Cần tiến hành thường xuyên và chặt chẽ hơn nữa công tác kiểm soát trong nội bộ ngân hàng nhằm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót trong công tác tín dụng. Nội dung kiểm tra hoạt động tín dụng bao gồm: Kiểm tra hồ sơ cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn thu nợ, mức tín dụng được cấp, tài sản bảo đảm nợ vay.
Ngoài việc kiểm tra cần phải đi vào xem xét về mục đích sử dụng tiền vay, khả năng trả nợ trực tiếp của một số khách hàng vay vốn để có ý kiến với lãnh đạo và cán bộ tín dụng có liên quan.
Việc kiểm soát được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng, song ở đây Ngân hàng chỉ nên tập trung vào một số những vấn đề mà hay có những sai sót trong thực hiện. Đây cũng là nội dung mà ngân hàng cần quan tâm trong công tác kiểm soát nội bộ.
Cần tiến hành thường xuyên công tác phân tích tín dụng và phân loại khách hàng nhằm tìm ra những biện pháp cho vay, đầu tư và quản lý vốn cho vay có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tiến hành phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng hiện hành qua đó rút ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi để đề ra biện pháp khắc phục có hiệu quả. Kiến nghị tập trung thu hồi dứt điểm các loại nợ khê đọng, nợ khó đòi và nợ quá hạn; tiến hành sử lý các rủi ro phát sinh từ trước đến nay theo chế độ hiện hành.
104 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n bảo đảm nợ vay của doanh nghiệp để thu hồi nợ, đây là điều bất đắc dĩ. Vì vậy, trong thực tế có những vướng mắc trong việc nhận tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh để bảo đảm nợ vay thì ngân hàng một mặt tiến hành kiến nghị với các cấp có thẩm quyền để cùng tháo gỡ theo mức độ bức xúc của từng vấn đề. Mặt khác, chúng ta cần có biện pháp linh hoạt và mềm dẻo hơn trong vấn đề nhận tài sản bảo đảm nợ vay để mở rộng được vốn cho vay đồng thời vẫn bảo đảm được sự an toàn vốn cho ngân hàng.
Thực tế, ở Quảng ninh phần lớn nhà ở, cửa hàng của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ gia đình chưa có giấy tờ về quyền sử dụng đất và sở hữu nhà hợp pháp hoặc có giấy tờ nhưng chưa đúng qui định hiện hành. Mặc dù nhà xưởng, cửa hàng, nhà ở do các cơ sở hoặc các hộ xây dựng bằng vốn tự có của mình, hoặc mua lại từ người khác, đã có thời gian ở và kinh doanh lâu năm ở đó được sự xác nhận của chính quyền địa phương. Các trường hợp này nếu cứng nhắc trong việc nhận tài sản thế chấp theo qui định thì chi nhánh không thể cho vay được. Nhưng ở đây chi nhánh có thể dựa vào các giấy tờ của chính quyền địa phương và các loại giấy tờ khác chứng minh được nguồn gốc nhà sở hữu chính chủ, không phải nhà đi thuê, nhảy dù, hoặc nhà vắng chủ bị lấn chiếm , nhà có tranh chấp... Nhiều trường hợp phải tìm hiểu tại các cơ quan chức năng như sở thiết kế, sở nhà đất, sở địa chính để loại trừ không cho vay đối với thế chấp nhà, đất thuộc khu vực đã được quy hoạch hoặc khu vực giải toả.
Sau khi xác định được tính hợp pháp về quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất của người vay để ngân hàng nắm được căn cứ pháp lý, tất cả các món vay đều yêu cầu người vay tự viết đơn theo hướng dẫn của cán bộ tín dụng. Trong đơn phải ghi rõ nội dung: Chúng tôi ( vợ, chồng, con) xin cam đoan trước ngân hàng và các cơ quan pháp luật tài sản ( nhà xưởng, nhà ở, cửa hàng ) thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình chúng tôi, chưa chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn liên doanh hoặc cho tặng người khác... Nếu nợ đến hạn chúng tôi không trả được tiền gốc và lãi thì ngân hàng có toàn quyền sử lí tài sản trên để thu hồi nợ gốc và lãi. Chúng tôi xin chịu mọi trách nhiệm trước pháp luật về những lời cam kết trên... Người vay và những người đồng sở hữu có tên trên hộ khẩu phải ký vào đơn trước sự chứng kiến của cán bộ tín dụng và chính quyền địa phương.
Đối với tài sản là máy móc thiết bị dây truyền sản xuất, khi thế chấp ngân hàng niêm phong máy móc dây truyền sản xuất , làm như vậy thì đảm bảo được tài sản thế chấp, nhưng doanh nghiệp phải ngừng hoạt động, như vậy cơ sở để hoàn trả vốn ngân hàng là không có hoặc hạn chế. Còn để máy móc dây truyền tiếp tục hoạt động thì việc hỏng hóc nặng nhiều khi xảy ra làm máy móc thiết bị hết giá trị. Để khắc phục được vấn đề này thì ngân hàng tiến hành phân loại, lựa chọn khách hàng của mình, tìm những khách hàng đủ tin cậy, tạo điều kiện cho họ được tiếp tục khai thác trên dây truyền thiết bị đó, nhưng phải cam kết bảo quản sửa chữa máy móc thiết bị khi có sự cố xảy ra và bắt buộc khách hàng phải gửi tiền khấu hao tài sản thế chấp vào ngân hàng hàng tháng và cam kết phải trả cho ngân hàng nếu nếu rủi ro xảy ra.
Ngân hàng sẽ lập cho khách hàng một tài khoản riêng để quản lí khoản tiền này dưới dạng tiền gửi tiết kiệm và trả lãi lãi cho khách hàng như mức huy động vốn trên thị trường làm như vậy thì mặc dù ngân hàng cho phép khách hàng có thể tiếp tục sử dụng tài sản thế chấp để không làm gián đoạn công việc sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến việc trả nợ ngân hàng, nhưng ngân hàng vẫn đảm bảo an toàn được vốn ở chỗ ngân hàng vẫn có thêm được một nguồn tiền gửi ổn định hàng tháng ( nếu dây truyền thiết bị là có giá trị và với nhiều khách hàng được áp dụng thì nguồn tiền này mỗi tháng là không nhỏ ), trong trường hợp khách hàng làm hư hại nghiêm trọng không thể phục hồi lại tài sản thế chấp thì ngân hàng sẽ lấy số tiền phát mại tài sản thế chấp và có thể lấy toàn bộ hoặc một phần số tiền từ nguồn tiền gửi khấu hao đã cam kết trong hợp đồng trên ( trong trường hợp còn thiếu), đây là biện pháp đảm bảo tương đối chắc chắn là ngân hàng sẽ thu hồi được vốn. Tuy nhiên, như đã nói ở phần trước việc ngân hàng có thu được gốc và lãi hay không phải căn cứ vào tính khả thi của dự án chứ không nên đặt vấn đề tài sản thế chấp lên hàng đầu như là một cái lá chắn để bao bọc đồng vốn của ngân hàng.
