Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Trong công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế ngoài quốc doanh ngày cang được phục hồi, phát triển và khẳng định vai trò của nó trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh dưới tác động của cơ chế chung, bên cạnh việc tự huy động vốn của bản thân vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư cho thành phần này đóng vai trò rất quan trọng. Hoạt động tín dụng này chẳng những thúc đẩy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh mà chính thông qua đó tác động trở lại, thúc đẩy đối với hệ thống Ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ, hoàn thiện các cơ chế, chính sách tín dụng.

doc87 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Sở giao dịch I- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắng vốn bởi nợ khó đòi có thể do nhiều nguyên nhân như:Có thể do doanh nghiệp làm ăn yếu kém rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, đổ vỡ phá sản do trình độ cán bộ còn hạn chế,... Như vậy có thể coi Nợ khó đòi là một trong những chỉ tiêu hàng đầu để đánh giá chất lượng tín dụng là tốt hay xấu.Có thể thấy rõ chỉ tiêu này qua việc phân tích bảng số liệu sau: Bảng 8.Tình hình Nợ khó đòi NQD qua các thời kỳ Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số tiền Số tiền Số tiền 1.Dư nợ -Ngắn hạn -Trung-dài hạn 256.059 146.978 109.081 341.674 212.521 129.153 615.098 436.720 178.378 2.Nợ khó đòi -Ngắn hạn -Trung-dài hạn 446 282 164 495 350 145 566 448 118 3.NKĐ/DN (%) -Ngắn hạn -Trung- dài hạn 0,18 0,11 0,07 0,15 0,1 0,05 0,09 0,07 0,02 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 2000-2002 Qua bảng số liệu trên cho thấy tỷ lệ NKĐ/DN chiếm tỷ trọng rất thấp và giảm dần qua các năm về tương đối, tỷ lệ này đối với tín dụng ngắn hạn lớn hơn so với tín dụng trung-dài hạn. Cụ thể: giảm từ tỷ trọng 0,18% năm 2000 xuống còn 0,15% năm 2001 và đến năm 2002, chỉ còn 0,09% ; đối với tín dụng ngắn hạn, năm 2000, tỷ lệ này là 0,11%, giảm dần trong năm 2001 chỉ còn 0,1% và năm 2002 chỉ còn 0,07% , đối với tín dụng trung-dài hạn, tỷ lệ này thấp hơn, năm 2000 là 0,07%, năm 2001, giảm xuống 0,05% và chỉ còn 0,02% năm 2002.Qua đó cho thấy, mặc dù Nợ khó đòi vẫn còn nhưng với con số rất thấp cả về tương đối và tuyệt đối cũng phần nào cho thấy tính sòng phẳng của kinh tế ngoài quốc doanh là tương đối. Điều này có thể dược lí giải bởi một số nguyên nhân sau: Khác với kinh tế quốc doanh, kinh tế ngoài quốc doanh muốn tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng thì một tiêu chí hàng đầu đó là tạo dựng uy tín đối với ngân hàng thông qua việc trả vay đúng hạn.Tuy nhiên, không thể tránh khỏi có một số doanh nghiệp do nhièu nguyên nhân chủ quan,khách quan mà rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán . Đứng trước thực trạng đó đồi hỏi SGD cần tìm mọi biên pháp làm giảm tỷ lệ này xuống tới mức tối đa có thể nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Chất lượng tín dụng tại SGD không chỉ được đánh giá qua các con số mang tính định lượng mà còn thể hiện phần nào qua các chỉ tiêu khác.Đó là việc triển khai tốt công tác quản trị điều hành, chiến lược phát triển phù hợp, quy trình nghiệp vụ khoa học,đảm bảo quản lí chặt chẽ quá trình cấp tín dụng, đã tạo lập uy tín vỡi nhiều khách hàng.Tuy nhiên, ngoài những mặt đạt được, việc hoạt động tại SGD vẫn không tránh khỏi những bất cập.