- Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh những sai sót, phòng ngừa rủi ro. Việc kiểm tra, kiểm soát phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của chi nhánh.
- Có chế độ khen thưởng rõ ràng, công minh cho các đơn vị trực thuộc nhằm khuyến khích, thúc đẩy các đơn vị đó hoạt động hiệu quả hơn. Tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh trực thuộc ngân hàng trên cùng một địa bàn. Nghiên cứu chế độ khen thưởng có tính chất khuyến khích cán bộ tín dụng mở rộng tín dụng.
- Nghiên cứu ban hành cơ chế lãi suất trong nội bộ ngân hàng có tính chất khuyến khích mở rộng tín dụng trên địa bàn.
.
- Hỗ trợ SGD Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam kinh phí trong công tác đào tạo nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn cho các cán bộ công nhân viên chức nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng của ngân hàng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn theo từng chuyên đề như : thẩm định tín dụng, thanh toán quốc tế hỗ trợ cho các chi nhánh trực thuộc kinh phí để hiện đại hoá cơ sở giúp cho các cơ sở tăng được tính cạnh tranh của mình, hoạt động có hiệu qủa.
- vấn đề biên chế lao động của Sở đang là một khó khăn lớn trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và việc mở rộng tín dụng với các DNVVN nói riêng. Đề nghị NHN0 & PTNT Việt Nam nhanh chóng bổ sung biên chế lao động cho phù hợp với nhiệm vụ Sở được giao.
88 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1535 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Dư nợ DNVVN
93,65
100%
138,72
100%
178,14
100%
- Quốc doanh
93,36
99,69%
41,39
29,84%
123
69,05%
- Ngoài quốc doanh
0,29
0,31%
97,32
70,16%
55,14
30,95%
(nguồn: báo cáo cho vay các doanh nghiệp quy về VNĐ của SGD NHN0 & PTNTVN )
Nhận xét:
Qua số liệu trên có thể thấy rằng, các DNVVN có quan hệ tín dụng với SGD NHN0 & PTNTVN chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước.
Riêng trong năm 2001, tỷ trọng cho vay các DNVVN ngoài quốc doanh tăng từ 0,31% lên 70,16%. Nguyên nhân là do trong năm 2001 Sở đã thiết lập quan hệ tín dụng với công ty TNHH Chứng khoán với dư nợ là 97,32 tỷ đồng, chiếm 70,16% dư nợ các DNVVN. Mặc dù đây là công ty TNHH nhưng là công ty TNHH một thành viên, là đơn vị thành viên hạch toán độc lập của hệ thống NHN0 & PTNTVN. Trong báo cáo cho vay, công ty TNHH Chứng khoán được xếp vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhưng thực ra về uy tín thì công ty này vẫn được coi như là một doanh nghiệp nhà nước. Như vậy về bản chất, dư nợ trong năm 2001 vẫn là dành cho các doanh nghiệp nhà nước, chưa được mở rộng cho các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Nếu xét về số lượng các DNVVN ngoài quốc doanh của Sở hiện nay, ngoài công ty TNHH chứng khoán, thì chỉ có công ty phát triển sản phẩm mới DPT với dư nợ rất hạn chế vào năm 2000 là 290 triệu đồng, công ty TNHH Quang Minh với dư nợ 131 triệu đồng vào năm 2002, và công ty cổ phần Hàng hải Hà Nội với dư nợ 51 tỷ đồng năm 2002.
Như vậy ngoài dư nợ của CTCP Hàng hải Hà Nội là tương đối cao (chiếm 28,63% dư nợ DNVVN năm 2002 ), còn lại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác chỉ được vay với con số rất khiêm tốn.
Các ngân hàng nói chung cũng như Sở giao dịch NHN0 & PTNT Việt Nam nói riêng vẫn có sự ưu đãi hơn đối với doanh nghiệp nhà nước. Khi có dự án hoặc cần vay vốn, các doanh nghiệp quốc doanh chỉ cần đưa ra một số thông tin về báo cáo tài chính, chứng minh tính khả thi thì sẽ được cán bộ tín dụng thẩm định và ngân hàng xét duyệt cho vay vốn mà không cần phải thế chấp tài sản. Trong khi đó, có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dự án khả thi nhưng không có tài sản thế chấp, không đủ báo cáo tài chính theo yêu cầu của ngân hàng thì ngân hàng cũng không cho vay vốn vì như vậy là làm sai quy chế. Và như vậy là doanh nghiệp mặc dù có nhu cầu vay vốn, dự án có tính hiệu quả thì cũng không thể tiếp cận được với tín dụng ngân hàng.
Biểu đồ sau sẽ cho ta hình dung rõ hơn về tình hình dư nợ của các DNVVN phân loại theo thành phần kinh tế :
Qua biểu đồ trên cho thấy tình hình dư nợ cho các DNVVN quốc doanh cũng như các DNVVN ngoài quốc doanh qua các năm tăng trưởng không ổn định.
Như vậy, với số lượng ít, dư nợ thấp của các DNVVN ngoài quốc doanh có thể cho thấy tình hình tín dụng của Sở cũng giống như tình trạng chung của các NHTMQD khác, vẫn chưa mở rộng cánh cửa với các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
4. Tín dụng DNVVN phân loại theo thời hạn cho vay :
Một trong những tiêu chí có thể dùng phân loại dư nợ là thời hạn tín dụng . ta xem xét trong bảng sau:
Bảng 9 : Dư nợ DNVVN phân loại theo thời hạn cho vay trong 3 năm qua tại SGD NHN0 & PTNTVN :
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Dư nợ DNVVN :
- Ngắn hạn
- Dài hạn
93,65
78,41
15,24
100%
83,7%
16,3%
138,72
22,66
111,06
100%
19,9%
80,1%
178,14
164,45
13,69
100%
92,3%
7,7%
Nhận xét:
Dư nợ tín dụng trung dài hạn của DNVVN trong hai năm 2000 và 2002 chiếm một tỷ lệ nhỏ là 16,3% và 7,7%. Riêng trong năm 2001, tỷ lệ dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng cao đạt 80,1%. Đó là do trong năm 2001 SGD NHN0 & PTNTVN đã cho vay trung và dài hạn với công ty TNHH Chứng khoán với dư nợ lên tới 97,319 tỷ đồng.
Qua những số liệu trên cho thấy tình hình dư nợ trung, dài hạn qua các năm không ổn định. Đó là do số khách hàng của sở còn ít, nên số dư nợ của một khách hàng cũng có thể ảnh hưởng tới tỷ trọng qua từng năm. Điều này khẳng định mở rộng cho vay đối với các DNVVN là yêu cầu cấp thiết vì xét về hiệu quả kinh doanh thì việc phát triển nhóm khách hàng là các DNVVN sẽ không mang lại hiệu quả cao như trong cho vay các món lớn nhưng sẽ làm tăng tính ổn định và từ đó góp phần làm tăng tính an toàn chung toàn bộ hoạt động của ngân hàng.
Để nghiên cứu sâu thêm cho tình hình này, ta xem số liệu sau:
Bảng 10 : Dư nợ trung dài hạn trong 3 năm qua tại SGD NHN0 & PTNTVN
Chỉ tiêu
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Dư nợ trung, dài hạn
- DN lớn
- DNVVN
- cho vay khác
109,1
93,86
15,24
0
100%
86%
14%
0%
373,85
262,8
111,06
0
100%
70,3%
29,7%
0%
617,53
603,08
13,69
0,76
100%
97,7%
2,2%
0,1%
Nhận xét:
Ta thấy tỷ trọng tín dụng trung dài hạn của DNVVN qua các năm chiếm một tỷ lệ rất nhỏ so với các doanh nghiệp lớn. Đặc biệt trong năm 2002 dư nợ trung dài hạn của các DNVVN còn giảm cả về số tuyệt đối và tương đối. Điều này cho thấy khu vực DNVVN vẫn chưa tiếp cận được với tín dụng của SGD NHN0 & PTNTVN nói chung, và đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn nói riêng.
