Các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Nếu các doanh nghiệp Nhà nước không đủ mạnh thì Nhà nước không thể điều tiết nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, các DNNN cần tiếp tục đổi mới, phát triển thực hiện các chỉ tiêu lớn của toàn bộ nền kinh tế. DNNN đóng vai trò nền tảng trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN là vấn đề bức thiết nhằm giữ vững định hướng phát triển của đất nước. DNNN là tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện cho toàn dân đứng ra quản lý nhằm mang lại lợi ích cho xã hội. Các DNNN ngày càng được củng cố và tăng trưởng không thể thiếu vốn vay ngân hàng. Vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh đồng thời phải đảm bảo an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại ngân hàng.
Trên cơ sở phân tích tình hình chất lượng tín dụng đối với DNNN tại ngân hàng công thương Chương Dương chuyên để tốt nghiệp đã đưa ra những đánh giá cơ bản trên cả hai mặt, thể hiện kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với DNNN. Từ đó, em đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN trong tình hình cụ thể tại ngân hàng công thương Chương Dương.
Do còn hạn chế về trình độ cũng như thiếu kinh nghiệm thực tế, nên chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để em có thể hiểu sâu hơn về vấn đề mà em quan tâm.
56 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước tại ngân hàng công thương Chương Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-23%
DNNN/ tổng số
56,2%
90,4%
93,8%
III Dư nợ
802,067
768,644
878,077
109,433
14%
- DNNN
645,32
751,583
805,773
54,19
7,2%
- Ngoài QD
156,747
17,061
72,304
55,243
323%
DNNN/ tổng số
80%
97,7%
91,7%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHCTCD)
Qua bảng trên ta thấy doanh số cho vay, thu nợ của DNNN tăng trưởng mạnh qua các năm. Doanh số cho vay đối với DNNN năm 2005 là 524,187 tỷ đồng tăng 176,76 tỷ đồng, tốc độ tăng là 51% so với năm 2004. Tỷ trọng doanh số cho vay DNNN trong tổng doanh số cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn trên 70% nhưng có biến động trong ba năm qua. Tỷ trọng này là 94,5% vào năm 2003 nhưng chỉ chiếm 80,28% trong năm 2005.
Dư nợ của DNNN trong tổng số dư nợ trung và dài hạn chiếm tỷ lệ cao và tăng liên tục trong ba năm, Năm 2005 dư nợ cho vay trung và dài hạn đối với DNNN đạt 805,773 tỷ đồng, tăng 54,19 tỷ đồng, tốc độ tăng là 7,2% so với năm trước. Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn đối với DNNN năm 2004 đạt 97,7%. Năm 2005 tỷ lệ này đạt 91,7% so với tổng dư nợ trung dài hạn của toàn ngân hàng.
Dư nợ trung dài hạn đối với DNNN tăng và chiếm tỷ trọng cao là do.
- NHCTCD thực hiện đầu tư trung dài hạn trên cơ sở phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Quá trình CNH-HĐH cần đầu tư lớn cho cơ sở vật chất, trang thiết bị dây truyền công nghệ trong các doanh nghiệp. ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường năng lực sản xuất, sản phẩm phải có sức cạnh tranh.
- Đối với DNNN máy móc dây truyền sản xuất cũ, lạc hậu, năng suất thấp. Đổi mới là vấn đề bức thiết. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, đánh giá năng lực của mình DNNN đã có những dự án khả thi và được ngân hàng xét duyệt, quyết định cho vay vốn.
- Ngân hàng bước đầu đã đổi mới quan niệm trong hoạt động tín dụng. Ngân hàng không thụ động ngồi chờ khách hàng đến đề nghị vay vốn mà chủ động tìm kiếm, đặt quan hệ với khách hàng mà đặc biệt là DNNN có tình hình tài chính lành mạnh.
- Đối với DNNN có dự án vay vốn vượt quá khả năng vốn của bản thân ngân hàng, NHCTCD đã phối hợp cùng với các ngân hàng bạn thực hiện đồng tài trợ. Trong những năm qua ngân hàng đã tham gia đồng tài trợ cho một số dự án lớn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Dự án khí Nam Côn Sơn với tổng dư nợ hiện nay là 74,7 tỷ đồng. Đồng tài trợ cho dự án đổi mới dây truyền sản xuất gạch của Công ty gạch Thạch Bàn là 10 tỷ đồng.
Như vậy dư nợ tín dụng đối với DNNN chiếm tỷ trọng lớn trên 90% tổng dư nợ cho vay và đầu tư của ngân hàng. Chất lượng tín dụng đối với DNNN có ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh. Vấn đề đặt ra là phải không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng mà đặc biệt là đối với DNNN.
2.2.3. Chất lượng tín dụng đối với DNNN
2.2.3.1. Tình hình nợ quá hạn
Rủi ro là hiện tượng vốn có khách quan trong KTTT. Nó diễn ra, vận động ở bất kỳ lĩnh vực nào, kinh doanh tiền tệ của ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chính vì vậy rủi ro tín dụng mà biểu hiện của nó là nợ quá hạn đã và đang là vấn đề quan tâm lo lắng của các ngân hàng. Bởi hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu tài sản của ngân hàng và đem lại phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Do vậy phải đối mặt với những khoản nợ quá hạn là điều bất lợi đối với ngân hàng. Đồng vốn cho vay không thu về được theo đúng kế hoạch sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do vậy khi xem xét đánh giá chất lượng tín dụng ta phải lưu ý tới tình hình nợ quá hạn.
Bảng 7: Tình hình thu nợ quá hạn toàn Ngân hàng
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năn 2003
Năm 2004
Năm 2005
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Tổng nợ quá hạn
346,23
100
384,31
100
254,98
100
- DNNN
74,044
21,38
65,32
17
23,287
9,1
- Ngoài QD
272,186
78,62
318,99
83
231,693
90,9
Tổng dư nợ đối với DNNN
1154,358
1124,109
1420,533
Tỷ lệ nợ quá hạn DNNN
6,4%
5,8%
1,6%
Trong ba năm qua nợ quá hạn của DNNN có xu hướng giảm đi. Năm 2003 dư nợ quá hạn DNNN là 74,044 tỷ đồng chiếm 21,38 % tổng số nợ quá hạn , năm 2005 là 23,287 tỷ chiếm 9,1%. Như vậy, nợ quá hạn DNNN đã giảm cả về mặt số tuyệt đối và tỷ trọng. Đạt được kết quả trên là do ngân hàng đã thu hồi 8,1 tỷ nợ quá hạn của DNNN trong năm 2005, số nợ quá hạn được thu hồi trong năm 2005 đã tăng lên đạt 10,861 tỷ đồng.
Nợ quá hạn của DNNN giảm xuống trong khi đó dư nợ tăng lên rất nhanh. Do đó tỷ lệ nợ quá hạn / tổng dư nợ của DNNN giảm mạnh. Tỷ lệ này năm 2003 là 6,4% , năm 2004 là 5,8%, năm 2005 tỷ lệ này là 1,6%. Đây là kết quả khả quan đối với ngân hàng. Tuy vậy, ngân hàng không thể chủ quan nếu chỉ nhìn vào tỷ lệ này bởi dư nợ tín dụng của ngân hàng tăng nhanh trong đó gần 60% tổng số là do tăng dư nợ trung dài hạn . Trên thực tế các khoản cho vay trung dài hạn chứa đựng rủi ro lớn hơn. Do đó ngân hàng còn phải đối mặt với rất nhiều rủi ro tiềm ẩn từ những khoản cho vay này. Vấn để đặt ra đối với ngân hàng là phải thường xuyên, tích cực theo dõi những dự án cho vay mà đặc biệt là các dự án trung dài hạn để tránh xuất hiện những khoản nợ xấu này.
