Có thể nói, trong 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao, GDP đạt bình quân 7,4%, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện.
Trong tương lai không xa, Việt Nam hội nhập AFTA và gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới nhưng cũng đặt Việt Nam vào một môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ngành ngân hàng là một điển hình. Hội nhập sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam, vì thế sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại càng trở nên khốc liệt mà nếu các ngân hàng không kịp thời đổi mới toàn diện, nắm bắt thị trường thì sẽ trở nên lạc hậu và sẽ bị bỏ lại phía sau.
Cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay tương đối mới ở Việt Nam nhưng đã được các ngân hàng thương mại chú trọng phát triển và trong tương lai loại hình cho vay này sẽ tăng trưởng mạnh.
NHNo & PTNT Nam Hà Nội tuy mới đi vào hoạt động 5 năm nhưng trong quãng thời gian đó đã có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong thời gian tới, Chi nhánh tiếp tục phát triển và đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, trong đó vẫn quan tâm nhiều nhất đến hoạt động tín dụng vì đây là hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Nắm bắt được xu thế của thị trường hướng vào người tiêu dùng, Chi nhánh đã quan tâm phát triển và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng để cung cấp cho khách hàng những tiện ích mới thoả mãn nhu cầu vay tiêu dùng của họ. Tuy còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và nhân lực nhưng với quyết tâm cao của tập thể cán bộ lãnh đạo và nhân viên, chắc chắn trong thời gian tới, Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội sẽ đạt được các mục tiêu đề ra.
79 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1550 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DS
%
I.DSCVTD
- CVNH
- CV TDH
13,156
9,704
3,452
100
73,76
26,24
15,42
2,236
13,184
100
14,5
85,5
16,143
12,456
3,687
100
77,16
22,84
II. DSTN
- CVNH
- CV TDH
12,096
10,104
1,992
100
83,53
16,47
13,27
3,78
9,49
100
28,48
71,52
14,463
8,118
6,345
100
56,13
43,87
III. Dư Nợ
- CVNH
- CV TDH
8,384
2,532
5,852
100
30,20
69,80
9,265
0,897
8,368
100
9,68
81,32
10,945
5,235
5,710
100
47,83
52,17
(Nguồn: Báo cáo tình hình cho vay tiêu dùng của chi nhánh Nam Hà Nội năm 2003, 2004, 2005)
Ta thấy, cơ cấu cho vay tiêu dùng không cân đối qua các năm. Năm 2005, doanh số cho vay tiêu dùng ngắn hạn chiếm đa số 77,16% trong khi doanh số cho vay tiêu dùng trung và dài hạn chỉ chiếm 22,84%. Trước đó, năm 2004 thì cơ cấu cho vay tiêu dùng lại thiên về cho vay trung và dài hạn. Năm 2005, Dư nợ cho vay trung và dài hạn có giảm đi so với năm 2004 nhưng vẫn chiếm quá nửa dư nợ cho vay tiêu dùng, đó là do các món vay tiêu dùng thường có thời gian thu hồi vốn lâu, hơn nữa, nhu cầu tiêu dùng đối với các tài sản lớn như ô tô, nhà cửa ngày càng phát triển khiến các món vay tiêu dùng có giá trị ngày càng lớn, kéo theo doanh số cho vay và dư nợ tăng lên.
Xét cơ cấu cho vay tiêu dùng theo sản phẩm:
Cơ cấu doanh số cho vay tiêu dùng theo sản phẩm của chi nhánh trong 2 năm 2004, 2005.
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
DS
%
DS
%
I. DSCVTD
15,42
100
16,143
100
- CV sửa chữa, mua nhà ở
13,184
85,5
3,687
22,84
- CV tiêu dùng khác
2,236
14,5
12.456
77,16
(Nguồn: Báo cáo tình hình cho vay tiêu dùng của chi nhánh Nam Hà Nội năm 2003, 2004, 2005)
Biều đồ sau sẽ thể hiện rõ hơn các số liệu của bảng trên:
Biểu đồ 2: Cơ cấu doanh số cho vay tiêu dùng theo sản phẩm
Như vậy, trong năm 2005 mặc dù doanh số cho vay tiêu dùng tăng lên nhưng doanh số cho vay sửa chữa, mua nhà ở lại giảm xuống cả về tỷ trọng và số tiền so với năm 2004. Cho vay tiêu dùng khác ở đây chủ yếu là cho vay cầm cố sổ tiết kiệm. Hình thức cho vay này ở năm 2005 tăng mạnh cả về con số tuyệt đối lẫn số tương đối. Trong thời gian tới, cho vay tiêu dùng khác có thể vẫn có xu hướng tăng lên vì nhu cầu tiêu dùng của dân cư ngày một đa dạng không chỉ dừng lại ở việc mua sắm và sửa chữa nhà cửa.
Cơ cấu dư nợ tiêu dùng theo sản phẩm của Chi nhánh trong 2 năm 2004, 2005.
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2004
2005
DS
%
DS
%
I. Dư nợ CVTD
9,265
100
10,945
100
- CV sửa chữa, mua nhà ở
8,368
90,32
5,710
52,17
- CV tiêu dùng khác
0,897
9,68
5,235
47,83
(Nguồn: Báo cáo tình hình cho vay tiêu dùng của chi nhánh Nam Hà Nội năm 2003, 2004, 2005)
Biểu đồ sau thể hiện rõ hơn số liệu trên bảng:
Biểu đồ 3: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo sản phẩm
Bảng trên cho thấy dư nợ cho vay tiêu dùng khác năm 2005 tăng mạnh cả về số tương đối lẫn số tuyệt đối, về doanh số đạt 5,235 tỷ tăng gần 6 lần so với năm 2004, tỷ trọng chiếm 47,83% trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng, trong khi năm 2004 chỉ chiếm 9,68% tổng dư nợ cho vay tiêu dùng. Dư nợ cho vay sửa chữa và mua nhà ở có xu hướng giảm nhưng vẫn chiếm quá nửa tổng dư nợ cho vay tiêu dùng (52,17%).
Sau đây là cơ cấu dư nợ tiêu dùng theo sản phẩm và theo thời hạn:
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Dư nợ 2004
Dư nợ 2005
NH
Tr.hạn
NH
Tr.hạn
- Cho vay sửa chữa, mua nhà ở
-
8,368
-
5,710
- Cho vay tiêu dùng khác
0,897
-
5,235
-
(Nguồn: Báo cáo tình hình cho vay tiêu dùng của chi nhánh Nam Hà Nội năm 2003, 2004, 2005)
Ta thấy, Cho vay sửa chữa và mua nhà ở chủ yếu là cho vay trung hạn, khách hàng thường không vay ngắn hạn để mua và sửa chữa nhà ở. Còn đối với cho vay tiêu dùng khác, ngân hàng cho vay ngắn hạn. Điều này là tương đối phù hợp vì món cho vay mua sắm nhà ở thường có số tiền lớn và người dân phải cần thời gian tương đối dài mới trả được nợ cho ngân hàng. Còn cho cay cầm cố sổ tiết kiệm, khách hàng thường có nhu cầu vay ngắn hạn.