Bên cạnh đó, chi nhánh áp dụng hình thức mới để tạo ra một lối thoát cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp đó là việc thế chấp bằng hàng hoá mua về cơ sở sản xuất, kinh doanh:
Có thể nói thủ tục về tài sản thế chấp hiện nay vẫn còn là rào cản các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh. Hiện nay các doanh nghiệp này có vốn và tài sản rất thấp nên khi sử dụng tài sản để thế chấp thì vay được một lượng vốn rất thấp so với năng lực sản xuất kinh doanh của họ. Do đó các doanh nghiệp này thường phải tham gia vay “nóng” trên thị trường tự do điều đó sẽ làm giá thành, chi phí sản xuất của doanh nghiệp cao, giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, từ đó dẫn tới chỗ phá sản, giải thể, ngân hàng không thu hồi được nợ, gây mất ổn định cho nền kinh tế.
Thực tế cho thấy năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của kinh tế ngoài quốc doanh thường lớn hơn nhiều so với tài sản thực có của họ. Bởi vậy muốn mở rộng được tín dụng ngân hàng đồng thời tạo ra được lối thoát cho các doanh nghiệp, Ngân hàng nghiên cứu áp dụng hình thức cho vay có thế chấp bằng hàng hoá, nghiệp vụ này được tóm tắt như sau: Doanh nghiệp cần một khối lượng vốn để mua nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất hoặc mua hàng hoá dự trữ để bán... Ngân hàng có thể giải quyết cho vay hay không căn cứ vào số vốn mà doanh nghiệp cần vay, tính khả thi của việc sản xuất, kinh doanh hàng hoá và mức độ tiêu thụ sắp tới của nó trên thị trường. Khi ngân hàng đánh giá là dự án khả thi thì sẽ tiến hành cấp vốn và cử một hoặc hai cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn phụ trách ( tuỳ thuộc vào khối lượng công việc và tính chất của phương án sản xuất kinh doanh ).
Khi hàng hoá được nhập kho thì ngân hàng và doanh nghiệp cùng kiểm duyệt niêm phong. Ngân hàng có thể giữ chìa khoá hoặc thoả thuận với doanh nghiệp thuê địa điểm ở một nơi thứ ba và giao cho nơi này quản lý, bảo vệ số hàng hoá nói trên . Khi doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng, tiêu thụ hàng hoá thì phải có sự giám sát, quản lí của ngân hàng ( Khi nguyên vật liệu hoặc hàng hoá xuất kho phải được sự đồng ý của ngân hàng ), tiền bán hàng thu được hàng ngày cán bộ tín dụng phụ trách phải theo dõi thường xuyên, yêu cầu khách hàng gửi vào một tài khoản riêng tại ngân hàng mình để đảm bảo thu hồi lại được vốn đã cho vay. Cuối đợt bán hàng ngân hàng thu hồi nợ gốc và lãi đồng thời trả lại tiền thừa từ tài khoản cho khách hàng rõ ràng với cách làm này thì ngân hàng không lo bị mất vốn. Với cách làm trên ngân hàng vẫn có thường xuyên một khối lượng tiền gửi vào hàng ngày để tiếp tục tiến hành cho vay tiếp, đồng thời doanh nghiệp vẫn duy trì được sản xuất, mà không phải lo thiếu nguyên liệu đầu vào, các doanh nghiệp thương mại dịch vụ vẫn không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Tóm lại đây là một cách làm có triển vọng, chi nhánh ngân hàng ngoại thương Quảng ninh cần nghiên cứu đưa vào áp dụng để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh.
4/ Chủ động tìm khách hàng và chú ý đầu tư vốn cho các doanh nghiệp liên doanh hợp tác đầu tư với nước ngoài, có kỹ thuật công nghệ hiện đại:
Lâu nay trong thực tế thường xuất hiện tình trạng là khách hàng lựa chọn Ngân hàng, Ngân hàng thực hiện quan hệ tín dụng với hầu hết khách hàng đến với mình. Thực ra đây phải là quan hệ hai chiều: Khách hàng lựa chọn ngân hàng và ngân hàng cũng phải chủ động lựa chọn khách hàng. Điều này rất quan trọng vì nó hạn chế rủi ro của Ngân hàng, đảm bảo vốn cho vay ra được thu hồi đầy đủ, đúng hạn và có lãi, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Việc lựa chọn khách hàng phải được Ngân hàng tiến hành một cách chủ động ( Nghĩa là biết đơn vị khách hàng nào làm ăn có hiệu quả và có uy tín thì Ngân hàng có thể chủ động đến đặt quan hệ tín dụng với đơn vị đó ) chứ không phải bị động ngồi chờ khách hàng đến gõ cưả xin vay, khi đó ngân hàng mới xem xét duyệt cho vay hay không.
Việc chủ động tìm và lựa chọn khách hàng phải áp dụng với mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng ninh có rất nhiều công ty liên doanh với nước ngoài hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả như: Công ty dầu thực vật Cái lân, Hoàng gia, liên doanh nuôi ngọc trai... Phần lớn những công ty này họ đang cần vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh, đổi mới dây chuyền công nghệ, chi nhánh cần phải chủ động tìm những khách hàng này, nếu đủ điều kiện thiết lập quan hệ tín dụng với họ, bởi lẽ những doanh nghiệp này sản phẩm làm ra có sức cạnh tranh cao, có phương pháp quản lý tiên tiến, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và thực hiện chế độ kế toán, báo cáo tài chính rõ ràng đúng qui định, do đó, đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này dễ quản lý và hệ số an toàn vốn cao.
5/ Chi nhánh cần tích cực giải quyết các vấn đề nợ quá hạn, nợ khó đòi và bảo toàn vốn :
Như đã đề cập tới ở chương II, tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ của kinh tế ngoài quốc doanh những năm qua là khá cao so với kinh tế quốc doanh và có xu hướng ngày một tăng lên. Điều này cho thấy phải sớm tìm ra những biện pháp hữu hiệu để cải thiện tình hình trên:
- Đối với các khách hàng có ý định lừa đảo, cố tình trây ì không trả nợ ngân hàng cần phối hợp với cơ quan pháp luật sử lý nghiêm minh tiến hành xiết nợ, bắt nợ làm trong sạch chất lượng tín dụng cho những năm sau.
- Đối với khách hàng kinh doanh thua lỗ hoặc do tồn đọng hàng hoá , do sắp sếp lại doanh nghiệp, mất ổn định trong một khoảng thời gian không trả được nợ đúng hạn cho chi nhánh thì có thể gia hạn và cho vay mới để khắc phục tình trạng trên, tư vấn cho khách hàng giúp khách hàng trả nợ được trong thời gian gia hạn.
- Đối với các khoản nợ khó đòi cần phải tiến hành thúc giục thường xuyên cần có biện pháp tâm lí “hứa hẹn”với khách hàng cho những lần vay tiếp theo, nếu những giải pháp như trên được tiến hành mà tình hình không tiến triển thì phải chủ động, tích cực, nhanh chóng tiến hành bắt nợ, xiết nợ. Đây là biện pháp phải tiến hành kiên quyết tránh tình trạng nể nang của cán bộ tín dụng đối với khách hàng mình đã quen, bởi vì khi khách hàng đã cố tình chuyển từ nợ quá hạn sang nợ khó đòi với những lý do không hợp lí thì điều đó có nghĩa là khách hàng đã không có ý định quan hệ tín dụng với ngân hàng trong những lần vay tiếp theo, vì vậy phải tiến hành thu nợ với một đội ngũ cán bộ tín dụng kết hợp với các cấp chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng chứ không nên để một mình cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm cho vay phải tiến hành đi đòi nợ, điều này rất khó đạt được mục đích cho dù cán bộ tín dụng đó có nhiệt tình và có trách nhiệm với ngân hàng. Ngân hàng cần tiến hành mua bảo hiểm tín dụng để san sẻ rủi ro với các công ty bảo hiểm, tránh tổn thất toàn bộ cho ngân hàng .
