Việt Nam đang hoà mình vào xu thế hội nhập chung của toàn thế giới và điều thể hiện rõ rệt nhất chính là sự giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một trong những nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự giao lưu kinh tế này chính là hoạt động TTQT trong đó chủ yếu là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ. Có thể nói phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã và đang là một công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam tham gia vào thương mại quốc tế.
Các ngân hàng Việt Nam là những chủ thể tham gia trực tiếp vào phương thức thanh toán ấy. Năng lực của ngân hàng đóng vai trò quyết định đến hiệu quả của phương thức thanh toán và đến lượt nó chất lượng của phương thức thanh toán lại có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng thương mại quốc tế của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Nhận thức được điều này cùng với xuất phát từ thực tiễn thực tập, em đã cố gắng tổng kết thực trạng thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng liên doanh Indovina trong những năm gần đây, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ tại IVB nói riêng, góp phần cùng hệ thống các ngân hàng nói chung đưa nền kinh tế nước nhà phát triển ngày càng nhanh chóng và vững chắc.
88 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 792 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng liên doanh Indovina Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạo điều kiện phát triển như hoạt động kinh doanh ngoại tệ, hoạt động tín dụng, hoạt động huy động vốn Trong đó, thể hiện rõ nhất ở hoạt động tín dụng dưới hình thức tài trợ của Ngân hàng dành cho khách hàng mở L/C.
Xét cụ thể, hoạt động tài trợ này có một số hình thức như: bảo lãnh phát hành L/C, cho vay thanh toán giá trị L/C cho người xuất khẩu khi đến hạn Thực chất, hoạt động bảo lãnh phát hành L/C chính là việc Ngân hàng cho phép khách hàng ký quỹ mở L/C nhỏ hơn 100% giá trị L/C. Khách hàng được bảo lãnh thường phải chịu phí bảo lãnh, tuy nhiên mức phí này không cao, khách hàng chắc chắn được lợi hơn khi ký quỹ 100%. Tại IVB Hà Nội, ký quỹ đã trở thành công cụ không thể thiếu được của Ngân hàng với nhiều tác dụng: đảm bảo an toàn trong hoạt động, tạo ra nguồn tiền mặt không tốn chi phí giúp tăng tính thanh khoản cho Ngân hàng và có thể đem đầu tư ngắn hạn; mặt khác là công cụ khuyến khích rất hữu hiệu đối với khách hàng. Đây là hoạt động tài trợ được thực hiện ngay từ trước khi mở L/C.
Sau khi mở L/C và đã nhận được bộ chứng từ thanh toán theo thư tín dụng do người xuất khẩu gửi đến, nếu khách hàng lúc đó không có đủ ngay tiền để thanh toán hoặc đang cần đầu tư vào một hoạt động khác thì Ngân hàng có thể hỗ trợ khách hàng bằng cách cho vay thanh toán giá trị L/C. Thực tế hoạt động của Indovina có rất nhiều khách hàng được Ngân hàng tài trợ dưới hình thức này. Không chỉ đơn thuần là cho vay, IVB còn giúp khách hàng chuẩn bị đủ số lượng loại ngoại tệ cần thanh toán theo như hợp đồng ngoại thương và thư tín dụng. Do vậy, hoạt động này đã tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa khách hàng với Ngân hàng.
Như vậy, hoạt động tài trợ nhập khẩu cùng với hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu đã tạo ra cho Ngân hàng một nguồn thu nhập từ lãi, góp phần tích cực vào sự phát triển của Ngân hàng.
Hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu góp phần nâng cao uy tín của Ngân hàng liên doanh Indovina
Để thực hiện nghiệp vụ phát hành L/C nhập khẩu, Ngân hàng mở phải có vị thế nhất định trên hệ thống Ngân hàng quốc tế. Bởi L/C thực chất là một cam kết của Ngân hàng phát hành sẽ trả tiền cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung L/C và hợp đồng ngoại thương, do vậy cam kết này có trọng lượng đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào uy tín của Ngân hàng. Trong trường hợp uy tín chưa cao, Ngân hàng có thể nhờ một Ngân hàng khác có uy tín cao hơn xác nhận L/C, tuy nhiên như vậy phải mất khoản phí tương đối lớn, làm giảm hiệu quả hoạt động TTQT. Đây là một vấn đề rất quan trọng đối với một Ngân hàng muốn phát triển hoạt động TTQT. Và Ngân hàng Indovina bước đầu đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh tốt đẹp về hoạt động của mình, trong việc tạo dựng được uy tín đối với khách hàng và nhiều Ngân hàng trên thế giới, góp phần vào sự phát triển thuận lợi của hoạt động thanh toán quốc tế.
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân
Những thành tựu đạt được trong những năm gần đây đã khẳng định vị thế của Ngân hàng Indovina Hà Nội trong hệ thống ngân hàng Việt Nam. Hoạt động TTQT của IVB đạt tốc độ tăng trưởng tương đối cao, đây là thành công đáng ghi nhận. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà hoạt động TTQT nói chung và hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng tại IVB còn nhiều tồn tại, dẫn đến hạn chế việc mở rộng doanh số và chất lượng mảng hoạt động này.
2.4.2.1. Những hạn chế xuất phát từ phía Ngân hàng
Mạng lưới hoạt động của Ngân hàng chưa rộng
Toàn bộ hệ thống Ngân hàng liên doanh Indovina hiện nay mới chỉ bao gồm Hội sở chính tại Thành phố Hồ Chí Minh và 4 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ, Bình Dương. Tại Hà Nội, mới chỉ có một chi nhánh duy nhất hoạt động, chưa có chi nhánh cấp 2 và các phòng giao dịch như hầu hết các ngân hàng thương mại khác. Đây là hạn chế lớn, ảnh hưởng khá nhiều tới kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Mạng lưới hẹp khiến khách hàng khó tiếp cận với hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với Ngân hàng hiện nay là nhanh chóng mở rộng mạng lưới hoạt động để dịch vụ ngân hàng đến được với nhiều cá nhân, doanh nghiệp hơn nữa.
Số lượng và cơ cấu khách hàng còn hạn hẹp
Đây là nguyên nhân chủ yếu tác động tiêu cực đến khả năng mở rộng hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu của IVB Hà Nội. Qua phân tích về khách hàng và cơ cấu khách hàng đề nghị phát hành L/C qua Ngân hàng, có thể thấy số lượng khách hàng chưa nhiều, trong đó chỉ có một số công ty lớn, hoạt động nhập khẩu diễn ra thường xuyên. Đa phần khách hàng là các công ty trách nhiệm hữu hạn có tình hình tài chính lành mạnh, tuy nhiên quy mô của các công ty này thường nhỏ, khối lượng và giá trị hàng nhập khẩu không cao. Do vậy, xét về mặt tổng thể, doanh số thanh toán L/C nhập khẩu của IVB còn thấp.