2.2.3.2 Hệ số sử dụng vốn
Huy động vốn và sử dụng vốn luôn có quan hệ mật thiết với nhau. Vốn huy động tăng trưởng ổn định là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động tín dụng. Đồng thời trên cơ sở nhu cầu vay vốn của khách hàng mà ngân hàng dự tính lượng vốn huy động cho phù hợp. Chất lượng tín dụng được thể hiện ở chỉ tiêu về hệ số sử dụng vốn.
Bảng 8 Hệ số sử dụng vốn của NHCT Chương Dương
Đơn vị : tỷ dồng
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
Tổng nguồn vốn huy động
2513.2
2834.4
3128
Dư nợ
1395,171
1379,388
1647,631
Dư nợ/ tổng vốn huy động
45,5%
49,17%
53%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHCTCD)
Qua bảng trên cho thấy hệ số sử dụng vốn của ngân hàng ngày càng tăng từ 45,5% năm 2003 lên 53% năm 2005. Tuy tỉ lệ tăng không nhanh nhưng nó chứng tỏ ngân hàng đã sử dụng đa số nguồn vốn huy động được cho hoạt động tín dụng, vốn tồn đọng chưa cho vay được tại ngân hàng ngày càng giảm. Đó là do ngân hàng đã có nhiều nỗ lực tìm kiếm khách hàng, tiếp cận, cho vay được nhiều dự án lớn. Hệ số sử dụng vốn cao cũng cho thấy tín dụng vẫn là lĩnh vực đầu tư chủ yếu của ngân hàng.
2.2.4. Đánh giá chất lượng tín dụng đối với DNNN
Trong nền kinh tế các DNNN có vai trò sản xuất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ cho xã hội, đóng góp cho ngân sách nhà nước, đồng thời là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. DNNN nắm giữ những ngành kinh tế then chốt. Vì vậy DNNN là đối tượng quan tâm chính của NHCTCD. Tình hình vay vốn, sử dụng vốn của các DNNN tại ngân hàng sẽ phản ánh phần nào chất lượng tín dụng của ngân hàng và tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Những DNNN như công ty gạch Thạch Bàn, công ty may Đức Giang, công ty Mai Động, Tổng công ty điện lực I, Tổng công ty bưu chính viễn thông … đều là các khách hàng lớn có uy tín với ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn trong dư nợ tại ngân hàng. Các công ty này đều không có nợ quá hạn, thực hiện trả nợ gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn.
2.2.4.1. Kết quả đạt được
Qua phần phân tích thực trạng về tình hình hoạt động tín dụng đối với DNNN tại NHCTCD ta có thể thấy những kết quả nổi bật sau.
-Vốn đầu tư cho DNNN tăng trưởng mạnh qua các năm. Điều đó được thể hiện qua tình hình cho vay, thu nợ, dư nợ đối với DNNN
- Trong cơ cấu vốn tín dụng đặc biệt tập trung mở rộng đầu tư trung dài hạn cho các dự án lớn, dự án trọng điểm, dự án có hiệu quả, tính khả thi cao, khách hàng có năng lực tài chính tốt.
- Trong quan hệ tín dụng, DNNN là khách hàng chính, có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Thể hiện ở doanh số cho vay, thu nợ, dư nợ luôn chiếm tỷ trọng rất cao.
- Tín dụng đối với DNNN đã mang lại phần lớn thu nhập từ hoạt động tín dụng. Lãi thu từ hoạt động cho vay đã giúp ngân hàng chi trả lãi xuất và các chi phí khác. Đây cũng là nguồn quan trọng cấu thành lợi nhuận cho ngân hàng, là nguồn hình thành các quỹ rủi ro để bù đắp tổn thất không thể lường trước trong hoạt động tín dụng
- Lượng vốn mà ngân hàng đầu tư đã giúp DNNN mở rộng sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá các loại sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, hoạt động hiệu quả hơn, tạo ra nhiều lợi nhuận. Nguồn vốn tín dụng đã kịp thời hỗ trợ tháo gỡ những khó khăn trước mắt.
2.2.4.2. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động tín dụng đối với DNNN còn có những mặt hạn chế cần khắc phục.
- Phương thức tín dụng chưa đa dạng. Ngân hàng chủ yếu áp dụng phương thức cho vay từng món, cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay trung dài hạn. Những phương thức như cho vay bắc cầu, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng còn mới mẻ với ngân hàng.
- Kiểm soát vốn vay trong quá trình sử dụng vốn được tiến hành nhưng không thường xuyên. Ngân hàng mới chỉ kiểm tra một phần hoá đơn mua bán hàng của khách hàng. Việc kiểm tra dựa trên sổ sách.
- Nhiều DNNN chưa thực hiện kiểm toán hoặc nếu thực hiện thì chưa nghiêm túc . Do vậy, ngân hàng gặp khó khăn trong quyết định cho vay cũng như theo dõi hoạt động tài chính của khách hàng.
- Về phía ngân hàng, chính sách khách hàng, hoạt động marketing bước đầu đã được thực hiện nhưng chưa thật tốt. Ngân hàng chưa mạnh dạn ứng dụng những hình thức marketing như quảng cáo, tổ chức các buổi hội nghị khách hàng và chi phí cho hoạt động marketing còn hạn chế.
- Cán bộ ngân hàng nắm vững nghiệp vụ tín dụng nhưng hiểu biết không sâu về thị trường và đặc điểm kỹ thuật củâ dự án vay, các nhân tố tác động đến dự án, các ảnh hưởng của môi trường…
2.2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
* Nguyên nhân khách quan
- Do môi trường kinh doanh chưa ổn định, các chính sách quản lý vĩ mô của Đảng trong quá trình đổi mới và hoàn thiện nên thường có sự điều chỉnh. Điều đó ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp mà đăc biệt là các phương án kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp. Trong điều kiện đó nếu DNNN nào không theo kịp với sự thay đổi và có những điều chỉnh phù hợp với cơ chế chính sách mới thì sẽ gặp nhiều khó khăn sản phẩm làm ra bị ứ đọng, doanh thu không đủ bù đắp chi phí bỏ ra, dẫn tới thua lỗ, mất khả năng thanh toán, phát sinh nợ quá hạn với ngân hàng. Đây được xem là nguyên nhân mà DNNN không thể biết trước được. Do vậy để tồn tại và phát triển đòi hỏi DNNN và ngân hàng phải cùng hỗ trợ nhau tìm ra hướng đi phù hợp với cơ chế chính sách mới. Điều quan trọng là phải nắm rõ chủ trương đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước để định hướng chú trọng đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh vực phù hợp.
- Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng ngân hàng chưa đầy đủ. Chưa có luật về sở hữu do đó thiếu cơ sở pháp lý cho hoạt động tín dụng khi đánh giá tài sản thế chấp.
- Chế độ tín dụng hiện hành cho phép một khách hàng có quan hệ với nhiều ngân hàng khác nhau do đó NHCTCD kiểm soát khách hàng một cách tốt nhất. Đây là điểm mà các doanh nghiệp dễ lợi dụng dẫn tới hiện tượng vay đảo nợ tại các DNNN hoặc cùng một mục đích sử dụng vốn như lại vay tại nhiều ngân hàng khác nhau nhằm chiếm dụng vốn của ngân hàng.