Đó là sự hạn chế về trình độ, nghiệp vụ, cũng như còn lạc hậu về cơ sở vật chất, kỹ thuật cần phải khắc phục. Tóm lại,thông qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, qua các con số cụ thể phần nào cũng đã phản ánh rõ tình hình tín dụng cũng như chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD.Bên cạnh những thành tựu đạt được còn tồn tại một số hạn chế nhất định cần được xem xét lại để có những giải pháp phù hợp,đúng hướng. 2.2.3.Đánh giá những kết quả đạt được và những hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh 2.2.3.1. Những kết quả đạt được. Từ khi thực sự bước vào giai đoạn hoạt động của một NHTM trong cơ chế thị trường(1995) đến nay, SGD đã xác định: hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khách là phương châm hoạt động của mình, chủ động tìm khách hàng, tìm dự án để cho vay. Đến nay, dù gặp nhiều khó khăn trong việc cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh nhưng SGD đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần này. -Doanh số cho vay,dư nợ và hoạt động thu nợ đối với KTNQD ở SGD đang có chiều hướng tăng cả về tương đối lẫn tuyệt đối. Ngày càng thu hút nhiều hộ sản xuất kinh doanh, hộ tiêu dùng đến vay vốn và đảm bảo tốt hoạt động tín dụng của SGD.Tình hình nợ quá hạn và nợ khó đòi đối với thành phần này rất thấp và giảm dần qua các năm. -Bằng việc cấp tín dụng, SGD đã góp phần khích lệ khối doanh nghiệp này phát triển, qua việc quan tâm, giúp đỡ tư vấn cho các dự án của các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp triển khai dự án có hiệu quả, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm...Vì vậy, những doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tại SGD trong mấy năm gần đay đã phát triển mạnh mẽ và hoạt động hiệu quả hơn. - Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh theo các kỳ hạn khác nhau phù hợp với ngành nghề kinh doanh, SGD đã cung ứng vốn theo yêu cầu của khách hàng sau khi xem xét đầy đủ nghiệp vụ tín dụng. Như vây, SGD đã thực hiện đa dạng hoá các kỳ hạn, ngành nghề cho vay, vừa đảm bảo tăng trưởng, vừa san sẻ rủi ro, đem lại hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp và lợi ích cho xã hội. - Thêm vào đó đối tượng cho vay của SGD cũng được mở rộng, không chỉ là các doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH,SGD còn cho vay đối với cá thể kinh doanh, cho vay cán bộ công nhân viên, cho sinh viên vay theo nghị định của Chính phủ. Tính đến năm 2002, số doanh nghiệp ngoài quốc doanh quan hệ tín dụng với SGD là 52 doanh nghiệp, 161 tư nhân cá thể. Tuy nhiên, con số này là không lớn như đã phân tích ở trên nhưng nó thể hiện sự đa dạng trong việc mở rộng các đối tượng cho vay của SGD. Tuy tỷ lệ cho vay đối với KTNQD của SGD còn ít, mới chỉ chiếm xấp xỷ 6% nhưng đó là những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả luôn đảm bảo trả nợ đúng hạn, giữ vững được uy tín của mình. Kết quả này chưa lớn nhưng điều mà SGD đạt được là mở rộng đối tượng khách hàng, đa dạng hoá các danh mục đầu tư, các hoạt động kinh doanh của SGD, thiết lập các mối quan hệ vững chắc, tạo niềm tin nơi khách hàng. Việc tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn Ngân hàng cũng như việc thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản hợp đồng đã ký kết, giúp khách hàng có thể lựa chọn hình thức cung ứng vốn, thời hạn giải ngân củng cố thêm uy tín của SGD nói riêng và của NHĐT&PTVN nói chung.Thông qua đó, hướng tới mục tieu nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần này. Sở giao dịch đã đạt được những kết quả như vậy là do: Thứ nhất, SGD có được hệ thống văn bản, cơ chế nghiệp vụ tín dụng tương đối đầy đủ và ngày càng nâng cao chất lượng thẩm định. Do vậy, thể chế, quy định được thông thoáng hơn, giao quyền chủ động hơn cho Ngân hàng trong quyết định cho vay. Bên cạnh đó, Sở