- Chi nhánh cần phải thường xuyên đánh giá chất lượng của một khoản thế chấp vay vốn ngân hàng bằng chỉ tiêu đảm bảo dư nợ có thế chấp(LTV) được tính bằng cách:
Dư nợ thế chấp
LTV ( %) = ------------------------------------------- * 100
Giá trị thị trường hiện tại của TSTC
Tỷ lệ này càng thấp thì mức độ an toàn đối với món nợ cho vay của ngân hàng càng cao, tỷ lệ này thấp là do dư nợ có tài sản thế chấp được khấu trừ hoặc giá trị tài sản thế chấp trên thị trường tăng lên. Chỉ tiêu này nếu được đánh giá thường xuyên sẽ theo dõi được độ an toàn của món vay trong từng thời kỳ biến động của giá cả thị trường. Nếu như giá thị trường của tài sản giảm, chỉ tiêu LTV cao do đó độ an toàn vốn của ngân hàng giảm đi, nếu giá trị tài sản thế chấp tiếp tục giảm thấp thì ngân hàng phải có kế hoạch sớm thu hồi nợ gốc, tránh việc gia hạn nợ thêm cho khách hàng nếu không sẽ dễ dẫn đến mất vốn.
6. Công tác cán bộ:
Tất cả giải pháp mục tiêu nêu trên sẽ không thể đạt được nếu bản thân mỗi cán bộ ngân hàng không có trình độ chuyên môn cao, không có lòng yêu nghề và đức tính trung thực thẳng thắn trong công việc đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay. Yếu tố con người vẫn là yếu tố quyết định đến hiệu quả công việc vì vậy, tiếp tục nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ cho cán bộ trong công tác tín dụng nhằm sử lí công việc được nhanh hơn, đảm bảo hiệu quả cao trong công tác tín dụng. Ngoài đào tạo về nghiệp vụ ngân hàng cần phải quan tâm đến đào tạo chuyên ngành kỹ thuật khác như: Xây dựng, sản suất công nghiệp, nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản... để cán bộ tín dụng có kiến thức phụ trợ cho việc thẩm định.
Cán bộ tín dụng là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất đối với chất lượng và hiệu quả công tác tín dụng ở ngân hàng. Đối với những cán bộ có trình độ lý luận vững vàng, dày dạn kinh nghiệm và tinh thông nghiệp vụ thì tất yếu sẽ đánh giá khách hàng một cách chính xác hơn và quản lí vốn vay chặt chẽ, hiệu quả hơn so với những người có trình độ chuyên môn kém. Vì vậy, để không ngừng nâng cao chất lượng công tác tín dụng, ngân hàng cần phải quan tâm trước tiên tới trình độ cán bộ tín dụng ở cơ sở mình bằng cách thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và qui định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn, chế độ thưởng phạt đối với cán bộ tín dụng. Phải triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn hàng năm cho tất cả cán bộ tín dụng trong cơ quan, bố trí sử dụng hợp lí và có hiệu quả cán bộ tuỳ theo năng lực chuyên môn và trình độ của từng người nhằm phát huy tối đa sở trường của các cán bộ tín dụng đồng thời phải kết hợp với công tác qui hoạch đào tạo lâu dài theo chiến lược phát triển của Ngân hàng ngoại thương Việt nam. Hàng năm cần tổ chức các đợt thi tay nghề , nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng để qua đó có chế độ khen thưởng, nâng lương, đề bạt kịp thời và chính xác nhằm khuyến khích cán bộ tự trau rồi nghiệp vụ và trình độ chuyên môn, lý luận, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay vốn, đảm bảo thực hiện đúng qui trình tín dụng, lựa chọn khách hàng đảm bảo an toàn và hiệu quả trong đầu tư vốn, chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ thể lệ tín dụng đã ban hành, gắn trách nhiệm và chế độ thưởng phạt cán bộ tín dụng với hiệu quả vốn vay.
Bên cạnh việc tăng cường trình độ chuyên môn cho cán bộ, ngân hàng cần hết sức coi trọng tới việc bồi dưỡng đạo đức, phẩm chất cho cán bộ ở cơ sở mình bởi vì trong công tác tín dụng đạo đức luôn được coi là một phẩm chất quan trọng nhất. Cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, bảo vệ lợi ích chung của đơn vị, đề cao lương tâm trách nhiệm của những người làm công tác tín dụng. Hướng dẫn cán bộ thường xuyên bám sát cơ sở, tiếp cận khách hàng để nắm vững kịp thời những biến động về phía khách hàng trên cơ sở đó giúp ngân hàng chủ động trong việc quản lí và điều tiết các hoạt động tín dụng ở đơn vị mình.
Trong kế hoạch đào tạo cán bộ phải chú ý tới yếu tố hiệu quả và chất lượng đào tạo, đào tạo phải phù hợp với từng đối tượng cán bộ mang lại hiệu quả thiết thực tránh đào tạo tràn lan, chương trình đào tạo phải phù hợp với công việc và nhiệm vụ được giao.
Công tác đào tạo cán bộ cũng cần phải chú ý đến mặt tư tưởng của cán bộ tín dụng. Cần tránh tối đa tâm lí chủ quan hoặc quá tin tưởng vào mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và nới lỏng qui chế cho vay, không thực hiện và tuân thủ đúng trình tự để tạo ra sơ hở cho các khách hàng lợi dụng. Cũng như vậy với tâm lý cạnh tranh giữa các ngân hàng trong cùng địa bàn. Cán bộ tín dụng cần phải xác định rằng cạnh tranh ở trong giá cả và chất lượng mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng, ở sự thuận tiện và thái độ phục vụ nhiệt tình tận tuỵ, ở những thông tin tư vấn có giá trị chứ không phải là bỏ qua trình tự của qui chế. Và khi cho vay cán bộ tín dụng không được chỉ chạy theo số lượng mà quên đi yếu tố quan trọng khác đó là chất lượng của khoản vay. Ngược lại cũng cần phải tránh tâm lý co cụm của các cán bộ tín dụng. Tức là nhiều khi do sợ phải gánh chịu trách nhiệm với những khoản mình cho vay, khi tổn thất thì cán bộ tín dụng phải bồi thường hoặc chuyên đi đòi nợ, nghỉ việc... nên các cán bộ tín dụng tỏ ra quá cứng nhắc và không dám cho vay.
Tuyển dụng đầu vào tốt, ngoài tuyển dụng cán bộ có trình độ chuyên ngành có thể tuyển dụng các kỹ sư giỏi thuộc các ngành khác sau đó đào tạo về nghiệp vụ ngân hàng để làm cán bộ tín dụng. Mặt khác phối kết hợp chặt chẽ với các ngành kinh tế, kỹ thuật của tỉnh, thành lập các tổ hoặc phòng tư vấn đầu tư với mục đích thẩm định chính xác các dự án trước khi cho vay.