Mặc dù Sở giao dịch có những lợi thế trong cho vay trung dài hạn đó là có nguồn vốn dồi dào, trong đó nguồn vốn có kỳ hạn chiếm tỷ trọng cao. Vì vậy với một kế hoạch và chiến lược cụ thể trong tương lai, Sở hoàn toàn có đủ khả năng mở rộng tín dụng trung dài hạn đối với khách hàng là DNVVN .
5. Chất lượng tín dụng DNVVN
Các xem xét trên đã đề cập đến dư nợ DNVVN trong tổng dư nợ, phân loại dư nợ theo các tiêu chí khác nhau như thành phần kinh tế, thời hạn tín dụng để nhìn nhận một cách đầy đủ hơn về thực trạng tín dụng cho khu vực DNVVN tại SGD NHN0 & PTNTVN , chúng ta sẽ xem xét các con số phản ánh chất lượng tín dụng DNVVN tại SGD .
Bảng 11: Nợ quá hạn của DNVVN qua các năm
(đơn vị : tỷ đồng)
Tổng nợ QH
Nợ QH của DNVVN
Nợ QH /dư nợ của DNVVN
(1)
(2)
(1)/(2)
(3)
Năm 2000
8,56
4,43
51,75%
4,43/93,65 = 4,73%
Năm 2001
8,68
4,12
47,5%
4,12/138,72 = 2,97%
Năm 2002
5,73
2,61
45,55%
2,61/178,14 =1,46%
Nhận xét:
Nợ quá hạn nói chung được xem như chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, để xác định được bản chất cần phải tìm hiểu nguyên nhân của việc nợ quá hạn. Nếu nợ quá hạn là một biểu hiện của doanh nghiệp không muốn hoặc không có khả năng trả nợ thì khoản vay đó có rủi ro rất cao và có thể không cứu vãn được. Nếu nợ quá hạn hình thành do việc tiêu thụ hàng hoá hoặc thu hồi các khoản phải thu chậm hơn dự tính, hay do việc chậm trễ không lường trước được trong việc chuyển từ sản xuất đến tiêu thụ thì vấn đề có thể chưa đến mức trầm trọng, doanh nghiệp hoàn toàn có khả năng thanh toán nợ trong tương lai.
Xem xét thực tế tình hình nợ quá hạn tại SGD NHN0 & PTNTVN ta thấy nợ quá hạn của các DNVVN chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng nợ quá hạn của Sở. Trong khi doanh số cho vay, dư nợ của các DNVVN chiếm tỷ lệ khoảng trên 30% tổng doanh số cho vay, tổng dư nợ thì tỷ lệ nợ quá hạn chiếm tương đối cao (xem bảng ).
Sở dĩ nợ quá hạn tập trung vào các DNVVN là có nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ chính đặc điểm đặc thù của các DNVVN. Đó là các DNVVN có nguồn vốn chủ sở hữu thấp, hệ số nợ cao, nên trong quá trình hoạt động khi gặp rủi ro thì không có nguồn bù đắp nên dễ phát sinh nợ quá hạn. Trong khi đó các doanh nghiệp lớn, với tiềm lực tài chính lớn, thường đứng đằng sau là các Tổng công ty nên trong quá trình hoạt động nếu có xảy ra rủi ro thì còn có các nguồn khác bù đắp.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng nợ quá hạn qua các năm đã giảm đi cả về số tuyệt đối và số tương đối. Với năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn của các DNVVN là 4,73% nhưng tới năm 2002 tỷ lệ đó chỉ còn là 1,46%. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ cao hơn so với tỷ lệ nợ quá hạn của Sở trong các năm nhưng đây vẫn là một tỷ lệ thấp so với mặt bằng chung của các ngân hàng hiện nay.Đạt được kết quả trên là do Sở giao dịch đã có những biện pháp tích cực để ngăn ngừa, hạn chế và xử lý nợ quá hạn.
Những biện pháp hạn chế nợ quá hạn đã và đang được thực hiện tại sở giao dịch là :
- Hàng năm tổ chức tổng kết hoạt động tín dụng, rút ra những vấn đề cần chấn chỉnh và xây dựng định hướng, mục tiêu và giải pháp năm tiếp theo cho hoạt động kinh doanh tín dụng.
- Tăng cường lực lượng cho đội ngũ các cán bộ tín dụng kết hợp với đào tạo, tập huấn về nghiệp vụ, kỹ thuật thẩm định dự án, kiến thức pháp luật. Các hình thức đào tạo chủ yếu là qua các trường (đào tạo tại chức) và tập huấn ngắn ngày. Đồng thời từng bước nghiên cứu, bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ tín dụng.
- Thực hiện nghiêm về quy trình thẩm định, xét duyệt cho vay. Từng bước thực hiện phân loại và chọn lọc khách hàng nhằm thu hút thêm những khách hàng tốt.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đối với các ngân hàng cơ sở. Các hình thức kiểm tra bao gồm kiểm tra toàn diện, kiểm tra chuyên đề và kiểm tra chéo giữa các chi nhánh.
Quy mô và chất lượng tín dụnglà hai mặt không thể tách rời trong hoạt động tín dụng. Như vậy, song song với mục tiêu mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Sở giao dịch cũng cần tiếp tục phát huy hơn nữa những thành tựu đã đạt được về chất lượng tín dụng nói chung, và chất lượng tín dụng đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
6. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động tín dụng với các DNVVN trong thời gian qua:
Tuy DNVVN là một thị trường đầy tiềm năng cho các ngân hàng thương mại khai thác nhưng các ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận đối tượng này. Đó là những vướng mắc về tài sản thế chấp , về uy tín, về khả năng trả nợ của khách hàng.
Tương tự như các ngân hàng khác, SGD NHN0 & PTNTVN cũng phải đối diện với nhiều khó khăn trong cho vay DNVVN, đây là những nguyên nhân gián tiếp và trực tiếp của những hạn chế trong hoạt động tín dụng với các DNVVN trong thời gian qua.
6.1. Những cản trở từ môi trường vĩ mô:
+ Trong các loại hình kinh doanh thì kinh doanh tiền tệ là một hoạt động đặc biệt nhạy cảm và chịu tác động mạnh mẽ từ các thay đổi của nền kinh tế trong và ngoài nước. Mấy năm gần đây, nền kinh tế nước ta cũng như các nước khác trong khu vực đang đứng trước những khó khăn nhất định như tình trạng thiểu phát kéo dài, hàng hoá sản xuất ra không tiêu thụ được, chỉ số giá cả giảm, thêm vào đó là sự biến động liên tục của tỷ giá trên thị trường ngoại tệ.v.v.. Tình hình đó đã gây nên những tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Điều này như một phản ứng dây chuyền đã tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và đặc biệt là công tác tín dụng .
Trước những khó khăn của nền kinh tế , Nhà nước ta đang tiến hành điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm cải thiện tình hình chung. Tuy nhiên các doanh nghiệp lại chưa kịp thích ứng với sự thay đổi đó, nên kinh doanh thua lỗ hoặc không đủ điều kiện vay vốn ngân hàng.