Khi xem xét cho vay tiêu dùng theo tài sản đảm bảo của Chi nhánh, chúng ta có thể xem xét bảng số liệu sau:
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
số tiên
%
số tiền
%
số tiền
%
Tổng dư nợ
8,384
100
9,625
100
10,945
100
- Không có TSĐB
6,007
71,65
7,521
78,14
8,543
78,05
- Có TSĐB
2,377
28,35
2,104
21,86
2,102
21,95
(Nguồn: Báo cáo tình hình cho vay tiêu dùng của chi nhánh Nam Hà Nội năm 2003, 2004, 2005)
Biểu đồ biểu diễn rõ hơn số liệu trên bảng:
Biểu đồ 4: Dư nợ cho vay tiêu dùng theo tài sản đảm bảo
Nhìn vào bảng số liệu và biểu đồ biểu diễn ta thấy, dư nợ cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo tăng lên qua các năm. Năm 2003 là 6,007 tỷ đồng, đến năm 2004 tăng lên là 7.521 tỷ đồng và đến năm 2005 tiếp tục tăng lên 8,543 tỷ đồng. Tỷ trọng của cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo cũng có xu hướng tăng lên. Năm 2003, dư nợ cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo chiếm 71,65% tổng dư nợ cho vay tiêu dùng, đến năm 2005 con số này là 78,05%. Qua đó có thể thấy, Chi nhánh cho vay tiêu dùng chủ yếu dưới hình thức không có tài sản đảm bảo, đó chính là hình thức cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên chức. Khoản vay này được đảm bảo bằng lương của khách hàng vay, nhưng đó là một hình thức vay tín chấp chứ không phải là tài sản đảm bảo.
Trong khi đó, cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo vẫn chưa tăng tương xứng với tốc độ tăng của hình thức cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo, dường như vẫn giữ nguyên mà không tăng. Điều này thể hiện hình thức cho vay tiêu dùng dường như vẫn được ưu tiên hơn cho cán bộ công nhân viên chức có mức thu nhập tương đối ổn định. Trong thời gian tới, hình thức cho vay tiêu dùng có tài sản đảm bảo có xu hướng tăng lên để thoả mãn nhu cầu vay của không chỉ cán bộ công nhân viên chức mà còn thoả mãn nhu cầu vay của tất cả các khách hàng là người dân thông thường có đủ các điều kiện vay vốn.
2.3. Những đánh giá chung về hoạt động cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước cùng các tổ chức tín dụng trong cả huy động vốn và cho vay, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã phát huy những điểm mạnh, khắc phục những khó khăn để trở thành chi nhánh cấp 1 vững mạnh trong hệ thống NHNo. Năm 2006 này là năm thứ năm kể từ khi chi nhánh đi vào hoạt động. Khoảng thời gian 5 năm tương đối ngắn với một ngân hàng hiện diện giữa thủ đô của một đất nước trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên những gì mà ngân hàng Nam Hà Nội làm được rất đáng ghi nhận.
Với những cố gắng nỗ lực của Ban lãnh đạo cùng các cán bộ nhân viên ngân hàng, chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, từng bước mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, phấn đấu trở thành một đơn vị tiêu biểu của ngành. Với những kết quả trong hoạt động cho vay nói chung và trong cho vay tiêu dùng nói riêng thật đáng tự hào với một chi nhánh mới thành lập như NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
2.3.1. Những kết quả về cho vay tiêu dùng mà chi nhánh đạt được trong thời gian qua
* Quy mô và tốc độ tăng trưởng cho vay tiêu dùng:
Hình thức cho vay tiêu dùng đã được triển khai và phát triển ở các ngân hàng thương mại trên thế giới từ nhiều năm nay, tuy nhiên đây còn là hình thức cho vay khá mới ở Việt Nam, nó còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng dư nợ cho vay nói chung.
Mặc dù mới đi vào hoạt động được 5 năm, nhưng NHNo & PTNT Nam Hà Nội cũng đã triển khai và dần mở rộng cho vay tiêu dùng, quy mô và tốc độ tăng trưởng ngày một tăng, thể hiến cả doanh số cho vay, doanh số thu nợ và sư nợ đều tăng mạnh. Doanh số cho vay tiêu dùng đến 31/12/2005 của chi nhánh là 16,143 tỷ đồng, tăng 723 triệu đồng so với năm 2004. Cho vay tiêu dùng đã và đang được chú trọng bởi những lợi ích mà nó mang lại cho cả ngân hàng và khách hàng. Mặc dù dư nợ cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ còn tương đối ít và doanh thu từ hoạt động cho vay tiêu dùng còn chưa lớn nhưng với tốc độ phát triển như hiện nay, chúng ta có thể khẳng định rằng hình thức cho vay này chẳng bao lâu nữa sẽ giữ vai trò quan trọng trong cho vay nói chung của chi nhánh.
* Về chất lượng các khoản cho vay tiêu dùng.
Cùng với sự phát triển về quy mô và tốc độ tăng trưởng, chất lượng các món cho vay tiêu dùng cũng không ngừng được nâng lên, thể hiện qua tình hình thu nợ và tỷ lệ nợ quá hạn. Doanh số thu nợ đến năm 2005 vẫn tăng tương đối ổn định, đạt 12,962 tỷ đồng và chiếm 7,15 % tổng doanh số thu nợ toàn chi nhánh. Năm 2002, chi nhánh không có nợ quá hạn, trong số những món vay tiêu dùng đã giải ngân món nào đến hạn cũng đã thu hồi. Năm 2003, chi nhánh đã xuất hiện nợ quá hạn tập trung chủ yếu là các hộ vay tiêu dùng.
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Số dư nợ quá hạn (tr đ)
210
665
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
0,02
0,06
(Nguồn: Báo cáo tình hình cho vay tiêu dùng của chi nhánh Nam Hà Nội năm 2003, 2004, 2005)
Nguyên nhân của nợ quá hạn là do đến kỳ trả nợ nhưng người vay thường là cán bộ công nhân viên đi công tác nên không thể đến ngân hàng trả nợ đúng hạn được, ngân hàng chuyển toàn bộ số dư sang nợ quá hạn. Xét về bản chất thì khách hàng vẫn có khả năng trả nợ nên đây không phải phát sinh nợ quá hạn xấu. Do vậy, có thể kết luận rằng chất lượng các khoản vay tiêu dùng tương đối cao.
* Thị trường khách hàng cá nhân của ngân hàng ngày càng được mở rộng song song với quy mô tăng các món vay. Thị trường khách hàng cá nhân được mở rộng đồng nghĩa với việc đa dạng hóa khách hàng, giảm được rủi ro so với trường hợp chỉ tập trung vào nhóm khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp. Đồng thời, đa dạng hoá khách hàng còn góp phần tạo nên tính năng động và tính linh hoạt trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Nhờ có hoạt động cho vay tiêu dùng đã giúp cho ngân hàng đa dạng hoá được sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Mặt khác, thông qua cho vay tiêu dùng mà chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã thu hút được một số lượng lớn khách hàng, tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa ngân hàng với khách hàng. Ngoài những khách hàng đã quan hệ với ngân hàng từ trước thì chi nhánh đã thu hút được nhiều khách hàng mới đến với ngân hàng. Đây là thành tựu rất quan trọng vì đây chính là tiền đề tạo cho các hoạt động khác của ngân hàng phát triển, là tiền đề cho khách hàng sử dụng ngày càng nhiều các sản phẩm dịch vụ khác của ngân hàng, tạo được chỗ đứng của ngân hàng trong lòng khách hàng, điều đó đồng nghĩa với việc vị thế của ngân hàng trên thị trường ngày càng được khẳng định.
Đạt được kết quả trên là do sự kết hợp của nhiều yếu tố:
Trước tiên, do chi nhánh đã có được đường lối đúng đắn, xác định cho mình được hướng đầu tư phù hợp trong đó có chính sách cho vay tiêu dùng.
