đến công tác tín dụng để nâng cao hiệu quả .
Chính phủ nên sớm ban hành các nghị định về đảm bảo tiền vay và khi có nghị định của Chính phủ cần nhanh chóng có văn bản hướng dẫn thực hiện. Bởi đây là một vướng mắc rất lớn hiện nay đối với hoạt động Ngân hàng đang diễn ra ở các chi nhánh cơ sở, làm ảnh hưởng nhiều đến việc mở rộng cho vay cũng như thu hồi vốn.
Chính phủ nên sớm ban hành quy chế giúp trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro áp dụng tại các Ngân hàng Thương mại để xử lý kịp thời các khoản rủi ro loại ra khỏi tài sản có những khoản không thể thu hồi được.
3.4.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
3.4.2.1. Hoàn thiện và phát triển trung tâm phòng ngừa rủi ro.
Để giúp đỡ các Ngân hàng Thương mại trong công việc thu thập thông tin được chính xác và cập nhật thì không chỉ có nỗ lực của mỗi Ngân hàng mà còn càn đến sự giúp của trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng Nhà nước. Vì vậy Ngân hàng Nhà nước cần tổ chức trung tâm phòng ngừa rủi ro theo một mô hình thích hợp để đảm bảo cho hoạt động của trung tâm có hiệu quả, phải trang bị cơ sở vật chất hiện đại để làm tốt côn tác thu thập thông tin cũng như mở rộng truyền để nâng cao nhận thức về lợi ích của công tác này đến các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và các cơ quan hữu quan.
Tăng cường sự hợp tác giữa vụ tín dụng Ngân hàng Nhà nước với các cơ quan thông tin quốc tế để có những thông tin phục vụ tốt công tác của Ngân hàng. Để đảm bảo thuận tiện cho các Ngân hàng, tổ chức tín dụng trong việc phân loại theo các tiêu thức thống nhất trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Phải xây dựng được phương pháp phân loại khách hàng phù hợp với đặc điểm hoạt động của công tác tín dụng Ngân hàng, bám sát các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tài chính và phi tài chính, phải xây dựng được hệ thống chỉ tiêu phân loại khách hàng phù hợp, hệ thống này được chia làm hại loại.
- Các chỉ tiêu chủ yếu liên quan đến rủi ro tài chính, các chỉ tiêu thuộc loại này gồm hai nhóm, đánh giá chất lượng tài chính và nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng chi trả của khách hàng. Thông qua việc phân tích các chỉ tiêu thuộc hai nhóm này các tổ chức tín dụng có thể đánh giá được tình hình tài chính của khách hàng và khả năng trang trải các khoán nợ Ngân hàng khi đến hạn thanh toán qua đó có thể phòng ngừa hạn chế rủi ro.
Các chỉ tiêu cần có tham khảo trước khi phán quyết tín dụng, các chỉ tiêu này có liên quan đến rủi ro phi tài chính đối với các khoản tín dụng. Loại chỉ tiêu này được căn cứ để xem xét thứ tự ưu tiên khi có nhiều khách hàng thuộc diện xem xét cho vay.
3.4.2.2. Cần có quy định thống nhất trong việc xử lý tài sản thế chấp.
Ngân hàng Nhà nước cần có văn bản hướng dẫn thủ tục xử lý tài sản thế chấp đối với khách hàng có dự nợ tại Ngân hàng Thương mại để các Ngân hàng thực hiện thống nhất. Trên cơ sở có được sự phối hợp kết hợp giữa các cơ quan chức năng như: Chính quyền sở tại, cơ quan bảo vệ pháp luật..Trong việc thi hành giám sát phát mại tài sản thu hồi vốn vay cho Ngân hàng.
3.4.2.3. Cần hoàn thiện cơ chế về trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro.
Thực hiện trích lập dự phòng rủi ro theo số dư bình quân của toàn bộ tài sản có của hoạt động tín dụng bằng một tỷ lệ nhất định dựa vào nguyên tắc: Chi phí dự phòng rủi ro phải có nguồn tài chính bù đắp, tức là chi phí này được bù đắp bằng nguồn thu từ hoạt động tín dụng và nằm trong khoản chênh lệch lãi suất mà tổ chức tín dụng có thể khai thác được. Có như vậy, thì việc trích lập dự phòng rủi ro mới không đẩy tổ chức tín dụng và tình trạng thâm thủng tài chính và quỹ phòng ngừa rủi ro mới được đảm bảo bằng các giá trị đích thực có khả năng thanh toán. Nếu việc trích lập dự phòng rủi ro làm cho tổ chức tín dụng kháng kiệt thì chẳng khác nào buộc tổ chức tín dụng lấy vốn điều lệ, thậm trí vôn huy động để trích lập dự phòng rủi ro, từ đó cơ chế phòng ngừa khủng hoảng nợ, khủng hoảng Ngân hàng bị mất tác dụng.
