LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
TÍN DỤNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ 3
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ 3
1. Quan niệm về làng nghề 3
2. Tiêu chuẩn làng nghề 4
3. Phân loại làng nghề 5
4. Sự cần thiết của việc phát triển các làng nghề 6
II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LÀNG NGHỀ 8
1. Khái niệm tín dụng ngân hàng 8
2. Quy trình tín dụng của ngân hàng 9
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển làng nghề 10
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với làng nghề 12
5. Kinh nghiệm mở rộng tín dụng ngân hàng đối với các ngành nghề nhỏ của một số nước 18
CHƯƠNG II 22
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY 22
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY 22
1. Quá trình xây dựng và trưởng thành 22
2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng công thương Hà Tây 23
3. Những đặc điểm kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của NHCT Hà Tây 24
4. Các kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHCT Hà Tây 29
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY 32
1. Đặc điểm của các làng nghề ở Hà Tây 32
2. Thực trạng tín dụng đối với làng nghề tại NHCT Hà Tây 36
3. Nợ quá hạn 44
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY 45
1. Thành tựu và nguyên nhân 45
2. Những hạn chế và nguyên nhân 48
CHƯƠNG III 55
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ 55
TẠI NHCT HÀ TÂY 55
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ CỦA TỈNH 55
II. CÁC GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY 56
1. Các giải pháp trực tiếp 56
2. Các giải pháp gián tiếp 65
III. KIẾN NGHỊ 68
1. Kiến nghị với Nhà nước 68
2. Kiến nghị với UBND tỉnh 71
3. Kiến nghị với NHCT Hà Tây 72
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
76 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với làng nghề tại Ngân hàng Công thương Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín dụng có vai trò rất quan trọng đối với quan hệ tín dụng của làng nghề vì tổ chức này sẽ đứng ra bảo lãnh cho các hộ và cơ sở vay vốn ngân hàng mà không cần đảm bảo hoặc bảo lãnh một phần giá trị tài sản đảm bảo để các đơn vị sản xuất kinh doanh ở làng nghề có đủ điều kiện vay vốn.
- Nhà nước chưa có các chính sách, chương trình và biện pháp cụ thể để hỗ trợ các làng nghề từng vùng phát triển.
Các chương trình cụ thể nhằm giải quyết vấn đề nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ, công nghệ, mẫu mã, cơ sở hạ tầng... đối với làng nghề ở các tỉnh còn rất hạn chế.
Các nguồn vốn ODA, các nguồn tài trợ của các Chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ... cho làng nghề còn rất hạn hẹp. Nhà nước chưa có chính sách khuyến khích đầu tư từ nước ngoài và từ khu vực thành thị vào các làng nghề trọng điểm ở nông thôn.
Nhà và ruộng đất trong các làng nghề chưa được quy hoạch. Hiện nay, đánh giá của UBND tỉnh về giá trị nhà cửa đất đai ở làng nghề thấp hơn so với giá thị trường rất nhiều lần. Có những khu đất ở trung tâm các làng nghề như Vạn Phúc, La Phù... theo giá của tỉnh thì chỉ là 400.000 đồng/m2 nhưng trên thực tế giá mua bán trên thị trường lên tới 8.000.000 đồng/m2 . Theo quy định, khách hàng chỉ được vay vốn không vượt quá 80% giá trị tài sản thế chấp theo mức giá quy định của tỉnh nên số tiền được vay ít hơn nhiều so với khả năng vay căn cứ vào giá trị tài sản thế chấp tính theo giá thị trường của họ. Đây cũng là một trong những lý do làm cho các hộ và cơ sở ở làng nghề chưa hài lòng về việc vay vốn ngân hàng.
* Nguyên nhân từ phía làng nghề
- Nhà xưởng, đất đai, nhà ở chưa đủ điều kiện để dùng làm tài sản thế chấp: đa số các hộ, cơ sở khi vay vốn đều dùng nhà ở, đất đai để làm tài sản đảm bảo. Để được vay vốn, các hộ và cơ sở phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất do UBND tỉnh cấp. Tuy nhiên nhiều hộ, cơ sở lại không có giấy tờ này do đất đai đang sử dụng được mua bán trao tay, do đó không đủ điều kiện dùng làm tài sản thế chấp.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ, cơ sở thiếu tính pháp lý: Các hộ phải có giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận chất lượng sản phẩm ( nhất là đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh bánh kẹo, chế biến lương thực, thực phẩm...), các cơ sở còn phải có thêm giấy phép thành lập doanh nghiệp trong bộ hồ sơ vay vốn. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều hộ và cơ sở hoạt động thiếu tính pháp lý, không đăng ký kinh doanh nên cán bộ tín dụng không có đủ căn cứ để cho vay.
Ngoài ra nguyên liệu của các làng nghề chủ yếu mua từ các nguồn trôi nổi trên thị trường, sản phẩm phần lớn bán ra cho tư thương hoặc người tiêu dùng nên không có hoá đơn, chứng từ cần thiết. Vì thế các làng nghề không có căn cứ để được giảm thuế, cũng không có căn cứ để đăng ký chất lượng sản phẩm, do đó hạn chế khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh và lợi nhuận thu được. Các ngân hàng lại luôn hạn chế cho vay với các đối tượng mà nguồn gốc không rõ ràng. Mặt khác, một số làng còn sử dụng các nguyên liệu trong danh mục cấm khai thác, mua bán của Nhà nước ( gỗ hoàng đàn, pơ mu... ) nên Ngân hàng không thể cho vay đối với các hộ và cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu này.
Việc mua bán trao tay không có hoá đơn, chứng từ cũng gây khó khăn cho các cán bộ tín dụng trong khâu kiểm tra việc sử dụng tiền vay vì không có đủ cơ sở pháp lý để biết các hộ và cơ sở có sử dụng tiền vay đúng mục đích hay không, số tiền mà người mua, người bán ghi trên giấy biên nhận có phù hợp với thực tế hay không.
- Trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh của các chủ hộ, cơ sở còn kém: Hầu hết các chủ hộ và cơ sở chưa qua đào tạo về quản lý kinh doanh, trình độ văn hoá ở mức trung bình, kiến thức về ngành nghề và kinh doanh chủ yếu là do kinh nghiệm và học hỏi lẫn nhau. Đa số các chủ hộ, cơ sở đều có nguồn gốc từ thợ thủ công làm ăn giỏi. Vì vậy họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tổ chức sản xuất kinh doanh. Khi có những biến động về nguyên liệu, giá tiêu thụ, về thị hiếu của khách hàng... các chủ hộ thường lúng túng, chịu thua thiệt mà không tìm ra lối thoát. Tình trạng này cũng là nguyên nhân dẫn đến một số cơ sở sản xuất đầu tư tràn lan, không có trọng điểm, không gắn với nhu cầu của thị trường nên kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ Ngân hàng mà điển hình là các cơ sở sản xuất hoạt động trong các làng dệt may.
Sự hạn chế về trình độ khoa học, kỹ thuật và quản lý, thiếu hiểu biết về thị trường cũng khiến các chủ hộ, cơ sở sản xuất gặp nhiều khó khăn để xây dựng được một phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Nhiều chủ hộ và cơ sở sản xuất không biết tính nhu cầu vay vốn, không biết lập báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Vì thế khi xin vay vốn không có đủ giấy tờ và thông tin cần thiết để trình Ngân hàng.
- Hoạt động phân tán, mang tính tự phát và thất thường: Đặc điểm chung của các làng nghề ở Hà Tây là hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính tự phát, lẻ tẻ và thất thường, phụ thuộc vào nguồn cung cấp nguyên liệu và đơn đặt hàng. Đặc biệt là những mặt hàng như mây tre đan (Phú Vinh, Trường Yên...) nguồn nguyên liệu không ổn định nên có những thời gian sản xuất bị ngưng trệ; hàng dệt kim ở La Phù lại thường khó tiêu thụ khi mùa đông ngắn và ít rét. Đặc điểm này hạn chế khả năng vay vốn trung hạn của các hộ sản xuất vì trong thời gian dài rất khó có thể lường trước những tác động của thị trường, nguồn nguyên liệu... lên luồng tiền dự tính.