Ngay từ khi mới thành lập, chi nhánh đã có nhận thức rõ ràng về hoạt động cho vay tiêu dùng và đã triển khai sản phẩm này. Mặc dù mới hoạt động nhưng chi nhánh Nam Hà Nội đã mở rộng mạng lưới hoạt động và các PGD để dễ dàng tiếp cận với khách hàng hơn. Thêm vào đó, chi nhánh đã đưa ra nhiều biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay tiêu dùng như: các cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ các khoản vay tiêu dùng nên nhanh chóng phát hiện kịp thời và có biện pháp khắc phục đảm bảo thu nợ đúng hạn, thường xuyên dự đoán biến động giá cả, lưu thông hàng hoá và những thay đổi chủ trương cũng như đường lối của Nhà Nước,…do vậy mà chất lượng các khoản cho vay tiêu dùng của chi nhánh đạt kết quả cao, tỷ lệ nợ quá hạn không đáng kể.
Trong thời gian qua, chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã có những văn bản hướng dẫn cụ thể cho vay tiêu dùng để phù hợp với tình hình hoạt động thực tế của chi nhánh như: hướng dẫn quy trình cho vay mua nhà trả góp,… Hơn nữa, chi nhánh đã chú trọng công tác đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, phân công nhiệm vụ phù hợp với năng lực của cán bộ để tạo điều kiện cho cán bộ phát huy được hết khả năng và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Bên cạnh những nỗ lực của chính mình, chi nhánh còn có những thuận lợi nhất định từ bên ngoài như:
+ Sự phát triển kinh tế của nước ta: trong thời gian vừa qua nền kinh tế tăng trưởng nhanh cùng với sự ổn định về chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, giáo dục, v.v… phát triển. Mặt khác, đời sống của dân cư ngày càng được cải thiện dẫn đến nhu cầu tiêu dùng cũng tăng nhanh. Vì vậy hoạt động cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng có cơ hội phát triển.
+ Trên địa bàn Thanh Xuân vừa qua có rất nhiều cơ sở hạ tầng được xây dựng, nhu cầu về nhà ở tăng cao tạo điều kiện thuận lợi để phát triển cho vay tiêu dùng.
+ Hơn nữa, trong thời gian qua, nhằm tạo động lực thực đẩy quá trình CNH- HĐH, đồng thời tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính tiền tệ phát triển, Chính phủ đã đưa ra chủ trương kích cầu tạo cơ hội cho hoạt động cho vay tiêu dùng được mở rộng phát triển.
2.3.2. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động cho vay tiêu dùng của chi nhánh.
Bên cạnh những thành tựu khả quan như đã nói ở trên, hoạt động cho vay tiêu dùng của chi nhánh vẫn còn một số hạn chế đòi hỏi trong thời gian tới phải khắc phục để mở rộng hơn nữa quy mô cho vay.
Thứ nhất, doanh số cho vay và dư nợ cho vay tiêu dùng tuy tăng nhưng tỷ trọng còn quá nhỏ so với cho vay nói chung.
Thứ hai, cho vay tiêu dùng đã làm nảy sinh nợ quá hạn của chi nhánh. Tỷ lệ nợ quá hạn có xu hướng tăng năm 2004 là 0,02% , năm 2005 là 0,06%. Việc thu hồi nợ quá hạn trong cho vay tiêu dùng khó khăn hơn trong cho vay thông thường vì các doanh nghiệp vay để sản xuất kinh doanh thường rất chú trọng đến uy tín, chỉ cần gửi thông báo nợ quá hạn là họ sẽ thu xếp thanh toán cho ngân hàng, còn đối với cá nhân, hộ gia đình vay tiêu dùng không chú trọng đến uy tín của mình đối với ngân hàng nên việc thu hồi nợ khó khăn hơn. Khi xử lý nợ quá hạn đối với các doanh nghiệp thường có tài sản đảm bảo, còn đối với các cá nhân vay tiêu dùng thì thường thế chấp bằng lương nên ngân hàng chỉ có thể thu hồi sau một thời gian hoặc khó thu hồi được do họ chuyển công tác hay bị sa thải.
Thứ ba, vì mới đi vào hoạt động được 5 năm nên chi nhánh vẫn đang hoàn thiện hơn nữa các dịch vụ, sản phẩm cho vay tiêu dùng của chi nhánh nói chung còn ít, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng.
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.
Về phía ngân hàng.
Một là, NHNo & PTNT Nam Hà Nội mới thành lập, bộ máy tổ chức còn chưa hoàn thiện, một số phòng ban còn hoạt động chung cùng với phòng khác, chưa có phòng Marketinh riêng biệt.
Hai là, Chi nhánh còn chưa quan tâm đúng mức đến hoạt động cho vay tiêu dùng. Cũng do nhiều khó khăn vướng mắc nên chi nhánh chỉ cho vay đối với một số đối tượng có thu nhập tương đối ổn định, khả năng thanh toán đảm bảo.
Về phía khách hàng.
Như đã phân tích ở trên, rủi ro trong cho vay tiêu dùng là rất lớn. Nguồn đảm bảo duy nhất là thu nhập của khách hàng, trong khi nguồn thu nhập này lại chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố như: nạn thất nghiệp, tình hình kinh doanh nơi người đó làm việc, tai nạn lao động, v.v… Mặt khác thu nhập của dân cư còn thấp cũng góp phần hạn chế khả năng mua sắm cũng như đi vay ngân hàng của khách hàng vì họ thấy không đảm bảo được việc trả nợ.
Các nhân tố khác
Trong thời gian qua mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định nhưng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng cao, lạm phát cao khiến nhu cầu tiêu dùng lại giảm. Đây là một trong những vấn đề đang rất được quan tâm vì cứ có quyết định tăng lương thì giá cả lại tăng cao làm giảm thu nhập thực tế. Thực tế này là một nhân tố đáng lo ngại đối với hoạt động cho vay tiêu dùng.
Môi trường kinh tế, chính trị, môi trường pháp lý tác động gián tiếp nhưng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động cho vay tiêu dùng của chi nhánh. Hiện nay, nhiều văn bản pháp luật chưa chặt chẽ và đồng bộ nên gây khó khăn lớn cho hoạt động cho vay tiêu dùng.
Thông qua những phân tích ở trên có thể thấy hoạt động cho vay tiêu dùng mặc dù mới được triển khai ở chi nhánh Nam Hà Nội nhưng đã có những thành tựu nhất định, và có xu hướng tăng trưởng nhanh trong tương lai. Bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau cần khắc phục để có thể ngày càng phát triển hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay đòi hỏi ngân hàng cần tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, đem lại lợi ích cho người tiêu dùng và cho xã hội. Đây cũng chính là mục tiêu của NHNo & PTNT Việt Nam nói chung và chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng.
Chương III: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
3.1. Định hướng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Năm 2005 được xác định là năm hoạt động kinh doanh có rất nhiều khó khăn đặc biệt là đối với NHNo nói chung nhưng hoạt động kinh doanh của NHNo Nam Hà Nội vẫn đảm bảo phát triển ổn định trên mọi lĩnh vực. Năm 2006 là năm thứ 5 kể từ khi chi nhánh đi vào hoạt động, với những nỗ lực của toàn chi nhánh, trên cơ sở xác định mục tiêu nhiệm vụ mà NHNo & PTNT Việt Nam đã giao, dựa trên điều kiện kinh doanh đặc thù trên địa bàn quận Thanh Xuân, chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã đưa ra định hướng cho hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng nhằm phát huy những kết quả đạt được và hạn chế những khó khăn, phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng, xứng đáng là chi nhánh cấp 1 vững mạnh trong hệ thống NHNo.
3.1.1. Định hướng chung cho sự phát triển của ngân hàng NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Năm 2006 là năm có ý nghĩa vô cùng quan trọng của Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội, là năm tổ chức kỷ niệm 5 năm ngày thành lập, là năm xét nâng hạng của Chi nhánh, đồng thời là năm cần nhiều nỗ lực phấn đấu để đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế, ra nhập WTO. Vì vậy mục tiêu tổng quát của chi nhánh năm 2006 là: “Bám sát mục tiêu của toàn ngành, thực hiện thật tốt những nội dung cơ bản của đề án cơ cấu lại NHNo & PTNT Việt Nam giai đoạn 2001- 2010. Tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn khả năng sinh lời, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, tập trung đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng phù hợp với hiện đại hoá, đủ năng lực hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hoá doanh nghiệp.”