Tăng cường công tác thẩm định cho cán bộ tín dụng, tuân thủ chặt chẽ và có hiệu quả hơn nữa qui chế tín dụng ( Hướng dẫn qui trình nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng ngoại thương ban hành kèm theo quyết định 240 tháng 09/98), đặc biệt đối với cả ba giai đoạn cho vay. Yêu cầu đối với mỗi cán bộ tín dụng phải nắm vững thực trạng và xu hướng biến động của ngành mình đang phụ trách cho vay. Khi thẩm định dự án hoặc phương án các con số phải phản ánh được hết các chi phí kinh tế của dự án, phương án xem nó có hợp lý với điều kiện thực tế hay không. Trong các lần đi khảo sát tại cơ sở đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có được các đánh giá sát thực và khách quan tình trạng kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa nghiệp vụ cho vay không chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính nghệ thuật. Muốn hiểu được khách hàng thì không thể chỉ qua các báo cáo hay những trình bày của khách hàng mà đôi khi còn cần dựa vào khả năng mẫn cảm của nghề nghiệp, những kinh nghiệm trong nghề ...
7. Đổi mới chính sách khách hàng, quảng cáo sâu rộng về chính sách chế độ, thể lệ tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh :
Tình hình chung của nước ta hiện nay là những hiểu biết về hoạt động tín dụng Ngân hàng trong cơ chế thị trường của các từng lớp dân cư vẫn còn hạn chế. Do đó, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền để các doanh nghiệp, hộ tư nhân cá thể nắm vững được các chủ trương chính sách đổi mới của Ngân hàng đối với các thành phần kinh tế cho khách hàng biết được ngân hàng đã áp dụng cơ chế tín dụng mới, thể lệ cho vay mới theo cơ chế thị trường để họ thấy được những thiện chí của Ngân hàng, thấy được những lợi ích của mình trong quan hệ với Ngân hàng. Mặt khác quảng cáo làm cho khách hàng hiểu được cơ chế hoạt động, nghiệp vụ của ngân hàng để có được sự thông cảm trong quan hệ giữa hai bên, thấy được quyền lợi cũng như trách nhiệm của họ đối với ngân hàng.
Trong thời gian tới chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh nên tiến hành một số biện pháp quảng cáo sau:
- Quảng cáo qua quan hệ giao dịch trực tiếp với khách hàng trong quá trình giải quyết nghiệp vụ cho vay. Đây là hình thức quảng cáo đơn giản nhất và cũng là hình thức ít tốn kém nhất nhưng hiệu quả tương đối cao. Do đó, phong cách làm việc của cán bộ tín dụng trong giao dịch với khách hàng là rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ giỏi về nghiệp vụ mà còn phải có thái độ tận tình lịch thiệp với khách hàng. Từ chỗ thoả mãn một cách tốt nhất những nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng không chỉ giữ được những khách hàng quen thuộc mà còn thu hút thêm được những khách hàng mới tới đặt quan hệ giao dịch từ đó mở rộng được công tác tín dụng.
- Ngoài ra hình thức quảng cáo tương đối phổ biến hiện nay là quảng cáo qua hệ thống thông tin đại chúng như đài, báo, vô tuyến truyền hình... hình thức này tỏ ra rất có hiệu quả trong việc tuyên truyền các thể thức giao dịch, các đợt phát hành kỳ phiếu, áp dụng các hành thức cho vay mới... Đây là một công cụ cạnh tranh tương đối mạnh của ngân hàng trên thế giới nhằm khuyếch trương uy tín cũng như sản phẩm của mình trên thị trường, tuy nhiên ở Việt nam hình thức này còn rất hạn chế, chủ yếu được tiến hành ở một số ngân hàng nước ngoài. Để làm được những công việc trên thì chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh cũng cần phải có một tổ chuyên nghiên cứu, thu thập những thông tin về thị trường, chi nhánh cần phải biết được hiện nay khách hàng đang cần hình thức tín dụng nào, loại lãi suất nào là phù hợp nhất, phương thức thu nợ gốc và lãi như thế nào được ưa chuộng hơn cả... chỉ có làm như vậy thì Ngân hàng mới có thể là người bạn đồng hành của doanh nghiệp trong thương trường kinh doanh.
- Tiến hành đổi mới chính sách khách hàng: Việc đổi mới này thu hút hơn nữa những khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng trên địa bàn Quảng ninh. Trên cơ sở đó việc đổi mới là phải tạo mọi điều kiện để phục vụ khách hàng nhanh chóng bằng công nghệ hiện đại các tiện ích nhằm giúp các khách hàng có điều kiện cạnh tranh lành mạnh, đem lại hiệu quả trong lĩnh vực kinh doanh. Ngân hàng phải có chính sách ưu đãi về vật chất đối với khách hàng ngoài quốc doanh, phù hợp với chiến lược kinh doanh từng thời kỳ. Những khách hàng có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì được giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ.
III/ Kiến nghị:
Xuất phát từ những hạn chế tồn tại trong công tác cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ do chủ quan của Ngân hàng mà còn bao gồm cả môi trường kinh tế chính trị văn hoá xã hội trong khu vực và cả những chính sách chế độ của nhà nước của các ban ngành, nên để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm thì không những đòi hỏi sự nỗ lực của chính Ngân hàng mà còn cần có sự phối hợp giúp đỡ của các ngành các cấp. Từ thực trạng những khó khăn vướng mắc trong công tác tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh của Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung, bài viết xin có một số kiến nghị sau:
1/ Đối với hệ thống chính sách và pháp luật của nhà nước :
1.1.Nhà nước cần sớm hoàn thiện các chính sách và cơ chế vĩ mô của mình:
- Trong thời gian qua nhà nước đã có những chủ chương chính sách nhằm phát huy nội lực để phát triển kinh tế đất nước thông qua việc khuyến khích phát triển thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua cơ chế chính sách thay đổi thường xuyên ( chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đất đai ...) làm cho môi trường kinh tế không ổn định, ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng, là nguyên nhân tác động mạnh mẽ đến sự bất ổn mà hiện nay các Ngân hàng thương mại còn đang phải khắc phục. Vì vậy nhà nước cần ban hành các chính sách vĩ mô tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của Ngân hàng, chẳng hạn như : Sớm ban hành các chính sách cụ thể liên quan đến việc cho thuê đất hoặc có thể giao đất trong thời gian dài, ổn định đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh để các doanh nghiệp này yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh , tạo môi trường hoạt động tín dụng lành mạnh, giúp ngân hàng yên tâm đầu tư vốn hỗ trợ kinh tế ngoài quốc doanh phát triển. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, tư vấn về cơ cấu ngành nghề... cho những doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực ít sinh lời nhưng giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động.