- Đặc điểm nổi bật của sản phẩm làng nghề là tính hàng hoá yếu, sản phẩm làm ra không thống nhất về mẫu mã, chủng loại, chất lượng. Nguyên nhân của tình trạng này là do các làng nghề phát triển tự phát, các hộ, cơ sở sản xuất độc lập với nhau nên không chuẩn hoá được sản phẩm, cản trở khâu tiêu thụ. Để khắc phục được tình trạng này, các hiệp hội làng nghề cần phải phát huy vai trò của mình bằng cách thống nhất quá trình sản xuất, phân chia quá trình sản xuất thành các công đoạn và giao cho mỗi nhóm hộ, cơ sở làm các công đoạn khác nhau, đưa sản xuất vào chuyên môn hoá. Từ đó, chuẩn hoá sản phẩm làng nghề để đẩy mạnh khâu tiêu thụ.
- Một trong những nguyên tắc của các làng nghề là tính chất giữ bí mật về công nghệ truyền thống, đây cũng là nguyên nhân làm cho cán bộ tín dụng gặp khó khăn khi xác định nội dung kinh tế của phương án vay, dẫn đến việc cản trở mở rộng cho vay đối với làng nghề. Mặt khác, việc chấp hành pháp lệnh kế toán, thống kê trong các đơn vị kinh tế làng nghề còn buông lỏng, tình trạng chấp hành không đúng chế độ kế toán xảy ra khá phổ biến. Đối với các cơ sở sản xuất: sổ sách chứng từ sơ sài, ghi chép không đầy đủ, không kịp thời và không có hệ thống; các hộ sản xuất thì ghi chép thiếu. Hiện nay lại chưa thực hiện chế độ kiểm toán đối với các cơ sở nên số liệu phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng thiếu chính xác, làm sai lệch khả năng đầu tư vốn của Ngân hàng.
- Trong các làng nghề có hiện tượng cạnh tranh không bình đẳng: hàng nhập lậu, trốn thuế, hàng giả khá phổ biến gây cạnh tranh không bình đẳng trong các làng nghề. Trong hệ thống làng nghề còn có phương thức cạnh tranh số đông dùng bạo lực để áp đặt phương thức bán, giá cả, nguồn nguyên liệu cho một số cơ sở hoạt động tốt trong làng nghề, cá biệt có trường hợp dùng số đông đốt máy, tài sản của một số chủ thể kinh doanh tốt. Những hiện tượng này làm cho Ngân hàng phải e ngại trong quan hệ tín dụng đối với làng nghề vì rủi ro quá cao.
* Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
- Hình thức tín dụng đối với làng nghề chưa phong phú, đa dạng: Ngân hàng mới chỉ có hình thức cho vay ngắn hạn, cho vay trung hạn còn ít và chưa cho vay dài hạn; chưa áp dụng hình thức tín dụng thuê mua, tín dụng uỷ thác, chưa tiếp cận được với các chương trình tín dụng chỉ định của Chính phủ. Vì vậy Ngân hàng chưa có các nguồn vốn bổ sung để cho vay với lãi suất thấp, chưa tăng được dư nợ trên nhiều địa bàn. Vốn cho vay làng nghề vẫn là nguồn vốn huy động từ công chúng với mức lãi suất khá cao nên cản trở việc áp dụng một mức lãi suất ưu đãi cho các làng nghề.
- Lãi suất cho vay thiếu linh hoạt: Ngân hàng áp dụng một mức lãi suất cho vay chung với mọi đối tượng. Đối với các khách hàng có quan hệ tín dụng lâu năm, các khách hàng làm ăn có hiệu quả hoặc có mức tiền vay cao... thì Ngân hàng nên có mức lãi suất ưu đãi cho họ.
- Quy trình, thủ tục tín dụng còn rườm rà: Một số khâu trong quy trình không cần thiết, một số thủ tục còn mang nặng tính hình thức. Nhiều bộ hồ sơ vay cần quá nhiều loại giấy tờ, chữ ký, cần có quá nhiều cơ quan xác nhận vào đó làm người vay phải đi lại quá nhiều lần mới vay được tiền, vừa tốn chi phí giao dịch lại vừa làm nản lòng khách hàng. Nhiều khách hàng không biết trong hồ sơ cần phải có những giấy tờ gì nên phải mất rất nhiều thời gian mới hoàn thành bộ hồ sơ.
Nhiều khâu cán bộ tín dụng giải quyết không nhanh gọn, kém linh hoạt, gây phiền hà cho khách hàng, ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. Việc tiến hành các thủ tục công chứng về biên bản định giá tài sản đôi khi kéo dài rất lâu, lên tới 10 ngày gây chậm trễ trong việc thông báo kết quả đúng hẹn cho người vay.
- Hoạt động tín dụng của Ngân hàng chưa đi sâu, đi sát tới nhiều làng nghề: Ngân hàng chưa chủ động tiếp cận và tìm kiếm khách hàng, công tác marketing chưa được chú trọng, dịch vụ tư vấn chưa phát triển. Do đó, NHCT Hà Tây chưa thực sự trở thành nguồn cung cấp vốn chủ yếu và mạnh mẽ và rộng khắp cho các làng nghề.
Ngân hàng chỉ có 1 chi nhánh và 4 phòng giao dịch tập trung tại thị xã Hà Đông và một phòng giao dịch ở thị trấn Xuân Mai. Trong đó, phòng giao dịch Xuân Mai hầu như không cho vay làng nghề vì trên địa bàn không có các làng nghề hoạt động. Cho vay làng nghề chủ yếu tập trung ở các phòng giao dịch 1, 2, 3 và chi nhánh Sông Nhuệ, phòng kinh doanh ở hội sở chính rất ít các khoản cho vay làng nghề. Các làng nghề ở Hà Tây lại phân tán ở nhiều nơi trên địa bàn tỉnh nên với mạng lưới hoạt động như vậy, Ngân hàng rất khó có thể mở rộng tín dụng đối với làng nghề trên diện rộng.
- Thời hạn cho vay nhiều khi chưa hợp lý, nhiều làng nghề thường phải mua nguyên vật liệu tập trung vào những thời điểm nhất định trong năm để sản xuất, có những làng thì sản phẩm lại chỉ tiêu thụ được trong những thời gian nhất định, do đó Ngân hàng cần phải xét đến yếu tố mùa vụ khi cho vay đối với các làng nghề để có thời hạn cho vay hợp lý, tránh trường hợp phải gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn nợ.
- Cán bộ tín dụng nhiều khi áp dụng các nguyên tắc cho vay còn quá cứng nhắc, đặc biệt là trong việc đánh giá tầm quan trọng của tài sản đảm bảo. Nhiều dự án, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao, có thể dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp nhưng cán bộ tín dụng vẫn yêu cầu phải có tài sản thế chấp và chỉ cho vay trong phạm vi 80% giá trị tài sản thế chấp; trong khi đó có những dự án mà trên thực tế khả năng trả nợ không cao do nguồn nguyên liệu, thị trường tiêu thụ... không đảm bảo nhưng do có tài sản thế chấp lớn nên vẫn được chấp nhận.