+ Sự ra đời của hai Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng đã tạo một hành lang pháp lý cho hoạt động của các ngân hàng thương mại, định hướng cho các ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Tuy hệ thống văn bản liên quan tới hoạt động của ngân hàng đã được cải tiến nhiều nhưng vẫn còn chưa đồng bộ và khoa học, chưa đủ sức điều chỉnh những diễn biến phức tạp trong hoạt động thực tế của các ngân hàng. Giữa hai luật ngân hàng và các luật khác có liên quan như Luật hình sự, dân sự, Luật đất đai, luật doanh nghiệp , luật thuế lại đang có những điểm chưa đồng bộ. Luật đất đai liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố, luật dân sự liên quan đến xử lý tài sản đảm bảo tiền vay, pháp lệnh phá sản không bảo vệ quyền lợi cho ngân hàng . Nhiều trường hợp quan hệ tín dụng bị hình sự hoá khi xảy ra rủi ro. Thêm vào đó là ngân hàng bị khống chế mức dư nợ đối với khách hàng do Luật các tổ chức tín dụng quy định.
+ Trong cơ chế cho vay do NHNN ban hành không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế nhưng trên thực tế các quy định về cho vay như bảo đảm tiền vay lại là những cản trở đối với khu vực kinh tế tư nhân khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Nghị định về đảm bảo tiền vay quy định khách hàng khi vay vốn ngân hàng phải có tài sản thế chấp có nguồn gốc xác định. Tài sản thế chấp của các DNVVN hiện nay chủ yếu là đất đai, nhà xưởng. Những tài sản này lại chưa được các cơ quan có trách nhiệm cấp chứng từ sở hữu cho chủ tài sản đó. Vì vậy, ngân hàng gặp nhiều khó khăn khi xem xét và xử lý tài sản thế chấp, thậm chí có thể bị ách tắc.
+ Khuyến khích về chế độ lương thưởng đối với cán bộ ngân hàng không có tính chất khuyến khích đối với việc mở rộng hoạt động cho vay, do đó các ngân hàng chủ yếu tập trung vào khai thác các khách hàng cũ và cho vay những khách hàng mới mà họ thực sự cho là an toàn.
+ Cơ chế lãi suất trong nội bộ ngân hàng không có tính chất khuyến khích mở rộng tín dụng trên địa bàn : lãi suất điều chuyển vốn lên hội sở chính của các chi nhánh NHN0 & PTNTVN hiện nay là 0,72%/tháng, mức lãi suất này xấp xỉ mức lãi suất cho vay doanh nghiệp. điều này khiến các chi nhánh chủ yếu chỉ cho vay những khách hàng đã có quan hệ truyền thống và hạn chế mở rộng cho vay song vẫn đảm bảo mức lợi nhuận được giao va đảm bảo được tính an toàn cho chi nhánh .
6.2. Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp :
Những khó khăn trong cho vay DNVVN của ngân hàng còn chịu tác động không nhỏ do chính từ phía doanh nghiệp. Các DNVVN trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi và có những kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy, sự phát triển này chưa vững chắc. tăng trưởng mạnh về số lượng chưa đi cùng với tăng tương ứng về chất lượng. Môi trường kinh doanh hiện nay ở nước ta còn khá nhiều rủi ro, nên hoạt động của các doanh nghiệp có quy mô nhỏ còn gặp nhiều biến động.
Tình hình sản xuất kinh doanh thường không ổn định. Bên cạnh đó còn tồn tại một số doanh nghiệp làm ăn phi pháp, buôn lậu,lừa đảo, trong quá trình kinh doanh thường chiếm dụng vốn của các đối tác kinh doanh , đến khi mất khả năng thanh toán thì lừa đảo ngân hàng , giả mạo giấy tờ xin vay vốn rồi bỏ trốn. Vì vậy đã tạo nên một ấn tượng không tốt về đối tượng khách hàng này.
Khó khăn lớn nhất DNVVN là không đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp mới thành lập,uy tín chưa đủ, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, tình hình tài chính chưa ổn định nên chưa đáp ứng được các yêu cầu của ngân hàng . Nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn nhưng không đủ tài sản thế chấp hoặc có tài sản nhưng lại thiếu giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp tài sản đó.
Một nguyên nhân khá phổ biến xuất phát từ phía khách hàng khiến ngân hàng từ chối cho vay là vấn đề lập dự án của doanh nghiệp. Do có chưa có kinh nghiệm và trình độ năng lực hạn chế nên các dự án của doanh nghiệp nhiều khi không tính toán đầy đủ, rõ ràng, chính xác các yếu tố chi phí, đầu tư , theo công nghệ nào, thị trường nào, thời gian triển khai hiệu quả của dự án v.v nên làm mất nhiều thời gian bổ sung, phê duyệt dự án, cũng như làm ảnh hưởng đến thời gian của ngân hàng trong việc kiểm tra, thẩm định dự án và ra quyết định đầu tư. Trên thực tế ta thấy khả năng lập dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất của hầu hết các DNVVN còn rất yếu, chủ yếu là hình thức nên kết quả không thuyết trình được tính khả thi để có thể vay vốn từ ngân hàng .
Bên cạnh đó, các DNVVN còn chưa thực hiện hoạt động kế toán thống kê một cách nghiêm túc và đúng pháp luật, công tác hạch toán kế toán chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân, nhiều khi mang tính chất gia đình. Chế độ kiểm toán bắt buộc đã được đưa vào áp dụng ở nhiều doanh nghiệp nhưng đa số các số liệu quyết toán và các báo cáo tài chính của doanh nghiệp lại chưa thực hiện chế độ này. Vì vậy tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp trên giấy tờ và trên thực tế có nhiều khoảng cách, không phản ánh chính xác tình trạng hiện có của doanh nghiệp. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng khi tiến hành thẩm định xét duyệt cho vay .
6.3. Nguyên nhân từ ngân hàng :
Khó khăn trong cho vay không chỉ do từ phía khách hàng , chính bản thân ngân hàng cũng có nhiều hạn chế làm cản trở công tác này:
+ Trước hết ngay bản thân chính sách tín dụng của ngân hàng thường chú trọng vào các khách hàng là các doanh nghiệp lớn. Hiện nay, SGD NHN0 & PTNTVN cũng như các NHTM khác nói chung đang chú trọng vào các chính sách thu hút đầu tư vào các dự án lớn, các doanh nghiệp lớn như các Tổng công ty 90, 91.v..v. Đây là điều có thể chấp nhận được bởi các ngân hàng đều phải đứng trước yêu cầu an toàn về vốn cho vay ,đặc biệt là trong điều kiện môi trường kinh tế cũng như môi trường pháp luật còn nhiều thiếu sót và chưa đồng bộ như hiện nay. Cho vay doanh nghiệp lớn được coi là an toàn bởi họ được nhận sự bảo lãnh và sự trợ giúp của Nhà nước, có sức mạnh tài chính lại có mạng lưới chi nhánh rộng rãi, dễ dàng nắm bắt thông tin. Trong khi đó, các DNVVN hoàn toàn không có được những thế mạnh như vậy do đó, cho vay DNVVN chứa đựng nhiều rủi ro hơn.
Trong khi các doanh nghiệp lớn mỗi lần vay thường có doanh số lớn làm dư nợ tăng lên nhanh chóng và mang laị lợi nhuận lớn cho ngân hàng thì các DNVVN do khả năng tài chính hạn hẹp, giá trị tài sản không lớn nên mỗi lần vay chỉ vay từng món nhỏ, khiến ngân hàng ngần ngại trong cho vay DNVVN.