- Tạo lập pháp chế bảo hiểm tín dụng cho các ngân hàng thương mại thành lập công ty chuyên trách về bảo hiểm tín dụng để kịp thời bù đắp những rủi ro tổn thất không thu được nợ do các nguyên nhân khách quan như bị thiên tai, hoả hoạn, mất mùa... và các nguyên nhân do thay đổi cơ chế chính sách về quản lý kinh tế. Trước mắt, trong khi chưa có cơ quan bảo hiểm tín dụng thì việc trích lập quỹ đề phòng rủi ro tín dụng nên lấy căn cứ vào mức dư nợ tín dụng. Dư nợ tín dụng được phân loại trên cơ sở đó xây dựng tỷ lệ trích cho phù hợp để phản ánh đúng tính chất của phòng ngừa rủi ro. Việc trích quỹ nên tiến hành vào cuối các quý trên cơ sở dư nợ tín dụng phát sinh trong các quý, và vào sự đánh giá thực trạng dư nợ tín dụng. Số trích quỹ tuyệt đối phải tính cả tới phần chênh lệch ( thừa hoặc thiếu) của các khoản trích quý trước.
- Để các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Các cơ quan bảo vệ pháp luật không nên hình sự hoá hoạt động Ngân hàng, những cá nhân cán bộ Ngân hàng tiêu cực tham nhũng cần phải được sử lí thích đáng, nghiêm minh kể cả bằng pháp luật. Nhưng đối với những rủi ro trong kinh doanh thì các ngành chức năng cần tạo điều kiện hỗ trợ Ngân hàng thu hồi nợ, tranh chấp thì xử lý theo luật dân sự.
1.2/ Tăng cường các biện pháp quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp là kinh tế ngoài quốc doanh:
- Cần gắn trách nhiệm của cơ quan cấp giấy phép thành lập , giấy phép đăng ký kinh doanh với quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy mới có được sự quản lý chặt chẽ và có hiệu quả từ phía các cơ quan hữu quan tới toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và có cơ sở pháp lý cho Ngân hàng có các biện pháp phối hợp khi cần thiết.
Qui mô nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trong giấy phép phải phù hợp với qui mô nguồn vốn và năng lực sản xuất kinh doanh cũng như trình độ quản lí của doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp hoạt động một cách hữu hiệu nhất nhằm bảo đảm tính an toàn và hiệu quả kinh tế cho không chỉ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp mà cả nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng. Bên cạnh đó đối với các hành vi vi phạm pháp luật như: Buôn lậu, sản xuất kinh doanh hàng giả, lừa đảo... cần thẳng thắn nghiêm trị, thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép kinh doanh, giấy phép thành lập để kiên quyết loại ra khỏi thị trường những phần tử kinh doanh không lành mạnh, gây lũng đoạn cho nền kinh tế, đó cũng là một trong những biện pháp ngăn chặn rủi ro cho tín dụng Ngân hàng, đồng thời Ngân hàng có điều kiện mạnh dạn mở rộng hoạt động tín dụng.
Nhà nước cần quản lý chặt chẽ việc chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
- Một thực trạng rất phổ biến trong những năm qua là tình trạng không tuân thủ một cách nghiêm túc pháp lệnh kế toán thống kê của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Những doanh nghiệp này thường có từ hai đến ba quyển sổ ghi số liệu tình hình sản xuất kinh doanh rất trái ngược nhau. Đối với cơ quan thuế thì họ đưa ra những số liệu chứng minh rằng doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, để tránh phải nộp thuế cho nhà nước, còn khi vay vốn Ngân hàng thì hoàn toàn ngược lại, những số liệu của họ chỉ ra rằng doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và họ tìm đủ mọi cách để vay được vốn của Ngân hàng. Từ đó cho thấy Ngân hàng khó có thể đánh giá một cách chính xác thực trạng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nếu như không có sự hỗ trợ từ phía nhà nước. ở nước ta hiện nay có một số công ty kiểm toán đang hoạt động nhưng mới chỉ dừng lại ở một số thành phố lớn như thành phố Hà nội, thành phố Hồ Chí minh và mới chỉ kiểm toán được một số doanh nghiệp nhà nước lớn chứ chưa đáp ứng được với tình hình thực tế hiện nay. Do vậy, Ngân hàng cũng còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thẩm định khả năng tài chính của khách hàng. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần có các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục buộc doanh nghiệp phải chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ về kế toán và thống kê do Bộ tài chính qui định. Chuẩn bị các điều kiện và sớm có các qui định thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Cần có các qui định chính thức, chẳng hạn như doanh nghiệp và tổ chức nào không tuân thủ theo chế độ kế toán qui định sẽ bị thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh, đình chỉ sản xuất kinh doanh... Nhằm từng bước đưa các doanh nghiệp đi vào qũy đạo hoạt động chung của một nền kinh tế có tổ chức và có pháp luật.
1.3/ Chấn chỉnh hoạt động công chứng:
Thủ tục công chứng hiện nay đang là một nhân tố chính kìm hãm việc vay vốn Ngân hàng của các thành phần kinh tế nói chung và kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Tình trạng quá tải và chỉ có ở trung tâm thành phố, thị xã của các cơ quan công chứng nhà nước, việc thu lệ phí công chứng (0,2% trên tổng số tiền vay) quá lớn, đây là những nguyên nhân gây phiền hà, mất thời gian và tiền của của khách hàng. Vì vậy, để giải quyết được thực trạng trên trong thời gian tới nhà nước phải có chính sách cơ cấu lại bộ máy tổ chức của cơ quan công chứng nhà nước sao cho vừa tiết giảm được chi phí quản lý, đồng thời vừa tiến hành được nhanh gọn và đạt hiệu quả cao các hoạt động của mình và giảm lệ phí công chứng chỉ nên ở mức 0,05% trên tổng số tiền vay là hợp lí nhằm giúp cho người vay không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và giảm được chi phí trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời nhà nước cũng cần qui định rõ trách nhiệm cụ thể của công chứng viên nhà nước trong hoạt động công chứng. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp xảy ra tranh chấp, kiện tụng, đồng thời cũng thông qua đó các công chứng viên nhà nước sẽ phải có trách nhiệm hơn trong công việc của mình.
1.4/ Cần chấn chỉnh việc cấp giấy phép kinh doanh:
Hiện nay việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân vẫn diễn ra tự phát chưa có được tư vấn và hỗ trợ từ các cơ quan có chuyên môn và thẩm quyền. Việc điều tra thị trường, xác định mục tiêu kinh doanh rất hạn chế dẫn đến các doanh nghiệp ra đời tính khả thi không cao. Bước vào hoạt động nhiều doanh nghiệp đã vấp phải không ít khó khăn trở ngại dẫn đến thua lỗ, phá sản. Do đó, trước khi thành lập doanh nghiệp nhà nước cần có các tổ chức tư vấn về cơ cấu ngành nghề, mô hình doanh nghiệp để chủ doanh nghiệp chọn loại hình doanh nghiệp và cơ cấu ngành nghề cho phù hợp. Đồng thời nhà nước sớm ban hành những văn bản hướng dẫn, chỉ đạo việc cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh phù hợp với khả năng đầu tư của chủ đầu tư. Việc cấp giấy phép một cách ồ ạt đã dẫn đến tình trạng nhà nước không quản lí được các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong những lĩnh vực không có trong giấy phép kinh doanh nhưng vẫn không bị ngăn chặn kịp thời, chỉ tới khi doanh nghiệp làm ăn đổ bể rồi thì mới bị các cơ quan nhà nước phát giác nhưng lúc đó thì đã quá muộn. Những ngưòi chịu thiệt hại ở đây không ai khác là Nhà nước, các Ngân hàng và người dân. Vì vậy việc cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp phải được kiểm soát một cách chặt chẽ và phải căn cứ vào khả năng tài chính của chủ đầu tư cũng như nhưng kiến thức tối thiểu cần phải có trong lĩnh vực kinh doanh được chọn.