Như vậy, hoạt động tín dụng đối với làng nghề của NHCT Hà Tây trong thời gian qua đã được mở rộng cả về quy mô và chất lượng. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn có những hạn chế mà nguyên nhân bắt nguồn từ chính Ngân hàng. Sau đây, em xin mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại và điều kiện để thực hiện những giải pháp này.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ
TẠI NHCT HÀ TÂY
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC LÀNG NGHỀ CỦA TỈNH
Trong những năm qua, sản xuất ngành nghề tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây đã được khôi phục và phát triển, nhất là ở các làng nghề. Giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp chiếm gần 60% trong tổng giá trị công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp của tỉnh, nhiều sản phẩm truyền thống và một số sản phẩm mới sản xuất tăng, góp phần phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Làng nghề và nhân cấy nghề phát triển đã thu hút nhiều lao động ở nông thôn, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, làm cho bộ mặt nông thôn có nhiếu đổi mới, đưa cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Tuy nhiên việc khôi phục các làng nghề truyền thống, phát triển làng nghề mới chưa mạnh, chưa đồng đều, sản xuất ngành nghề ở một số địa phương còn mang tính tự phát. Hầu hết các làng nghề chưa được quy hoạch, nguồn nguyên liệu còn khó khăn, mẫu mã sản phẩm chưa được cải tiến, chưa có sản phẩm mũi nhọn, nhất là hàng xuất khẩu. Thiết bị, công nghệ sản xuất còn lạc hậu nên năng suất, chất lượng sản phẩm khả năng cạnh tranh thấp, tính chuyên môn hoá, hợp tác hoá chưa cao. Mặt bằng sản xuất còn chật hẹp, an toàn lao động chưa được bảo đảm, tình trạng ô nhiễm môi trường chưa được khắc phục. Cơ sở hạ tầng còn thấp kém, nhất là điện, đường giao thông. Vốn đầu tư còn hạn chế. Công tác lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và quản lý Nhà nước đối với ngành nghề chưa được coi trọng đúng mức, sự quản lý của các cấp, các ngành còn nhiều mặt yếu.
Để sớm khắc phục những tồn tại trên và phát huy hơn nữa thế mạnh của các làng nghề, ban thường vụ tỉnh uỷ đã ra chỉ thị số 04 - CT/TU về phát triển ngành nghề trên địa bàn tỉnh, trong đó yêu cầu các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể cần nâng cao nhận thức hơn nữa về ý nghĩa, vai trò, tầm quan trọng của công tác phát triển ngành nghề, nhất là các ngành nghề ở nông thôn và nhấn mạnh: “ Tiếp tục triển khai quy hoạch phát triển ngành nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở các cụm, điểm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tập trung và các làng nghề phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2000 - 2005 của tỉnh, nhằm động viên mọi nguồn nhân lực của Nhà nước, nhân dân, các thành phần kinh tế để từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng: giao thông, bến bãi, thông tin liên lạc...”. Ban thường vụ còn yêu cầu uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho các cấp, các ngành có liên quan hướng dẫn cụ thể để thực hiện các chính sách về đất đai, nguyên liệu, đầu tư tín dụng, thuế và lệ phí, thông tin thị trường... Đồng thời tăng cường công tác quy hoạch, kế hoạch các dự án phát triển sản xuất, chấn chỉnh bộ máy quản lý, củng cố xây dựng trung tâm dạy nghề ở các huyện, thị xã, thành lập các hội nghề nghiệp ở các làng nghề, có chính sách khuyến khích, động viên các nghệ nhân, các hộ, cá nhân sản xuất giỏi. Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý của các ngành và cơ sở sản xuất nhằm nâng cao trình độ, cải tiến mẫu mã, đa dạng các chủng loại sản phẩm cũng được quan tâm. Bên cạnh đó, chỉ thị cũng nhấn mạnh việc tập trung vào công tác đào tạo nghề, nhân cấy nghề, nâng cao tay nghề và khuyến khích sản phẩm mới. Và điều quan trọng là phải gắn việc phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp với việc xây dựng nông thôn mới: xây dựng làng văn hoá, khu phố văn minh; thực hiện tốt các chính sách xã hội; phát triển giáo dục, y tế; bảo đảm vệ sinh môi trường và xã hội hoá việc bảo vệ môi trường.
II. CÁC GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HÀ TÂY
1. Các giải pháp trực tiếp
1.1. Mở rộng về quy mô tín dụng
Mức tiền vay của các hộ ở làng nghề từ trước đến nay có quy mô nhỏ, thường chỉ dưới 100 triệu đồng, từ 100 triệu đến 300 triệu không nhiều, số hộ vay từ 700, 800 triệu đồng trở lên rất ít. Do đó Ngân hàng nên mở rộng quy mô tín dụng bằng cách tăng mức cho vay đối với các hộ. Để làm được điều này, Ngân hàng phải thay đổi quan điểm về tài sản đảm bảo, không nên quá coi trọng vai trò của tài sản đảm bảo mà phải lấy tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh làm tiêu chí để quyết định cho vay.
Đối với các cơ sở sản xuất các mặt hàng tiểu thủ công xuất khẩu, Ngân hàng nên mạnh dạn nâng mức cho vay không có tài sản đảm bảo để hỗ trợ, khuyến khích họ mở rộng sản xuất. Bên cạnh đó, Ngân hàng nên định giá tài sản đảm bảo của các hộ, cơ sở ở làng nghề theo giá thực tế của thị trường để nâng mức cho vay có thế chấp tương ứng giá trị tài sản đảm bảo theo khung giá hợp lý hơn nhằm tăng quy mô vốn vay tham gia vào sản xuất.
1.2. Mở rộng về đối tượng
Đối tượng khách hàng của Ngân hàng từ trước đến nay chỉ tập trung ở một số làng nghề nhất định, còn rất nhiều địa bàn có tiềm năng mà Ngân hàng chưa tiếp cận được. Cho đến nay, hoạt động tín dụng đối với làng nghề của Ngân hàng hoàn toàn mang tính thụ động, tức là chỉ có khách hàng có nhu cầu vay vốn tìm đến Ngân hàng chứ Ngân hàng chưa chủ động đi sâu tìm hiểu để tìm kiếm khách hàng. Do đó giữa Ngân hàng và các làng nghề còn có một khoảng cách, các hộ và cơ sở ở làng nghề thiếu hiểu biết thông tin về Ngân hàng, điều này làm cản trở việc mở rộng tín dụng đối với làng nghề. Do đó, Ngân hàng cần phải mở rộng địa bàn hoạt động, tăng số hộ và cơ sở được vay vốn, có thể áp dụng các biện pháp sau:
* Áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt
Thực tế đã chỉ ra rằng lãi suất là nhân tố rất quan trọng để thu hút khách hàng ở làng nghề. Trên địa bàn tỉnh hiện nay không chỉ có NHCT Hà Tây cho vay làng nghề mà còn có cả Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng đầu tư, các quỹ tín dụng nhân dân... cũng cho vay làng nghề. Do đó, Ngân hàng chắc chắn phải đối mặt với cạnh tranh về lãi suất. Trên thực tế, mỗi món vay hàm chứa một mức độ rủi ro khác nhau, Ngân hàng không nên áp dụng một mức lãi suất cứng nhắc cho tất cả các đối tượng mà phải áp dụng nhiều mức lãi suất khác nhau dựa trên đánh giá về mức độ rủi ro này. Hiện nay, Ngân hàng đang áp dụng mức lãi suất chung, không phân biệt đối tượng và thời hạn vay nhằm tạo điều kiện cho các cán bộ tín dụng có thể đưa ra các mức lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh, chi phí vốn và mức độ bảo đảm về tín dụng chứ không nhất thiết phụ thuộc vào thời gian vay vốn. Tuy nhiên, đa số các món vay làng nghề lại nhỏ lẻ và có những đặc trưng riêng làm cho chi phí điều hành một khoản vay cao, do đó nếu áp dụng mức lãi suất ưu đãi cho làng nghề thì Ngân hàng lại không có lãi. Do vậy, Ngân hàng cần tích cực tìm các nguồn vốn rẻ, dài hạn hơn để tài trợ cho nhu cầu của các làng nghề. Có nhiều cách để Ngân hàng có thể áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt:
- Dựa trên phân loại về khách hàng vay vốn: với các làng nghề phát triển có thể cho vay với lãi suất thấp hơn quy định chung do hiệu quả sản xuất kinh doanh cao, sản phẩm có thị trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định. Với các làng nghề truyền thống cần được bảo tồn có thể cho vay với mức lãi suất ưu đãi hơn nhưng phải dựa trên cơ sở bù đắp được chi phí hoặc Ngân hàng cũng có thể yêu cầu Nhà nước cho được hưởng chế độ cấp bù lãi suất khi cho vay những làng nghề này. Còn đối với các làng nghề mai một và các làng nghề mới hình thành: lãi suất có thể thấp hơn hoặc bằng mức lãi suất chung ( 0,85%) do đầu vào và đầu ra của sản phẩm còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ.