Mặc dù hiện nay SGD NHN0 & PTNTVN đã đưa vào áp dụng nhiều hình thức cho vay như cho vay từng lần, cho vay từng món, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay trả góp..v..v trên lý thuyết thì tất cả mọi đối tượng khách hàng đều được áp dụng các hình thức cho vay trên, nhưng thực tế thì DNVVN mới chỉ được vay theo món. Tuy hình thức vay này giúp ngân hàng quản lý chặt chẽ được các món vay nhưng lại gây khó khăn cho doanh nghiệp vì mỗi lần cần vay ngân hàng các DNVVN lại phải lặp lại tất cả các thủ tục cần thiết, tốn nhiều thời gian và công sức. Việc ép các doanh nghiệp sản xuất không mang tính thương vụ phải vay từng lần , từng hợp đồng riêng biệt để mua từng đợt nguyên vật liêu,trả từng đợt chi phí đã gây nhiều phiền toái cho cả doanh nghiệp và cả cán bộ tín dụng . trong khi đó, các hình thức vay khác có nhiều ưu điểm lại chưa được áp dụng làm hạn chế khả năng của ngân hàng .
+ Bên cạnh đó, theo quy định hiện nay, có tài sản thế chấp là một điều kiện bắt buộc để một DNVVN vay vốn ngân hàng. Thông thường khách hàng cũng chỉ nhận được một khoản vay từ 50%-70% giá trị tài sản thế chấp. Mà tài sản thế chấp lại là một vấn đề khó khăn đối với các DNVVN chính vì vậy các doanh nghiệp rất khó tiếp cận đươc với ngân hàng .
+ Một nguyên nhân quan trọng nữa là do quy trình tín dụng của ngân hàng. Các DNVVN chủ yếu có nhu cầu vốn ngắn hạn trong thời gian gấp, trongkhi đó quy trình cho vay của ngân hàng lại trải qua nhiều bước kéo dài thời gian. Trong quy trình cho vay của NHN0 & PTNTVN không phân biệt riêng với các đối tượng khách hàng mà áp dụng cho cả doanh nghiệp lớn và DNVVN , dẫn đến một khoản cho vay không lớn cũng có thể trải qua các bước phức tạp tương tự như một khoản vay lớn khác. Điều này gây khó khăn cho cả ngân hàng và cho cả khách hàng đến vay vốn.
+ Ngoài ra công tác Marketing tiếp xúc khách hàng còn nhiều hạn chế. Nhiều khách hàng còn chưa nắm được các thông tin về thủ tục, quy trình cho vay các giấy tờ hồ sơ cần thiết để được vay vốn ngân hàng nên phải đi lại nhiều lần, mất thời gian và chi phí cho cả hai bên. không những thế nó còn tạo nên tâm lý ngại tiếp xúc với các ngân hàng của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện nay chủ yếu quan hệ với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa biết rõ hoạt động của các ngân hàng trong nước.
+ Một nguyên nhân xuất phát từ thực tế rất riêng của Sở mà trong các báo cáo kết quả kinh doanh SGD NHN0 & PTNTVN cũng đề cập và kiến nghị lên các cấp lãnh đạo ở trên. Đó là tình hình biên chế lao động. Trong khi khối lượng công việc của Sở giao dịch tăng lên nhiều nhưng biên chế lao động được bổ sung chưa tương xứng. Nhiều phòng chuyên môn hiện nay thiếu cán bộ làm việc, mặt bằng chật hẹp, đã hạn chế chất lượng giao dịch phục vụ khách hàng. Cụ thể với phòng kinh doanh, hạn chế này còn ảnh hưởng rất nhiều tới việc thực hiện mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng với các DNVVN nói riêng. Hiện nay số lượng cán bộ của phòng kinh doanh tổng cộng có 10 người, ngoài một trưởng phòng và hai phó phòng ra, còn lại chỉ có 7 người trực tiếp làm công tác tín dụng. Với một số lượng khách hàng và số dư nợ như hiện nay thì mỗi một cán bộ tín dụng phải quản lý một số lượng dư nợ rất lớn, tỷ lệ dư nợ/cán bộ tín dụng hiện nay của Sở là lớn nhất trong hệ thống NHN0 & PTNTVN .
Chương III
Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh Nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch NHN0 & PTNT Việt Nam
I. Định hướng phát triển của Sở giao dịch NHN0 & PTNTVN và quan điểm của Sở về hoạt động cho vay.
1. Mục tiêu hoạt động cho năm 2003:
Phát huy những thành tựu đã đạt được trong năm 2002, Ban lãnh đạo Sở giao dịch NHN0 & PTNTVN đã đề ra những mục tiêu phát triển của năm 2003, cụ thể trong lĩnh vực tín dụng như sau :
Các mục tiêu chung:
- Phấn đấu mở rộng nguồn vốn , đặc biệt quan tâm đến tăng trưởng huy động vốn trung và dài hạn, phấn đấu nguồn vốn đạt 3874 tỷ đồng, tăng trưởng 19% so với 31/12/2002 (Trong đó loại trừ 420 tỷ nguồn vốn do Công ty Chứng khoán NHN0 & PTNTVN làm đại lý phát hành , thì tốc độ tăng trưởng nguồn vốn năm 2003 của SGD là 37%)
- Dư nợ đạt 1.330 tỷ đồng, tăng trưởng 47% so với 31/12/2002
trong đó : Tỷ trọng dư nợ ngắn hạn chiếm 23% trong tổng dư nợ
-Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 1% tổng dư nợ
-Kết quả tài chính: đảm bảo kinh doanh có lãi, chênh lệch quỹ thu nhập đạt 150 tỷ đồng (tăng 15% so với năm 2002). Đảm bảo quỹ tiền lương theo quy định
- Chênh lệch lãi suất đầu ra- đầu vào : 0,3%/tháng
- Tỷ trọng thu dịch vụ trong tổng thu chiếm 25%
2. Một số triển khai mở rộng tín dụng ;
- áp dụng các phương thức cho vay phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh , luân chuyển vốn của từng doanh nghiệp ; đơn giản, thuận tiện thủ tục vay vốn nhưng vẫn đảm bảo đúng quy trình nghiệp vụ, đầy đủ căn cứ pháp lý, an toàn và hiệu quả vốn tín dụng .
- Tiếp tục nâng cao hiệu lực công tác điều hành bằng các quy trình, quy chế nghiệp vụ. Bám sát chỉ tiêu định hướng của NHN0 & PTNTVN đã đề ra để chỉ đạo thực hiện, tăng cường mở rộng tín dụng đi đôi với nâng cao tín dụng .
- Tăng cường hoạt động chăm sóc khách hàng truyền thống và mở rộng số lượng khách hàng vay vốn bằng những biện pháp cụ thể : Chủ động tiếp cận các Tổng công ty xây và đơn vị thành viên hoạt động sản xuất kinh doanh ổn đinh, hiệu quả như TCT xây dựng công trình giao thông I, TCT hàng hải Việt Nam , TCT hàng không Việt Nam v..v .. để thiết lập quan hệ tín dụng. Bám sát các đơn vị đang có quan hệ tín dụng để chủ động nắm bắt nhu cầu vốn, đầu tư cho vay đảm bảo an toàn, hiệu quả.
- Tiếp tục mở rộng cho vay theo hạn mức tín dụng để xử lý các món vay nhanh chóng, thuận tiện đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng nhưng vẫn đảm bảo chấp hành đúng, đầy đủ quy trình nghiệp vụ
- Tăng cường cho vay các doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh ổn định, có hiệu quả, các đối tượng vay nhu cầu đời sống. Từng bước mở rộng cho vay tiêu dùng phù hợp với điều kiện mặt bằng và lao động của Sở giao dịch, đảm bảo an toàn vốn và hiệu quả.
II. Một số giải pháp mở rộng cho vay các DNVVN tại SGD NHN0 & PTNTVN .
1. Đối với SGD NHN0 & PTNTVN .