1/ Những kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước:
2.1/ Đối với quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng:
Ngày 30/09/1998 Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt nam đã ban hành quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1về qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Nhìn chung nội dung của qui chế này phù hợp với luật Tổ chức tín dụng cũng như phù hợp với tình hình kinh tế Việt nam hiện nay. Tuy nhiên, có một số qui định trong quy chế theo tôi trong giai đoạn trước mắt là chưa phù hợp cần phải điêù chỉnh để mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng:
Theo qui chế cho vay đối với khách hàng thì một khách hàng được vay nhiều tổ chức tín dụng hay nhiều Tổ chức tín dụng cùng cho vay một khách hàng. Nhờ cơ chế cho phép mà các khách hàng vay vốn có quyền lựa chọn Tổ chức tín dụng phù hợp để quan hệ giao dịch, quan hệ vay vốn để thực hiện các dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh. Điều này còn có tác động tích cực đến sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại, đó là việc đổi mới phong cách làm việc, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư cho vay, tăng cường mở rộng các dịch vụ Ngân hàng nhằm thu hút khách hàng nhờ đó mà hệ thống ngân hàng đã có những bước phát triển, khẳng định là ngành tiên phong trong cơ chế thị trường. Nhưng, trong điều kiện hiện nay ở Việt nam, do điều kiện thông tin chưa phát triển để được cung cấp một cách đầy đủ và kịp thời và các biện pháp ngăn chặn rủi ro còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, khi được Ngân hàng cho vay vốn lưu động phục vụ sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp sử dụng số tiền vay này nhằm mục đích mua nguyên vật liệu, thuê nhân công ... có tính chất ngắn hạn phục vụ cho một chu kỳ sản xuất kinh doanh, kết thúc sẽ giải phóng vốn trả lại cho Ngân hàng. Đối với Ngân hàng đây lại là tài sản có mang tính ngắn hạn. Đặc điểm của nó là không lớn, rất nhiều món vay khó quản lý, việc điều tra cho vay phức tạp vì không có dự án để thẩm định. Thời gian cho vay lại ngắn nên dễ bị chiếm dụng hoặc sử dụng không đúng mục đích. đây cũng chính là khâu cho vay có nhiều sơ hở gây nên nợ quá hạn cao đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay. Chính vì vậy hiện nay cần khống chế một doanh nghiệp chỉ được vay vốn lưu động ngắn hạn tại một Ngân hàng trên địa bàn mà doanh nghiệp đóng trụ sở chính. Tất nhiên doanh nghiệp vẫn có quyền lựa chọn Ngân hàng để vay.
2.2/ Đối với bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng:
Ngày 29 tháng 12 năm 1999, Chính phủ đã ban hành nghị định 178/1999/NĐ-CP quy chế về đảm bảo tiền vay trong việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay theo quy định của luật tổ chức tín dụng. Đây là văn bản pháp lí quan trọng hướng dẫn các tổ chức tín dụng các biện pháp bảo đảm nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lí để thu hồi được khoản nợ đã cho khách hàng vay. Theo quy định của nghị định này, tổ chức tín dụng có quyền chủ động sử lí tài sản đảm bảo tiền vay thu hồi nợ. Cụ thể là khi đến hạn mà khách hàng vay, bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với tổ chức tín dụng thì tài sản đảm bảo tiền vay được sử lí theo phương thức đã thoả thuận trên hợp đồng. Trường hợp các bên không sử lí được tài sản bảo đảm tiền vay theo phương thức đã thoả thuận, thì tổ chức tín dụng có quyền bán, chuyển nhượng tài sản cầm cố, thế chấp để thu hồi nợ và uỷ quyền cho bên thứ ba sử lí tài sản đảm bảo tiền vay. Nếu tài sản đảm bảo tiền vay không sử lí được do không thoả thuận được giá bán thì tổ chức tín dụng có quyền định giá bán để thu hồi nợ. Tiền thu được từ sử lí tài sản bảo đảm tiền vay sau khi trừ đi các chi phí sử lí thì tổ chức thu theo thứ tự: nợ gốc, lãi vay, lãi quá hạn, các chi phí khác ( nếu có ).
Tuy nhiên, trong thực tế việc ngân hàng lấy được tài sản thế chấp thu hồi nợ đã gặp nhiều trở ngại như: bên đi vay không tự nguyện bàn giao tài sản cho ngân hàng, thân nhân bên thế chấp tài sản thường đe doạ cán bộ ngân hàng trong khi làm nhiệm vụ phát mại tài sản... Do vậy, những quy định trên đây của nghị định 178 phải được Ngân hàng Nhà nước Việt nam phối hợp với các bộ, ngành có liên quan như: Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục Địa chính ... sớm có thông tư hướng dẫn thì nghị định bảo đảm tiền vay mới có thể thực hiện trên thực tế một cách đồng bộ và có hiệu quả trong cuộc sống.
2.3/ Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng:
Ngân hàng thương mại khi cho bất cứ một khách hàng nào vay thì đều cần phải có thông tin về khách hàng đó để có quyết định cho vay đúng đắn. Bởi vì vay được vốn là một vấn đề không đơn giản, trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng sử dụng có hiệu quả và đúng mục đích các nguồn vốn vay. Đó là chưa nói tới những kẻ giả danh hoặc mạo nhận là doanh nghiệp để vay trái phép, chiếm dụng vốn bất hợp pháp, gây rủi ro, tổn thất cho Ngân hàng. Vì vậy
hoạt động tín dụng muốn đạt hiệu quả cao, an toàn cần phải có hệ thống thông tin hữu hiệu phục vụ cho công tác này. Nhận thức rõ vai trò và yêu cầu thông tin phục vụ công tác tín dụng và kinh doanh ngân hàng, ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã sớm có chủ trương xây dựng hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng mà sau này đã trở thành hệ thống thông tin tín dụng ( gọi tắt là CIC ) của ngành Ngân hàng.
Hệ thống CIC đã phần nào cải thiện tình trạng thiếu thông tin tín dụng phục vụ công tác cho vay của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Tuy nhiên do mới được thành lập và đi vào hoạt động, còn đang trong giai đoạn củng cố và hoàn thiện nên CIC vẫn còn phải đương đầu với nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin và xử lí thông tin. Việc thu thập và cập nhật các thông tin biến động của CIC thực hiện vẫn chưa có hiệu quả, các số liệu cập nhật không kịp thời, độ tin cậy thấp đã khiến cho Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường ít sử dụng tài liệu do CIC cung cấp. Một trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là: thông tin của CIC phần lớn là do các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng cung cấp. Thông tin này thường bị phản ánh sai lệch do các doanh nghiệp chưa thực hiện đúng và đầy đủ Pháp lệnh về kế toán thống kê, việc cung cấp thông tin không kịp thời làm cho các thông tin thường bị lạc hậu so với thời điểm cung cấp. Về phía các tổ chức tín dụng, chưa tuân thủ đúng các quy định về cung cấp thông tin, xác nhận dư nợ của khách hàng, thiếu tinh thần hợp tác với nhau để cho vay một khách hàng mà có khi còn bí mật thông tin về khách hàng mà mình biết để đảm bảo quyền lợi riêng cho mình. Chính vì vậy, thông tin của CIC không đủ khả năng giúp cho Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đánh giá đúng thực trạng tài chính và dư nợ của doannh nghiệp để đảm bảo sự đúng đắn của các quyết định cho vay, khiến cho tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các Ngân hàng thương mại Việt nam chiếm tỷ lệ cao, vượt mức cho phép. Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tích cực sớm nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng phục vụ hoạt động cho vay của các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Cần bắt buộc các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng tham gia vào hoạt động hệ thống CIC coi đó như một quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
2.4/ Qui định và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt:
Tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt cho khách hàng là một trong những chức năng quan trọng của các Ngân hàng, cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ khác, các ngân hàng phải luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ thanh toán để thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng mở rộng, phát triển.