- Dựa trên nguồn huy động: nếu nguồn để cho vay là từ ngân sách Nhà nước, của các chương trình tín dụng chỉ định, Ngân hàng có thể cho vay với lãi suất ưu đãi theo yếu cầu của bên cung cấp vốn hoặc giảm lãi suất cho vay tuỳ theo phương án, dự án sản xuất kinh doanh và theo thoả thuận của khách hàng do không phải mất chi phí huy động. Nếu nguồn là các khoản uỷ thác của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước: Cho vay đúng đối tượng, theo đúng mức lãi suất được uỷ thác; nếu mức lãi suất này không thấp hơn mức lãi suất hiện hành, Ngân hàng có thể đề nghị giảm lãi suất đối với các hộ và cơ sở sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có uy tín, sản phẩm được thị trường ưa thích hoặc nằm trong danh mục khuyến khích phát triển của Nhà nước. Nếu là nguồn vốn huy động của Ngân hàng, do phải tốn chi phí huy động nên khó có thể giảm được lãi suất cho vay. Trên thực tế, Ngân hàng có thể giảm mức lãi suất này xuống thấp nhưng lại thắt chặt hơn về điều kiện tín dụng và tài sản đảm bảo để giảm chi phí điều hành và đề phòng rủi ro. Nhìn chung, đối với nguồn vốn này, Ngân hàng nên căn cứ vào các hồ sơ vay vốn cụ thể, trên cơ sở tính toán về các luồng tiền và năng lực của khách hàng để áp dụng mức lãi suất phù hợp. Ngoài ra, đối với khách hàng ở các làng nghề, Ngân hàng nên chú ý đến tư cách của khách hàng vì họ thường là những người có tư cách tín dụng tốt để có mức lãi suất thích đáng hơn.
* Mở chiến dịch tiếp cận làng nghề
Mục đích của việc làm này là nhằm cung cấp thông tin về hoạt động tín dụng của Ngân hàng cho các hộ và cơ sở ở làng nghề, đồng thời giúp cho các cán bộ tín dụng của Ngân hàng hiểu biết thêm về hoạt động và nhu cầu vay vốn của làng nghề. Bởi vì trên thực tế có những trường hợp do thiếu thông tin về Ngân hàng dẫn tới việc khách hàng cho rằng Ngân hàng có những đòi hỏi quá cao, thủ tục tín dụng rườm rà, gây phiền nhiễu cho khách hàng tạo nên tâm lý ngại tiếp xúc với tín dụng Ngân hàng, dẫn tới số người tự tìm đến Ngân hàng không nhiều. Do đó Ngân hàng nên mở một chiến dịch tiếp cận với làng nghề. Theo đó, Ngân hàng nên chọn ra những làng nghề đang phát triển mạnh hoặc làng nghề truyền thống cần được bảo tồn nhưng ít hoặc chưa có quan hệ tín dụng với Ngân hàng để cử cán bộ tín dụng xuống tổ chức tiếp xúc với các hộ và cơ sở sản xuất. Qua đó, cán bộ tín dụng sẽ trình bày về chính sách tín dụng của Ngân hàng đối với làng nghề, phổ biến các điều kiện, thủ tục cần thiết để vay vốn, giải đáp những thắc mắc của bà con đồng thời thu thập thêm thông tin về quy trình sản xuất, các đặc điểm về lao động, công nghệ, thị trường đầu vào, đầu ra cho sản phẩm... và những kiến nghị của bà con về quy trình, thủ tục và điều kiện tín dụng... của Ngân hàng. Dựa vào những thông tin thu thập được, Ngân hàng có thể xây dựng được một chiến lược tín dụng thiết thực đối với làng nghề. Đồng thời, thông qua việc tự giới thiệu về hoạt động của mình, Ngân hàng chắc chắn sẽ thu hút được sự quan tâm chú ý của khách hàng có nhu cầu vay vốn. Qua đó, sẽ mở rộng được đối tượng khách hàng ở các làng nghề.
* Cải tiến quy trình, thủ tục tín dụng
Quy trình, thủ tục tín dụng là một trong những yếu tố cần thiết để đảm bảo an toàn cho các khoản tín dụng. Tuy nhiên việc ban hành các quy trình, thủ tục tín dụng quá rườm rà sẽ gây tâm lý ngại cho khách hàng, nhất là với những hộ sản xuất ở làng nghề không hiểu biết nhiều về hoạt động Ngân hàng hoặc mới đến vay lần đầu tiên.
- Trong khâu thẩm định, cán bộ tín dụng nên xem xét đến đặc điểm của làng nghề để đo lường mức độ khả thi của dự án:
+ Đối với các làng nghề mới: tính khả thi của dự án sẽ phụ thuộc vào khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Sản phẩm làm ra có bán được, có doanh thu thì Ngân hàng mới thu được nợ đúng hạn. Do vậy khi thẩm định thì nên đặc biệt chú ý đến yếu tố mẫu mã, chất liệu, mùi vị của sản phẩm xem có phù hợp với thị hiếu hay không.
+ Đối với các làng nghề truyền thống: cán bộ tín dụng nên chú ý đến trình độ tay nghề của người thợ tham gia sản xuất bởi vì chất lượng, giá trị của sản phẩm truyền thống phụ thuộc rất nhiều vào sự tài hoa, kỹ thuật và kinh nghiệm của người thợ. Cơ sở sản xuất nào có được nghệ nhân hoặc thợ tay nghề cao thì cơ sở ấy có khả năng cạnh tranh lớn hơn.
- Về điều kiện tín dụng, Ngân hàng không nên quá coi trọng vấn đề tài sản đảm bảo vì trên thực tế, khách hàng vay vốn ở làng nghề thường là những người có tư cách tín dụng tốt. Do đó với khu vực làng nghề, Ngân hàng nên tăng mức cho vay không có tài sản đảm bảo đối với các dự án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao lên 20 triệu đồng; còn với các hộ, cơ sở làm ăn tốt hoặc đã có quan hệ tín dụng lâu dài, Ngân hàng am hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh của họ thì có thể cho vay mà không cần tài sản đảm bảo. Việc cho vay có thể hoàn toàn dựa trên uy tín của khách hàng hoặc thông qua bảo lãnh của UBND huyện, xã, hiệp hội làng nghề... Trong trường hợp đất đai của khách hàng chưa đăng ký quyền sử dụng đất, Ngân hàng có thể chấp nhận giấy giao đất có chứng nhận của UBND xã, huyện về đất không có tranh chấp. Ngân hàng cũng có thể lấy hợp đồng gia công, hợp đồng tiêu thụ trong đó có xác nhận bảo đảm thanh toán làm tài sản thế chấp vì tiêu thụ hàng thủ công thường là khâu khó khăn nhất nên nếu đã được đảm bảo về khâu này thì nhiều món vay hoàn toàn đủ tính khả thi để cho vay. Tuy nhiên trong trường hợp này các cán bộ tín dụng phải nắm chắc năng lực của người vay đáp ứng được hợp đồng gia công, tư cách và tình trạng tài chính của người đứng ra bảo đảm thanh toán.