* Nguyên nhân từ phía ngân hàng
- Trình độ năng lực của cán bộ tín dụng chưa đáp ứng tốt những đòi hỏi của cơ chế thị trường, khả năng tiếp cận thẩm định dự án còn hạn chế. Do hoạt động tín dụng của ngân hàng đầu tư vốn vào nhiều ngành và nhiều lĩnh vực khác nhau đòi hỏi cán bộ tín dụng phải nắm và hiểu rõ đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của ngành, lĩnh vực mà ngân hàng đầu tư vào. Nhưng trên thực tế có những dự án với nội dung kinh tế, kỹ thuật hết sức phức tạp mà nhân viên ngân hàng không đủ điều kiện để hiểu biết về các chuyên môn đó. Do vậy xác định hiệu quả thực sự của dự án không chính xác. Từ đó quyết định cho vay, kỳ hạn cho vay không phù hợp với vòng luân chuyển vốn, khách hàng khó khăn trong hoàn trả nợ, dự án không phát huy hết hiệu quả kinh tế.
- Hiện nay cán bộ tín dụng phải đảm đương mọi giai đoạn từ thẩm định dự án, xét duyệt quyết định cho vay, thu nợ nên không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy cần thiết một quá trình tín dụng nhịp nhàng phối hợp giữa các biện pháp để nâng cao tính chuyên môn hoá trong công tác cho vay.
- Công tác kiểm tra của ngân hàng đối với những khoản vốn vay còn hạn chế chưa chặt chẽ, thường xuyên. Đối với DNNN việc kiểm tra còn chủ quan, chưa sâu sát, gây hậu quả xấu. Những trường hợp khách hàng sử dụng vốn sai mục đích không được phát hiện kịp thời để tiến hành thu nợ.
- Do NHCTCD phải cạnh tranh với các ngân hàng khác nên thiếu sự chọn lựa khách hàng. Trong nhiều trường hợp NHCTCD phải linh động cho vay, hạ thấp các tiêu chuẩn tín dụng để có được khách hàng. Tình trạng này làm cho chất lượng khoản vay bị giảm sút.
- Khi nợ quá hạn phát sinh ngân hàng chưa tìm ra những biện pháp thích hợp để thu hồi mà đặc biệt là những khoản nợ quá hạn từ những năm trước. Vì vậy số nợ khó đòi trong năm nay tăng lên mà cụ thể là trường hợp nợ quá hạn khó đòi của Công ty ăn uống khách sạn Gia lâm và Công ty sản xuất xuất nhập khẩu Hồng Hà.
- Ngân hàng chưa thực sự quan tâm đúng mức tới hoạt động Marketing, ngân hàng không có phòng hay bộ phận Marketing riêng. Những biện pháp Marketing chưa được thực hiện triệt để trong huy động và sử dụng vốn.
* Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp nhà nước
Thực trạng vấn đề đặt ra hiện nay là các doanh nghiệp thiếu vốn tự có để tham gia vào các phương án kinh doanh cũng như các dự án đầu tư. Vấn đề vốn cho các DNNN là vấn đề nổi cộm, kéo dài trong nhiều năm. Hiện nay, vốn lưu động của các doanh nghiệp quá ít và bị đọng ở vật tư hàng hoá kém, mất phẩm chất và nợ khó đòi. Vốn cố định phần lớn là các tài sản cũ, lạc hậu, năng suất thấp. Do vậy, vốn kinh doanh đều trông chờ vào Ngân hàng, vốn vay gấp nhiều lần vốn tự có. Chính vì vậy, khi doanh nghiệp rủi ro sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng , ảnh hưởng ngay đến chất lượng tín dụng. Nếu tình hình xấu hơn doanh nghiệp sẽ bị phá sản, trong trường hợp này, Ngân hàng có nguy cơ mất vốn.
Tóm lại, hoạt động tín dụng đối với DNNN tại NHCTCD trải qua hơn 10 năm đổi mới trong nền kinh tế thị trường với nhiều yếu tố kinh tế xã hội biến động phức tạp nên không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Trên cơ sở xem xét nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng, ngân hàng cần thiết có định hướng phù hợp để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng đối với DNNN nói riêng.
Chương III
giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với dnnn tại ngân hàng công thương Chương Dương
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của NHCT Chương Dương trong thời gian tới
Trong những năm qua, NHCT Chương Dương hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có uy tín nên đã thu hút được nhiều khách hàng trong đó có các doanh nghiệp lớn.
Mặc dù, hoạt động tín dụng của ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn nhưng với phương châm chiếm lược “ổn định, an toàn, hiệu quả” NHCTCD vẫn phấn đấu thực hiện các mục tiêu trong năm tới:
* Tiếp tục tăng cường công tác huy động vốn, đẩy mạnh công tác tiếp thị, chú trọng thu hút nguồn tiền gửi dân cư, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế để khai thác tối đa các nguồn tiền nhàn rỗi trên thị trường, đảm bảo trong năm 2006 thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu kế hoạch NHCT Việt Nam và Chi nhánh đề ra trong năm 2006, đưa nguồn vốn lên 3.500 tỷ ( tăng 400 tỷ)
* Tiến hành phân tích, đánh giá với tất cả khách hàng có quan hệ tín dụng với chi nhánh, qua đó phân loại đối tượng khách hàng để có định hướng đầu tư tín dụng hơp lý, rút dần dư nợ với nhưng doanh nghiệp có tình hình tài chính yếu kém, sản xuất kinh doanh không ổn định. Tập trung cho vay khách hàng có tình hình SXKD tốt, tài chính lành mạnh. Mục tiêu cuối năm tổng dư nợ đạt 1.850 tỷ đồng.
* Đề ra các biện pháp tích cực nhằm xử lý, thu hồi các khoản nợ tồn đọng, nợ cơ cấu lại, không phát sinh nợ gia hạn, tích cực thu hồi các khoản nợ đã XLRR, với mục tiêu đề ra thu trong năm 2006 là 35 tỷ VNĐ, không có nợ quá hạn. Mục tiêu giảm các khoản nợ cơ cấu lại từ nhóm 3,4,5 xuống mức 1,5%.
* Phấn đấu thu phí dịch vụ 7 tỷ, mở thêm 800 thẻ ATM và các loại thẻ khác, tìm địa điểm thích hợp đặt thêm 5 máy ATM và 20 cơ sở chấp nhận thẻ.
* Nâng cao chất lượng hạch toán kế toán, làm tốt công tác kiểm tra, kiểm soát chứng từ sau HĐH. Phấn đấu lợi nhuận năm 2006 đạt 110 tỷ đồng.
Với định hướng hoạt động trên, NHCTCD cần phải nỗ lực rất nhiều để tìm ra những biện pháp phù hợp, có hiệu quả để hoàn thành mục tiêu đề ra. Trong đó nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN là một vấn đề cần giải quyết để đạt được mực tiêu trên.
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN tại NHCT Chương Dương
3.2.1. Giải pháp về huy động vốn huy động trong nền kinh tế.
Để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước một vấn đề bức thiết đặt ra là phải có vốn. Ngân hàng là một trong những ngành phải có vai trò dẫn chuyển vốn trong nền kinh tế.
Thấy rõ được vai trò và trách nhiệm trong việc huy động vốn, NHCTCD chỉ đạo tập trung khai thác vốn trong nền kinh tế bằng nhiều hình phức và phương thức thích hợp. Huy động vốn ngắn dài hạn để có cơ cấu vốn hợp lý đáp ứng nhu cầu vốn cho các DNNN nhằm thực hiện yêu cầu CNH-HĐH đất nước. Đồng thời có biện pháp để giảm chi phí đưa giá thành huy động xuống mức thấp nhất tạo lợi thế cạnh tranh và kinh doanh có hiệu quả.