Khi công nghệ thanh toán phát triển, đủ điều kiện cung cấp các tiện ích và lợi ích cho khách hàng trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng nhà nước cần qui định không phát tiền vay bằng tiền mặt và ngân phiếu thanh toán mà phải giải ngân tiền cho vay bằng các phương thức chuyển khoản để thanh toán theo tiến độ thực hiện hợp đồng giữa bên vay tiền và bên cung ứng hàng hoá hay dịch vụ. Xin đừng cho rằng việc này là do Ngân hàng làm khó dễ mà nó chính là cái chìa khoá bảo vệ an toàn Ngân hàng và các bên liên quan, hướng tiền vay được sử dụng đúng mục đích.
3/ Kiến nghị đối với Ngân hàng ngoại thương Trung ương:
3.1/Cải cách thủ tục và điều kiện vay vốn:
Để thu được lợi nhuận cao, ngân hàng phải mở rộng được tín dụng của mình đối với các thành phần kinh tế. Để làm được điều đó thì trước tiên ngân hàng phải tiến hành cải cách thủ tục vay vốn. Hiện nay rất nhiều khách hàng là các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hộ sản xuất kinh doanh phàn nàn rằng để vay được vốn của ngân hàng thì cần phải có quá nhiều điêù kiện liên quan đến nhiều loại giấy tờ và tốn rất nhiều thời gian. Mặc dù nước ta đã chuyển từ nền kinh tế, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước được hơn 10 năm nhưng những lề lối làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn mang nặng những nét đặc trưng của thời kỳ bao cấp, vẫn còn tình trạng nhiều cửa gây sách nhiễu, phiền hà cho nhân dân, vẫn còn cảnh phải xếp hàng để chờ được công chứng giấy tờ do cơ quan nào cũng đòi hỏi phải công chứng giấy tờ mà đôi khi không thật sự cần thiết dẫn đến tình trạng quá tải, có hiện tượng tiêu cực, mất lòng tin vào nhà nước. Vì vậy, để phục vụ khách hàng vay vốn một cách thuận lợi nhanh chóng. Đề nghị ngân hàng ngoại thương Trung ương cho phép bỏ những thủ tục giấy tờ thực sự không cần thiết như : không yêu cầu khách hàng phải có chứng thực của công chứng “ sao y bản chính” các quyết định thành lập, giấy phép kinh doanh, báo cáo tình hình tài chính... khi đến vay vốn khách hàng xuất trình bản chính để ngân hàng kiểm tra xem xét sau đó trả lại bản chính cho khách hàng, ngân hàng chỉ cần lưu hồ sơ tín dụng là bản sao không cần có chứng thực của công chứng, chỉ yêu cầu khách hàng công chứng hợp đồng thế chấp tài sản để đảm bảo cho món vay có giá trị trên 50 triệu đồng còn những hợp đồng cầm cố tài sản là giấy tờ có giá hoặc hợp đồng thế chấp tài sản để bảo đảm cho món vay có giá trị dưới 50 triệu đồng hệ số rủi ro thấp thì không nhất thiết phải có chứng thực của cơ quan công chứng.
Đối với phương án kinh doanh và đơn xin vay vốn không đòi hỏi khách hàng phải có xác nhận của chính quyền địa phương vì đối với khách hàng là thể nhân thì họ chỉ cần xuất trình chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu và phương án hoặc dự án kinh doanh là đủ điều kiện để xem xét cho vay còn việc xác nhận của chính quyền địa phương là thừa và “ không nói lên điều gì ”.
Về điều kiện vay vốn, khách hàng chỉ cần có những điều kiện cơ bản sau:
- Có giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh hợp pháp
- Tình hình tài chính lành mạnh,có dự án hoặc phương án kinh doanh khả thi
- Có tài sản bảo đảm nợ vay theo qui định của pháp luật .
Để chủ động trong cho vay vốn, hạn chế những sơ xuất không đáng có Ngân hàng Ngoại thương Trung ương cần xây dựng và qui định mẫu các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản, các qui định trong hợp đồng mẫu vừa phải đảm bảo đúng các qui định của pháp luật vừa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín dụng và tình hình cụ thể từng địa phương nhưng lại phải vừa chặt chẽ, dễ hiểu và ngắn gọn. Đây thật sự là một vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu và giải quyết.
Đặc biệt đối với cho vay cầm cố và chiết khấu chứng từ có giá, Ngân hàng ngoại thương trung ương phải có hướng dẫn riêng, cụ thể với thủ tục gọn nhẹ, giải quyết cho vay nhanh chóng để thu hút những khách hàng này đến vay vốn, vì những món vay này tài sản bảo đảm nợ vay có tính lỏng cao, đảm bảo an toàn vốn vay.
3.2/ Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ hoạt động tín dụng:
Cần tiến hành thường xuyên và chặt chẽ hơn nữa công tác kiểm soát trong nội bộ ngân hàng nhằm phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai sót trong công tác tín dụng. Nội dung kiểm tra hoạt động tín dụng bao gồm: Kiểm tra hồ sơ cho vay, thời hạn cho vay, thời hạn thu nợ, mức tín dụng được cấp, tài sản bảo đảm nợ vay.
Ngoài việc kiểm tra cần phải đi vào xem xét về mục đích sử dụng tiền vay, khả năng trả nợ trực tiếp của một số khách hàng vay vốn để có ý kiến với lãnh đạo và cán bộ tín dụng có liên quan.
Việc kiểm soát được thực hiện trên mọi lĩnh vực hoạt động của tín dụng, song ở đây Ngân hàng chỉ nên tập trung vào một số những vấn đề mà hay có những sai sót trong thực hiện. Đây cũng là nội dung mà ngân hàng cần quan tâm trong công tác kiểm soát nội bộ.
Cần tiến hành thường xuyên công tác phân tích tín dụng và phân loại khách hàng nhằm tìm ra những biện pháp cho vay, đầu tư và quản lý vốn cho vay có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tiến hành phân tích, đánh giá chất lượng tín dụng hiện hành qua đó rút ra những nguyên nhân chủ quan, khách quan phát sinh nợ quá hạn, nợ khó đòi để đề ra biện pháp khắc phục có hiệu quả. Kiến nghị tập trung thu hồi dứt điểm các loại nợ khê đọng, nợ khó đòi và nợ quá hạn; tiến hành sử lý các rủi ro phát sinh từ trước đến nay theo chế độ hiện hành.