Một thực tế đang diễn ra tại IVB Hà Nội là sự quá phụ thuộc của kết quả hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu bằng L/C vào một số khách hàng lớn. Cụ thể, năm 2002 khi Công ty xây lắp máy xây dựng (VEAM) – một doanh nghiệp Nhà nước lớn – mở L/C tại Ngân hàng, doanh số L/C nhập khẩu tăng lên đáng kể, từ 8.769.957 US$ năm 2001 lên 16.319.984 US$ năm 2002, tốc độ tăng 86,09%. Đây là doanh nghiệp thường xuyên nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu từ nước ngoài với giá trị hợp đồng thường rất cao, đem lại cho IVB Hà Nội doanh số và nguồn thu lớn từ phí. Sang năm 2003, khi doanh nghiệp này ngừng hoạt động phát hành L/C thông qua Ngân hàng thì doanh số thanh toán L/C nhập khẩu lại trở lại mức bình thường như năm 2001. Để khắc phục tình trạng này, Ngân hàng cần đa dạng hoá khách hàng, mở rộng cơ cấu khách hàng, đồng thời vẫn hướng vào các doanh nghiệp có nhu cầu nhập khẩu mạnh.
Hoạt động Marketing chưa được quan tâm đúng mức
Trong những năm qua, việc nghiên cứu ứng dụng Marketing trong hoạt động ngân hàng của hầu hết các NHTM Việt Nam chưa được chú ý tương xứng với tầm quan trọng của nó. Một phần là do đây là lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam, mới chỉ xuất hiện sau khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường một thời gian. Mặt khác cũng là do ý thức của các ngân hàng chưa thấy được sự cần thiết của Marketing, chưa chú trọng phát triển hoạt động này. Đây là một thực tế tại hầu hết các NHTM Việt Nam và IVB Hà Nội cũng không phải là ngoại lệ.
Tại IVB Hà Nội, hoạt động Marketing được gộp chung vào phòng Tín dụng (Phòng Tín dụng và Tiếp thị). Các cán bộ tín dụng trong quá trình tiếp xúc với khách hàng, bên cạnh việc thực hiện nghiệp vụ chính của mình kiêm luôn việc marketing cho hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của toàn Ngân hàng, kết hợp với các phòng ban khác tư vấn, hướng dẫn khách hàng trong sử dụng dịch vụ ngân hàng giúp khách hàng tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ Ngân hàng cung cấp. Tuy vậy, hoạt động này vẫn chưa đạt được yêu cầu cần thiết và có xu hướng thiên về phát triển hoạt động tín dụng và mở rộng khách hàng có quan hệ tín dụng; các hoạt động khác như TTQT chưa được chú trọng phát triển về khía cạnh marketing. Hình thức Marketing sử dụng tại Ngân hàng còn quá đơn giản, chỉ là Marketing thông qua giao dịch trực tiếp, các phương tiện truyền thông như báo, đài, tivi; các hình thức khác như phát tờ rơi, panô, áp-phích chưa được sử dụng. Bên cạnh đó, hầu hết cán bộ nhân viên Ngân hàng chưa có kiến thức về Marketing một cách hệ thống, từ đó chưa thực hiện được phương châm mỗi cán bộ, nhân viên là một mắt xích để thu hút thêm các khách hàng mới và duy trì khách hàng cũ.
Phí thanh toán thiếu tính cạnh tranh
Khách hàng khi sử dụng bất cứ một dịch vụ gì điều quan tâm đầu tiên là mức phí của dịch vụ đó. Phương thức tín dụng chứng từ có nhược điểm là có phí cao hơn các phương thức thanh toán khác, do phương thức này có quy trình thanh toán khá phức tạp, liên quan đến nhiều bên. Vì vậy, có thể thấy tại IVB Hà Nội, doanh số thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ thấp hơn khá nhiều so với chuyển tiền.
So với mặt bằng chung trong hệ thống NHTM Việt Nam, phí dịch vụ thanh toán L/C của IVB Hà Nội là khá cao. Mặc dù chất lượng thanh toán của IVB không thấp hơn, tuy nhiên nhiều khoản mục phí của IVB cao hơn các NHTM quốc doanh như Vietcombank, Incombank và một số ngân hàng khác. Đây là một lý do hạn chế khả năng cạnh tranh của Ngân hàng trong việc thu hút thêm khách hàng mới cũng như duy trì khách hàng cũ. Ta có thể thấy sự chênh lệch về mức phí này trong bảng so sánh sau:
Bảng 2.8: Biểu phí thanh toán L/C nhập khẩu
Khoản mục phí
IVB
VCB
ICBV
ANZ
VIB
Phát hành L/C
0.125%
0.1%
0.1%
0.1%
0.15%
Sửa đổi tăng tiền
0.125%
0.1%
0.1%
0.1%
Sửa đổi khác
20 USD
15 USD
10 USD
25 USD
Huỷ L/C
50 USD
10 USD
10 USD
50 USD
10 USD
Chấp nhận hối phiếu kỳ hạn
0.125%
0.125%
0.1 %
Thanh toán L/C
0.20%
0.20%
0.20%
0.125%
0.2 %
(Nguồn: Biểu phí IVB Hà Nội và các trang web của Vietcombank,
Incombank, ANZ và NHTM cổ phần quốc tế VIB)
Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho thanh toán viên chưa được chú trọng
Ngân hàng IVB Hà Nội có ưu thế về đội ngũ cán bộ nhân viên nói chung và đội ngũ thanh toán viên nói riêng có trình độ học vấn, dày dạn kinh nghiệm, sử dụng thành thạo vi tính, ngoại ngữ và có khả năng giao tiếp tốt. Tuy nhiên, nghiệp vụ TTQT và đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ là những nghiệp vụ rất phức tạp, không chỉ đơn thuần là nghiệp vụ của ngân hàng mà còn liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, đến nhiều ngành nghề kinh tế khác, đòi hỏi các thanh toán viên phải nắm chắc kiến thức về các lĩnh vực này. Do vậy, việc trang bị và cập nhật kiến thức về xuất nhập khẩu và các vấn đề liên quan là rất cần thiết.
Bên cạnh đó, bản thân nghiệp vụ thanh toán chính của ngân hàng cũng cần được bồi dưỡng thêm, bởi hiện nay tại IVB các loại hình L/C áp dụng trong thanh toán còn chưa đa dạng, chủ yếu là L/C không huỷ ngang, không huỷ ngang có chuyển nhượng và có xác nhận. Các thanh toán viên cần được bồi dưỡng và bổ sung kiến thức về nhiều loại hình L/C khác để có thể tư vấn, hướng dẫn cho khách hàng sử dụng đa dạng các loại thư tín dụng, chọn được loại L/C đảm bảo quyền lợi nhất cho khách hàng. Từ đó là cơ sở cho việc mở rộng hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu tại IVB.
Như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho thanh toán viên là công việc không được lơ là đối với IVB nhằm đào tạo một đội ngũ thanh toán viên có trình độ cao về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về thanh toán quốc tế.
Bên cạnh những khó khăn, hạn chế phát sinh từ chính bản thân Ngân hàng, trong quá trình hoạt động, ngân hàng còn gặp phải nhiều khó khăn do các yếu tố bên ngoài như môi trường vĩ mô, sự cạnh tranh giữa các NHTM, khách hàng tác động xấu đến hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu.
2.4.2.2. Những hạn chế xuất phát từ các yếu tố bên ngoài
Môi trường pháp lý
Cho tới nay, Việt Nam vẫn chưa có một hành lang pháp lý đồng bộ cho việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Chính sách của Nhà nước và các văn bản của ngành chưa phù hợp với tình hình phát triển của công tác này. Đặc biệt, hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ trong đó có L/C nhập khẩu còn thiếu và hạn chế.