1.1. Xây dựng cơ chế cho vay phù hợp và linh hoạt:
Một trong những nguyên nhân khiến cho tỷ trọng tín dụng cho các DNVVN tại SGD NHN0 & PTNTVN còn thấp là do SGD vẫn chưa có những chính sách tín dụng hướng đến đối tượng này.Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng hơn, SGD cần xây dựng một chính sách tín dụng linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Cần đổi mới cơ chế cho vay của SGD theo những hướng sau :
* Về chính sách lãi suất:
Cho vay các khách hàng là DNVVN chứa nhiều rủi ro hơn và món vay nhỏ hơn so với các khách hàng lớn. Vì vậy không thể đưa ra mức lãi suất ưu đãi như đối với các Tổng công ty lớn đã có quan hệ tín dụng lâu dài được. Tuy nhiên ngân hàng vẫn có thể đưa ra các mức lãi suất khác nhau áp dụng cho các ngành nghề sản xuất kinh doanh đang có nhiều triển vọng phát triển, được Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ, các khách hàng vay vốn với số lượng lớn, hoặc có quan hệ vay trả thường xuyên, được ngân hàng tín nhiệm thì có thể xem xét mức lãi suất thấp hơn so với các khách hàng khác.
* Về phương thức cho vay:
Trong quy chế cho vay của tổ chức tín dụng do NHNN ban hành và trong các văn bản hướng dẫn thực hiện của NHN0 & PTNTVN , đều có quy định: Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng , độ tín nhiệm của khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng, ngân hàng thoả thuận với khách hàng về việc lựa chọn phương án cho vay . Quy chế này cho phép SGD chủ động lựa chọn phương thức cho vay phù hợp với đặc điểm của từng khách hàng .
Hiện nay các DNVVN mới chỉ được vay ngân hàng theo một phương thức duy nhất là vay theo món, điều này làm hạn chế khả năng mở rộng hoạt động tín dụng của SGD NHN0 & PTNTVN. Do đó, giải pháp về phương thức cho vay ở đây là ngân hàng nên mạnh dạn áp dụng phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng đối với các khách hàng có tình hình sản xuất kinh doanh ổn định, vay vốn trả nợ thường xuyên và có tín nhiệm với ngân hàng .
* Thời hạn cho vay :
Sẽ không chỉ căn cứ vào mục đích vay mà còn căn cứ vào chu kỳ sản xuất , kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng cần tham gia như một nhà đầu tư. Có thể coi ngân hàng như một cổ đông được ưu tiên thu lãi ngay đầu tiên và phải rút ra khỏi hội đồng quản trị sau khi đã thu được toàn bộ vốn vay cả gốc lẫn lãi.
Một nhân tố hết sức quan trọng trong việc bảo đảm an toàn vốn vay cho ngân hàng cũng như tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng số tiền vay được một cách hiệu quả là xác định kỳ hạn nợ hợp lý. Điều này phụ thuộc vào chính bản thân ngân hàng mà cụ thể là cán bộ tín dụng trực tiếp quản lý khoản vay đó.
Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng việc định kỳ hạn nợ cho khoản vay tuyệt đối chính xác là rất khó nhưng có thể dựa trên những thông tin từ khách hàng như báo cáo tài chính, gồm bảng tổng kết tài sản, báo cáo thu nhập, bảng lưu chuyển tiền tệ và kế hoạch sản xuất kinh doanh , hợp dồng mua bán của doanh nghiệp kết hợp với trình độ cán bộ tín dụng sẽ xác định được kỳ hạn nợ tương đối chính xác. cần tránh đặt một kỳ hạn nợ quá ngắn không đủ một chu kỳ luân chuyển vốn gây khó khăn cho khách hàng hoặc một kỳ hạn nợ quá dài làm cho khách hàng khi có tiền chưa muốn trả ngân hàng ngay mà lại sử dụng vào việc khác.
* Vấn đề đảm bảo tiền vay:
Hiện nay, vấn đề tài sản đảm bảo tiền vay là một khó khăn lớn cho các DNVVN khi tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Thực tế cho thấy, nhiều ngân hàng khi xem xét một đơn xin vay hầu như chỉ quan tâm đến giá trị tài sản thế chấp và các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp của khách hàng có đầy đủ và hợp pháp không. Nhưng trong điều kiện nước ta thời gian qua thì tài sản thế chấp chưa thể được coi là một đảm bảo chắc chắn cho doanh nghiệp bởi vấn đề xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều khúc mắc, ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn khi doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả.
Vì vậy vấn đề tài sản thế chấp không còn là điều kiện quan trọng nhất để ngân hàng xem xét cho vay nữa mà điều cần quan tâm là hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, uy tín trên thị trường và sự sẵn lòng trả nợ đúng hạn của đơn vị đó.Ngân hàng cần nắm được thông tin này rồi thì mới có thể linh động hơn trong việc đặt quan hệ tín dụng với doanh nghiệp chứ không e dè và chặt chẽ như hiện nay.
Sở giao dịch nên mạnh dạn xem xét hình thức cho vay tín chấp. Đối với hình thức này ngân hàng có thể dựa trên uy tín và kết quả hoạt động thực tế của doanh nghiệp . Có thể áp dụng hình thức cho vay tín chấp này đối với doanh nghiệp đã có quan hệ lâu dài, tin cậy với ngân hàng. Bên cạnh đó có thể xem xét cho vay các DNVVN khi có sự đảm bảo của các doanh nghiệp lớn, các Tổng công ty đang quan hệ với SGD NHN0 & PTNT Việt Nam. SGD có thể xem xét cho vay các dự án của DNVVN khi sản phẩm của nó được sử dụng phục vụ cho hoạt động các doanh nghiệp lớn. Trong trường hợp này cần có sự đảm bảo của các khách hàng lớn đó, và cam kết của DNVVN về mục đích sử dụng vốn vay. Tuy nhiên trong cả hai trường hợp trên khách hàng phải có đủ số liệu thực tế để chứng minh được tình hình tài chính của mình là lành mạnh, có tài sản cố định và tài sản lưu động đủ lớn, những hàng hoá dịch vụ đang sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả và ổn định trên thị
* Thành lập quỹ riêng để cho vay DNVVN và có cơ chế xử lý rủi ro thích hợp:
Việc thành lập một quỹ dành riêng để cho vay như vậy sẽ tạo được nguồn vốn ổn định, chủ động đáp ứng nhu cầu của DNVVN, đồng thời giúp cán bộ tín dụng yên tâm hơn khi cho vay đối với DNVVN. Thực tế hiện nay, mới chỉ có ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam là đã thành lập quỹ này. Ngân hàng này đã thành lập một ban chỉ đạo cho vay đối với DNVVN do một Phó Tổng giám đốc phụ trách; đồng thời tách riêng một quỹ với tổng trị giá 500 tỷ đồng để thực hiện chương trình cho vay đối với các doanh nghiệp này. SGD có thể học hỏi kinh nghiệm về việc thành lập và sử dụng quỹ này tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam .
1.2. Thực hiện tốt chính sách marketing trong việc tiếp cận với các DNVVN
Trong tình hình hiện nay các tầng lớp dân cư, hộ sản xuất hiểu biết rất hạn chế về hoạt động tín dụng ngân hàng. Nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng, việc vay vốn của ngân hàng rất khó khăn về thủ tục, thời gian hơn nữa họ cũng không hiểu biết về các hình thức cho vay mà ngân hàng đang áp dụng như về thời gian, lãi suất từ đó ngân hàng bị mất khả năng lựa chọn làm đơn vị tài trợ vốn cho khách hàng. Trong cơ chế thị trường , để hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, Sở cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay đối với khu vực DNVVN , đặc biệt là với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Đối với từng đối tượng khách hàng phải áp dụng các biện pháp marketing khác nhau, phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của ngân hàng. Có thể xem xét một số biện pháp là:
Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng: quảng cáo luôn là một biện pháp hữu hiệu đối với bất kì loại hình doanh nghiệp nào. Các phương tiện được áp dụng ở đây là truyền thanh, truyền hình, các loại báo chí. Khi có một sản phẩm mới ra đời hoặc có sự thay đổi trong cung cấp dịch vụ , Sở giao dịch nên thông báo rộng rãi ra công chúng, để các doanh nghiệp nắm được thông tin mới nhất về những lợi ích do SGD cung cấp
Trực tiếp tiếp cận khách hàng : hoạt động này được thực hiện thường xuyên, mọi lúc mọi nơi. Cán bộ ở các bộ phận giao dịch với khách hàng có thể giới thiệu về các sản phẩm tín dụng , mời khách hàng đặt quan hệ tín dụng với ngân hàng. Các cán bộ ngân hàng khi đi dự hội thảo, hội nghị, tranh thủ làm quen với các doanh nghiệp và giới thiệu họ đến giao dịch với ngân hàng mình…Tiếp tục tổ chức tốt hội nghị khách hàng ,qua đó củng cố mối quan hệ gắn bó giữa ngân hàng với doanh nghiệp , lấy ý kiến của các doanh nghiệp về những mong muốn của họ, những khó khăn thực tế doanh nghiệp phải đối mặt khi vay vốn ngân hàng. Từ đó nắm được nhu cầu của khách hàng và đề ra những phương hướng đáp ứng, ngoài ra còn có thể hiểu thêm những mong muốn của khách hàng để nghiên cứu triển khai những loại hình sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng những nhu cầu đó.
Hiện nay tại SGD NHN0 & PTNTVN, phòng kinh doanh đảm trách luôn cả công tác Marketing. Trước mắt SGD chưa có điều kiện lập một phòng Marketing riêng, thì phải nhanh chóng thành lập bộ phận "chăm sóc khách hàng " trong phòng kinh doanh với chức năng chuyên nghiên cứu các cơ chế chính sách của Nhà nước liên quan đến hoạt động kinh doanh của khách hàng ; các cơ chế nghiệp vụ, cơ chế ưu đãi của các NHTM khác đang áp dụng từ đó thực hiện tiếp thị mở rộng khách hàng và đề xuất các chính sách về khách hàng.
Bộ phận này không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền quảng cáo mà quan trọng hơn là tìm hiểu về khách hàng trong môi trường kinh doanh của ngân hàng, tổ chức phân tích tài chính doanh nghiệp , phân loại khách hàng. Cũng từ việc tìm kiếm nghiên cứu về khách hàng, hiểu rõ các nhu cầu của khách hàng mà đưa ra các giải pháp, các chiến lược như chiến lược sản phẩm, chiến lược lãi suất nhằm tạo ra sự khác biệt hơn của ngân hàng mình so với các ngân hàng khác và các chính sách này sẽ phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
1.3. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin về khách hàng
Trở ngại đối với khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của DNVVN thường xuất phát từ hai phía ngân hàng và doanh nghiệp, song nhìn tổng thể về thị trường đó là tình trạng thông tin mất đối xứng. Cụ thể là doanh nghiệp không có thông tin đầy đủ về ngân hàng và ngân hàng không có thông tin đầy đủ về phía doanh nghiệp. Vì vậy thông tin về khách hàng trong hoạt động tín dụng đóng vai trò rất quan trọng, thông tin càng chính xác thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng có cơ sở vững chắc trong suốt quá trình trước-trong và sau khi cho vay.
Để có thể vừa thực hiện mở rộng tín dụng nhưng vẫn đảm bảo an toàn, hiệu quả trong kinh doanh đòi hỏi SGD xây dựng và củng cố hệ thống thông tin về khách hàng, trong đó bao gồm cả khách hàng vay vốn đã và đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng và cả khách hàng tiềm năng, đặc biệt khách hàng là các DNVVN ngoài quốc doanh vì đây là một thị trường rộng lớn nhưng hầu như chưa được các NHTMQD khai thác.
Các thông tin về khách hàng vay vốn, bao gồm :
+ Các thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng: doanh thu thực hiện, sản phẩm chủ yếu, nộp ngân sách, lợi nhuận, nguồn vốn chủ sở hữu, số lượng cán bộ CNV, thu nhập bình quân tháng, thông tin về quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng.
+ Các thông tin liên quan đến khách hàng : nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào, thị trường tiêu thụ sản phẩm, giá cả của sản phẩm, công nghệ…
Các thông tin này có thể lấy từ nhiều nguồn khác nhau: từ khách hàng, từ bạn hàng của khách hàng đó, thậm chí có thể phỏng vấn công nhân hoặc những người sống xung quanh...Hiện nay, việc ra đời Trung tâm phòng ngừa rủi ro (CIC) của NHNN năm 1992 (thành lập lại vào năm 1999) để thu thập và cung cấp thông tin cho các TCTD như đăng ký thành lập, giải thể-phá sản doanh nghiệp, tình hình tài chính, các mối quan hệ tín dụng, ... là một nguồn thông thông tin rất quan trọng, đáng tin cậy cho ngân hàng. Tuy nhiên, muốn có thông tin lành mạnh, chính xác đòi hỏi tất cả các NHTM cần thấy được tầm quan trọng và cùng mong muốn, hợp tác xây dựng một CIC hoạt động hiệu quả, đảm bảo thông tin cung cấp chính xác, đầy đủ, cập nhật.
Ngoài ra thông tin về khách hàng có thể được khai thác từ Bộ KH&ĐT, các Bộ chuyên ngành, Sở KH&ĐT, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất…thực tế cho thấy các chi nhánh NHN0 có cho vay doanh nghiệp lớn, thường khai thác tốt nguồn thông tin này.
1.4. Đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ đến các DNVVN:
Điều này vừa tạo sự tiện ích cho khách hàng khi quan hệ với ngân hàng , giúp ngân hàng thu hút khách hàng cũng như tạo mối dây liên hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp qua những khoản ký thác và cho phép hình thành những đảm bảo tài chính an toàn cho ngân hàng . Trong cạnh tranh giữa các ngân hàng, một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sức mạnh của ngân hàng là chất lượng phục vụ khách hàng. Các doanh nghiệp luôn đánh giá cao ngân hàng có thái độ phục vụ tốt, tận tình. Để đạt được điều đó, Sở giao dịch cần không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, xây dựng những chính sách , quy định hợp lý, cụ thể như:
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ tín dụng không những về chuyên môn nghiệp vụ mà còn về khả năng giao tiếp với khách hàng, có thể giúp đỡ khách hàng trong việc thực hiện các dự án, phương án sản xuất kinh doanh
Cung cấp dịch vụ với quy trình gọn nhẹ đơn giản nhưng vẫn đảm bảo đầy đủ tính chặt chẽ, đúng quy định. Các thủ tục giấy tờ không cần thiết nên được lược bỏ để giảm thời gian và chi phí cho khách hàng. Thời gian trong kinh doanh luôn luôn quan trọng, vì vậy khi giảm được thời gian chờ đợi, doanh nghiệp có nhiều khả năng nắm bắt được các cơ hội kinh doanh
Chú trọng đến những cán bộ ngân hàng thường xuyên phải tiếp xúc khách hàng, đảm bảo họ là bộ mặt đáng tin cậy của ngân hàng trước các doanh nghiệp.