Ngân hàng trung ương, nên nới lỏng quy định về sử dụng dự phòng xử lý rủi ro. Tại điều 9 quyết định 48 quy định tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro sau khi đã tận thu mọi khoản thu, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghiệp vụ phát mại tài sản thế chấp, cầm cố nếu có và các giải pháp khách theo quy định của pháp luật để thu nợ. Trong thực tế thì có nhiều trường hợp sau khi đã tận thu mọi khoản thu tổ chức tín dụng không thể phát mại được các tài sản khác đành phải treo nợ tồn đọng nhiều năm. Những khoản nợ này đúng ra cần được xử lý bằng dự phòng rủi ro để làm trong sạch cân đối tín dụng của các tổ chức tín dụng trước khi kiểm toán tài sản thế chấp, cầm cố sẽ được tổ chức tín dụng theo dõi để thanh lý thu hồi khi có điều kiện.
3.4.2.4: Quy định một khách hàng chỉ được vay vốn tại một tổ chức tín dụng.
Quy định một khách hàng được vay vốn tại nhiều tổ chức tín dụng là một vấn đề mới, nhưng việc thực hiện có chế này còn chưa nghiêm túc dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng do không nắm được đầy đủ thông tin về khách hàng có dư nợ tại nhiều tổ chức tín dụng. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta với hình thức truyền tin chưa kịp thời đầy đủ, biện pháp phòng ngừa còn hạn chế thì Ngân hàng Nhà nước có thể tạm thời nghiên cứu huỷ bỏ quy định mọt khách hàng được vay vốn ở nhiều tổ chức tín dụng mà quy định nhiều Ngân hàng cho một khách hàng vay theo hưởng đồng tài cho một Ngân hàng đứng đầu làm mối, như vậy thông tin về khách hàng được Ngân hàng nắm đầy đủ và chắc chắn hơn
3.4.3: Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam.
Cần nhanh chóng tháo gỡ và giải quyết nhứng vướng mắc của quyết định 67/TTG. Cần sớm có văn bản về mô hình cụ thể cho vay hộ nông dân đảm bảo tính pháp lý.
Do đặc thù cho vay hộ nông dân chi phí quá lớn, tốn nhiều sức lực cán bộ đề nghị xem xét trình Chính phủ nên sớm cần có sự ưu đãi đối với NHNo & PTNT về đơn giá tiền lương, chính sách đối với cán bộ tín dụng, để họ yên tâm công tác và từ đó một phần nào sẽ tránh được những tệ nạn tham ô gây thất thoát vốn của Nhà nước.
Mở rộng hơn nữa việc tập huấn chuyên môn cho cán bộ tín dụng để hộ hoàn thành tốt hơn công việc được giao.
+ Nhà nước với chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế có vai trò quản lý hoạt động kinh tế và đầu tư chỉ một thay đổi nhỏ trong chính sách quản lý nhà nước cũng có thể dẫn đến sự đảo lộn của hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Chính vì vậy, để Ngân hàng có thể thuận lợi hơn và dễ dàng hơn Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp sau.
+ Tạo môi trường khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn.
Nhà nước cần đưa ra những chính sách thích đáng để phát triển nông nghiệp nông thôn, đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng để nâng cao đời sống của nhân dân ở các vùng nông thôn, cần có các biện pháp khuyến khích nông dân làm kinh tế trang trại, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản.. Muốn vậy, nhà nước cần phải có các dự án mới để hỗ trợ từng vùng, từng miền. Đối với những doanh nghiệp, đơn vị hoạt động trong lĩnh vực phục vụ nông nghiệp nhà nước cần phải có chính sách thế thích hợp để khuyến khích họ và nhà nước cần phải tìm đầu ra cho sản phẩm của nông nghiệp tránh tình trạng lương thực sản xuất ra không tiêu thụ được bị thương nhân ép giá..
Do vậy nhà nước cần bổ sung các giải pháp kích cầu mới để hỗ trợ nông thôn như miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân trong mức hạn điền, bỏ thuế các khoản thu thuế nhập khẩu, phụ thu nhập khẩu phần lớn để giảm giá bán phân bón cho nông dân, giảm hoặc cho nợ thuỷ lợi phí..