- Về vấn đề thủ tục, các hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản có thể không cần có dấu của cơ quan công chứng vì thủ tục công chứng thường mất rất nhiều thời gian mà sản xuất ở làng nghề lại có tính thời vụ đòi hỏi các chủ hộ, cơ sở phải nắm bắt đơn đặt hàng nhanh, cung cấp hàng đúng thời hạn; nếu chậm trễ có thể không tiêu thụ được hàng. Do vậy, vốn phải được cung cấp nhanh để đưa vào sản xuất, kịp thời hoàn thành khối lượng sản phẩm theo yêu cầu. Thủ tục tín dụng vì thế nên đơn giản, gọn nhẹ, tránh gây chậm trễ cho khách hàng. Mặt khác theo ý kiến của các cán bộ tín dụng thì không có sự liên quan ý nghĩa nào giữa việc có hay không có thủ tục công chứng trong hồ sơ cho vay với nợ quá hạn đối với làng nghề.
1.3. Mở rộng các phương thức cho vay
* Áp dụng hình thức tín dụng thuê mua.
Hoạt động của đa số các hộ và cơ sở ở làng nghề đều phụ thuộc vào số lượng các đơn đặt hàng. Nhiều lúc họ nhận được rất nhiều đơn đặt hàng vào cùng một thời điểm, nhân công thì có thể thuê thêm nhưng với số lượng máy móc hiện tại thì không thể đủ để sản xuất hàng hoá với quy mô lớn để kịp giao hàng. Nhưng cũng có những lúc đơn đặt hàng quá ít hoặc không có, quá trình sản xuất phải dừng lại, các máy móc thiết bị lại không được dùng đến. Như vậy, nếu các đơn vị này vay vốn của Ngân hàng để đầu tư cho cơ sở vật chất thì rất tốn kém mà nhiều lúc lại không tận dụng hết. Để giúp các khách hàng ở làng nghề có thể đầu tư khẩn cấp và để hạn chế rủi ro khi sản xuất của khách hàng ngưng trệ dẫn tới không trả được nợ, Ngân hàng có thể mở thêm hình thức tín dụng thuê mua với làng nghề.
Áp dụng hình thức này, Ngân hàng sẽ đứng ra mua máy móc, thiết bị chuyên dùng cho làng nghề (có thể là mua theo yêu cầu của khách hàng ở làng nghề) và chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho khách hàng. Trong thời gian sử dụng tài sản, khách hàng phải trả tiền thuê theo kỳ hạn. Khi hết hạn thuê tài sản, Ngân hàng có thể thu hồi lại tài sản để tiếp tục cho người khác thuê hoặc bán lại tài sản cho khách hàng. Đối với Ngân hàng, hình thức tín dụng này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp do Ngân hàng vẫn nắm quyền sở hữu tài sản, khi cần có thể thu hồi tài sản bất cứ lúc nào, đồng thời có thể đảm bảo được là khách hàng sử dụng tài sản đúng mục đích. Về phía làng nghề, ngoài những lợi ích đã trình bày ở trên thì việc thuê tài sản này còn giúp khách hàng không phải đầu tư toàn bộ vốn tại một thời điểm, họ chỉ phải bỏ ra một phần để trả tiền thuê, lượng vốn còn lại có thể sử dụng để mua nguyên vật liệu và trang trải các chi phí hoạt động khác. Thông qua hình thức này, Ngân hàng cũng góp phần đưa các làng nghề phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để áp dụng hình thức tín dụng này có hiệu quả, Ngân hàng phải nắm chắc đặc điểm sản xuất kinh doanh của các ngành nghề khác nhau.
* Áp dụng rộng rãi hình thức cho vay theo hạn mức
Nhiều hộ và cơ sở ở làng nghề có quy mô sản xuất lớn, vòng quay vốn nhanh nên xuất hiện nhu cầu vay vốn Ngân hàng thường xuyên. Có những cơ sở vay Ngân hàng nhiều lần trong một quý hoặc 6 tháng, mỗi lần vay lại phải làm bộ hồ sơ rất vất vả, gây tốn thời gian và công sức cho cả Ngân hàng và khách hàng vay vốn trong khi hoạt động sản xuất kinh doanh của họ vẫn diễn ra và nhu cầu về vốn là cấp thiết. Do vậy, Ngân hàng nên áp dụng rộng rãi hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh lớn. Hạn mức này có thể duy trì 3 tháng, 6 tháng hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh và cán bộ tín dụng thường xuyên theo dõi việc sử dụng tiền vay để đảm bảo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng tín dụng.
Trên thực tế, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Tây đã vận dụng hình thức cho vay này và thu được những hiệu qủa tích cực.
* Tăng tỷ trọng tín dụng trung - dài hạn
Cho đến nay, các khoản cho vay trung hạn còn chiếm tỷ trọng thấp và chưa có các khoản vay dài hạn trong tổng dư nợ của Ngân hàng. Một trong những nguyên nhân là các hộ, cơ sở ở làng nghề không đáp ứng được yêu cầu tín dụng trung - dài hạn của Ngân hàng, đặc biệt là việc lập các phương án sản xuất kinh doanh. Do hầu hết các chủ hộ, cơ sở sản xuất ở làng nghề không qua đào tạo cơ bản nên họ thiếu những kiến thức về khoa học kỹ thuật, về quản lý, thiếu hiểu biết về thị trường nên gặp những khó khăn trong việc lập một phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Nhiều chủ hộ và cơ sở không biết tính nhu cầu vay vốn, không biết lập báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh. Vì thế, mặc dù những kế hoạch, phương án của họ là rất thiết thực nhưng lại không thuyết phục được Ngân hàng. Do đó, để khắc phục được tình trạng này, cán bộ tín dụng cần phải tận tình giúp đỡ khách hàng trong việc lập các dự án sản xuất kinh doanh hoặc cùng với họ sửa đổi những nội dung chưa phù hợp để những dự án của họ được hoàn chỉnh hơn. Từ đó nâng cao số lượng các khoản tín dụng trung - dài hạn đối với làng nghề trong cơ cấu dư nợ của Ngân hàng.
* Áp dụng hình thức cho vay ứng trước để xuất khẩu
Các sản phẩm thủ công truyền thống của làng nghề không chỉ tiêu thụ được ở thị trường trong nước mà có rất nhiều sản phẩm được xuất khẩu ra nước ngoài. Hiện nay, sản phẩm làng nghề của Hà Tây đã đựơc xuất khẩu đi hơn 20 quốc gia trên thế giới. Điều này cho thấy tiềm năng xuất khẩu của các làng nghề là rất lớn. Trên thực tế, có những trường hợp cơ sở sản xuất ở làng nghề nhận được đơn đặt hàng xuất khẩu giá trị rất lớn nhưng không dám ký hợp đồng do sợ không có đủ vốn để sản xuất. Đây là một điều rất đáng tiếc. Do vậy, Ngân hàng có thể phát triển nghiệp vụ cho vay ứng trước để làm hàng xuất khẩu theo hợp đồng ngoại thương đối với làng nghề truyền thống, giúp cho sản phẩm của họ có điều kiện tiếp xúc với thị trường thế giới.
* Mở rộng hình thức cho vay theo tổ, nhóm hợp tác
Tổ, nhóm hợp tác là mô hình mới xuất hiện trong các làng nghề ở Hà Tây những năm gần đây nhưng đã tỏ ra có ưu thế rõ rệt. Mỗi tổ, nhóm gồm từ 4 đến 10 hộ kết hợp với nhau thành lập tổ sản xuất và bầu ra một chủ hộ giỏi nhất trong sản xuất kinh doanh và có uy tín làm tổ trưởng. Thông thường các tổ, nhóm sẽ đảm nhận tất cả các khâu của một quá trình sản xuất ra sản phẩm, từ khâu thu mua nguyên vật liệu đến tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Theo hình thức này, mỗi hộ làm giấy đề nghị vay vốn và thông qua số tiền được vay trước các thành viên trong tổ. Sau đó, tổ trưởng gửi giấy đề nghị cho vay cả tổ tới Ngân hàng cùng với các giấy tờ khác. Tổ trưởng là người nhận tiền, theo dõi nợ vay và thu nợ để chuyển trả cho Ngân hàng.