Căn cứ vào kết quả đạt được trong năm 2004 và tình hình phát triển kinh tế ở địa bàn Hà Nội nói chung và địa bàn Quận Thanh Xuân nói riêng, Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội đã xây dựng kế hoạch hoạt động kinh doanh năm 2006 như sau:
Tổng nguồn vốn: phấn đáu vượt mức 5000 tỷ đồng, tăng 18- 20%. Trong đó, Tiền gửi TCTD không quá mức 15% , tỷ trọng nguồn vốn Dân cư không thấp hơn năm 2004.
Dư nợ tại địa phương tăng 15- 20% so với năm 2005. Trong đó: Dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm 44% tổng dư nợ.
Nợ xấu <= 1%.
Lợi nhuận tăng thêm 10- 15% so với năm 2005.
Thu phí dịch vụ tăng thêm 25% so vaới năm 2005.
Phân loại nợ và trích lập rủi ro theo đúng quy định.
Thanh toán quốc tế tăng 40% doanh số hoạt động.
Chênh lệch lãi suất: 0,4%
Cung ứng dịch vụ giải ngân phục vụ các dự án đầu tư nước ngoài, làm đầu mối triển khai tới các tỉnh trong phạm vi của dự án.
Chi lương cho cán bộ công nhân viên trong cơ quan ở mức tối đa theo chế độ lương mới.
Trên cơ sở những chỉ tiêu cụ thể trên, ngân hàng đã xây dựng chương trình hành động để đạt được mục tiêu trên, đó là:
Chương trình tăng trưởng và ổn định nguồn vốn: Duy trì ổn định các nguồn vốn lớn, tiếp thị mở rộng khách hàng, phát triển thêm các nguồn vốn rẻ, các nguồn vốn dài hạn, chủ động đa dạng hoá các hình thức huy động vốn hướng tới khách hàng dân cư, các dự án vốn đầu tư nước ngoài.
Chương trình phát triển sản phẩm dịch vụ mới: Đẩy mạnh tiếp thị tuyên truyền các sản phẩm dịch vụ mới, làm tốt việc chăm sóc khách hàng. Củng cố và hoàn thiện công tác kinh doanh ngoại hối, thanh toán điện tử, tăng nhanh phát hành thẻ ATM, tăng cường thu hút ngoại tệ, v.v…
Chương trình nâng cao chất lượng tín dụng đi đôi với việc tăng mức bình quân dư nợ: Nâng cao chất lượng thẩm định nhất là các dự án cho vay trung và dài hạn. Tăng cường công tác quản lý nợ, quản lý khách hàng vay vốn, phân loại nợ và trích lập rủi ro đúng quy định.
Chương trình hội nhập Quốc tế: Đẩy mạnh công tác đào tạo nghiệp vụ mới, triển khai kịp thời và hiệu quả các chương trình giao dịch hiện đại, áp dụng các chuẩn mực ngân hàng quốc tế, chuẩn bị các điều kiện vật chất cần thiết để hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh chương trình thi đua yêu nước, gắn công tác thi đua khen thưởng vào việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn từng kỳ.
Chương trình thông tin tiếp thị: Hoàn thiện công tác thông tin tiếp thị bằng các sản phẩm dịch vụ tiện ích, cơ sở vật chất, tác phong nghiệp vụ của cán bộ giao dịch. Phối kết hợp với các đơn vị lớn trong việc hợp tác quảng bá thương hiệu lẫn nhau.
3.1.2. Định hướng phát triển cho vay tiêu dùng.
Phù hợp với định hướng phát triển chung của toàn hệ thống, chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội trong tương lai sẽ hướng vào nhóm khách hàng vừa và nhỏ, chú trọng phát triển mạng dịch vụ cá nhân. Cho vay tiêu dùng được ngân hàng xác định là sản phẩm quan trọng để phát triển mạng dịch vụ cá nhân.
Định hướng cho vay tiêu dùng được đề ra phù hợp với định hướng phát triển cho vay chung của chi nhánh.
Mở rộng hơn nữa doanh số cho vay tiêu dùng kết hợp với việc nâng cao chất lượng các khoản vay sao cho lợi nhuận thu từ hoạt động cho vay này ngày càng tăng cao.
Mở rộng thị trường khách hàng cá nhân song song với tăng quy mô các món vay. Đây là một thị trường tiềm năng, có xu hướng tăng nhanh trong tương lai, vì vậy các ngân hàng thương mại hiện nay đều rất quan tâm đến việc mở rộng thị trường này. Thị trường khách hàng cá nhân được mở rộng đồng nghĩa với việc đa dạng hoá khách hàng, giảm được rủi ro so với trường hợp chỉ tập trung vào nhóm khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp. Chi nhánh Nam Hà Nội đã nghiên cứu thị trường và cũng đã nhận thấy được xu hướng phát triển của thị trường khách hàng này, vì vậy đã đưa ra định hướng phát triển cho vay tiêu dùng nhằm mở rộng thị trường khách hàng cá nhân.
Hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn cho vay tiêu dùng. Chính vì lý do cho vay tiêu dùng không có tài sản đảm bảo nên loại hình cho vay này có mức độ rủi ro cao hơn cho vay thông thường. Hạn chế nợ quá hạn trong cho vay tiêu dùng là một định hướng tương đối quan trọng đối với một chi nhánh mới thành lập như NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Chiến lược cụ thể chi nhánh đặt ra trong năm 2006 là mở rộng các loại hình tín dụng diêu dùng như: cho vay tiêu dùng tuần hoàn, cho vay mua nhà mới, cho vay tài trợ du học, đồng thời mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của khách hàng.
3.2. Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHNo & PTNT Nam Hà Nội .
Trên cơ sở phân tích những tồn tại, hạn chế trong cho vay tiêu dùng của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội cùng với những nguyên nhân của những hạn chế đó, ta thấy chi nhánh Nam Hà Nội cần phải có những giải pháp để phát triển và mở rộng hoạt động cho vay nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng. Cụ thể các giải pháp đề xuất như sau:
3.2.1. Xây dựng chiến lược marketing ngân hàng nhằm thu hút khách hàng.
Nếu chất lượng sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng tốt mà khách hàng vẫn ít tìm đến ngân hàng thì hoặc họ không có nhu cầu hoặc ngân hàng chưa chú ý tới việc quảng bá dịch vụ của mình. Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay, đời sống dân cư ngày càng được nâng cao, nhu cầu tiêu dùng cũng tăng lên, kéo theo nhu cầu vay tiêu dùng cũng tăng. Như vậy lý do thứ nhất là không hợp lý, vậy việc còn lại của ngân hàng là xây dựng một chiến lược marketing cụ thể để thu hút khách hàng.
Để áp dụng công cụ marketing trong hoạt động cho vay tiêu dùng một cách có hiệu quả, thì trước tiên ngân hàng phải tiến hành nghiên cứu, dự đoán nhu cầu của dân cư trong từng thời kỳ một cách tổng quát và kỹ lưỡng. Tuy nhiên, để làm được điều đó yêu cầu phải có thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời phản ánh một cách trung thực nhất biến động của nhu cầu trên thị trường. Do vậy, quá trình thu thập thông tin và phân tích thông tin đặc biệt quan trọng. Ngân hàng cần chọn các cách thu thập thông tin sao cho phù hợp ( ví dụ như: phỏng vấn trực tiếp, phát phiếu điều tra,…). Có thể đánh giá nhu cầu của dân cư tăng mạnh trong thời gian tới là:
- Nhu cầu về nhà ở: Nhu cầu này đã và đang tăng mạnh nhất là ở các thành phố lớn nơi tập trung dân cư đông đúc, Hà Nội là một điển hình cho vấn đề về nhà ở.