Trước hết là giải pháp huy động vốn, tạo nguồn vốn để đầu tư cho các DNNN - thành phần kinh tế chủ đạo.
3.2.1.1. Tăng cường huy động vốn có chi phí thấp các tầng lớp dân cư.
Để có đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu vốn thực sự cần thiết cho các doanh nghiệp Nhà nước, trong những năm gần đây công tác huy động vốn của NHCTCD đã có chuyển biến tích cực. Nguồn vốn huy động tăng nhanh, tốc độ tăng trên 10% năm trong đó, vốn huy động bằng nguồn tiền gửi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư tăng 7,1% năm 2005 và đặc biệt tăng mạnh vào năm 2004, tỷ lệ tăng đạt 102% so với năm 2003. Hiện nay, nguồn vốn huy động vẫn có xu hướng tăng trưởng và ổn định. Vấn đề đặt ra là NHCTCD đã huy động hết mọi khả năng tiềm tàng của vốn trong dân cư chưa? Trong khi doanh nghiệp đói vốn, ngân sách Nhà nước còn nhiều khó khăn thì việc huy động vốn trong dân để phát triển kinh tế là việc làm vô cùng quan trọng.
- NHCTCD nên đa dạng hình thức huy động để thu hút được số vốn còn đọng lại trong dân cư. Tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn hiện nay ngân hàng phân thành nhiều loại 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, với mức lãi suất khác nhau cho nên khi muốn thay đổi thời gian gửi từ loại này sang loại khác người gửi mất nhiều thời gian tới ngân hàng để chuyển đổi. Ngân hàng nên có hình thức theo dõi hạch toán có thể không cần phân biệt từng loại. Đều là tiền gửi ngắn hạn khác hàng gửi thời gian nào thì được tính lãi suất tương ứng với thời gian đó nhằm tiết kiệm thời gian cho khách hàng và đơn giản hoá thủ tục giấy tờ.
- Tăng cường huy động vốn trung và dài hạn, đẩy mạnh huy động tiết kiệm dài hạn, phát hạnh các kỳ phiếu, trái phiếu có kỳ hạn từ 3 đến 5 năm với lãi suất được áp dụng theo nguyên tắc thời gian huy động càng dài thì lãi suất càng cao. Đồng thời thực hiện các hình thực huy động kỳ phiếu, trái phiếu tự do chuyển nhượng trên thị trường, tạo điều kiện cho người dân mua kỳ phiếu có thể bán lại cho người khác và ngân hàng một cách thuận tiên.
- Tăng cường mở rộng mạng lưới hoạt động của các quỹ tiết kiệm đặc biệt là ở những khu động dân cư thuận tiện cho bà con đến gửi tiền và rút tiền thường xuyên kể cả những khoản tiền nhỏ. Hiện nay trụ sở giao dịch của ngân hàng còn nằm trong ngõ nhỏ không thuận lợi cho quan hệ giao dịch và tiếp thị nên ngân hàng có thể xem xét chuyển tới trụ sở tới khu vực giao thông thuận tiện đáp ứng tốt hơn cho hoạt động của ngân hàng.
3.2.1.2. Tiếp tục hiện đại hoá công nghệ thanh toán ngân hàng hỗ trợ công tác huy động vốn
Trong lĩnh vực thanh toán, nếu tốc độ thanh toán nhanh sẽ đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, tăng hiệu quả cho sản xuất kinh doanh. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân hàng làm tốt sẽ thu hút các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi và thanh toán qua Ngân hàng. Do đó, khối lượng tiền mặt sử dụng trong lưu thông sẽ giảm xuống, Ngân hàng thương mại có nguồn vốn to lớn. Hiện nay nguồn vốn này còn rất nhiều tiềm năng do người dân có tập quán dùng tiền mặt trong giao dịch. Lượng thanh toán qua ngân hàng chỉ chếm 30%, trong khi đó ở các nước có nền kinh tế phát triển tỷ trọng này là 80%. Để thực hiện tốt công tác này NHCTCD cần có những biện pháp.
- Thực hiện chính sách khuyến khích lợi ích vật chất đối với khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng. Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế cũng được trả lãi suất không kỳ hạn như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và những khách hàng có số dư tiền gửi lớn được hưởng lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất thông thường.
- Tiền gửi có kỳ hạn được trả lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn, nếu khách hàng có số lượng tiền gửi lớn ngoài việc được hưởng ưu đãi về lãi suất còn được miễn giảm một phần phí dịch vụ thanh toán.
- Khuyến khích dân cư đẩy mạnh việc thanh toán bằng séc thông qua tiền gửi mở tại Ngân hàng. Trong thời gian đầu, tiền gửi để phát hành séc sẽ được tính lãi theo mức lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn, các dịch vụ thanh toán séc trên tài khoản Ngân hàng sẽ không thu phí dịch vụ. Tới khi thu nhập dân cư rất cao nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt sẽ được mở rộng và cần thiết với dân cư, đem lại lợi ích kinh tế. Lúc đó, chính lợi ích này là biện pháp khuyến khích dân cư mở tài khoản tiền gửi.
- Đối với các dịch vụ thanh toán, chuyển tiền không ngừng đổi mới, ứng dụng những thành tựu công nghệ thông tin hiện đại đẩy nhanh tốc độ thanh toán kịp thời chính xác.
3.2.2. Giải pháp về công tác tín dụng
3.2.2.1. Thực hiện tốt chiến lược khách hàng
Chiến lược khách hàng cần được xây dựng trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, chủ trương chung của ngành và dựa trên tình hình thực tế tại ngân hàng.
Theo định hướng phát triển kinh tế đã được ban chấp hành trung ương Đảng thông qua thì “ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu sản xuất đầu tư cương quyết sắp xếp và chấn chỉnh DNNN đảm bảo có hiệu quả cao để giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế…”
Luật các tổ chức tín dụng cũng quy địnhvề chính sách đối với các DNNN “ Nhà nước có chính sách tín dụng về vốn và điều kiện vay vốn đối với các DNNN để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này kinh doanh có hiệu quả và giữ vai trò chủ đạo trong kinh tế quốc dân.”
Phương châm của ngân hàng Công Thương là “ phát triển an toàn hiệu quả”. Ngân hàng thu hút những khách hàng kinh doanh có hiệu qủa vững vàng, có vị trí then chốt trong nền kinh tế và có vai trò chủ lực trong các ngành sản xuất kinh doanh …
Thực tế hoạt động tín dụng tại NHCTCD cho thấy chất lượng tín dụng được nâng cao khi ngân hàng có quan hệ với những đơn vị làm ăn tốt, có hiệu quả lớn. Nội dung chiến lược khách hàng hướng vào các DNNN thuộc bộ và địa phương quản lý, các công ty liên doanh giữa DNNN với nước ngoài, các công ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước. Các khách hàng trên phải có đủ điều kiện vay vốn theo cơ chế hiện hành, có uy tín với ngân hàng trong quan hệ tín dụng, không có nợ quá hạn, nợ khó đòi, thực trạng tài chính vững vàng và kinh doanh có hiệu quả. Để duy trì và đặc quan hệ với nhóm khách hàng này ngân hàng cần thực hiện tốt những biện pháp:
- Phân loại khách hàng theo những tiêu thức nhất định phủ hợp với yêu cầu quản lý.
- Có những ưu đãi điều kiện vay vốn. Đối với những khách hàng hội đủ điều kiện vay vốn theo chế độ tín dụng trung dài hạn được ưu đãi về vốn tự có và ưu đãi về mức ký quỹ.