Hình thức này sẽ giúp cho các hộ nông dân không đủ điều kiện về tài sản thế chấp cũng được vay vốn do có được sự kết hợp của cả tổ. Mặt khác cả tổ chịu trách nhiệm trước Ngân hàng về việc hoàn trả vốn vay nên trách nhiệm của các chủ hộ được nâng cao, buộc các hộ giúp dỡ lẫn nhau trong quá trình sử dụng tiền vay để hạn chế rủi ro phát sinh. Bên cạnh đó, tổ hợp tác còn giúp đỡ Ngân hàng trong khâu thẩm định dự án vay vốn cẩn thận, chu đáo ở cơ sở sản xuất trước khi dự án được gửi lên Ngân hàng, ấn định mức vay phù hợp với nhu cầu thực tế của từng đối tượng, không cao quá hoặc thấp quá.
Trên thực tế, NHCT Hà Tây đã sử dụng hình thức cho vay này đối với các làng nghề như: Liên Trung (huyện Đan Phượng), Cát Quế, Dương Liễu, Minh Khai (huyện Hoài Đức) và đã thu được những kết quả rất tốt. Do đó, trong thời gian tới, Ngân hàng nên áp dụng hình thức này trên diện rộng để mở rộng tín dụng đối với các làng nghề.
* Cho vay qua các tổ chức trung gian
Do các phòng giao dịch của Ngân hàng tập trung chủ yếu ở thị xã Hà Đông mà các làng nghề ở Hà Tây lại trải dài trên diện rộng, Ngân hàng sẽ khó tiếp cận được khách hàng ở những địa bàn khác. Vì vậy, Ngân hàng có thể mở rộng hình thức cho vay gián tiếp thông qua việc mua lại các giấy nợ còn trong hạn của các tổ chức tín dụng trung gian có quan hệ gần gũi hơn với các làng nghề như: chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân...
Ngân hàng cũng có thể thông qua các tổ chức khác cho vay đối với các hộ, cơ sở ở làng nghề: thông qua hội phụ nữ, hội cựu chiến binh... và đặc biệt là thông qua Hiệp hội làng nghề. Các tổ chức này có những ưu thế nhất định về địa lý và quan hệ với các làng nghề để xác định đúng đối tượng, nhu cầu vay vốn và năng lực trả nợ tiền vay của khách hàng. Theo hình thức này, các tổ chức đó sẽ đứng ra làm đại lý cho Ngân hàng, có trách nhiệm phân phối vốn và hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn. Hình thức này đặc biệt có hiệu quả trong trường hợp Ngân hàng những làng nghề mới hoặc ở vị trí xa mà Ngân hàng có ít thông tin.
2. Các giải pháp gián tiếp
* Mở rộng dịch vụ tư vấn
Hiện nay, trình độ tổ chức quản lý kinh doanh ở các làng nghề còn hạn chế, nhiều người có nhu cầu vay vốn mà không biết phải làm đơn, lập các dự án, báo cáo thu nhập, báo cáo tài chính như thế nào. Quá trình hình thành và phát triển các làng nghề còn mang tính tự phát nên không có cơ quan nào đứng ra giúp đỡ họ trong vấn đề này. Do đó, Ngân hàng nên mở rộng dịch vụ tư vấn đối với các khách hàng ở làng nghề. Ngân hàng không chỉ tư vấn về tín dụng mà còn tư vấn về công nghệ, kỹ thuật, các nguồn cung cấp nguyên liệu, xuất nhập khẩu... nhằm đảm bảo cho làng nghề vừa lập được dự án khả thi để được vay vốn, vừa tổ chức sản xuất kinh doanh tốt, sử dụng vốn vay có hiệu quả nhằm tránh được rủi ro cho Ngân hàng. Có thể áp dụng các hình thức tư vấn cho từng đối tượng:
- Đối với các khách hàng vay vốn lần đầu: Ngân hàng nên lập sẵn những sơ đồ, mẫu biểu về quy trình tiến hành, các thủ tục, điều kiện tín dụng cần thiết để phát cho khách hàng tham khảo. Nếu họ chưa đủ các điều kiện cần thiết như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy đăng ký kinh doanh, đăng ký chất lượng sản phẩm... thì có thể tư vấn cho họ nên làm gì, đến cơ quan nào để được giải quyết, Ngân hàng cũng nên xây dựng những ví dụ về các dự án khả thi, các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh, cách thể hiện nhu cầu vay vốn... Các ví dụ này nên trình bày rõ ràng, mạch lạc, dễ hiểu và sẵn sàng cho khách hàng mượn khi cần thiết. Điều quan trọng là trong quá trình tư vấn, cán bộ tín dụng phải có thái độ và tác phong vui vẻ, cởi mở, nhiệt tình để khách hàng cảm thấy thoải mái vì được phục vụ. Có thể có những khách hàng hiện chưa đủ điều kiện để cho vay nhưng nhờ thái độ phục vụ tốt của Ngân hàng mà khi đủ điều kiện vay vốn, họ sẽ quay lại Ngân hàng.
- Với những khách hàng đã vay nhiều lần: những đối tượng này thường làm ăn phát đạt, nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh lớn. Ngân hàng nên chú trọng tư vấn cách tổ chức kinh doanh và quản lý sao cho có hiệu quả. Phạm vi tư vấn nên mở rộng ra các vấn đề mà họ đang quan tâm như: thuế, thủ tục xuất nhập khẩu, nguồn nguyên liệu, thị hiếu... Với những cơ sở đã làm ăn hiệu quả, vốn tự có tương đối lớn, Ngân hàng có thể hướng dẫn họ cách để được vay vốn trung dài hạn, vay với mức vay lớn hơn...
- Với những khách hàng sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, Ngân hàng có thể tư vấn cho họ những thông tin cần thiết về tiêu chuẩn hàng hoá (chất lượng, tính xã hội của sản phẩm), các hình thức thanh toán trong quan hệ xuất nhập khẩu, thông tin về thị trường quốc tế, những quy định của Nhà nước, những thủ tục, giấy tờ cần thiết...
* Cho vay đối với các đơn vị liên quan đến quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm làng nghề.
Để có thể mở rộng tín dụng đối với làng nghề thì trước hết kinh tế làng nghề phải phát triển. Các làng nghề muốn phát triển thì phải có nguồn nguyên vật liệu ổn định để sản xuất và quan trọng hơn là sản phẩm làm ra phải tiêu thụ được. Do vậy, để mở rộng tín dụng đối với làng nghề thì Ngân hàng nên quan tâm đến hoạt động cho vay đối với các đơn vị liên quan đến quá trình sản xuất, thu mua sản phẩm làng nghề. Thực hiện nghiệp vụ này, Ngân hàng đã gián tiếp thúc đẩy quá trình sản xuất các sản phẩm làng nghề thông qua việc tài trợ vốn cho những cơ sở cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm làng nghề. Quá trình sản xuất ở làng nghề sẽ được tiến hành liên tục, sản phẩm làm ra được tiêu thụ ngay. Làng nghề càng phát triển thì nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh càng lớn, từ đó sẽ phát sinh nhu cầu về vốn và hoạt động tín dụng của Ngân hàng qua đó cũng sẽ được mở rộng.
* Phát triển hình thức du lịch làng nghề
Bên cạnh tiềm năng phát triển làng nghề, có thể nói du lịch cũng là một trong những thế mạnh của tỉnh Hà Tây. Với những điểm du lịch nổi tiếng như: Ao Vua, Đồng Mô, Ba Vì... và hàng trăm đền chùa, di tích lịch sử, hàng năm tỉnh đã đón hàng triệu lượt khách trong và ngoài nước đến thăm quan. Bản thân các làng nghề thủ công truyền thống cũng có thể là một trong những điểm đến của khách du lịch. Một số làng nghề đã phát triển được hình thức này, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở khâu trưng bày và bán các sản phẩm mà chủ yếu là do các hộ tự đứng ra mở cửa hàng.