- Nhu cầu mua ô tô: Thu nhập và đời sống dân cư ngày càng được nâng cao và cải thiện. Do đó, nhu cầu mua ô tô để nâng cao mức sống không còn là quá khó đối với một bộ phận dân cư. Theo điều tra gần đây nhất cho thấy mỗi năm nhu cầu mua ô tô của người dân tăng 35- 40%.
- Nhu cầu vay du học: Hiện nay và trong thời gian tới nhu cầu vay du học sẽ tăng lên rất mạnh. Bởi lẽ, khi đời sống được nâng cao, các gia đình đều hướng cho con mình đi du học tại nước ngoài dưới các hình thức khác nhau như: tự túc, bán tự túc,…
- Nhu cầu về đồ dùng gia đình: Khi thu nhập ổn định, dân cư có xu hướng mua sắm đồ dùng đắt tiền.
Khi đã xác định được nhu cầu của dân cư trong thời gian tới sẽ giúp chi nhánh đưa ra được các sản phẩm cho vay tiêu dùng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của dân cư.
3.2.1.1. Xây dựng chính sách giá cả hợp lý.
Giá cả trong cho vay chính là lãi suất. Lãi suất là nguồn thu chính mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Với một số ngân hàng lớn trên thế giới, cho vay tiêu dùng mang lại nguồn thu lớn nhưng đối với NHNo & PTNT Nam Hà Nội cũng như nhiều ngân hàng trong nước khác, nguồn thu từ loại hình cho vay này còn rất ít, chỉ đủ bù đắp cho chi phí và rủi ro do chính hoạt động này gây ra và một phần lợi nhuận rất nhỏ. Do vậy chính sách lãi suất mà ngân hàng đưa ra phải hợp lý, kết hợp hài hoà giữa lợi ích ngân hàng với lợi ích khách hàng. Cụ thể:
+ Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo đối tượng vay: Với những khách hàng có quan hệ truyền thống, hay những khách hàng có tài khoản tại ngân hàng thì nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi hơn so với khách hàng mới. Điều này giúp tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, khuyến khích họ trả nợ gốc và lãi đúng hạn, đồng thời thu hút khách hàng mới có quan hệ lâu dài với ngân hàng để được hưởng ưu đãi như vậy.
+ Thực hiện đa dạng hoá lãi suất bằng cách đưa ra nhiều mức lãi suất khác nhau tương ứng với nhiều kỳ hạn khác nhau để khách hàng lựa chọn vay thích hợp với từng thời kỳ của mình.
3.2.1.2. Xây dựng chính sách sản phẩm phù hợp.
Trên cơ sở phân tích nhu cầu tiêu dùng trong thời gian tới, ngân hàng cần phải vừa hoàn thiện các sản phẩm đã cung cấp (ví dụ: cho vay sửa chữa, mua nhà ở, cho vay mua ô tô, xe máy,…), vừa mở rộng thêm các sản phẩm khác như: cho vay tài trợ du học, cho vay khám chữa bệnh, cho vay sinh viên, cho vay mua đất xây nhà.
+ Đối với cho vay mua nhà: Hiện nay, chi nhánh chỉ cho vay mua nhà trực tiếp với điều kiện có tài sản thế chấp bằng 150% giá trị khoản vay. Điều kiện này hạn chế khách hàng vay vì họ không có tài sản nào trị giá lớn như vậy. Như vậy để khắc phục hạn chế này, chi nhánh có thể hợp tác với các chủ thầu xây dựng trong địa bàn, ngân hàng sẽ cấp vốn cho họ thi công, sau đó tiến hành cho vay mua nhà trả góp. Ngoài ra, để hình thức cho vay này an toàn và hiệu quả thì ngân hàng cần thoả thuận với khách hàng trước về việc sẽ giữ giấy tờ sở hữu nhà của người vay, quy định thời gian cho vay tối đa.
+ Đối với cho vay mua ô tô: Có thể thấy nhu cầu mua ô tô không còn là nhu cầu của một số ít người dân thành phố nữa. Nếu như trước kia xe máy là loại phương tiện được lựa chọn chủ yếu của người dân, thì giờ đây nhu cầu sử dụng ô tô cũng tăng lên rất nhanh. Đây là điều kiện thuận lợi để mở rộng hình thức cho vay tiêu dùng này. Trong hình thức cho vay này, chi nhánh cần yêu cầu khách hàng có tài sản đảm bảo, quy định rõ ràng thời hạn vay tối đa, xác nhận đăng ký và mua bảo hiểm cho xe.
Mặt khác, chi nhánh cũng phải chú ý đến các xu hướng tiêu dùng của người dân để có thể đưa ra các hình thức cho vay tiêu dùng hợp lý.
3.2.1.3. Xúc tiến hoạt động quoảng cáo nhằm thay đổi nhận thức, tạo thói quen sử dụng các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Hiện nay, số lượng khách hàng vay tiêu dùng đến với ngân hàng còn hạn chế cả số lượng cũng như quy mô giá trị khoản vay. Nguyên nhân chủ yếu là khách hàng chưa thực sự nắm bắt được đầy đủ những thông tin về hoạt động chung của ngân hàng cũng như hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Thêm vào đó, tâm lý e ngại vay mượn trong chi tiêu còn ảnh hưởng khá nặng tới khách hàng. Đó chính là những hạn chế, khó khăn đối với ngân hàng tong việc thu hút thêm khách hàng đến với ngân hàng.
Qua đó có thể thấy việc xúc tiến quoảng cáo, tiếp thị sản phẩm có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng. Việc tiến hành hoạt động này sẽ tạo ra hình ảnh về ngân hàng trong con mắt khách hàng. Không những tạo được hình ảnh mà ngân hàng còn có thể thay đổi nhận thức và tạo thói quen sử dụng các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động quoảng cáo trong ngân hàng cần tiến hành khác so với hoạt động quoảng cáo của những doanh nghiệp thông thường, chiến dịch quoảng cáo không cần phải tiến hành ồ ạt trên các phương tiện thông tin đại chúng mà hiệu quả và tốn ít chi phí nhất đó là ngân hàng tiếp xúc với những khách hàng có nhu cầu gửi hoặc vay vốn. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng có chi phí thấp như: báo chí, mạng internet, v.v… và nêu rõ những lợi ích mà khách hàng có thể đạt được khi sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng.
3.2.2. Sử dụng mô hình “ngân hàng bán lẻ” để quản lý hoạt động cho vay tiêu dùng.
Công nghệ hiện đại là một trong số những tiêu thức để khách hàng đánh giá uy tín và hiệu quả của mỗi ngân hàng, vì vậy việc đổi mới và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là việc làm cần thiết và có ý nghĩa lớn.Thông qua đổi mới công nghệ ngân hàng sẽ giúp giảm được chi phí nhân công, nâng cao năng suất lao động, cập nhật, thu thập, xử lý và phân tích nhanh hơn, đẩy nhanh tốc độ giao dịch tạo nên sự tiện lợi cho khách hàng, giảm được chi phí trong khâu theo dõi và lưu trữ hồ sơ, đơn giản hoá quá trình làm việc. Nhận thức được điều đó, NHNo & PTNT Nam Hà Nội luôn lấy công tác hiện đại hoá công nghệ ngân hàng làm trọng tâm để xây dựng các chiến lược kinh doanh cho mình. Chi nhánh luôn cố gắng tiếp cận và đổi mới công nghệ nhằm cung cấp cho khách hàng những sản phẩm mang tính công nhệ cao nhất.