Tăng hỗ trợ mua tạm trữ đối với gạo, cà phê, mở rộng ra một số mặt hàng và giá xuống quá thấp như tiêu , điều.. Tạo điều kiện cho nông dân trực tiếp được hưởng giá bán theo quy định, bù nỗ cho các doanh nghiệp sau thời hạn tạm trữ mà giá xuất khẩu vẫn còn thấp hơn lúc mua.
Nhà nước cần các biện pháp tập trung hơn nữa kích cầu nông thôn. Kích cầu vừa là biện pháp để gia tăng đầu tư, yếu tố vật chất quyết định, tốc độ tăng trưởng kinh tế, vừa là thời cơ để nâng cao mức tiêu dùng của dân cư, thực hiện mục tiêu phát triển vì con người, và đến lượt nó tạo đầu ra để tăng trưởng kinh tế. Cũng như công nghiệp hoá hiện đại hóa đối tượng của kích cầu phải nhằm vào trọng điểm số một là nông thôn vì:
+ Nông thôn là địa bàn có mức sống thấp hơn và ngày một cách xa so với thành thị.
Tỷ lệ thiếu việc làm của nông thôn khoảng 30%, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cũng cao hơn ở thành thị, dân số ở nông thôn đông gấp ba lần dân số ở thành thị lên cùng một mức bình quân thu nhập tăng lên thì dung lượng ở nôn thôn cao gấp trên ba lần thành thị.
Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội ở nông thôn rất thấp kém cả về nước, điện, đường, trường trạm, chợ, công trình vệ sinh..
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp trên địa bàn.
Cổ phần hóa doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước là chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội để tăng thêm nguồn vốn cho doanh nghiệp, tạo động lực mới cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp nhà nước đều thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, khả năng tích tụ tập chung tích tụ tập chung vốn rất hạn chế, còn trông vào cấp phát từ ngân sách hoặc bao cấp qua tín dụng Ngân hàng. Vấn đề mà Ngân hàng lo ngại nhất hiện nay khi tiến hành cho vay vốn là năng lực tài chính của khách hàng do đó dễ giúp cho doanh nghiệp, tạo điều kiện an toàn vốn kinh doanh. Nhà nước cần đổi mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp, các doanh nghiệp cổ phần hoá sẽ tạo hoạt động thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh tăng trưởng với hiệu quả cao hơn, từ đó dẫn tới nhu cầu tín dụng tăng. Ngân hàng có thể yên tâm khi cho vay vốn vì khách hàng có triển vọng trong quá trình sản xuất kinh doanh vì các doanh nghiệp cổ phần hoá có bộ máy quản lý linh động sáng tạo, hội đồng quản trị phải chịu trách nhiệm trước cổ đông và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên buộc phải làm ăn có hiệu quả, không thể trông chờ vào những cấu cáng khác. Tuy vậy tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp còn rất chậm. Để đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá nhà nước cần nhanh chóng chấp hành pháp luật và pháp lệnh trong chuyển đổi trong sở hữu, đơn giản hoá trong thủ tục hàng hoá như: Đăng ký giấy phép kinh doanh, đăng ký con dấu có như vậy mới góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình khẳng định dự án của Ngân hàng.
Nhanh chóng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Các cơ quan chức năng cần phải tiến hành nhanh chóng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và để khách hàng được vay vốn Ngân hàng một cách thuận tiện theo đúng QĐ67/TTP của Thủ tướng Chính phủ và chỉ được cấp một bản duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng tài sản thế chấp đi vay vốn nhiều nơi gây nên rủi ro mất vốn cho Ngân hàng, đồng thời Nhà nước cần nghiêm chỉnh những trường hợp cố ý làm sai phạm.
Đề nghị nhà nước cần sớm ban hành luật phát mại tài sản.
Để đưa vào sử dụng rộng rãi hiện nay việc xử lý các tài sản thế chấp của Ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Khi muốn xử lý các tài sản thế chấp Ngân hàng phải qua cơ quan trung gian gây mất thời gian và chi phí không cần thiết.
Kết luận
Kinh tế ngoài quốc doanh đặc biệt là kinh tế hộ sản xuất trong giai đoạn hiện nay đã và đang chứng minh được vai trò của nó không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại, mặc dù trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những kết quả mà kinh tế ngoài quốc doanh đã đạt được còn đang phải đương đầu với rất nhiều thử thách lớn.