- Có những ưu đãi về lãi suất cho vay, lãi suất nhận gửi và phí dịch vụ đối với nhóm khách hàng này. Lãi suất cho vay ưu đãi tối đa giảm 15% so với lãi suất thông thường.
- Tổ chức hội nghị khách hàng thông qua đó xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa khách hàng và khách hàng trao đổi thường xuyên rút kinh nghiệm làm cho mối quan hệ hai bên càng bền vững.
- Theo dõi khách hàng trên từng hồ sơ riêng và được cài đặt trong máy tính, bổ xung thông tin kịp thời giúp cho việc quản lý khách hàng có khoa học, hệ thống.
- Ngân hàng sử dụng quỹ khen thưởng để thưởng cho những khách hàng có nhiều đóng góp với ngân hàng và thưởng cho những các nhân có thành tích tốt trong hoạt động tín dụng.
- Ngân hàng phải nhiệt tình, chủ động và nhanh nhạy trong việc tìm kiếm những khách hàng mới. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc trực tiếp gặp gỡ để giới thiệu về nghiệp vụ của ngân hàng và những ưu đãi mà ngân hàng có thể đem lại cho khách hàng.
- Chiến lược khách hàng cần thiết phải phổ biến tới từng cán bộ ngân hàng để mỗi cán bộ hiểu rõ và thực hiện tốt chiến lược khách hàng đã đề ra.
Như vậy thực hiện tốt chính sách khách hàng ngân hàng sẽ có được lực lượng khách hàng đông đảo, sản xuất kinh doanh có hiệu quả và chất lượng tín dụng của ngân hàng được nâng cao.
3.2.2.2. Đa dạng hoá hình thức cho vay đối với DNNN nhằm hạn chế rủi ro
Đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng là một trong những nhiệm vụ của công tác tín dụng. Hình thức cho vay mà ngân hàng cung cấp phù hợp với hoạt động kinh doanh của khách hàng. Mỗi một khách hàng có những đặc điểm riêng về sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn các thời kỳ là khác nhau. Do đó việc ngân hàng nên áp dụng thêm nhiều phương thức cho vay mới nhằm tạo ra sự thuận tiện cho khách hàng đồng thời ngân hàng. Hiện nay phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng và cho vay dài hạn theo dự án được áp dụng phổ biến trong hoạt động tại ngân hàng. Tuy nhiên mỗi hình thức cho vay đều có những ưu nhược điểm nhất định.
- Cho vay bắc cầu: theo phương thức này NHCTCD sẽ phối hợp với các ngân hàng khác để tài trợ cho một dự án trung dài hạn nào đó. NHCTCD sẽ DNNN có dự án vay vốn phục vụ cho giai đoạn nhất định nào đó của dự án, sau đó chuyển giao cho ngân hàng khác thực hiện. Với phương thức này ngân hàng vừa chia sẻ được rủi ro vừa giúp các DNNN thực hiện các dự án trung và dài hạn phù hợp với mục tiêu phát triển cho vay trung dài hạn của NHCTCD
- NHCTCD có thể áp dụng thêm hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng. Đây là hình thức ngân hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi nhất định để đầu tư cho dự án. Phương thức này giúp khách hàng có thể vay được vốn trong trường hợp nhu cầu vay lớn hơn hạn mức tín dụng đã được duyệt đầu năm.
- Hình thức cho vay trả góp. Theo hình thức này ngân hàng và DNNN xác định và thoẩ thuận số tiền lãi phải trả cộng với số nợ gốc sau đó đem chia ra để trả thành nhiều kỳ hạn rrả nợ trong thời gian vay. Tài sản mua bằng vốn vay theo hình thức này sẽ thuộc sở hữu của DNNN khi đã trả đủ nợ gốc và lãi. Với hình thức này DNNN có được tài sản cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngân hàng đã thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra ngân hàng còn có thêm một hình thức bảo đảm tiền vay chính là tài sản được hình thành từ vốn vay trả góp.
Với viêc đa dạng hoá hình thức cho vay, ngân hàng sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu vay vốn của các DNNN, đồng thời ngân hàng cũng san sẻ rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN.
3.2.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng đối với khách hàng và dự án vay vốn.
Để đạt được hiệu quả cao khi cho vay cần làm tốt công tác thẩm định phương án và dự án vốn vay nhằm nâng cao chất lượng tín dụng giảm rủi ro cho Ngân hàng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc thẩm định tín dụng tập trung vào hai vấn đề chủ yếu sau.
- Phương án vay vốn, dự án vay vốn phải đầy đủ các điều kiện cho vay, nguyên tắc cho vay theo thể lệ quy định cụ thể đối với các loại vay đó, đảm bảo cho vay thu được gốc và lãi đúng hạn.
- Hồ sơ thủ tục vay vốn phải đầy đủ hợp lệ hợp pháp theo chế độ quy định nếu xảy ra tranh chấp tố tụng thì đảm bảo an toàn về pháp lý cho Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn cao là do có những tồn tại nhất định trong công tác thẩm định, chất lượng công tác thẩm định chưa cao nguyên nhân chủ yếu là do trình độ năng lực chuyên môn của cán bộ tín dụng. Trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng cần tập trung phân tích một số vấn đề sau:
- Năng lực pháp lý của khách hàng như quyết định thành lập hợp pháp, đăng ký kinh doanh, quyết định bổ nhiệm người đại diện pháp nhân trước pháp luật v.v...
- Điều tra về tính cách uy tín của khách hàng nhằm mục tiêu hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro do chủ quan khách hàng gây nên như rủi ro về đạo đức, rủi ro về thiếu năng lực, trình độ kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường đề phòng phát hiệnh âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng. Uy tín của khách hàng thể hiện như chất lượng hàng hoá, giá cả hàng hoá dịch vụ sản phẩm mức độ chiếm lĩnh thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm các quan hệ tài chính vay vốn trả nợ với khách hàng bạn hàng và Ngân hàng.
- Năng lực tài chính của khách hàng xác định sức mạnh tài chính khả năng độc lập tự chủ tài chính trong kinh doanh khả năng thanh toán, khả năng hoàn trả nợ vay vốn của chủ sở hữu tham gia vào dự án phương án vay vốn.
- Thẩm định phương diện thị trường: Phân tích khả năng tiêu thụ sản phẩm trên các mặt giá cả, quy cách phẩm chất mẫu mã thị hiếu của người tiêu dùng, đặc biệt với thị trường nước ngoài. Xem xét các hợp đồng bao tiêu sản phẩm về số lượng, chủng loại và giá cả thời hạn và phương thức thanh toán, các văn bản về giao dịch sản phẩm như đơn đặt hàng hiệp định đã ký, các biên bản. Doanh nghiệp không nên bán hàng cho một thị trường hoặc một nhà tiêu thụ duy nhất mà cần nhiều thị trường nhiều mối tiêu thụ để chủ động tránh ép giá và ứ đọng hàng.
- Thẩm định về phương diện kỹ thuật
Xét quy mô dự án có phù hợp với khả năng tiêu thụ của sản phẩm hay không khả năng cung cấp nguyên vật liệu năng lực quản lý của doanh nghiệp xét công nghệ thiết bị để đưa ra các phương án để so sánh lựa chọn công nghệ thiết bị tối ưu nhất. Thẩm định số lượng công suất quy cách chủng loại danh mục thiết bị đồng bộ, dây truyền sản xuất, năng lực hiện có của doanh nghiệp so với quy mô dự án.
Thẩm định địa điểm xây dựng dự án theo các yêu cầu có gần nơi cung cấp nguyên liệu, vật liệu chủ yếu hoặc nơi tiêu thụ chính, giao thông thuận tiện .v.v...