Trong thời gian qua, chi nhánh đã từng bước chú ý, quan tâm đưa công nghệ ngân hàng hiện đại vào hoạt động như: nối mạng nội bộ, thanh toán chuyển tiền điện tử, quản lý các khoản vay trên máy tính,…Mô hình “ ngân hàng bán lẻ” và chương trình giao dịch một cửa là mô hình một ngân hàng hiện đại, trang bị nhiều tiện ích cho khách hàng đã được chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội triển khai áp dụng có hiệu quả kể từ khi mới thành lập. Mô hình này cho phép cán bộ tín dụng quản lý những khách hàng mình đã cho vay thông qua mạng nội bộ. Chẳng hạn như, đầu tháng cán bộ tín dụng có thể vào “ngân hàng bán lẻ” để biết được những thông tin về khách hàng, cán bộ tín dụng có thể biết được trong tháng đó có những khách hàng nào đến hạn trả nợ gốc cho ngân hàng, những khách hàng nào bị chuyển nợ quá hạn,…Khác với việc quản lý cho vay bằng sổ sách như trước kia, mô hình “ngân hàng bán lẻ” giúp cán bộ tín dụng có thể giảm được những chi phí về thời gian và chi phí quản lý các khoản cho vay. Nhất là đối với cho vay tiêu dùng có đặc điểm số lượng các món vay lớn, khách hàng đa dạng nhưng số tiền vay lại nhỏ, thì mô hình “ngân hàng bán lẻ” thật sự có hiệu quả, giúp cán bộ tín dụng dễ dàng trong việc quản lý cho vay. Chính vì vậy, hoạt động của Chi nhánh trong thời gian qua tương đối hiệu quả với số cán bộ tín dụng ít mà vẫn quản lý tốt được số lượng khách hàng lớn, với tổng dư nợ năm 2005 lên tới 4300 tỷ đồng.
Tuy nhiên, ngân hàng mới chỉ đơn thuần áp dụng để theo dõi dư nợ, tổng hợp số liệu hay quản lý theo nhóm khách hàng, chưa khai thác hết những tính năng của mô hình này.
Hiện nay, NHNo & PTNT Nam Hà Nội đang cử cán bộ tín dụng đi học mô hình quản lý tín dụng do Ngân hàng thế giới (WB) tổ chức có tên gọi là Bo- Bank.Trong thời gian tới, mô hình này sẽ được triển khai thực hiện.
3.2.3. Xây dựng hệ thống tính điểm tự động trong khâu thẩm định của ngân hàng đối với khách hàng.
Hiện nay, tại các ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng thì khâu thẩm định khách hàng vay tiêu dùng chủ yếu do các cán bộ thẩm định tiến hành thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Vì vậy, sẽ làm cho công tác thẩm định mất nhiều thời gian, công sức và chi phí của ngân hàng, còn khách hàng cảm thấy phức tạp, mất nhiều thời gian. Trước yêu cầu đó, việc xây dựng được một hệ thống các tiêu chuẩn đánh giá khách hàng vay là rất quan trọng và có tính thực tiễn cao trong cho vay tiêu dùng. Việc áp dụng hệ thống tính điểm tự động trong công tác thẩm định khách hàng là thực sự thiết thực đối với ngân hàng. Hệ thống tính điểm hoàn toàn được lập trình trên máy tính. Khi khách hàng có nhu cầu đến vay thì cán bộ tín dụng chỉ cần nhập tất cả các thông tin về khách hàng thì hệ thống máy tính sẽ thông báo điểm của khách hàng đó.
3.2.4. Nâng cao trình độ đào tạo cán bộ tín dụng.
Xét một cách tổng thể thì con người vẫn là nhân tố quan trọng và có tính chất quyết định đối với mọi hoạt động trong nền kinh tế nói chung cũng như trong ngân hàng nói riêng.
Cán bộ tín dụng có ảnh hưởng rất lớn, có tính chất quyết định đến sự an toàn của việc cho vay, từ việc chấp hành cơ chế, chính sách đến thẩm định, xét duyệt hồ sơ cho vay, quyết định cho vay, kiểm tra và kiểm soát vốn vay và thu nợ. Cán bộ tín dụng có trình độ cao thì sẽ thẩm định đánh giá được các nhu cầu vay một cách chính xác, phát hiện được những khách hàng lừa đảo. Nói chung, trình độ của cán bộ tín dụng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng và hiệu quả cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng. Vì vậy, đội ngũ cán bộ tín dụng cần được thường xuyên hướng dẫn, tổ chức tập huấn, nâng cao chuyên môn, bổ sung kiến thức về những quy định mới của ngành, đường lối chủ trương phát triển kinh tế của Đảng, của địa bàn Hà Nội. Chi nhánh cần có kế hoạch đào tạo các cán bộ tín dụng thông qua việc tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ, cử người đi tập huấn, đi học ở nước ngoài để nắm bắt kịp thời được xu hướng phát triển và trình độ khoa học công nghệ trên thế giới. Mặt khác chi nhánh cần có chiến lược cụ thể từ khâu tuyển dụng, có chiến lược đào tạo lại theo hệ thống nhằm phát huy khả năng của từng người.
Bên cạnh việc đào tạo, Chi nhánh cũng cần có các hình thức phát động thi đua tự học nâng cao trình độ của các cán bộ, cần có các hình thức khen thưởng hợp lý phát huy được tinh thần tự giác của mỗi cá nhân. Hiện nay, Chi nhánh đang áp dụng chế độ xếp loại để khen thưởng theo tháng do các cá nhân trong phòng tín dụng cùng đánh giá. Ngoài hình thức này, có thể tổ chức các cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi, tổ chức những buổi thảo luận về từng chuyên đề nghiệp vụ để trao đổi kinh nghiệm và rút ra những khuyết điểm cần sửa, nhờ đó sẽ tạo được tinh thần thi đua học tập nghiên cứu sáng tạo trong tập thể cán bộ nhân viên trong toàn Chi nhánh. Bên cạnh trình độ chuyên môn thì các cán bộ tín dụng cũng cần phải có đạo đức nghề nghiệp và tinh thần trách nhiệm đối với công việc. Vì vậy, Chi nhánh cũng cần có chế độ xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ có biểu hiện vô trách nhiệm. Có như vậy mới nâng cao trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ tín dụng, giúp hoạt động cho vay tiêu dùng đạt hiệu quả hơn.
3.2.5. Cho vay tiêu dùng thông qua người đại diện.
Giải pháp cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên thông qua người đại diện được đưa ra trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của các bên: ngân hàng - đại diện của bên vay- người vay. Người đại diện chính là thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có cán bộ công nhân viên vay tiêu dùng tại ngân hàng. Hình thức cho vay này giúp các ngân hàng tiết kiệm được thời gian, chi phí trong thẩm định, xét duyệt cho vay, kiểm tra việc sử dụng vốn và thu hồi nợ. Sử dụng phương thức cho vay thông qua người đại diện còn giúp ngân hàng hạn chế được rủi ro vì người vay không thể lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của cơ quan để xin xác nhận nhiều lần nhằm lừa gạt vay ngân hàng, sử dụng vốn không đúng mục đích. Mặt khác, do có người đại diện nên ngân hàng đỡ tốn chi phí thu hồi nợ mà lại giảm được rủi ro.
Giải pháp này được thực hiện theo các bước sau:
Bước 1: Ngân hàng tổ chức họp hội nghị khách hàng gồm thủ trưởng, chủ tịch công đoàn, thủ quỹ của các cơ quan, đơn vị để phổ biến và hướng dẫn thực hiện các quy định cho vay thông qua người đại diện.