Mỗi lần Ngân hàng tiến hành kiểm tra về toàn bộ hoặc một phần công tác tín dụng phải có biên bản ghi rõ những việc đã kiểm tra và các ưu đIểm, khuyết điểm của đơn vị. Giám đốc chi nhánh phải chịu trách nhiệm sử lý những kiến nghị của kiểm soát và baó cáo kết quả với Ngân hàng ngoại thương Trung ương.
3.3/ Qui định về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với cán bộ trong việc thực hiện nghiệp vụ tín dụng:
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với các thành phần kinh tế, Ngân hàng ngoại thương Trung ương cần qui định rõ trách nhiệm và quyền hạn của cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt rõ ràng nghiêm minh. Trong trường hợp cho vay nhưng không thu hồi được nợ thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm với Ngân hàng, ở đây chỉ nên áp dụng trách nhiệm, sử phạt hành chính, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà ngân hàng quy mức trách nhiệm cụ thể đối với cán bộ ngân hàng làm mất vốn như: Đối với cán bộ tín dụng có nợ khó đòi thì đình chỉ cho vay mới để thu nợ, không được tiền thưởng, chuyển công tác khác, tìm nguyên nhân để qui trách nhiệm đền bù vật chất ...tuy nhiên phải được miễn trừ trách nhiệm đối với những khoản nợ quá hạn phát sinh do những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ và do thay đổi cơ chế chính sách... Không nên đề nghị quy trách nhiệm hình sự trong trường hợp này, sẽ dẫn đến nhiều cán bộ tín dụng sợ trách nhiệm nặng không giám giải quyết cho vay, trở nên khắt khe trong việc xét duyệt cho vay, dẫn đến hoạt động tín dụng bị co lại.
Đưa ra quy chế khoán định mức cho vay hàng năm đối với cán bộ tín dụng. Dựa vào kết quả kinh doanh của các năm và chiến lược thị trường, các nhà lãnh đạo phân bổ định mức tín dụng cho cán bộ phụ trách từng khu vực. Sự phân bổ này nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng tích cực hơn, tự tìm đến các đơn vị, chủ thể có yêu cầu về vốn để cho vay, giúp doanh nghiệp phát triển. Việc khoán định mức cho vay nhằm nâng cao quyền hạn, trách nhiệm cho cán bộ hoạt động tín dụng. Tin rằng nếu làm được vấn đề trên chúng ta sẽ tìm được ra những cán bộ tín dụng có đức, có tài và đó là điều lý tưởng mà các nhà lãnh đạo Ngân hàng mong đợi. Đồng thời khi cán bộ tín dụng có thành tích thì phảI khuyến khích về lợi ích vật chất và tinh thần một cách kịp thời, như thưởng tác nghiệp, nâng lương trước thời hạn, tặng giấy khen...
Kết luận
Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng và mang tính sống còn đối với các Ngân hàng thương mại trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Cùng với sự phát triển đi lên nó đã và đang tiếp tục khẳng định về sự cần thiết và tầm quan trọng đối với nền kinh tế, vấn đề này ngày càng được quan tâm một cách sâu sắc đối với sự ổn định và phát triển của mỗi ngân hàng thương mại, hơn thế nữa, vấn đề này không chỉ liên quan tới sự tồn tại và phát triển của bản thân các ngân hàng mà quan trọng hơn là tới sự phát triển về mặt kinh tế của mỗi quốc gia, trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, việc mở rộng và nâng cao chất lượng công tác tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh là một đòi hỏi mang tính cấp thiết đặt ra cho các nhà kinh tế, đặc biệt là những người làm công tác Ngân hàng.
Qua thời gian nghiên cứu và phân tích quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương với kinh tế ngoài quốc doanh, đề tài đã chỉ rõ được những nội dung cơ bản sau đây:
1/ Khái quát hoá được những vấn đề lí luận về kinh tế ngoài quốc doanh, vị trí của nó đối với nền kinh tế và vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay.
2/ Đã đi sâu nghiên cứu phân tích thực trạng quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đối với kinh tế ngoài quốc doanh, tìm ra được những mặt còn tồn tại: Chính sách đầu tư tín dụng chưa đảm bảo bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tỷ lệ nợ quá hạn của kinh tế ngoài quốc doanh có xu hướng ngày càng tăng; những vướng mắc về thế chấp, cầm cố tài sản đảm bảo nợ vay; thủ tục vay vốn rườm rà; chiến lược khách hàng chưa được quan tâm toàn diện.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, những tồn tại và nguyên nhân rút ra trong quan hệ tín dụng giữa chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đối với kinh tế ngoài quốc doanh, đề tài đã đưa ra được 7 giải pháp và 11 kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh.
Hoàn thành bản luận văn này tôi hy vọng rằng với những kiến thức đã được trang bị tại trường, cùng với những nhận thức mới thu nhận được của bản thân về lý luận, thực tiễn hoạt động Ngân hàng nói chung và Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh nơi tôi công tác nói riêng, những giải pháp và kiến nghị tôi đưa ra sẽ đóng góp một phần nhỏ bé vào việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh hiện nay.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề rất mới mẻ, phức tạp và rộng lớn, do đó mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng khả năng nghiên cứu, tìm hiểu và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những khiếm khuyết và có nhiều vấn đề đưa ra chưa được giải quyết thoả đáng. Vì vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các Thầy cô giáo và các đồng chí đồng nghiệp để bản luận văn của mình được hoàn chỉnh hơn.
Một lần nữa, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy Tô Ngọc Hưng, cùng các Thầy cô giáo Học viện Ngân hàng Hà nội, Ban lãnh đạo và các đồng chí đồng nghiệp chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Quảng ninh đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành bản luận văn này.
Quảng ninh ngày 18 tháng 02 năm 2000
Tài liệu tham khảo
Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính , tác giả FREDERIC S.MISHKIN
Tiền tệ Ngân hàng và thanh toán quốc tế , tác giả: TS. Trần Hoàng Ngân
Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại , tác giả DAVID COX
Thẩm định dự án , tác giả Nguyễn Tuấn
Ngân hàng thương mại Edward và Edward.
Maketing Dịch vụ tài chính của TS. Nguyễn Thị Minh Hiền và TS. Nguyễn Thế Khải.
Thanh toán và tín dụng quốc tế , tác giả : PGS Phan Quang Tuệ
Một số nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Tác giả : TS. Nguyễn Văn Ngôn
Tiền tệ và ngân hàng - Hoàng Kim.
Nghiệp vụ kinh doanh Ngân hàng nâng cao, tác Giả: TS. Tô Ngọc Hưng
TS.Nguyễn Kim Anh
Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI , VII, VIII .
Tạp chí cộng sản năm 1998 và 1999.
Tài trợ dự án , tác giả : TS. Tô Ngọc Hưng và ThS. Trương Quốc Cường
Luật doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành mới do Trần Thanh Sơn và Đào Thiên Hải sưu tầm.
Luật giải thể và phá sản doanh nghiệp.
Giáo trình toán tài chính.
Tạp chí Ngân hàng năm 1997,1998,1999.
Tạp chí nghiên cứu kinh tế.
Tập san Ngân hàng Ngoại thương Việt nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28237.doc