Thẩm định về phương diện tổ chức quản lý thực hiện và vận hành dự án.
- Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính. Đây là yếu tố quyết định trực tiếp đến việc lựa chọn các dự án đầu tư đó là lợi nhuận của dự án, cho nên trước khi bỏ vốn đầu tư vào các doanh nghiệp, Ngân hàng thường sử dụng phương pháp phân tích tài chính để thẩm định tính khả thi của dự án đầu tư.
Nếu dùng phương pháp phân tích tài chính giản đơn thì các chỉ tiêu được sử dụng là: lợi nhuận ròng, tỷ suất lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn, điểm hoà vốn.v.v...
Nếu phân tích tài chính bằng giá trị hiện tại: là phương pháp thẩm định tính khả thi của dự án dựa vào các chỉ tiêu lãi kép và giá trị lãi kép, giá trị hiện tại thuần, phân tích độ nhạy bén của dự án.
Ngoài ra còn thẩm định môi trường xã hội, phương án tổ chức thực hiện, phương diện tổ chức quản lý.
Khi đã thực hiện thẩm định khách hàng và dự án vay vốn đủ trên mọi phương diện nêu trên, kết luận và quyết định cho vay hay không cho vay? Chính vì vậy mà đây là khâu quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
Trong quá trình thẩm định phương án dự án vay vốn có vấn đề đặt ra mà cán bộ tín dụng chưa đủ điều kiện cũng như khả năng để khẳng định kết quả tính toán, phải phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền tạo điều kiện giúp đỡ để thẩm định đạt chất lượng cao như thẩm định về phương diện thị trường, phương diện kỹ thuật đối với những món vay trung và dài hạn.
3.2.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng ngày càng được mở rộng. Nhưng nếu tín dụng được mở rộng mà không quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra kiểm soát thì chất lượng công tác tín dụng sẽ giảm và dẫn đến nợ quá hạn và nợ khó đòi sẽ tăng cao. Cho nên công tác kiểm tra kiểm soát là một nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo chất lượng tín dụng. Với vai trò của công tác kiểm tra kiểm soát phải được nâng lên ở mức tương ứng yêu cầu nâng cao chất lượng tín dụng.
Công tác kiểm tra kiểm soát được đề cập không chỉ nhằm đơn thuần kiểm tra khách hàng mà còn quan trọng ở chỗ là kiểm tra giám sát việc làm của cán bộ lãnh đạo và cán bộ tín dụng theo đúng quy chế, cơ chế đảm bảo kinh doanh an toàn hiệu quả và đúng pháp luật.
Bộ máy kiểm tra nội bộ bao gồm phòng kiểm tra - kiểm toán nội bộ ở trụ sở chính Ngân hàng Công thương Việt Nam và phòng (tổ) kiểm tra ở đơn vị thành viên.
Nhiệm vụ quyền hạn của bộ máy kiểm tra nội bộ tại chi nhánh được quy định như sau:
- Thực hiện kiểm tra kiểm soát theo chương trình kế hoạch hoặc chỉ đạo trực tiếp của Tổng giám đốc. Báo cáo kết quả kiểm tra kiểm toán và kiến nghị với giám đốc chi nhánh, Tổng giám đốc những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung về chủ trương chính sách chế độ và xử lý cá nhân, tổ chức sai phạm được phát hiện trong kiểm toán.
- Giám sát việc kiểm tra tổ chức thực hiện quy trình nghiệp vụ thể lệ chế độ quy định về quản lý kinh doanh, quản trị điều hành... của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam tại đơn vị.
- Phối hợp với các phòng nghiệp vụ để kiểm tra kiểm soát kế hoạch và thực hiện kiểm tra theo yêu cầu của giám đốc đơn vị.
Mặc dù công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ có lợi ích lớn và cũng rất quan trọng nhưng các Ngân hàng thương mại nói chung nó còn mang tính hình thức chiếu lệ, mang tính chỉ đạo theo từng đợt khi có công văn chỉ thị của cấp trên, cho nên không đều đặn thiếu thường xuyên, thiếu năng động, thiếu tính chủ động tích cực. Do vậy, kết quả mang lại thường để sửa sai và rút kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp sau nhiều hơn là ngăn chặn kịp thời các sai sót, rủi ro sắp xảy ra.
Từ phân tích trên cho thấy nhanh chóng tổ chức tốt bộ máy kiểm tra nội bộ là vấn đề hết sức cấp bách của chi nhánh, nó được xem là một trong các biện pháp hữu hiệu để tự bảo hiểm cho hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng của chi nhánh.
Như vậy an toàn trong kinh doanh tiền tệ tín dụng tại chi nhánh phải dựa vào công tác kiểm tra kiểm soát nội rất nhiều. Trong điều kiện chi nhánh có thể đặt ra việc kiểm tra kiểm soát nội bộ trong cả ba giai đoạn đối với từng món vay hoặc đối với từng khách hàng sao cho tránh phiền hà mà công tác này có hiệu quả áp dụng kiểm tra kiểm soát dự phòng nhiều hơn là xử phạt tăng độ an toàn về vốn tài sản.
Về vấn đề nhân sự: Bố trí người làm công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ luôn quán triệt: "đặt lợi ích của Ngân hàng lên hàng đầu trong mọi trường hợp” có bản lĩnh vững vàng, có kinh nghiệm về lĩnh vực hoạt động Ngân hàng, kế toán, kinh tế, tài chính, hiểu biết pháp luật có trình độ đại học trở lên có thâm niên công tác trên 5 năm, liêm khiết, trung thực, độc lập trong công việc, có tinh thần trách nhiệm, khách quan trong khi thực hiện nghiệp vụ.
Giám đốc của chi nhánh quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, chỉ đạo giám sát phòng kiểm soát tại chi nhánh thực thi theo chương trình Tổng giám đốc phê duyệt. Yêu cầu phòng kiểm soát tiến hành kiểm tra kiểm soát những nghiệp vụ cần thiết ngoài chương trình kiểm tra chung của Tổng giám đốc. Chỉ đạo các phòng ban và các đối tượng được kiểm tra cung cấp hồ sơ tài liệu báo cáo phục vụ công tác kiểm tra. Tạo môi trường lành mạnh ổn định để kiểm tra viên yên tâm công tác, dám đấu tranh với những sai trái... kịp thời khen ngợi, thưởng vật chất khi phòng kiểm soát có những biện pháp đề xuất tốt cho Ngân hàng hoặc có công phát hiện sai trái vi phạm.
Tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của chi nhánh. Tất cả cán bộ công nhân viên chức cũng như cán bộ lãnh đạo trong cơ quan đều phải nhận thức đầy đủ quan tâm thực sự đến công tác này.
3.2.2.5. Xử lý có hiệu quả nợ quá hạn, nợ khó đòi
Để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, song song với việc thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế phát sinh nợ quá hạn mới thì việc xử lý thu hồi các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi đang tồn đọng cũng cần tiến hành một cách tích cực.