Bước 2: Giám đốc ngân hàng cùng với thủ trưởng đơn vị, Chủ tịch công đoàn ký biên bản thoả thuận cho vay tiêu dùng, trong đó xác định rõ trách nhiệm của các bên và cử người đại diện của bên vay trực tiếp giao dịch với ngân hàng.
Bước 3: Đại diện bên vay tổ chức họp cán bộ công nhân viên phổ biến cho họ biết chủ trương cho vay tiêu dùng và các quy định cho vay thông qua người đại diện.
Bước 4: Cán bộ công nhân viên có nhu cầu vay vốn, viết giấy đề nghị vay vốn cùng phương án trả nợ (theo mẫu in sẵn của TCTD), có chữ ký cam kết của vợ hoặc chồng (nếu có), ý kiến xác nhận của thủ trưởng đơn vị và nộp cho người đại hiện. Trong giấy đề nghị vay vốn, người vay phải uỷ quyền cho người đại diện ký kết hợp động tín dụng và toàn quyền trích thu nhập hàng tháng dể trả đủ nợ gốc và lãi đến hạn cho ngân hàng.
Bước 5: Người đại diện tập hợp các giấy đề nghị vay vốn và báo cho ngân hàng biết để cử cán bộ tín dụng xuống đơn vị, cùng người đại diện thẩm tra khả năng trả nợ của từng người vay. Sau khi thẩm tra xong, cán bộ tín dụng và người đại diện lập danh sách cán bộ công nhân viên có đủ điều kiện vay, có ý kiến xác nhận của thủ trưởng đơn vị để trình với lãnh đạo ngân hàng xét duyệt cho vay.
Bước 6: Sau khi có kết quả xét duyệt cho vay, người đại diện ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng.
Bước 7: Trên cơ sở hợp đồng tín dụng đã ký, ngân hàng phối hợp với người đại diện phát vốn vay trực tiếp cho người vay tại đơn vị (sau khi người vay lập khế ước nhận nợ).
Bước 8: Định kỳ hàng tháng, căn cứ vào lịch trả nợ mà người vay đã cam kết, ngân hàng lập bảng kê danh sách thu nợ gốc và lãi của từng người vay để gửi cho người đại diện tiến hành thu nợ (bằng cách trích thu nhập của người vay tại thủ quỹ đơn vị).
Để đảm bảo quyền lợi của người đại diện, nhằm khuyến khích người đại diện làm tốt trách nhiệm được giao, ngân hàng có chính sách: hàng tháng trích thưởng 3% trên số lãi thực thu và hỗ trợ tiền tàu xe trong các kỳ trả nợ.
Như vậy, giải pháp cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên thông qua người đại diện đã giải quyết được những khó khăn của cả ngân hàng và khách hàng. Giải pháp này đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả, được dư luận hoan nghênh, thủ trưởng đơn vị, chủ tịch công đoàn và cán bộ công nhân viên đồng tình ủng hộ. Tại chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội, giải pháp này đã được áp dụng và ngày càng phát huy hiệu quả trong cho vay tiêu dùng.
3.2.6. Mở rộng hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp.
Hiện nay, chi nhánh mới chỉ áp dụng hình thức cho vay tiêu dùng trực tiếp, nghĩa là cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng để cho vay cũng như thu nợ một cách trực tiếp. Với hình thức này, Chi nhánh đã tiến hành quản lý rất tốt, tuy nhiên trong thời gian tới khi số lượng khách hàng tăng lên nhiều thì việc quản lý như vậy không còn phù hợp. Chính vì vậy, Chi nhánh nên xem xét việc cung ứng phương thức cho vay tiêu dùng gián tiếp thông qua các nhà phân phối và nhà sản xuất, để tạo thành một mắt xích khép kín mà tất cả các bên đều có lợi. Đối với nền kinh tế thì nền sản xuất trong nước tăng trưởng và phát triển. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thì bán được hàng hoá nhiều hơn, gia tăng được sản xuất, giải quyết được khâu đầu ra. Đối với người tiêu dùng thì được sử dụng hàng hoá trước. Còn đối với ngân hàng thì phát triển được hoạt động cho vay tiêu dùng, thu hút được nhiều khách hàng hơn.
Trong điều kiện hiện nay, các hoanh nghiệp sản xuất trong nước đang được người dân tin cậy và sử dụng ngày càng nhiều vì chất lượng và mẫu mã hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng. Đây là điều rất tốt cho việc liên kết thành công giữa ngân hàng và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước. Tuy nhiên, khi áp dụng hình thức cho vay này, ngân hàng cũng có thể gặp phải một số rủi ro như: trình độ thẩm định khách hàng của công ty sản xuất hoặc nhà phân phối hạn chế, thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá, dịch vụ, trung gian này có thể chiếm dụng vốn của ngân hàng, v.v…
3.2.7. Một số giải pháp khác.
Một là, phát triển hoạt động dịch vụ tài khoản cá nhân, dịch vụ thanh toán thẻ. Khuyến khích người vay tiêu dùng mở và giao dịch vằng tài khoản với ngân hàng. Riêng đối với đối tượng là cán bộ công nhân viên, có thể phối hợp với cơ quan, đơn vị phát triển dịch vụ trả lương hộ, nhờ đó tạo điều kiện để các ngân hàng cho vay tiêu dùng theo dõi và thu hồi nợ đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ hai, khai thác và sử dụng vốn hợp lý và hiệu quả, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn để chủ động mở rộng và tăng trưởng tín dụng tiêu dùng.
Thứ ba, trên cơ sở quy chế cho vay 1627, các quy định pháp luật có liên quan, chi nhánh cần tổ chức xây dựng quy trình, kỹ thuật cấp tín dụng đối với cho vay tiêu dùng có hệ thống khoa học, để có cách quản lý hiệu quả cho vay tiêu dùng, đảm bảo hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra.
Thứ tư, phát triển mạng lưới hoạt động đi đối với củng cố hoàn thiện mạng lưới. Việc tiếp cận và mở rộng khách hàng cá nhân đang là vấn đề được rất nhiều các ngân hàng thương mại quan tâm. Các ngân hàng thương mại có rất nhiều cách để thu hút khách hàng như quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, phát tờ rơi, v.v… nhưng cách đưa hình ảnh ngân hàng đến với khách hàng nhanh nhất và tốn chi phí rẻ nhất đó là tiếp xúc trực tiếp với những khách hàng có nhu cầu gửi hoặc vay vốn. Vì lẽ đó chi nhánh cần phải phát triển mạng lưới hơn nữa để có thể tiếp xúc trực tiếp với khách hàng và tìm hiểu những nhu cầu mới của khách hàng.
Trên đây là một số giải pháp để mở rộng cho vay tiêu dùng tại Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội. Sau đây, em xin đề xuất một số kiến nghị để góp phần mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng ở Việt Nam nói chung và ở chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng.
3.3. Một số kiến nghị.
3.3.1. Đối với Ngân hàng Trung ương.
Kiến nghị đầu tiên đối với Ngân hàng trung ương là cần hoàn thiện các văn bản về cho vay nói chung và về hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng để tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại có được một môi trường pháp lý hoàn thiện, đầy đủ để thực hiện kinh doanh có hiệu quả hơn. Nhất là đối với hình thức cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay chứa đựng nhiều rủi ro hơn các hình thức cho vay thông thường thì càng cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản pháp luật. Các văn bản pháp luật điều chỉnh là nền tảng cơ sở cần thiết tiến hành cho vay tiêu dùng, tạo hành lang pháp lý thông thoáng và chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi cho các ngân hàng thương mại nói chung và NHNo & PTNT Nam Hà Nội nói riêng khi tiến hành hình thức cho vay này.