Du lịch làng nghề là một hình thức du lịch văn hoá có tiềm năng phát triển. Có thể tận dụng ngay các tuyến du lịch hiện nay của tỉnh, kết hợp việc đưa du khách đi thăm quan đền chùa, miếu mạo với thăm các làng nghề. Khách du lịch chắc chắn sẽ rất thích thú khi được tận mắt nhìn thấy những người thợ thủ công làm ra các sản phẩm truyền thống của dân tộc, nhất là đối với khách du lịch là người nước ngoài vốn quen với máy móc, điện tử. Và một khi đã đến thăm làng nghề, họ sẽ mua các sản phẩm về làm quà. Đây cũng là một cách tiêu thụ sản phẩm và nếu du khách là người nước ngoài, đây còn là hình thức xuất khẩu tại chỗ. Khi khách hàng là những thương nhân, những nhà kinh doanh, thông qua việc thăm thú, tìm hiểu về quá trình sản xuất, về sản phẩm, rất có thể họ sẽ trở thành những khách hàng lớn của các cơ sở và những hợp đồng sau đó sẽ được ký kết. Nếu khách hàng là những nhà đầu tư, là Việt kiều hoặc những người nước ngoài có ý định đầu tư vào Việt Nam thì có thể làng nghề sẽ nhận được những khoản đầu tư cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh, cải tạo môi trường, nâng cấp cơ sở hạ tầng...
Tuy nhiên để có thể phát triển được hình thức này, các làng nghề cần phải được hỗ trợ từ bên ngoài của UBND tỉnh về việc quy hoạch các cơ sở sản suất, về các phương án xây dựng làng du lịch, tổ chức các tuyến du lịch qua các làng nghề...
* Nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức tổng hợp về làng nghề của các cán bộ tín dụng
Việc ra các quyết định cho vay là một yếu tố mang tính chủ quan, phụ thuộc rất nhiều vào đánh giá, nhận thức của cán bộ tín dụng. Do đó, để có thể mở rộng tín dụng đối với làng nghề cả về quy mô lẫn chất lượng thì nhân tố con người đóng vai trò hết sức quan trọng.
Cán bộ tín dụng cần phải có trình độ đủ chuyên sâu về nghiệp vụ tín dụng để hiểu được bản chất của các hình thức cho vay, phương thức cho vay, lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định tín dụng. Nhờ đó hình thức cho vay và lãi suất mới có thể được lựa chọn đúng, phù hợp với đặc điểm của khách hàng. Bên cạnh đó, các kiến thức về tài chính, kế toán... cũng giúp cho người thẩm định phát hiện những điểm đáng ngờ trong nguồn vốn và tài sản, thể hiện trong các báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo tài chính của khách hàng.
Bên cạnh những kiến thức chuyên môn, cán bộ tín dụng phụ trách việc cho vay đối với các làng nghề còn phải có những hiểu biết về nguồn nguyên liệu, công nghệ sản xuất các sản phẩm, thị hiếu, bản thân các sản phẩm truyền thống, những quy định của chính quyền về đất đai, nhà ở, các văn bản pháp luật... Tất cả những yếu tố này đều rất cần thiết cho việc thẩm định các dự án hoặc ra quyết định cho vay đối với làng nghề. Chính vì vậy, nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng thông qua việc đào tạo và đào tạo lại là hết sức cần thiết. Ngoài việc đi học ở các trường lớp, trung tâm đào tạo, cán bộ tín dụng cần phải tự mình bổ xung các kiến thức cần thiết về làng nghề, thu thập những tài liệu nghiên cứu về làng nghề của các nhà chuyên môn, nhà khoa học, các sách báo, tạp chí... nói về thị trường tiêu thụ, nguyên liệu, công nghệ, lao động... ở làng nghề. Ngân hàng cũng có thể cử cán bộ tín dụng đi tham dự các cuộc hội thảo, các chương trình hướng dẫn chuyên đề về làng nghề. Nhờ đó, cán bộ tín dụng thường xuyên cập nhật được thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, kết hợp được cả mặt lý luận và thưc tiễn về làng nghề.
Qua đó, cán bộ tín dụng sẽ nâng cao được trình độ chuyên môn, có các quyết định tín dụng đúng đắn dựa trên những nhận định về tính khả thi của dự án hơn là trên giá trị của tài sản đảm bảo.
Trên đây là những giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối với làng nghề tại NHCT Hà Tây. Tuy nhiên muốn thực hiện chúng một cách hiệu quả thì cần phải có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước cũng như UBND tỉnh để Ngân hàng có được môi trường đầu tư thuận lợi hơn cho các làng nghề.
III. KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị với Nhà nước
* Nhà nước nên ban hành tiêu chí thống nhất để xác định làng nghề
Để có thể bảo tồn và phát triển các làng nghề theo đúng định hướng, Nhà nước nên ban hành tiêu chí xác định làng nghề một cách chuẩn mực và thống nhất trong cả nước. Từ đó, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức và Ngân hàng mới có cơ sở khoa học để hoạch định các chính sách và đưa ra giải pháp tích cực nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các làng nghề phát triển.
* Giao việc quản lý và chịu trách nhiệm đối với làng nghề cho một cơ quan quản lý chung
Nhà nước nên giao cho một cơ quan quản lý và chịu trách nhiệm chung về sự phát triển của các làng nghề, tránh để tình trạng có nhiều cơ quan cùng quản lý làng nghề nhưng lại không có cơ quan nào đứng ra chịu trách nhiệm về sự tồn tại và phát triển của nó như hiện nay. Có như vậy, các làng nghề mới thực sự được quan tâm và các Ngân hàng cũng như những tổ chức khác mới có được nguồn cung cấp thông tin về làng nghề một cách đầy đủ và chính xác.
Trước mắt, các cơ quan có chức năng liên quan như UBND tỉnh, huyện, xã, cơ quan công chứng, cơ quan quản lý chất lượng... nên tạo điều kiện thuận lợi cho làng nghề trong việc ra quyết định thành lập doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã; cấp giấy đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề đối với hộ và giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính để họ có đủ các giấy tờ cần thiết để vay vốn Ngân hàng.
Các cơ quan cũng nên có những biện pháp hỗ trợ cụ thể cho các cơ sở ở làng nghề. Với các cơ sở có nhiều ưu thế về vốn tự có, về khả năng quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, về thị trường đầu vào và đầu ra, về tính độc đáo của sản phẩm... thì nên dành sự quan tâm đặc biệt.
* Hình thành quỹ bảo lãnh tín dụng cho làng nghề
Các hộ và cơ sở ở làng nghề khi vay vốn thì tài sản đảm bảo chủ yếu là đất đai, nhà xưởng nhưng trên thực tế số hộ và cơ sở được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ chiếm khoảng 40%, do đó rất nhiều hộ, cơ sở có nhu cầu vay vốn nhưng lại không đủ điều kiện. Do đó việc hình thành nên một quỹ bảo lãnh tín dụng cho làng nghề là hết sức cần thiết. Quỹ sẽ đứng ra bảo lãnh cho những hộ, cơ sở ở làng nghề vay vốn mà không cần tài sản đảm bảo hoặc đứng ra bảo lãnh một phần giá trị tài sản đảm bảo theo yêu cầu của Ngân hàng để các cơ sở sản xuất chưa đủ điều kiện được vay vốn.
Làm được điều này, số hộ và cơ sở ở làng nghề được vay vốn Ngân hàng sẽ nhiều hơn, các làng nghề sẽ tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng dễ dàng hơn. Mặt khác, các quỹ bảo lãnh này thường tìm hiểu rất kỹ về khách hàng vay vốn trước khi đứng ra bảo lãnh trước Ngân hàng, đồng thời họ cũng sẽ theo dõi quá trình sản xuất và vì vậy sẽ tăng độ an toàn và giảm chi phí điều hành khoản vay cho Ngân hàng.