Hiện nay, UCP 500 được vận dụng ở tất cả các NHTM nước ta, nhưng do chỉ là một thông lệ, tập quán chứ không phải là luật hay công ước quốc tế nên nó không có giá trị pháp lý bắt buộc mà chỉ mang tính chất hướng dẫn sử dụng đối với các bên tham gia. ở nước ta, việc áp dụng UCP 500 không chịu bất cứ một sự điều chỉnh nào, cũng chưa có văn bản nào quy định, hướng dẫn giao dịch tín dụng chứng từ. Trong khi đó rất nhiều nước khác đã có những văn bản quy định cụ thể về nghiệp vụ thanh toán này phù hợp với điều kiện của riêng nước họ. Do vậy, tại Việt Nam, các NHTM tự ra quy định riêng cho hệ thống ngân hàng mình trên cơ sở UCP 500. Việc này tất yếu dẫn đến những bất đồng, khác biệt trong cách hiểu và quy định giữa các ngân hàng. Khi xảy ra tranh chấp về quyền lợi trong thanh toán L/C, vấn đề đặt ra là phải dựa trên cơ sở pháp lý nào để giải quyết tranh chấp đó.
Một số trường hợp rắc rối phát sinh trong quá trình thanh toán L/C nhập khẩu có thể kể đến như: ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng mở L/C, khách hàng phá sản, ngân hàng vẫn phải thanh toán giá trị L/C cho người xuất khẩu mà không thể thu hồi vốn từ người nhập khẩu, tuy nhiên ngân hàng bị Hải quan từ chối không cho lấy hàng với lý do ngân hàng chỉ là người bảo lãnh chứ không phải là người mua hàng. Vấn đề này liên quan đến quyền sở hữu và phát mại tài sản trong nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ. Đây là vấn đề khó giải quyết trong điều kiện nước ta chưa có văn bản quy định cụ thể.
Bên cạnh đó, môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Thị trường hối đoái còn chưa hoàn chỉnh, Việt Nam mới chỉ có thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhưng hoạt động kém sôi động, gây khó khăn cho các NHTM nói chung và IVB nói riêng trong việc huy động nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu.
Sự cạnh tranh trong hệ thống NHTM Việt Nam
Trên địa bàn Hà Nội hiện nay, có rất nhiều NHTM quốc doanh, ngân hàng cổ phần, liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động. Hầu hết các ngân hàng đều thực hiện nghiệp vụ phát hành và thanh toán L/C, trong đó có những ngân hàng lớn, có kinh nghiệm như Vietcombank, ANZ tạo nên sự cạnh tranh gay gắt trên lĩnh vực này. Mặc dù nhu cầu nhập khẩu của các doanh nghiệp ngày càng gia tăng, tuy nhiên với số lượng ngân hàng quá đông đảo trên địa bàn chật hẹp, việc phân chia thị phần, cạnh tranh để thu hút khách hàng là điều không thể tránh khỏi. Là một ngân hàng liên doanh có quy mô trung bình tại Việt Nam, mặc dù có một số lợi thế hơn các ngân hàng khác, song nhìn chung sự cạnh tranh này đã hạn chế khá nhiều khả năng mở rộng hoạt động của Ngân hàng Indovina.
Trình độ, kinh nghiệm của khách hàng
Trình độ và kinh nghiệm về TTQT và ngoại thương của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là một trong những yếu tố có thể dẫn đến rủi ro thanh toán cho ngân hàng. Những yếu kém trong kỹ năng lập chứng từ của khách hàng gây không ít khó khăn cho IVB trong hoạt động mở và thanh toán L/C nhập khẩu. Thêm vào đó, khả năng hiểu biết pháp luật quốc tế cũng như trình độ ngoại ngữ còn hạn chế dẫn tới việc chấp nhận các điều kiện hợp đồng bất lợi có thể gây tổn thất cho chính mình và ảnh hưởng đến ngân hàng. Nhiều trường hợp sửa chữa, huỷ bỏ L/C gây tốn kém tiền bạc và mất thời gian cho khách hàng, ảnh hưởng tới công việc sản xuất kinh doanh.
Trên đây là một số hạn chế, khó khăn mà IVB Hà Nội gặp phải trong quá trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán L/C nhập khẩu, được phân theo nguyên nhân, đó là hạn chế xuất phát từ bản thân ngân hàng và từ môi trường bên ngoài. Việc phân chia này giúp ta có cái nhìn khái quát hơn về những tồn tại của ngân hàng, từ đó dễ đưa ra những biện pháp giải quyết, góp phần hoàn thiện và mở rộng hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại IVB.
Chương III: Một số giải pháp mở rộng hoạt động
thanh toán L/C Nhập khẩu tại IVB Hà nội
3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu của IVB Hà Nội
3.1.1. Định hướng phát triển chung
Là ngân hàng liên doanh đầu tiên được thành lập tại Việt Nam, trong suốt gần 15 năm hoạt động, Ngân hàng Indovina đã đạt được nhiều thành tựu nhưng cũng gặp không ít khó khăn. Nhận thức được những hạn chế của mình, Ngân hàng thường xuyên phân tích, rút kinh nghiệm, tạo cơ sở cho việc đề ra phương hướng phát triển cho những năm tiếp theo, đề ra các chiến lược, chính sách trong nội bộ Ngân hàng cho phù hợp.
Trong giai đoạn tiếp theo, IVB tiếp tục theo đuổi chiến lược phát triển với mục tiêu an toàn, hiệu quả nhằm tối đa tài sản của chủ sở hữu trên cơ sở cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính có chất lượng cao, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, giữ vững vị trí hàng đầu trong khối các ngân hàng liên doanh tại Việt Nam. Để đạt được mục tiêu trên, IVB đã lên kế hoạch cụ thể như sau:
Tiếp tục giữ tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ở mức 30 – 40%, đảm bảo đủ vốn tài trợ cho hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Tạo lập một nguồn vốn đa dạng với trọng tâm là phát triển nguồn tiền gửi, đồng thời đa dạng hoá các sản phẩm tiền gửi, đưa công nghệ huy động vốn hiện đại vào hoạt động tạo thuận lợi cho khách hàng gửi tiền cũng như rút tiền. Tiếp tục phát huy phong cách phục vụ khách hàng tận tâm của đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng, củng cố quan hệ với các khách hàng truyền thống, đồng thời mở rộng tìm kiếm các khách hàng mới.
Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hàng đặt ra mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức 30% nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. Chủ động cho vay đối với các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế làm ăn có hiệu quả. Nâng cao chất lượng tín dụng từ khâu thẩm định đến khâu giải ngân và thu hồi nợ vay, tăng cường kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp, đảm bảo chắc chắn rằng vốn vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Mở rộng hoạt động đầu tư dưới hình thức đồng tài trợ đối với các dự án lớn nhằm phân tán rủi ro và tăng tính linh hoạt, hiệu quả trong việc sử dụng vốn.
Về hoạt động kinh doanh đối ngoại: Ngân hàng chủ trương mở rộng và nâng cao hiệu quả mảng hoạt động này, tăng cường hoạt động kinh doanh ngoại tệ vừa để thu lợi nhuận cho Ngân hàng, vừa tạo nguồn ngoại tệ phục vụ công tác thanh toán quốc tế. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng trên thế giới, xây dựng mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp, nâng cao uy tín của Ngân hàng tạo cơ sở để phát triển kinh doanh đối ngoại.
Từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng phù hợp với thị trường, từ đó đa dạng hoá sản phẩm – dịch vụ. Không ngừng ứng dụng những tiến bộ về khoa học thông tin và khoa học quản lý để phát triển sản phẩm mới. Với chiến lược hoạt động thiên về dịch vụ, IVB cần nhanh chóng hiện đại hoá các hệ thống thông tin, ứng dụng chúng vào các sản phẩm và dịch vụ mới như hệ thống rút tiền tự động, ngân hàng điện tử
3.1.2. Định hướng phát triển nghiệp vụ thanh toán L/C nhập khẩu
Trên cơ sở định hướng phát triển chung, IVB Hà Nội đã cụ thể hoá định hướng phát triển nghiệp vụ thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ như sau:
Hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán L/C nhập khẩu, từ đó nâng cao chất lượng và hạn chế tối đa rủi ro trong thanh toán nhằm duy trì và nâng cao uy tín của Ngân hàng đối với khách hàng và các ngân hàng đại lý.
Mở rộng đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ này làm cơ sở tăng nhanh doanh số thanh toán nhập khẩu qua Ngân hàng. Phấn đấu tăng giá trị và tỷ trọng phí thu từ hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu trong tổng phí dịch vụ ngân hàng.
Nghiên cứu ứng dụng các loại hình thư tín dụng khác nhau trong hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhiều đối tượng khách hàng.
Tiếp tục phát triển và mở rộng mạng lưới ngân hàng đại lý trên toàn thế giới để phục vụ có hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế.
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm mở rộng hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu tại Ngân hàng Indovina
Qua việc phân tích thực trạng, những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế tại Ngân hàng Indovina Hà Nội, trên cơ sở những định hướng phát triển của Ngân hàng, ta có thể đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ như sau:
3.2.1. Mở rộng mạng lưới kinh doanh
Mạng lưới kinh doanh là nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. Mạng lưới rộng khiến dân cư, các doanh nghiệp và các tổ chức dễ tiếp cận với dịch vụ Ngân hàng cung cấp; ngược lại, Ngân hàng cũng dễ nắm bắt nhu cầu khách hàng để chủ động trong việc cải tiến, hoàn thiện sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách hàng. Vì vậy, để có thể mở rộng hoạt động thanh toán Ngân hàng cần có biện pháp mở rộng mạng lưới hoạt động của mình.
Trước hết, Ngân hàng cần đầu tư phát triển mạng lưới ngân hàng truyền thống, cụ thể là các chi nhánh, các ngân hàng đại lý. Ngân hàng cần tổ chức nghiên cứu, điều tra về nhu cầu khách hàng, từ đó lựa chọn địa điểm và quy mô chi nhánh cho phù hợp. Ngân hàng có thể mở chi nhánh cấp 2 hoặc phòng giao dịch ở những nơi tập trung nhiều dân cư, doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Việc xác định quy mô chi nhánh hay phòng giao dịch phụ thuộc vào khả năng tài chính của Ngân hàng, đồng thời phải tương xứng với các ngân hàng khác cùng địa bàn. Đối với một ngân hàng, hình ảnh trụ sở, nơi làm việc có ý nghĩa lớn trong việc tạo dựng lòng tin đối với khách hàng; vì vậy, vấn đề này cần được chú trọng khi tiến hàng mở thêm chi nhánh.
Hệ thống ngân hàng đại lý cũng là một vấn đề cần quan tâm. Mặc dù hiện nay mạng lưới đại lý của IVB khá rộng, song cùng với sự phát triển không ngừng của hoạt động thương mại quốc tế, mạng lưới đại lý này cần tiếp tục mở rộng thêm nhiều ngân hàng tại nhiều quốc gia khác nhau.
Bên cạnh phát triển mạng lưới ngân hàng truyền thống, Ngân hàng Indovina không thể không phát triển mạng lưới ngân hàng hiện đại. Đó là các kênh phân phối dịch vụ ngân hàng dựa trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ thông tin. Mạng lưới hiện đại này có thể khắc phục được những nhược điểm của mạng lưới truyền thống, ví dụ như không bị hạn chế về không gian và thời gian, không đòi hỏi lực lượng nhân viên nghiệp vụ đông đảo, hoạt động linh hoạt, không thụ động Hệ thống mạng lưới hiện đại bao gồm: các chi nhánh tự động hoá hoàn toàn, chi nhánh ít nhân viên, e–banking, máy rút tiền tự động, telephone – banking, siêu thị tài chính, internet – banking, máy thanh toán tại điểm bán hàng Tuy nhiên, xây dựng mạng lưới hiện đại này khá tốn kém, do vậy Ngân hàng cần lựa chọn hình thức phù hợp để phát triển. Việc phát triển mạng lưới này liên quan chặt chẽ tới vấn đề hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
3.2.2. Hoàn thiện quy trình phát hành và thanh toán thư tín dụng
Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ là bước đi đầu tiên để nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán, từ đó là cơ sở cho việc mở rộng hoạt động này. Đối với một phương thức phức tạp và đòi hỏi độ chính xác cao như tín dụng chứng từ thì việc này lại càng quan trọng. Bởi chỉ cần có một sai sót nhỏ trên chứng từ cũng có thể dẫn tới rủi ro, tổn thất cho khách hàng và chính ngân hàng.
Trong điều kiện nước ta chưa có một văn bản thống nhất về quy trình thanh toán thư tín dụng thì mỗi ngân hàng cần nghiên cứu và đưa ra một quy trình chặt chẽ và khoa học áp dụng trong hệ thống ngân hàng mình. Tại IVB Hà Nội, mặc dù quá trình phát hành và thanh toán L/C được các thanh toán viên thực hiện khá chặt chẽ và chưa từng xảy ra sai sót nào, nhưng thực chất trong hệ thống IVB chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể nghiệp vụ này. Để đẩy mạnh hoạt động này đòi hỏi Ngân hàng phải chuẩn hoá quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ theo hướng:
Đơn giản hoá các thủ tục thanh toán một cách hợp lý, tạo thuận lợi cho khách hàng; đồng thời vẫn phải đảm bảo yêu cầu chính xác và an toàn cho khách hàng và Ngân hàng. Hoạt động giữa các phòng ban, đặc biệt là giữa phòng Thanh toán quốc tế với phòng Tín dụng và phòng Quĩ cần được phối hợp chặt chẽ hơn nữa, đẩy mạnh việc trao đổi thông tin giữa các phòng, giúp rút ngắn thời gian giao dịch, thanh toán thư tín dụng.
Phân chia rõ quyền lợi, trách nhiệm của mỗi cán bộ thanh toán nhằm nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm, đồng thời phát huy tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt, độc lập của từng cá nhân trong công việc.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chứng từ một cách nghiêm ngặt, đặc biệt đối với những L/C có giá trị lớn. Phải đảm bảo mỗi chứng từ được chuyển đi không mắc sai sót nào dù là nhỏ nhất, hạn chế hoàn toàn rủi ro trong thanh toán bởi mỗi sai lầm không chỉ gây thiệt hại lớn về mặt kinh tế mà còn làm giảm uy tín của Ngân hàng, tác động không tốt đến hiệu quả kinh doanh lâu dài trên tất cả các mặt hoạt động của Ngân hàng.