1.5. Coi trọng công tác tổ chức và bồi dưỡng cán bộ.
Con người là nguồn lực quý báu nhất, là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động, đặc biệt trong hoạt động tín dụng con người lại càng đóng vai trò quan trọng do toàn bộ quá trình từ thẩm định tín dụng, quyết định cho vay, thu hồi nợ, kiểm tra, kiểm soát…đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm.
Trong thực tế các dự án của các DNVVN đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, để đảm bảo công tác thẩm định tốt, là một khâu vô cùng quan trọng quyết định hoạt động cho vay có hiệu quả hay không, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có một kiến thức tổng hợp. Vì vậy, kết quả hoạt động cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo, và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng .
Thêm vào đó, để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, đòi hỏi các NHTM cần đổi mới phương thức kinh doanh từ bị động đến chủ động hơn, tích cực tìm kiếm các khả năng cho vay. Để thực hiện điều này đòi hỏi các ngân hàng phải tiếp tục tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có phẩm chất tốt, đặc biệt là có tâm huyết với nghề, đi sâu đi sát cơ sở để tìm kiếm cơ hội đầu tư.
Tại SGD , đại đa số đội ngũ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế, do tính chất phức tạp của kinh tế thị trường, đặc biệt là những vướng mắc trong khu vực DNVVN , thì việc cán bộ tín dụng luôn luôn phải học hỏi, trau dồi kiến thức nghiệp vụ và cả những kiến thức tổng hợp một cách thường xuyên là một đòi hỏi khách quan. Các DNVVN là một thị trường rộng nhưng khó tiếp cận được với tín dụng ngân hàng , đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, do xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân doanh nghiệp nhưng ngân hàng lại có khả năng hỗ trợ được, chẳng hạn như : những vấn đề liên quan đến việc tư vấn cho khách hàng làm sao có thể sử dụng hiệu quả nhất đồng vốn của mình… một số doanh nghiệp chưa có thói quen lập phương án sản xuất kinh doanh mà thực hiện tới đâu thì lo tới đó, do chủ doanh nghiệp thường thiếu kinh nghiệm lập dự án, không có thông tin chính xác, kịp thời, nên rất lúng túng trong việc lập phương án sản xuất kinh doanh , cần có sự giúp đỡ của cán bộ tín dụng. Điều này đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải được bồi dưỡng kiến thức toàn diện, từ đó mới có thể tư vấn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng là các DNVVN .
SGD đã tổ chức các lớp huấn luyện nghiệp vụ thường xuyên. công tác này cần được tiếp tục triển khai, mở rộng hơn nữa, nhằm giúp các cán bộ có khả năng bắt kịp sự phát triển kinh tế đất nước, làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho việc mở rộng hoạt động cho vay đối với DNVVN.
2. Kiến nghị đối với các DNVVN :
2.1. tăng cường kỹ năng quản lý và khả năng tiếp cận thị trường:
Nâng cao kỹ năng quản lý doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh đầy cạnh tranh và đầy biến động trong nền kinh tế thị trường là một yêu cầu cấp thiết. Các chủ doanh nghiệp cần trang bị cho mình những kiến thức, kinh nghiệm về thị trường , về hoạt động sản xuất kinh doanh , về đối thủ cạnh tranh.
Cụ thể như: thông qua các Câu lạc bộ doanh nghiệp ," vườn ươm DNN" để được cung cấp thông tin về kỹ năng hiện quản lý hiện đại, tư vấn chọn lựa phương án sản xuất kinh doanh , công nghệ, máy móc, thiết bị…hoặc tham gia vào các chương trình, hội thảo, các khoá đào tạo ngắn hạn do Dự án phát triển DNVVN Việt Nam , Chương trình phát triển DNVVN thuộc Dự án Mêkông (MPDF) tổ chức, hoặc tiếp cận với Trung tâm hỗ trợ DNVVN của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam để được giúp đỡ giải quyết những khó khăn về vốn, về thị trường trong nước và các cơ hội hợp tác quốc tế. Đặc biệt trong thời gian tới các DNVVN nên chú ý đến các chương trình trợ giúp tổng hợp của Nhà nước đã và đang được triển khai tại các Tỉnh, Thành phố được đề cập đến trong Nghị định 90/2001 của Chính phủ.
2.2 Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm:
Các doanh nghiệp phải nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng, sự cần thiết của việc lập phương án SXKD và kế hoạch SXKD định kỳ, việc này giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong kinh doanh , không bị bất ngờ trước những biến động của thị trường , tránh tình trạng thực hiện đến đâu thì lo đến đấy. Đây cũng là một điều kiện giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng. Doanh nghiệp có thể yêu cầu cán bộ Ngân hàng tư vấn, giúp đỡ lập phương án, kế hoạch SXKD, thẩm định tính khả thi và hiệu quả kinh tế của dự án.
2.3. Thực hiện chế độ kế toán đầy đủ, theo đúng quy định của Nhà nước
Các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán theo pháp lệnh hạch toán kế toán, đảm bảo tình hình tài chính minh bạch, các báo cáo tài chính đầy đủ thông tin, có tính chân thực cao…giúp các cán bộ ngân hàng thẩm định nhanh chóng, chính xác, tạo sự tin tưởng cho ngân hàng trong việc xét duyệt cho vay vốn.
2.4. Hoàn thành thủ tục pháp lý cho bất động sản
Hiện nay, tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng chủ yếu là đất đai và bất động sản gắn liền với đất. Thực tế cho thấy, nhiều tài sản đất đai, nhà xưởng, kho bãi…của DNVVN dân doanh không được chấp nhận là tài sản thế chấp do tính chất pháp lý của những tài sản đó chưa đầy đủ theo quy định. Doanh nghiệp nên khẩn trương làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) để có thêm điều kiện vay vốn từ ngân hàng .
2.5. Tạo mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp lớn:
Các DNVVN có thể bắt đầu bằng các hợp đồng đơn lẻ với các doanh nghiệp lớn, duy trì thường xuyên mối quan hệ kinh tế , dần dần trở thành những bạn hàng đáng tin cậy, làm doanh nghiệp vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, là người cung cấp nguyên liệu, sản phẩm trung gian đầu vào hoặc làm đại lý tiêu thụ, phân phối những sản phẩm đầu ra. Đây cũng là một lợi thế chứng tỏ khả năng của DNVVN khi ngân hàng xem xét cho vay hoặc doanh nghiệp có thể nhận được sự bảo lãnh của chính các doanh nghiệp lớn trong khi quan hệ tín dụng với ngân hàng.
2.6. Nâng cao trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về quy trình cho vay
Một trong những khó khăn của ngân hàng khi cho vay các DNVVN là sự hiểu biết của các doanh nghiệp về quy trình cho vay còn nhiều hạn chế, nên không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng , gây ra sự chậm trễ, mất nhiều thời gian cho cả hai phía ngân hàng và doanh nghiệp. Việc hiểu biết về quy trình cho vay sẽ giúp doanh nghiệp xây dựng được dự án có tính khả thi, cung cấp đầy đủ thông tin ngân hàng yêu cầu, thực hiện quản lý tài chính chặt chẽ, tạo sự tin tưởng đối với ngân hàng thông qua quá trình hoạt động và quan hệ vay trả. Đồng thời rút ngắn thời gian xin vay, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp.
Do vậy, các DNVVN cần chủ động đào tạo, đào tạo lại dưới nhiều hình thức nhằm trang bị kiến thức chuyên môn, tay nghề, trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý nhất là các chủ doanh nghiệp. Các hình thức đào tạo có thể là chính quy, tại chức, đào tạo từ xa phù hợp với những người đương chức, nhằm phổ biến cho doanh nghiệp những kiến thức, kinh nghiệm, phương thức kỹ năng, thủ tục và quy trình thực hiện những khâu trong quá trình vay.