* Nhà nước nên có các chính sách, biện pháp hỗ trợ Ngân hàng trong cho vay làng nghề
Như trên đã phân tích, phát triển làng nghề ở nông thôn không những đem lại hiệu quả về mặt kinh tế cho các hộ nông dân mà còn đem lại những lợi ích khá lớn về mặt xã hội và góp phần ổn định chính trị. Do đó, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ cho các làng nghề phát triển, nhất là các chính sách hỗ trợ về vốn. Các Ngân hàng thương mại chính là kênh phân phối vốn cho làng nghề có hiệu quả nhất. Tuy nhiên trên thực tế, các Ngân hàng thương mại gặp phải không ít khó khăn khi thực hiện cho vay đối với các làng nghề. Do làng nghề phân bố rải rác ở khắp nơi trên địa bàn các huyện, xã và sản xuất kinh doanh lại phụ thuộc rất nhiều vào thị trường tiêu thụ nên mức độ rủi ro cao hơn và Ngân hàng thường tốn nhiều chi phí hơn để điều hành các khoản cho vay làng nghề. Vì thế, để đảm bảo nguồn vốn cho các làng nghề, Nhà nước nên có những chính sách thiết thực để hỗ trợ Ngân hàng như: cấp bù lãi suất, theo đó Nhà nước chỉ định Ngân hàng cho vay làng nghề với một mức lãi suất ưu đãi, sau đó sẽ cấp cho Ngân hàng một khoản tiền bằng phần chênh lệch lãi suất nhân với số tiền cho vay để đảm bảo Ngân hàng không bị lỗ.
* Đầu tư vốn cho các làng nghề, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước
Nhà nước nên có các chương trình cụ thể về đầu tư vốn cho các làng nghề căn cứ vào thực trạng và khả năng phát triển của từng địa phương. Trong đó chủ yếu nên thông qua các Ngân hàng thương mại để tách hoạt động tín dụng đối với làng nghề khỏi chính quyền địa phương. Thông qua tín dụng thương mại, vốn theo các chương trình của Nhà nước mới được chuyển đổi hiệu quả và an toàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh ở làng nghề. Phần vốn cung cấp qua chính quyền địa phương nên dành cho phát triển cơ sở hạ tầng, mở các lớp đào tạo những kiến thức cơ bản về lập các dự án sản xuất kinh doanh sao cho có hiệu quả, những kiến thức về quản lý, thị trường...
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên có những chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các làng nghề. Có thể ưu đãi về thuế, tạo hành lang pháp lý thông thoáng... hoặc quảng bá hình ảnh về các làng nghề truyền thống để thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2. Kiến nghị với UBND tỉnh
* Tạo khung giá hợp lý hơn về đất đai ở làng nghề
Hiện nay, giá đất đai ở các làng nghề theo quy định của tỉnh thấp hơn rất nhiều lần so với giá thị trường. Điều này gây khó khăn cho các hộ và cơ sở sản xuất kinh doanh ở các làng nghề khi vay vốn Ngân hàng vì các Ngân hàng khi đánh giá tài sản thế chấp lại căn cứ vào khung giá do tỉnh quy định. Do đó, lượng vốn mà các hộ và cơ sở ở làng nghề vay được ít hơn so với số vốn thực tế mà họ có khả năng vay.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các làng nghề trong việc vay vốn Ngân hàng thì UBND tỉnh nên thay dổi lại khung giá đất đai ở các làng nghề cho phù hợp với thực tế và thường xuyên có sự điều chỉnh kịp thời khi giá thị trường thay đổi.
* Nên có các giải pháp cụ thể để phát triển các làng nghề
Trong thời gian qua tỉnh đã có những chủ trương về phát triển các làng nghề, tuy nhiên đến nay vẫn chưa đề ra các giải pháp cụ thể cho từng ngành, từng địa phương thực hiện. Các làng nghề chủ yếu phát triển tự phát, không được sự giúp đỡ của các ban ngành, cơ quan Nhà nước nên nhiều lúc gặp không ít những khó khăn. Do đó, bên cạnh việc đề ra phương hướng, tỉnh nên có những giải pháp cụ thể để chỉ đạo các ngành, các cấp cùng phối hợp giúp cho các làng nghề phát triển.
* Quy hoạch lại các làng nghề
Hiện nay hình thức sản xuất chủ yếu của các làng nghề trong tỉnh là hộ sản xuất. Các hộ thường tận dụng ngay nơi ở làm nơi sản xuất, không có nhà xưởng riêng biệt. Điều này gây ra tình trạng ô nhiễm, gây tiếng ồn, ảnh hưởng đến những hộ xung quanh. Do vậy, tỉnh nên có quy hoạch lại đối với các làng nghề, tạo điều kiện cho các hộ xây dựng nhà xưởng, sản xuất tập trung thành một khu vực riêng biệt, giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường cho các làng. Có như vậy, các làng nghề mới có thể phát triển lâu dài và phát triển được hình thức du lịch thăm quan làng nghề và đặc biệt là đáp ứng được mặt xã hội của sản phẩm đối với các cơ sở có hoạt động xuất khẩu.
3. Kiến nghị với NHCT Hà Tây
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng tín dụng đối với làng nghề, Ngân hàng cần có những chính sách cụ thể để khuyến khích vật chất đối với cán bộ tín dụng xuống các làng nghề để tiếp cận khách hàng vay vốn. Đồng thời nên có biện pháp thưởng phạt công bằng, phân minh để phát huy mặt tốt và ngăn chặn những rủi ro xuất phát từ tư cách đạo đức của người cho vay.
KẾT LUẬN
Trong những năm vừa qua, các làng nghề ở Hà Tây đã phát triển rất nhanh cả về quy mô cũng như số lượng. Làng nghề phát triển không chỉ góp phần phát triển kinh tế mà còn đem lại những lợi ích không nhỏ về chính trị, xã hội và nó đã thực sự trở thành cầu nối giữa nông nghiệp với công nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa truyền thống và hiện đại. Với tiềm năng to lớn, phát triển làng nghề đã trở thành một trong những giải pháp quan trọng để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn, phát triển kinh tế và giải quyết việc làm.
NHCT Hà Tây đã phát triển hoạt động tín dụng đối với các làng nghề trong tỉnh và vốn tín dụng của Ngân hàng đã góp phần không nhỏ vào việc phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm qua đó thúc đẩy sự phát triển của các làng nghề.
Với mục tiêu tiếp tục mở rộng tín dụng đối với làng nghề trong thời gian tới, luận văn đã đi sâu phân tích đặc điểm của làng nghề ở Hà Tây và hoạt động tín dụng đối với làng nghề tại NHCT Hà Tây. Đồng thời tập trung tìm ra những vướng mắc hạn chế khả năng mở rộng tín dụng đối với làng nghề. Trên cơ sở đó, em đã đưa ra một số giải pháp khắc phục và điều kiện thực hiện những giải pháp này. Các giải pháp đưa ra vừa khắc phục những mặt còn hạn chế từ phía Ngân hàng, vừa gián tiếp giải quyết một phần yếu kém từ phía làng nghề và những bất cập trong cơ chế chính sách từ phía Nhà nước ảnh hưởng đến hoạt động của hai khu vực này.
Mong rằng những đóng góp của luận văn sẽ góp phần mở rộng được hoạt động tín dụng đối với làng nghề tại NHCT Hà Tây một cách mạnh mẽ và hiệu quả nhất, đáp ứng tốt nhất nhu cầu về vốn cho các làng nghề ở Hà Tây phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tín dụng ngân hàng - TS. Hồ Diệu ( chủ biên ).
Quản trị ngân hàng thương mại - Peter S.Rose.
Về môi trường thể chế nhằm phát triển các dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp ở vùng nông thôn - Nguyễn Đình Phan.
Tạp chí “ Thị trường Tài chính Tiền tệ” ( Tháng 3 - 2003 ).
Làng nghề Hà Tây 2001 - Sở công nghiệp Hà Tây.
6. Quy trình nghiệp vụ cho vay - NHCT Việt Nam.
Nông nghiệp Việt Nam - Những thành tựu - Nhà xuất bản thống kê.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 58.doc