Với những chủ trương, chính sách khuyến khích của Đảng và Nhà nước cùng với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá của nền kinh tế thế giới thì kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là những đối tượng có nhiều dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao và kinh tế ngoài quốc doanh sẽ mau chóng trở thành khách hàng chính của Ngân hàng.
Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ trong nông nghiệp nông thôn. Đầu tư phát triển của kinh tế hộ sản xuất cũng chính là để thực hiện nội dung, phương hướng phát triển kinh tế của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII về phát triển toàn diện nông- lâm- ngư- diêm nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến, của thị trường trong và ngoài nước.
Trong những năm qua, bộ mặt nông nghiệp nông thôn nước ta đã có những chuyển biến tích cực và căn bản, sản xuất nông nghiệp đã có sự tăng trưởng liên tục cả về năng suất, sản lượng. Vấn đề căn bản về lương thực đã được giải quyết, từ chỗ thiếu ăn nay đã có dư thừa về xuất khẩu. Cơ cấu ngành nghề đã hình thành tương đối rõ nét, đã có các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và chăn nuôi. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo xu thế chung của cả nước, cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều nơi được quan tâm, đầu tư, cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới.
Nhờ những thành tựu to lớn trong sản xuất nông nghiệp mà nông thôn nước ta đã được khởi sắc, được đổi mới một cách đáng kể. Đời sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, làm cho dân giàu, nước mạnh.
Có được những thành quả to lớn trong nông nghiệp nông thôn là do có sự nỗ lực phấn đấu đóng góp của nhiều ngành, nhiều cấp, trong đó có vai trò to lớn của NHNo & PTNT huyện Từ Sơn nói riêng, trong việc đầu tư tín dụng- một sự cần thiết tất yếu khách quan và không thể thiếu trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
Cho vay hộ sản xuất- một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của NHNo & PTNT và đó cũng là khách hàng tiềm năng của NHNN&PTNT huyện Từ Sơn.
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận kết hợp với quá trình thực tập tại NHNN&PTNT huyện Từ Sơn, em đã chọn đề tài : “Biện pháp mở hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Sơn”. Trong đề tài ngiên cứu đã thực hiện được một số nội dung sau:
Đã khái quát được những vấn đề về mặt lý luận, đã đưa ra được một số biện pháp để góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư vốn trong cho vay hộ sản xuất của NHNN&PTNT huyện Từ Sơn.
Luận văn đã đi sâu vào phân tích thực tế, làm rõ thực trạng về cho vay hộ sản xuất và đặc biệt đã chỉ ra được những tồn tại, nguyên nhân của tồn tại trong quá trình cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn đã đưa ra được hệ thống các giải pháp cũng như các kiến nghị đối với Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước, NHNo & PTNT Việt Nam, Ngân hàng cơ sở có liên quan đến vấn đề đầu tư tín dụng cho hộ sản xuất nhằm góp phần mở rộng hiệu quả tín dụng cũng như các vấn đề cho vay hộ sản xuất.
Hoàn thành bản luận văn này, bản thân em hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào công tác cho vay hộ sản xuất. Song đây là nội dung nghiên cứu hết sức rộng lớn và phức tạp, cho nên bài viết còn cần phải hoàn thiện nhiều cả về nội dung lý luận và công tác thực tiễn. Vậy bản thân em rất mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo cùng với các cô chú tại NHNN&PTNT huyện Từ Sơn để bản luận văn của em được hoàn thiện.
Tài liệu tham khảo.
1: Báo cáo hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Từ Sơn.
2: Báo Bắc Ninh năm 2002, 2003, 2004.
3: Chỉ thị 202/ chính trị ngày 28 tháng 06 năm 1991 của Chính phủ, luật Ngân hàng, luật
các tổ chức tín dụng.
4: Các tạp trí NHNN Việt Nam.
5: Quyết định 72/ QĐ- HĐQT- TD ngày 31/03/2002 của Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam.
6: Ngân hàng thương mại- NXB Thành phố HCM
7: Luật các tổ chức tín dụng.
8: Sổ tay tín d ụng- Hà nội, tháng 7 năm 2004.
9: Thời báo kinh tế, báo đầu tư.
10: Tiền tệ Ngân hàng và TT tài chính nhà xuất bản khoa học kỹ thuật năm 1994.
Danh mục các từ viết tắt
NHNo&PTNT : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước.
HSX : Hộ sản xuất.
CN-TTCN : Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0018.doc