3.2.3. Đẩy mạnh và tăng cường hiệu quả hoạt động Marketing
Nền kinh tế càng phát triển, sự cạnh tranh càng gay gắt thì vai trò của marketing càng được khẳng định. Tác động của marketing thể hiện rõ ở các ngành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hữu hình, còn đối với các ngành cung ứng dịch vụ như ngân hàng, tài chính marketing tuy mới xâm nhập chưa lâu nhưng cũng đã chiếm được một vị trí quan trọng.
Tại IVB Hà Nội, hoạt động marketing chưa được quan tâm đúng mức là một trong những nguyên nhân hạn chế việc mở rộng, phát triển hoạt động của Ngân hàng, trong đó có hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu. Chất lượng thanh toán của IVB khá cao, tuy nhiên do công tác marketing chưa phát triển nên nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn chưa biết đến ngân hàng. Muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu nói riêng, trong thời gian tới, IVB rất cần chú trọng đến công tác này, xây dựng một chiến lược marketing bao gồm nhiều vấn đề:
- Tách bộ phận marketing ra khỏi bộ phận Tín dụng, có thể thành lập phòng Marketing riêng biệt với đội ngũ cán bộ có nhiệm vụ chuyên thiết kế và thực hiện chiến lược marketing cho toàn ngân hàng. Làm được điều này sẽ giúp Ngân hàng có thể thực hiện hoạt động marketing chuyên nghiệp và hiệu quả hơn, nhằm tạo dựng một hình ảnh tốt về Ngân hàng.
- Tăng cường triển khai chiến lược xúc tiến hỗn hợp dưới nhiều hình thức nhằm mở rộng tư duy, sự hiểu biết của khách hàng về sản phẩm dịch vụ và ngân hàng, thuyết phục họ sử dụng sản phẩm và duy trì mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng. Để đạt được hiệu quả cao, hoạt động này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục trong thời gian dài và phải có nguồn ngân sách riêng.
Hình thức xúc tiến hỗn hợp phổ biến nhất là quảng cáo thông qua các phương tiện như báo, tạp chí, panô, áp phích, Internet Ngân hàng cũng có thể làm những phóng sự trên truyền thanh, truyền hình để giới thiệu cụ thể, sinh động hơn về Ngân hàng. Tuy nhiên, chi phí cho các hình thức này thường khá cao, vì vậy, Ngân hàng cần lựa chọn thời điểm thích hợp để thu được hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cần đẩy mạnh khuyếch trương thông qua các giao dịch cá nhân, tức là những giao dịch trực tiếp giữa nhân viên ngân hàng và khách hàng qua gặp gỡ đối thoại, điện thoại Qua đó, Ngân hàng có thể thu được thông tin phản hồi từ phía khách hàng về chất lượng dịch vụ ngân hàng nhanh chóng, kịp thời, đồng thời tạo cơ hội để khách hàng nắm bắt, hiểu biết hơn về Ngân hàng – cơ sở của lòng tin. Hoạt động này đòi hỏi nhân viên giao dịch không chỉ có trình độ chuyên môn cao mà còn phải có kinh nghiệm và cách thức ứng xử linh hoạt, sáng tạo, biến hoạt động giao dịch trở thành một nghệ thuật.
Ngoài ra, Ngân hàng còn có thể khuyếch trương thanh thế của mình qua tuyên truyền xã hội hay các hoạt động tài trợ. Để xây dựng và nâng cao hình ảnh cho Ngân hàng, nên sử dụng phối hợp nhiều công cụ như tổ chức hội thảo theo chuyên đề, các bài diễn thuyết của lãnh đạo ngân hàng, tham gia các hoạt động từ thiện, viết bài đăng trên báo, tạp chí và các ấn phẩm khác Trong nhiều trường hợp, Ngân hàng cũng nên thực hiện các hoạt động tài trợ trên nhiều lĩnh vực mà xã hội quan tâm. Cụ thể như tài trợ về thể thao, nghệ thuật, bảo vệ môi trường Các hoạt động này thể hiện sự hiện diện của Ngân hàng trên thị trường ở mức độ cao, tạo nên hình ảnh một ngân hàng hoạt động có hiệu quả cao và có khả năng tiếp cận với nhiều đối tượng khách hàng mới. Tài trợ cho đào tạo cũng là lĩnh vực hấp dẫn các ngân hàng, tài trợ từ cấp tiểu học, trung học cho tới đại học thông qua cấp học bổng, tài trợ trang thiết bị dạy học Ngoài việc tăng uy tín, còn là cơ hội cho Ngân hàng lựa chọn các sinh viên ưu tú có thể tuyển vào làm việc sau khi ra trường.
- Xây dựng chính sách khách hàng dài hạn, linh hoạt và phù hợp cũng là một nội dung lớn trong chiến lược Marketing nhằm duy trì khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới đến với Ngân hàng. Chính sách này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt trên lĩnh vực ngân hàng như hiện nay. Ngân hàng cần chủ động tìm đến với khách hàng, giới thiệu những thế mạnh của mình, hướng dẫn khách hàng làm những thủ tục cần thiết khi sử dụng dịch vụ của Ngân hàng. Công tác tư vấn khách hàng phải được nhấn mạnh, nhất là trong hoạt động thanh toán quốc tế. Thực hiện phân loại khách hàng, chia khách hàng hiện tại và tiềm năng thành các nhóm khác nhau theo một số tiêu chí như: ngành nghề kinh doanh, quy mô hoạt động và đề ra các chính sách riêng đối với từng nhóm, trong đó tập trung vào chính sách giá cả. Đối với những khách hàng truyền thống và có khối lượng thanh toán lớn qua IVB, Ngân hàng cần điều chỉnh mức phí ưu đãi và có nhiều hình thức khuyến mãi khác. Ví dụ như thoả thuận giảm tỷ lệ ký quỹ, phí mở, sửa đổi, thanh toán L/C thấp hơn các khách hàng khác, tặng quà, tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn đáp ứng nhu cầu thanh toán nhằm củng cố mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên. Đối với khách hàng mới giao dịch lần đầu, Ngân hàng cần chú ý về thái độ phục vụ, chất lượng dịch vụ và có thể có ưu đãi để giữ khách. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên thường xuyên tổ chức những buổi tiếp xúc với khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng hàng năm, qua đó giải đáp những thắc mắc của khách hàng, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động ngoại thương và thanh toán quốc tế, tìm hiểu, nắm bắt được nhu cầu của khách hàng để có kế hoạch đáp ứng, phục vụ tốt hơn.
3.2.4. Đa dạng hoá các loại hình thư tín dụng
Có thể nói đa dạng hoá sản phẩm là xu thế phát triển tất yếu của các NHTM nói riêng và các doanh nghiệp nói chung. Đa dạng hoá có vai trò giúp ngân hàng phân tán rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng và góp phần tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Trong hoạt động thanh toán quốc tế, việc đa dạng hoá loại hình thư tín dụng cũng có ý nghĩa rất lớn, không chỉ đối với ngân hàng mà còn đối với khách hàng. Mỗi loại L/C khác nhau về quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan, do vậy, khách hàng có thể lựa chọn loại nào đảm bảo quyền lợi nhất cho mình và phù hợp nhất trong thương vụ mua bán đó.