Trên cơ sở phân tích từng loại nợ quá hạn, nợ khó đòi đang tồn đọng để tìm hiểu rõ nguyên nhân phát sinh. Từ đó phân thành nợ quá hạn có khả năng thu hồi, không có khả năng thu mà xử lý bằng tài sản thế chấp. NHCTCD chủ động đề ra và thực hiện các biện pháp xử lý phù hợp
- Đối với các khoản nợ quá hạn vẫn còn khả năng thu hồi: trong loại này ngân hàng cũng cần phân loại chi tiết trên cơ sở nguyên nhân nợ quá hạn
+ Đối với DNNN có uy tín trong quan hệ tín dụng nhưng bị thua lỗ do nguyên nhân khách quan dẫn tới nợ quá hạn, ngân hàng nên xem xét đánh giá lại thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm ra biện pháp khôi phục và nếu tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị đó còn có triển vọng và doanh nghiệp có kế hoạch khắc phục đem lại hiệu quả cao thì ngân hàng cần áp dụng biện pháp tiếp tục cho đơn vị đó vay vốn để khắc phục sản xuất, tạo điều kiện trả nợ ngân hàng. Ngân hàng áp dụng biện pháp "nuôi nợ để trả nợ".Trong trường hợp này ngân hàng nên giám sát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay, tình hình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra ngân hàng cũng có thể tư vấn cho doanh nghiệp trong khả năng của mình, giúp cho đơn vị trong việc quyết định sản phẩm sản xuất hạ giá bán, phát triển mạng lưới tiêu thụ… Đồng thời giám sát chặt chẽ hoạt động bán hàng của doanh nghiệp để thu hồi nợ. Qua đó NHCTCD có thể giúp doanh nghiệp kinh doanh có lãi, tạo công ăn việc làm cho người lao động, sản xuất được vực lên và dần có đủ điều kiện để trả nợ ngân hàng và các khoản nợ trước đó.
+ Đối với những khách hàng phát sinh nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan như vật tư hàng hoá đơn vị bị ứ đọng, tiêu thụ chậm, năng lực kinh doanh giảm sút. Ngân hàng nên đôn đốc họ nên bán hàng hoá hoặc tìm nguồn khác để trả nợ làm sao thu hồi được vốn nhanh. Trường hợp hàng hoá bị ứ đọng do chất lượng kém hoặc do lạc hậu, lỗi thời thì ngân hàng thúc bách DNNN phải chấp nhận bán hạ giá thậm chí chịu lỗ để hoàn trả vốn cho ngân hàng. Đối với loại khách hàng này sau khi thu hồi nợ, ngân hàng nên xem xét việc thẩm định các yêu cầu khi cho vay vốn, điều chỉnh lại hạn mức tín dụng. Đối với những doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích thì phải tìm cách thu hồi vốn ngay. Đối với những khách hàng có biểu hiện chây ì, dây dưa, để nợ quá hạn kéo dài thì NHCTCD kết hợp với chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng để thu hồi nợ và làm dứt điểm từng trường hợp.
Đối với loại nợ quá hạn này nhằm đẩy nhanh tốc độ thu nợ thì bên cạnh việc tích cực chủ động của cán bộ tín dụng, ngân hàng cũng nên thành lập tổ thu nợ gồm một số cán bộ có kinh nghiệm trong công tác, có mội quan hệ rộng và được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc để có điều kiện theo dõi sát sao doanh nghiệp, tận dụng mọi khả năng để thu nợ.
- Đối với khoản nợ quá hạn không có khả năng thanh toán mà phải xử lý bằng tài sản thế chấp: nghị định 178/NĐ-CP đã tạo thuận lợi rất lớn trong việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố cho ngân hàng, đã tăng tính chủ động cho ngân hàng trong việc xử lý tài sản đảm bảo. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp việc phát mại tài sản gặp khó khăn do số tiền phát mại nhỏ hơn số vốn cần phải thu hồi, thời gian phát mại dài nhiều chi phí phát sinh thậm chí là không phát mại được. Nhưng xử lý tài sản đảm bảo không nên chỉ chú trọng vào phát mại tài sản đảm bảo. Ngân hàng thu hồi nợ quá hạn nên áp dụng những biện pháp sau:
+ Dùng tài sản để cho thuê và trực tiếp thu tiền.
+ Dùng tài sản đó làm vốn góp liên doanh
+ Liên hệ với các ngân hàng khác có nhiều tài sản thế chấp không bán được để cùng bán nhằm giảm chi phí hoặc thông qua công ty mua bán nợ để xử lý những tài sản này.
+ Nếu địa điểm của tài sản thế chấp thuận lợi ngân hàng có thể hồi và sử dụng nó làm địa điểm giao dịch mở thêm đại lý quỹ tiết kiệm.
Phát mại tài sản để thu nợ là biện pháp cuối cùng. Quy trình thủ tục phát mại cần thực hiện theo đúng luật định.
Nợ quá hạn là điều không ai muốn xảy ra , nhất là các cán bộ tín dụng. Song nếu đã xảy ra thì ngân hàng phải có biện pháp tích cực để thu hồi nợ, giảm nợ quá hạn chính là nâng cao chất lượng tín dụng.
3.2.2.6. Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng.
Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng đảm bảo an toàn trong kinh doanh là hai mảng đề tài có liên quan chặt chẽ với nhau, phản ánh mối quan hệ nhân quả như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Với hoạt động tín dụng Ngân hàng, một lĩnh vực chứa đầy rủi ro cao hơn nhiều ngành kinh tế khác thì yếu tố con người có thể coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân.
Nhân viên cán bộ của ngân hàng vững mạnh về phẩm chất chính trị, không bị cám dỗ bởi tiền tài vật chất tham nhũng tiêu cực, nhiều cán bộ đã trả lại tiền thừa cho khách hàng tạo nên hình ảnh đẹp về người cán bộ ngân hàng. Số lượng cán bộ tinh thông về nghiệp vụ, năng động sáng tạo, dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm, có kiến thức khoa học tổng hợp về kinh tế pháp luật ngoại ngữ, có đầu óc thực tế trong kinh doanh ngày càng tăng lên.
Tuy nhiên còn có một bộ phận không nhỏ chưa theo kịp với trình độ phát triển kinh tế chung của đất nước. Trình độ của một số bộ phận cán bộ tín dụng còn bất cập, thiếu kiến thức về kinh tế thị trường, hạn chế hiểu biết về pháp luật. Đội ngũ cán bộ Ngân hàng hiện nay đang có tồn tại cần nghiên cứu để có chính sách cán bộ cho hợp lý.
Những cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ quản lý điều hành hoặc trực tiếp tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng nói riêng cần phải có tiêu chuẩn chung là:
- Lập trường tư tưởng vững vàng với mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mỗi cán bộ công nhân viên phải là một tấm gương sáng về tinh thần đạo đức,ý thức tổ chức kỷ luật cao. Bởi vì Ngân hàng đi vay để cho vay, mọi thất thoát rủi ro đều gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của dân và ảnh hưởng đến nền kinh tế chính trị của đất nước. Cán bộ công nhân viên Ngân hàng luôn va chạm với đồng tiền nếu không có đạo đức sẽ dễ bị cám dỗ vật chất dẫn đến hành vi tiêu cực hoặc sai trái.
- Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn giỏi nắm bắt một cách nhanh nhạy đầy đủ các chính sách chủ trương của Đảng pháp luật Nhà nước, biết vận dụng sáng tạo trong từng vị trí công tác được giao. Thiếu điều kiện này, trình độ cán bộ sẽ bị tụt hậu dẫn đến mắc sai lầm thiếu sót do trình độ hạn chế gây tổn thất cho ngân hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng..
Bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực tín dụng tại chi nhánh là quá trình liên tục và lâu dài. Trước mắt cần tiêu chuẩn hoá cán bộ một cách cụ thể để có chính sách tuyển chọn đào tạo, đào tạo lại bố trí sắp xếp sử dụng đội ngũ cán bộ tín dụng hiện có cho phù hợp với vị trí yêu cầu của từng vị trí công tác. Phân rõ trách nhiệm pháp lý của từng vị trí công tác đảm bảo quyền lợi gắn với trách nhiệm khen thưởng kịp thời kỷ luật nghiêm minh. Như vậy trong kinh doanh tín dụng sẽ hạn chế bớt rủi ro không đáng có do ý thức chủ quan của cán bộ Ngân hàng hoặc khách hàng gây ra giảm nợ quá hạn chất lượng tín dụng sẽ nâng cao.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị đối với các DNNN
Nâng cao chất lượng tín dụng đòi hỏi phải có những biện pháp hữu hiệu từ hai phía ngân hàng và khách hàng. Chất lượng tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào tình hình sản xuất kinh doanh của DNNN. Nếu doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, ngân hàng thi hồi được vốn và lãi đúng hạn. Trường hợp doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng rất bấp bênh. Do vậy, để đầu tư cho DNNN và nâng cao chất lượng tín dụng cần có sự đổi mới tích cực từ phía DNNN
* DNNN phải có giải pháp tạo vốn tự có. Vốn là vấn đề nổi cộm đối với các DNNN hiện nay. Vốn tự có là toàn bộ giá trị tài sản để đảm bảo rủi ro trong kinh doanh. Vốn của DNNN qua ít, vốn vay lớn thì rủi ro lại càng tăng. Yêu cầu đặt ra đối với DNNN là phải có đủ vốn tự có để tham gia vào sản xuất kinh doanh. Để có đủ số vốn này thì một số biện pháp có thể áp dụng là:
- Điều quan trọng là DNNN phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, năng động làm giàu chính đáng cho doanh nghiệp mình. Thực hiện trích một phần lợi nhuận để bổ sung vốn tự có cho DNNN.
* Đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Trên cơ sở số vốn tự có, DNNN xác định kế hoạch sản xuất kinh doanh từ đó cụ thể nhu cầu vốn cần thiết. Đổi mới công nghệ dựa trên các thành tựu khoa học nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản suất kinh doanh. Đổi mới công nghệ cũng góp phần đa dạng hóa sản phẩm. Mở rộng hợp lý danh mục sản phẩm, tạo ra cơ cấu sản phẩm có hiệu quả đáp ứng được nhu cầu của những khách hàng truyền thống đồng thời tranh thủ được những khách hàng mới. Công nghệ hiện đại góp phần giảm giá thành sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
* DNNN phải thực sự coi trọng lực lượng cán bộ. Có chế độ tuyển chọn người một cách nghiêm ngặt đồng thời bố trí sử dụng cán bộ một cách hợp lý khác đối đa khả năng của từng người.
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
* Tăng cường công tác thông tin phòng ngừa rủi ro. Củng cố và phát triển trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro đảm bảo cung cấp thông tin về khách hàng, tình hình trong nước một cách kịp thời chính xác cho ngân hàng . Thông qua đó, ngân hàng tham khảo thông tin giúp cho việc quyết định cho vay hay không đối với khách hàng. Ngân hàng cũng cần thiết được cung cấp về khả năng an toàn vốn, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhờ đó mà lường trước được rủi ro có thể xảy ra.
* Tăng cường công tác thanh tra kiểm soát từ phía Ngân hàng Nhà nước, xây dựng hệ thống thanh tra đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo thực hiện có hiệu quả cao nhất về hoạt động kiểm soát độ an toàn của hệ thống ngân hàng. Nâng cao trình độ quản trị kinh doanh của các ngân hàng thương mại, đảm bảo cho toàn ngành hoạt động theo đúng pháp luật. Thường xuyên kiểm tra giám sát, bắt buộc các Ngân hàng phải thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật trong hoạt động tín dụng. Giải quyết các tồn tại nhằm nâng cao năng lực và tính ổn định của các Ngân hàng.
* Tiếp tục đổi mới công nghệ Ngân hàng tạo tiền đề cho các Ngân hàng thương mại trong chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn. Từng bước quốc tế hoá hoạt động Ngân hàng, hội nhập với cộng đồng tài chính và tiền tệ quốc tế để tạo điều kiện thuận lợi cho các Ngân hàng thương mại trong hoạt động tín dụng và thanh toán quốc tế.
3.3.3. Kiến nghị với Chính phủ
* Nhà nước tôn trọng quyền độc lập tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của các ngân hàng. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng. Đồng thời, Nhà nước tạo ra môi trường pháp lý đầy đủ cho hoạt động ngân hàng. Một môi trường pháp luật đồng bộ, đầy đủ hạn chế khe hở của pháp luật. Như vậy, hoạt động tín dụng của ngân hàng được pháp luật đảm bảo góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.
* Tăng cường tính tự chủ cho các DNNN hơn nữa, quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của DNNN trong hoạt động kinh doanh.
* Cần có chính sách và biện pháp cụ thể tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán thực sự trở thành kênh dẫn chuyển vốn hiệu quả. Tạo điều kiện cho DNNN tiếp cận với thị trường này để có thêm vốn trong hoạt động kinh doanh.
Kết luận
Các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Nếu các doanh nghiệp Nhà nước không đủ mạnh thì Nhà nước không thể điều tiết nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, các DNNN cần tiếp tục đổi mới, phát triển thực hiện các chỉ tiêu lớn của toàn bộ nền kinh tế. DNNN đóng vai trò nền tảng trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của DNNN là vấn đề bức thiết nhằm giữ vững định hướng phát triển của đất nước. DNNN là tài sản thuộc sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện cho toàn dân đứng ra quản lý nhằm mang lại lợi ích cho xã hội. Các DNNN ngày càng được củng cố và tăng trưởng không thể thiếu vốn vay ngân hàng. Vấn đề đặt ra đối với ngân hàng là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh đồng thời phải đảm bảo an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng đối với các DNNN tại ngân hàng.
Trên cơ sở phân tích tình hình chất lượng tín dụng đối với DNNN tại ngân hàng công thương Chương Dương chuyên để tốt nghiệp đã đưa ra những đánh giá cơ bản trên cả hai mặt, thể hiện kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với DNNN. Từ đó, em đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN trong tình hình cụ thể tại ngân hàng công thương Chương Dương.
Do còn hạn chế về trình độ cũng như thiếu kinh nghiệm thực tế, nên chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để em có thể hiểu sâu hơn về vấn đề mà em quan tâm.
Mục lục
Lời nói đầu
1
Chương I : DNNN và vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN trong nền kinh tế thị trường.
3
1.1 DNNN và vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường
3
1.2. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế
5
1.3. Chất lượng tín dụng và các nhân tố ảnh hưởng
13
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại ngân hàng công thương chương dương
20
2.1. Khái quát về ngân hàng công thương chương dương
20
2.1.1 Sự hình thành và phát triển của NHCT Chương Dương
20
2.1.2.Khái quát tình hình hoạt động của NHCT Chương Dương
22
2.2. Thực trạng chất lượng tín dụng đối với DNNN tại NHCT Chương Dương
28
2.2.1. Tình hình tín dụng ngắn hạn đối với DNNN
28
2.2.2. Tình hình tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN
31
2.2.3. Chất lượng tín dụng đối với DNNN
33
2.2.4. Đánh giá chất lượng tín dụng đối với DNNN
35
Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN tại NHCT Chương Dương
39
3.1. Định hướng hoạt động tín dụng của NHCT chương dương trong thời gian tới
39
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với DNNN tại NHCT chương dương
40
3.2.1. Giải pháp về huy động vốn
40
3.2.2. Giải pháp về công tác tín dụng
41
3.3. Một số kiến nghị
50
3.3.1.Kiến nghị đối với DNNN
50
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
51
3.3.3. Kiến nghị đối với chính phủ
52
Kết luận
55
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0083.doc