3. Kiến nghị đối với NHN0 & PTNT Việt Nam:
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh những sai sót, phòng ngừa rủi ro. Việc kiểm tra, kiểm soát phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực hoạt động của chi nhánh.
Có chế độ khen thưởng rõ ràng, công minh cho các đơn vị trực thuộc nhằm khuyến khích, thúc đẩy các đơn vị đó hoạt động hiệu quả hơn. Tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chi nhánh trực thuộc ngân hàng trên cùng một địa bàn. Nghiên cứu chế độ khen thưởng có tính chất khuyến khích cán bộ tín dụng mở rộng tín dụng.
- Nghiên cứu ban hành cơ chế lãi suất trong nội bộ ngân hàng có tính chất khuyến khích mở rộng tín dụng trên địa bàn.
.
Hỗ trợ SGD Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam kinh phí trong công tác đào tạo nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn cho các cán bộ công nhân viên chức nói chung, cán bộ tín dụng nói riêng của ngân hàng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn theo từng chuyên đề như : thẩm định tín dụng, thanh toán quốc tế… hỗ trợ cho các chi nhánh trực thuộc kinh phí để hiện đại hoá cơ sở giúp cho các cơ sở tăng được tính cạnh tranh của mình, hoạt động có hiệu qủa.
vấn đề biên chế lao động của Sở đang là một khó khăn lớn trong việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và việc mở rộng tín dụng với các DNVVN nói riêng. Đề nghị NHN0 & PTNT Việt Nam nhanh chóng bổ sung biên chế lao động cho phù hợp với nhiệm vụ Sở được giao.
4. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước:
Đến nay, Đảng và Nhà nước đã nhận thức được vai trò to lớn của các DNVVN đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam, và đã có một số biện pháp để khuyến khích, hỗ trợ phát triển khu vực này. tuy nhiên để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của DNVVN , Nhà nước phải là thành viên tích cực và quan trọng hơn trong việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để Ngân hàng có thể mở rộng tín dụng đến các DNVVN, cũng như các doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng nguồn vốn của Ngân hàng. Muốn vậy, chính sách của Nhà nước đề ra phải phù hợp với tình hình chung của các doanh nghiệp và Ngân hàng, trong đó cần được thay đổi và bổ sung như sau:
+ Xúc tiến xây dựng chiến lược phát triển khu vực DNVVN :
Nghị định 90/2001 NĐ- CP của Chính phủ là một tiền đề quan trọng tạo điều kiện cho sự phát triển của các DNVVN. Tuy nhiên để tạo thuận lợi hơn nữa cho khu vực này cần có một chiến lược lâu dài, ổn định với những biện pháp cụ thể hơn. Do vậy, chiến lược này cần khẳng định và nêu bật được vai trò của các DNVVN trong nền kinh tế Việt Nam, đưa ra những hướng ưu tiên phát triển khu vực này theo ngành, vùng lãnh thổ, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Có những biện pháp khuyến khích đối với một số đối tượng là các DNVVN sản xuất các sản phẩm thuộc ngành nghề truyền thống (mây tre đan, gỗ mỹ nghệ, dệt thủ công) và các sản phẩm tiêu dùng thuộc các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Đồng thời có những biện pháp định hướng cho doanh nghiệp về công nghệ, thị trường.
+ Chính sách tài chính tín dụng :
Trong những khó khăn trực tiếp tác động đến việc mở rộng tín dụng của ngân hàng nói chung và của SGD NHN0 & PTNTVN nói riêng đối với DNVVN là chính sách tài chính tín dụng. Chính sách này thực sự nhiều bất cập, chưa thông thoáng, chưa tạo điều kiện pháp lý để doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng. Chính sách tài chính tín dụng cần được thay đổi như sau:
- Tiếp tục xúc tiến việc thành lập các quỹ hỗ trợ về vốn từ các nguồn Ngân sách trung ương và địa phương. Thu hút sự tham gia đóng góp của các doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp lớn và Ngân hàng để giúp đỡ DNVVN có triển vọng kinh doanh hiệu quả, sản xuất mới, đào tạo tay nghề.
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm của các DNVVN trên nguyên tắc vừa đảm bảo an toàn cho vốn của ngân hàng , vừa đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp một cách thuạn tiện và nhanh chóng. Cơ chế tín dụng thay đổi tạo điều kiện cho phép các doanh nghiệp không có tài sản thế chấp hoặc vốn tự có đủ để tham gia dự án xin vay, được phép vay vốn Ngân hàng nhưng cần có quy định rõ ràng tránh việc đơn giản hoá, cho phép ngân hàng được tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động kinh doanh như cho vay , huy động vốn.'
+ Chính sách công nghệ:
Nhà nước cần có chủ trương biện pháp định hướng công nghệ cho các doanh nghiệp , giúp các doanh nghiệp tiếp cận các thông tin về công nghệ trên thị trường trong và ngoài nước. Nhà nước có thể tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo có sự tham gia của các DNVVN để lắng nghe ý kiến của các doanh nghiệp về khó khăn trong lĩnh vực công nghệ, đồng thời tư vấn cho họ những thông tin cần thiết, có thể phần nào hỗ trợ cho những doanh nghiệp thuộc diện ưu tiên.
Mặt khác, nhà nước thúc đẩy việc tiếp cận công nghệ của doanh nghiệp bằng cách cải thiện điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước gia nhập thị trường theo hướng càng đơn giản càng tốt. Các thủ tục đăng ký kinh doanh hợp lý cho phép nhiều DNVVN tham gia thị trường. Điều này sẽ tăng cường sức cạnh tranh, thúc đẩy mạnh mẽ phát triển công nghệ mới ở tất cả các DNVVN , tạo cơ hội cho các DNVVN hỗ trợ đào tạo những nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên của DNVVN.
Kết luận
Nhận thức được sự phát triển và tiềm năng của các DNVVN , trong tương lai các doanh nghiệp này là đối tượng cạnh tranh gay gắt của các TCTD nên trong thời gian qua, đặc biệt từ năm 2001, các NHTM đều có chủ trương đẩy mạnh cho vay các DNVVN với mục đích vừa mở rộng thị phần, tăng trưởng tín dụng , và cung cấp dịch vụ để thu phí. SGD NHN0 & PTNTVN cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Tuy nhiên với những điều kiện, đặc điểm riêng nên mối quan hệ tín dụng giữa các DNVVN và SGD NHN0 & PTNTVN còn khá mới mẻ, không thể tránh khỏi những khó khăn hạn chế. Vì vậy tìm ra giải pháp để mở rộng cho vay đối với khu vực này là điều cần thiết, nhất là trong tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
Sách " Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính "- Frederic S. Mishkin
Giáo trình "Tài chính doanh nghiệp" – TS. Lưu Thị Hương.
Giáo trình " Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ" – TS. Phan Thị Thu Hà- TS. Nguyễn Thị Thu Thảo.
Nghị định số 90/2001/NĐ- CP về trợ giúp DNVVN
Quyết định số 193/2001/QĐ- Ttg về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Bảo lãnh tín dụng cho DNVVN .
Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng .
Báo cáo kết quả kinh doanh của Sở giao dịch NHN0 & PTNTVN năm 2000- 2002.
Báo cáo cho vay của Sở giao dịch NHN0 & PTNTVN năm 2000- 2002.
Tạp chí ngân hàng, tạp chí tài chính, tạp chí tài chính doanh nghiệp , tạp chí thị trường tiền tệ, thời báo kinh tế,tạp chí nghiên cứu kinh tế,tạp chí con số và sự kiện,… năm 2000- 2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29700.doc