Hiện nay, ở IVB Hà Nội mới chỉ sử dụng L/C không huỷ ngang, L/C không huỷ ngang có thể chuyển nhượng và L/C có xác nhận. Do vậy, việc đa dạng hoá các loại hình L/C là một giải pháp tốt nhằm mở rộng hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ. Muốn đưa vào sử dụng và từng bước mở rộng việc áp dụng các loại L/C trong thanh toán, Ngân hàng cần chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Trước hết, cần tiến hành nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu khách hàng để xác định loại L/C nào phù hợp với xu hướng phát triển hoạt động ngoại thương. Đó là cơ sở để Ngân hàng lên kế hoạch áp dụng vào thanh toán.
Đồng thời, Ngân hàng cần tổ chức bổ sung và nâng cao kiến thức cho cán bộ TTQT về các loại hình L/C, tổ chức các lớp tập huấn và mời các giáo viên, cán bộ có trình độ lý luận và kinh nghiệm về giảng dạy. Từ đó giúp thanh toán viên có đủ kiến thức tư vấn cho khách hàng, đi sâu vào kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, giải thích tính ưu việt của các loại hình L/C mới này.
Đối với những doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài về gia công sau đó xuất lại thành phẩm, thanh toán viên có thể tư vấn cho họ sử dụng L/C đối ứng. Theo L/C này, ngân hàng cam kết sẽ trả tiền cho người xuất khẩu nguyên vật liệu khi người đó mở một L/C khác đối ứng cam kết sẽ thanh toán cho người gia công giá trị thành phẩm đã sản xuất xong. Đây là loại L/C đảm bảo quyền lợi nhất cho doanh nghiệp gia công, tránh trường hợp sau khi gia công xong thì đối tác lại không đồng ý nhập lại những thành phẩm đó, gây tổn thất lớn cho doanh nghiệp, nhất là đối với những sản phẩm mang tính đặc thù.
Đối với những doanh nghiệp nhập khẩu giá trị lớn mà phía người bán yêu cầu phải đặt cọc tiền trước, thanh toán viên có thể hướng dẫn họ sử dụng L/C dự phòng. Theo đó, người nhập khẩu sẽ yêu cầu người xuất khẩu mở một L/C cam kết sẽ thanh toán lại tiền đặt cọc, tiền ứng trước, chi phí mở L/C nếu không hoàn thành nghĩa vụ giao hàng đúng hợp đồng.
Nói tóm lại, việc sử dụng đa dạng các loại hình L/C sẽ giúp Ngân hàng đáp ứng được một cách rộng rãi nhu cầu của khách hàng và do đó có cơ hội mở rộng hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu. Tuy nhiên, khi tiến hành việc mở rộng này, Ngân hàng cũng nên tính đến khả năng của mình và hạn chế sử dụng những loại L/C dễ gây bất lợi như L/C xác nhận.
3.2.5. Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh toán viên có trình độ chuyên môn cao và đạo đức nghề nghiệp
Con người luôn là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi lĩnh vực, nhất là trong các ngành dịch vụ như ngân hàng. ý thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua, Ngân hàng Indovina rất chú trọng đến vấn đề con người. Với lợi thế là một ngân hàng liên doanh, Indovina đã xây dựng được đội ngũ cán bộ nhân viên có phong cách làm việc công nghiệp, năng động, nhiệt tình, chiếm được cảm tình của khách đến giao dịch. Đối với các cán bộ nhân viên làm công tác thanh toán quốc tế, yêu cầu của giao dịch thương mại quốc tế đòi hỏi ở họ không chỉ giỏi về nghiệp vụ, thông thạo về ngoại ngữ, am hiểu về xuất nhập khẩu, về các thông lệ TTQT và luật pháp quốc tế mà còn phải có phẩm chất đạo đức, có tinh thần trách nhiệm và kinh nghiệm cao. Để đạt được điều này, IVB Hà Nội cùng toàn hệ thống IVB cần xây dựng cho mình một chiến lược đào tạo và phát triển con người có hiệu quả.
Trước hết, Ngân hàng cần xây dựng khối đoàn kết từ cán bộ lãnh đạo đến các nhân viên, từ Hội sở đến các chi nhánh nhằm tạo bầu không khí làm việc thoải mái tại Ngân hàng, phát huy tối đa năng lực của mỗi người. Mặt khác, điều đó tạo ra sự gần gũi giữa các cán bộ nhân viên, để các cán bộ nhân viên còn hạn chế về mặt này hay mặt khác có thể nhận được sự giúp đỡ, hỗ trợ từ đồng nghiệp và tự hoàn thiện mình. Tinh thần đoàn kết và bầu không khí thân thiện trong Ngân hàng sẽ tạo nên sức mạnh lớn, giúp Ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn.
Thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, nói chuyện chuyên đề, các lớp nghiệp vụ ngắn hạn và dài hạn cho các thanh toán viên, mời các chuyên gia về giảng dạy, đào tạo sâu hơn về chuyên môn thanh toán tín dụng chứng từ. Cử người tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên môn trong và ngoài nước để tiếp cận với những kiến thức mới, hiện đại, nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của phát triển kinh tế và hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu qua ngân hàng. Ngoài ra, nội dung đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cũng cần chú trọng rèn luyện ngoại ngữ, khả năng áp dụng công nghệ thông tin cho các thanh toán viên, bởi khi làm công việc thanh toán quốc tế, thanh toán viên phải thường xuyên tiếp xúc với người nước ngoài.
Bên cạnh đó, Ngân hàng cần có những biện pháp thiết thực để khuyến khích thanh toán viên tự nghiên cứu, học tập, nâng cao trình độ. Có thể tiến hành đánh giá xếp loại hàng tháng, hàng quý hiệu quả làm việc của các cán bộ, tiến hành khen thưởng, động viên đối với những cán bộ đạt thành tích tốt; đồng thời nhắc nhở kịp thời những cán bộ có sai sót trong xử lý nghiệp vụ. Quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ nhân viên để họ yên tâm công tác và ngày càng gắn bó với ngân hàng.
Lãnh đạo ngân hàng và cán bộ nhân sự cần thường xuyên theo dõi sát sao để nhận định, đánh giá được đặc điểm của từng thanh toán viên, bố trí vào những công việc phù hợp với khả năng của từng người nhằm phát huy hết thế mạnh của họ.
Ngoài ra, các thanh toán viên nói riêng và cán bộ ngân hàng nói chung cần thường xuyên chú ý đến thái độ làm việc, thái độ đối với khách hàng, coi đó là cơ sở để thiết lập một nền văn hoá kinh doanh riêng có của Ngân hàng. Phát triển nó thành một nét đặc trưng của Ngân hàng, tạo thành một công cụ thu hút khách hàng đến với Ngân hàng.