Ngoài ra Ngân hàng trung ương cũng cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể các quy chế hay hình thức cho vay tiêu dùng để tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng trong quá trình xét duyệt, thẩm định các món cho vay tiêu dùng.
Ngân hàng trung ương cần chú trọng xây dựng phát triển hơn nữa hệ thống thông tin liên ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại dễ dàng tìm hiểu về các quy định mới, các kinh nghiệm hoạt động kinh doanh ngân hàng, hay các thông tin về khách hàng, giúp cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng hiệu quả hơn và giảm thiểu được các rủi ro.
3.3.2. Đối với NHNo & PTNT Việt Nam.
NHNo & PTNT Nam Hà Nội chịu sự quản lý trực tiếp của NHNo & PTNT Việt Nam vì vậy các quy chế, chính sách mới của NHNo & PTNT Việt Nam có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của NHNo &PTNT Nam Hà Nội.
NHNo & PTNT Việt Nam cần có các văn bản hướng dẫn thi hành kịp thời khi có các quy định mới của Ngân hàng trung ương hay các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến nghiệp vụ ngân hàng. Ngoài ra, NHNo & PTNT Việt Nam nên tăng thêm tính chủ động cho các chi nhánh NHNo trong đó có chi nhánh Nam Hà Nội trong các chương trình cung cấp thông tin phục vụ việc điều hành kinh doanh, công tác thẩm định, xét duyệt cho vay.
NHNo & PTNT Việt Nam có thể làm người giao dịch, quan hệ trực tiếp với các cơ quan cấp Bộ trong việc tìm kiếm các dự án có vốn đầu tư nước ngoài để đăng ký làm ngân hàng phục vụ, từ đó có thể giao cho Chi nhánh một số dự án đầu tư lớn để ngân hàng có thể nâng cao trình độ nghiệp vụ, và mở rộng hoạt động kinh doanh.
NHNo & PTNT Việt Nam cần cử cán bộ nghiên cứu đưa ra những phần mềm khai thác thông tin khách hàng nhanh chóng tạo điều kiện thực hiện tốt hơn hoạt động cho vay tiêu dùng và các loại hình cho vay khác do Chi nhánh cung cấp, bởi vì trong cho vay tiêu dùng thông tin là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp cán cộ tín dụng xác định chính xác về người vay.
NHNo & PTNT Việt Nam có thể giúp đỡ Chi nhánh Nam Hà Nội về nhân lực, tư liệu, kinh nghiệm, công nghệ,… để thành lập một phòng Marketing độc lập. Việc thành lập phòng marketing độc lập có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động kinh doanh của Chi nhánh, nhất là đối với hoạt động tín dụng, nó sẽ giúp Chi nhánh chủ động hơn trong việc tìm kiếm thị trường cho vay cũng như thị trường huy động vốn, hay việc tìm hiểu các thông tin về khách hàng và xu hướng nhu cầu của họ.
3.3.3. Đối với Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
Hiện nay, hầu hết các ngân hàng thương mại chưa thực sự chú trọng đến hoạt động marketing ngân hàng. Đối với hoạt động cho vay tiêu dùng, trong giai đoạn hiện nay mới được các ngân hàng thực hiện, người dân chưa chú ý và hiểu biết cặn kẽ về lại sản phẩm dịch vụ này của ngân hàng nên hoạt động marketing có vai trò vô cùng quan trọng. Do vậy, trong thời gian nhanh nhất có thể, chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội cần xây dựng được phòng marketing độc lập và đưa phòng đó đi vào hoạt đông đúng chức năng của nó, góp phần giúp ngân hàng tăng cường hoạt động tìm kiếm thị trường và tìm hiểu nhu cầu mới của khách hàng, tìm hiểu những thông tin về khách hàng để cung cấp cho phòng tín dụng góp phần nâng cao công tác thẩm định khách hàng của cán bộ tín dụng.
Chi nhánh Nam Hà Nội nên xây dựng cho chi nhánh mình một hệ thống chấm điểm, điều tra phân nhóm khách hàng vay phù hợp với ngân hàng mình. Chi nhánh có thể đưa ra các tiêu thức và các mức điểm trong từng tiêu thức làm sao đánh giá được chính xác khách hàng xin vay. Chi nhánh sẽ đặt ra một mức điểm chuẩn. Khi đã có mức điểm chuẩn thì cán bộ tín dụng căn cứ vào mức điểm mà khách hàng có nhu cầu xin vay đạt được để ra quyết định cho vay. Việc căn cứ vào mức điểm chuẩn và phân nhóm này để ra quyết định cho vay được chính xác sẽ giúp giảm được các chi phí về thời gian. Tuy nhiên, ngân hàng cần phải kết hợp với phương pháp thẩm định truyền thống để hạn chế được rủi ro, tránh được việc bỏ qua khách hàng tiềm năng.
Kết luận
Có thể nói, trong 5 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng nền kinh tế nước ta tăng trưởng với tốc độ cao, GDP đạt bình quân 7,4%, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện.
Trong tương lai không xa, Việt Nam hội nhập AFTA và gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới nhưng cũng đặt Việt Nam vào một môi trường cạnh tranh khốc liệt mà ngành ngân hàng là một điển hình. Hội nhập sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nước ngoài xâm nhập vào thị trường Việt Nam, vì thế sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại càng trở nên khốc liệt mà nếu các ngân hàng không kịp thời đổi mới toàn diện, nắm bắt thị trường thì sẽ trở nên lạc hậu và sẽ bị bỏ lại phía sau.
Cho vay tiêu dùng là một hình thức cho vay tương đối mới ở Việt Nam nhưng đã được các ngân hàng thương mại chú trọng phát triển và trong tương lai loại hình cho vay này sẽ tăng trưởng mạnh.
NHNo & PTNT Nam Hà Nội tuy mới đi vào hoạt động 5 năm nhưng trong quãng thời gian đó đã có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong thời gian tới, Chi nhánh tiếp tục phát triển và đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, trong đó vẫn quan tâm nhiều nhất đến hoạt động tín dụng vì đây là hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. Nắm bắt được xu thế của thị trường hướng vào người tiêu dùng, Chi nhánh đã quan tâm phát triển và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng để cung cấp cho khách hàng những tiện ích mới thoả mãn nhu cầu vay tiêu dùng của họ. Tuy còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất và nhân lực nhưng với quyết tâm cao của tập thể cán bộ lãnh đạo và nhân viên, chắc chắn trong thời gian tới, Chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội sẽ đạt được các mục tiêu đề ra.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1. Peter Rose, 2001, Quản trị Ngân hàng thương mại, NXB Tài Chính.
2. Fredric S.Miskin, 1999, Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa Học Kỹ Thuật.
3. T.S. Phan Thị Thu Hà, 2004, Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê
4. Lê Vinh Danh, 2003,Tiền và hoạt động Ngân hàng, NXB Chính Trị Quốc Gia.
5. Sổ tay tín dụng của NHNo & PTNT Việt Nam.
6. Luật các Tổ chức tín dụng, NXB Chính Trị quốc gia.
7. Tạp chí Ngân hàng các số liên quan từ năm 2000 đến 2005
8. Tạp chí thị trường giá cả số 1/2002.
9. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ các số liên quan năm 2004,2005.
10. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT Nam Hà Nội các năm 2002 đến 2005.
11. Báo cáo tình hình cho vay tiêu dùng của chi nhánh NHNo & PTNT Nam Hà Nội các năm 2002 đến 2005.
12. Đề án phát triển hoạt động kinh doanh trên địa bàn giai đoạn 2002-2005 của NHNo & PTNT Nam Hà Nội.
13. Các văn bản, quy chế liên quan đến cho vay tiêu dùng của NHNo & PTNT Việt Nam.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29465.doc