3.2.6. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng là vấn đề được IVB Hà Nội quan tâm phát triển ngay từ những ngày đầu thành lập. Và cho đến nay, công nghệ của Ngân hàng đã được đổi mới rất nhiều, đặc biệt là công nghệ thanh toán. Từ năm 1995, Indovina đã tham gia mạng SWIFT – mạng thanh toán quốc tế toàn cầu dựa trên những tiêu chuẩn chuyên môn kỹ thuật chung, xoá bỏ sự khác biệt ngôn ngữ, địa lý trong giao dịch quốc tế, tạo sự hiểu biết lẫn nhau giữa các thành viên – và là một trong số những ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam tham gia mạng thanh toán này. Kể từ đó, hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu nói riêng tại IVB Hà Nội đã có bước phát triển mới, quá trình thanh toán đơn giản, thuận tiện hơn, chất lượng thanh toán được nâng cao, thông tin được truyền nhanh (thời gian để truyền một lệnh trong phạm vi toàn thế giới trung bình là 20 giây), đảm bảo tính bí mật của các thông điệp, chi phí thấp hơn nhiều so với TELEX hay các hình thức khác Nhờ khai thác được những ưu điểm của mạng thanh toán này mà năng suất lao động trong thanh toán quốc tế của IVB được tăng lên đáng kể.
Không dừng lại ở đó, trong thời gian qua IVB Hà Nội liên tục có những cải tiến công nghệ nội bộ. Tất cả các hoạt động đều được vi tính hoá, mỗi thanh toán viên đều được trang bị một máy vi tính. Ngân hàng cũng thiết kế riêng phần mềm dùng nội bộ và có một bộ phận máy tính nằm trong phòng Kế toán. Bộ phận này có nhiệm vụ thực hiện việc quản lý hệ thống máy tính nội bộ của Ngân hàng, thiết kế các chương trình ứng dụng, bảo dưỡng, bảo trì, giúp cho hệ thống máy tính hoạt động liên tục, tránh xảy ra sai sót; thực hiện ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào hoạt động ngân hàng.
Tuy đã có nhiều tiến bộ trong việc hiện đại hoá công nghệ, nhưng nếu so với các ngân hàng nước ngoài và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam thì công nghệ của IVB cũng như một số ngân hàng Việt Nam khác mới chỉ ở mức ban đầu. Trong thời gian tới, IVB cần tiếp tục nâng cấp mạng thanh toán nội bộ, khai thác hiệu quả hơn những tiện ích của mạng SWIFT. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần đầu tư nâng cấp website hiện còn quá sơ sài, là cơ sở triển khai dự án Internet Banking cũng như Home Banking, Telephone Banking và E–banking. Những hình thức này đi vào hoạt động sẽ trở thành những kênh phân phối hiện đại, rất thuận tiện cho quá trình giao dịch giữa khách hàng và ngân hàng, rút ngắn thời gian giao dịch và tiết kiệm chi phí đi lại cho khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế qua IVB.
Mặc dù việc đầu tư vào hiện đại hoá công nghệ ngân hàng có chi phí ban đầu khá lớn, tuy nhiên đây là cách đầu tư mang lại hiệu quả cao về lâu dài. Nó giúp ngân hàng đẩy nhanh tốc độ giao dịch, tránh lãng phí thời gian, dễ dàng tiếp cận khách hàng ở mọi nơi và do đó nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế.
Tóm lại, muốn mở rộng và phát triển hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán L/C nhập khẩu nói riêng, IVB cần tiến hành nhiều hơn nữa những cải tiến về mặt công nghệ, từ đó đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng, nâng cao uy tín của Ngân hàng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động trong đó có thanh toán L/C nhập khẩu.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Đối với Nhà nước
Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa và xây dựng một nền kinh tế mở, Nhà nước ta đã tạo ra môi trường thuận lợi cho việc phát triển các hoạt động kinh tế trong nước. Các chính sách kinh tế của Nhà nước có tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức và cá nhân trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, qua đó tác động đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, để cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu nói chung và hoạt động thanh toán nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng được mở rộng và phát triển, và cũng để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động này, rất cần có một hành lang pháp lý thuận lợi, phù hợp với tình hình xuất nhập khẩu từng thời kỳ từ phía Nhà nước.
- ổn định môi trường kinh tế vĩ mô
Chúng ta vẫn biết bất cứ một hoạt động thương mại nào cũng chỉ có thể diễn ra một cách an toàn, hiệu quả trong một môi trường kinh tế ổn định và tăng trưởng, nhất là đối với hoạt động thương mại quốc tế - hoạt động trao đổi hàng hoá, dịch vụ có liên quan đến nhiều nước khác nhau. Và thương mại quốc tế có phát triển thì TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng mới phát triển theo. Rõ ràng môi trường kinh tế vĩ mô có ổn định thể hiện ở một số chỉ tiêu như lạm phát được kiềm chế, giảm phát được khắc phục, giá trị đồng nội tệ và mức lãi suất ổn định thì mới thu hút được nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và khuyến khích các DN trong nước tham gia đầu tư vào lĩnh vực XNK.
Nước ta đang trên đà phát triển, những năm gần đây nền kinh tế luôn đạt được tốc độ tăng trưởng bình quân khá, nhất là Việt Nam lại nằm trong khu vực được đánh giá là có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới, đang được rất nhiều quốc gia quan tâm đầu tư , đó vừa là thuận lợi lại vừa là thách thức đối với Việt Nam. Để có thể đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế điều đầu tiên chính là Việt Nam phải tạo lập được một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, trên cơ sở đó hoạt động TTQT nói chung và thanh toán TDCT nói riêng mới có điều kiện được mở rộng và nâng cao chất lượng.
- Cần ban hành và hoàn thiện những văn bản pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ.
Như ta đã biết, ở Việt Nam hiện nay chưa có văn bản luật hay dưới luật thống nhất nào quy định về quy trình thanh toán tín dụng chứng từ, UCP 500 chỉ được xem là một văn bản nằm trong hệ thống thông lệ và tập quán quốc tế, chỉ có quy định riêng của các ngân hàng thương mại vận dụng UCP 500 áp dụng cho hệ thống ngân hàng mình. Do vậy có thể có nhiều sai lệch trong quy định giữa các ngân hàng, khi tranh chấp xảy ra thì rất khó trong việc xử lý và trên thực tế đã có rất nhiều ngân hàng và doanh nghiệp Việt Nam bị tổn thất trong hoạt động thanh toán này. Để hạn chế tối đa những rủi ro đó, Chính phủ cần sớm ban hành những văn bản pháp lý điều chỉnh mối quan hệ giữa hợp đồng ngoại thương và hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, nêu rõ quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia vào quan hệ thanh toán: nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu và các ngân hàng. Đây sẽ là cơ sở cho hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ của các ngân hàng và là cơ sở giải quyết tranh chấp phát sinh của Trọng tài kinh tế và các cơ quan tư pháp.
Mặt khác, hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ không chỉ là nghiệp vụ của NHTM mà còn liên quan đến nhiều ngành như hải quan, bảo hiểm Chính vì vậy, cần có những văn bản phối hợp hoạt động giữa các ngành này, đặc biệt về vấn đề giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu thông qua hải quan.
- Cần có chính sách khuyến khích và kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu
Sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu là tiền đề, là cơ sở cho hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Để thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước cần có một số biện pháp khuyến khích như: giảm thuế xuất nhập khẩu, điều chỉnh danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu, đơn giản hoá các thủ tục hành chính Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tăng cường kiểm soát hoạt động này, thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ khâu cấp giấy phép, đảm bảo các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có đủ điều kiện về tài chính, trình độ quản lý, phương hướng phát triển kinh doanh, rút giấy phép của những doanh nghiệp không đủ điều kiện, tránh gặp phải những rủi ro do sự yếu kém của doanh nghiệp. Hạn chế tình trạng nhập khẩu tràn lan, gây ảnh hưởng đến nền sản xuất trong nước, làm đình trệ việc tiêu thụ hàng hoá. Nhà nước cũng cần chú ý tạo sự cân bằng giữa khuyến khích và kiểm soát, đảm bảo môi trường công bằng cho tất cả các doanh nghiệp.
3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước
Là định chế quản lý toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của các NHTM. Trong hoạt động thanh toán quốc tế, Ngân hàng Nhà nước cũng cần làm tốt vai trò đó bằng các việc làm cụ thể sau:
- Tham mưu cho Chính phủ và Nhà nước trong việc nghiên cứu và ban hành các văn bản pháp lý về lĩnh vực ngân hàng, trong đó có thanh toán quốc tế.
- Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo với sự tham gia của nhiều NHTM nhằm giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, đồng thời kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động thanh toán quốc tế, từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời.
- Tăng cường chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC). Trung tâm này có nhiệm vụ thu thập, phân tích, xử lý kịp thời và chính xác các thông tin về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng, khả năng thanh toán, tư cách pháp nhân của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Thông qua đó, các NHTM có thể có được những đánh giá đúng đắn về khách hàng, là cơ sở cho việc ra quyết định cho vay hay tài trợ xuất nhập khẩu Để trung tâm này hoạt động có hiệu quả, cần có sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước để tăng cường trang thiết bị thông tin hiện đại, có điều kiện thu thập thông tin đầy đủ, kịp thời và chính xác.
- ổn định tỷ giá hối đoái: tỷ giá hối đoái luôn luôn là nhân tố ảnh hưởng mạnh đến hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. Tỷ giá tăng khiến hàng Việt Nam trở nên rẻ tương đối so với hàng nước ngoài, vì vậy khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, doanh nghiệp nhập khẩu sẽ có lợi hơn nhưng xuất khẩu lại bị thiệt hại. Sự biến động mạnh về tỷ giá có thể gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động ngoại thương và gián tiếp ảnh hưởng tới hoạt động thanh toán quốc tế. Do vậy, trong chính sách điều hành tỷ giá hối đoái, Ngân hàng Nhà nước nên tiến hành điều chỉnh một cách linh hoạt, bám sát cung cầu thị trường nhưng vẫn đảm bảo bình ổn tỷ giá ở mức thích hợp nhất, thuận lợi cho cả xuất khẩu và nhập khẩu.
- Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Đây là điều kiện quan trọng để các ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ, vừa tạo nguồn thu nhập cho ngân hàng, vừa đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán quốc tế, đặc biệt là thanh toán L/C. Mặt khác, thị trường này cũng là công cụ điều tiết tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước. Để hoàn thiện và phát triển thị trường này, Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp như: đa dạng hoá hàng hoá trên thị trường bao gồm các loại ngoại tệ, các phương tiện thanh toán quốc tế; đa dạng hóa các hình thức giao dịch, mua bán ngoại tệ, có thể là giao dịch trao ngay (spot), giao dịch kỳ hạn (forward), giao dịch tương lai (future) hay giao dịch quyền chọn (option); mở rộng các đối tượng tham gia vào thị trường..
3.3.3. Đối với khách hàng
Trong thời gian qua, hạn chế về trình độ ngoại thương đã dẫn đến những sai lầm không đáng có, gây tổn thất không nhỏ cho một số doanh nghiệp và ngân hàng thương mại Việt Nam. Vì vậy, vấn đề bức thiết đặt ra đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nước ta hiện nay là phải nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và trình độ thanh toán quốc tế. Đặc biệt khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã có hiệu lực và chuẩn bị gia nhập AFTA thì yêu cầu này ngày càng cao. Các doanh nghiệp phải chú ý ngay từ khi soạn thảo hợp đồng, cân nhắc kỹ các điều khoản trước khi đưa vào hợp đồng, ngôn ngữ rõ ràng, chính xác, tránh những điểm bất lợi mà người bán có thể đưa vào hợp đồng. Đồng thời, doanh nghiệp phải nắm vững nội dung của UCP 500 và nghiệp vụ thanh toán quốc tế để có thể kết hợp chặt chẽ với ngân hàng trong việc giải quyết các khó khăn có thể xảy ra. Hơn nữa, những kiến thức về thanh toán quốc tế sẽ giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn trong thanh toán.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu thật kỹ đối tác nước ngoài, nhất là các đối tác mới giao dịch lần đầu. Bởi dù tiến hành thanh toán theo phương thức nào nhưng nếu đối tác cố tình lừa đảo thì quyền lợi của doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể bị ảnh hưởng. Do vậy, doanh nghiệp nên lựa chọn đối tác có uy tín trên thị trường, buôn bán đứng đắn, sòng phẳng và hạn chế giao dịch qua trung gian. Thông tin về đối tác cần phải được thu thập đầy đủ, có thể từ nhiều nguồn khác nhau như qua cơ quan đại diện tại nước ngoài, qua hệ thống ngân hàng đại lý của ngân hàng phục vụ mình, hoặc qua Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước từ đó tập hợp lại để có được thông tin chính xác nhất. Đây là điều kiện căn bản để hạn chế những rủi ro có thể xảy đến đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam.
Các doanh nghiệp, trong quan hệ mua bán với nước ngoài, cần tuân thủ theo pháp luật Việt Nam và nước sở tại, và các thông lệ quốc tế. Không nên chạy theo lợi nhuận mà làm ăn thiếu trung thực, đánh mất uy tín của doanh nghiệp và uy tín của cả nền kinh tế đất nước, gây thiệt hại lâu dài cho doanh nghiệp và cả quốc gia.
Kết luận
Việt Nam đang hoà mình vào xu thế hội nhập chung của toàn thế giới và điều thể hiện rõ rệt nhất chính là sự giao lưu kinh tế giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Một trong những nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự giao lưu kinh tế này chính là hoạt động TTQT trong đó chủ yếu là thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ. Có thể nói phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã và đang là một công cụ hữu hiệu cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam tham gia vào thương mại quốc tế.
Các ngân hàng Việt Nam là những chủ thể tham gia trực tiếp vào phương thức thanh toán ấy. Năng lực của ngân hàng đóng vai trò quyết định đến hiệu quả của phương thức thanh toán và đến lượt nó chất lượng của phương thức thanh toán lại có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng thương mại quốc tế của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Nhận thức được điều này cùng với xuất phát từ thực tiễn thực tập, em đã cố gắng tổng kết thực trạng thanh toán hàng nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng liên doanh Indovina trong những năm gần đây, từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thanh toán tín dụng chứng từ tại IVB nói riêng, góp phần cùng hệ thống các ngân hàng nói chung đưa nền kinh tế nước nhà phát triển ngày càng nhanh chóng và vững chắc.
Do hạn chế về trình độ cũng như thời gian nghiên cứu, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2004
Sinh viên
Nguyễn Hồng Vân
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NH389.doc