giao dịch áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000, đã tạo cơ chế thống thoáng, giảm bớt các thủ tục không cần thiết nhưng vẫn đảm bảo quy trình tín dụng chặt chẽ để cho vay nhanh chóng kịp thời cho khách hàng nhưng vẫn tôn trọng đầy đủ nguyên tắc tín dụng. Thứ hai, trước tình hình kinh tế trong khu vực và trên thế giới có nhiều biến động nhưng do sự chỉ đạo đúng đắn kịp thời của Đảng, Chính phủ, cùng với sự phối hợp chặt chẽ từ NHNN, NHĐT&PT đến các chi nhánh được thông suốt và kịp thời. Do đó, kinh tế nước ta trong năm qua vẫn ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động. Thứ ba, công tác Hội nghị khách hàng được tổ chức thường xuyên hàng năm, nắm bắt những thông tin, kiến nghị từ phía khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, trao đổi tìm ra biện pháp tháo gỡ. Hơn nữa, chính sách khách hàng của SGD cũng ưu tiên những doanh nghiệp ngoài quốc doanh truyền thống, có uy tín với mức lãi suất ưu đãi trong giới hạn lãi suất cơ bản được NHNN công bố hàng tháng để giữ vững mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp này, tăng tính cạnh tranh và thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Điều này làm cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vay vốn và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Thứ tư, SGD hoàn thành xuất sắc công tác huy động vốn Lượng vốn huy động không ngừng tăng lên (hơn 6000 tỷ năm 2001) do SGD phát huy được lợi thế của mình. Bởi vậy, đã tạo ra được lượng vốn dồi dào và kéo theo khả năng lớn trong hoạt động cho vay, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng. Ngoài ra, do công tác cân đối vốn hợp lý nên SGD có thể sắp xếp chủ động cho vay các kỳ hạn khác nhau bằng cả nội tệ và ngoại tệ. Thứ năm, nhận thức cán bộ được đổi mới, cán bộ đã mạnh dạn hơn trong việc cho vay vốn. Mặt khác công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ được quan tâm. Đây là một trong những nhân tố tạo nên sự thành công của Sở trong năm vừa qua. Ngoài ra, có được kết quả trên còn nhờ KTNQD đang thay đổi theo chiều hướng tích cực, những khó khăn do cơ chính sách chỉ là tạm thời khi các luật định đang từng bước hoàn thiện và gần gũi hơn với thực tế. 2.2.3.2. Những hạn chế trong quan hệ tín dụng với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD NHĐT& PTVN và nguyên nhân. + Về phía kinh tế ngoài quốc doanh. Sự ra đời ồ ạt của các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH nhưng chưa hội đủ các điều kiện (đặc biệt là vốn tự có) nên dẫn đến hậu quả tất yếu là hoạt động kém hiệu quả, mất khả năng trả nợ Ngân hàng. Theo điều tra của Bộ Tài chính có tới 40% doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm ăn thua lỗ và đang có khoảng 3% số doanh nghiệp không có khả năng trả nợ. Đặc biệt, một số doanh nghiệp khả năng quản lý yếu kém, kiến thức pháp luật của người đứng đầu doanh nghiệp rất hạn chế, có biểu hiện lừa đảo, chụp giật trong quan hệ vay mượn. Việc thực hiện chế độ báo cáo kế toán, thống kê của doanh nghiệp ngoài quốc doanh không tuân thủ đầy đủ theo pháp lệnh, dẫn đến sự phản ánh lệch lạc kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh khiến cán bộ Ngân hàng thẩm định rất khó khăn. + Về phía Ngân hàng Hoạt động kinh doanh tiền tệ của SGD ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Những yếu kém sau đây trong thời gian vừa qua của SGD đã là những cản trở đối với mối quan hệ kinh tế giữa khu vực này và SGD. - Chính sách cho vay Trong thời gian vừa qua chính sách tín dụng tại SGD chưa thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Sự phân biệt khá rõ giữa DNNN và kinh tế ngoài quốc doanh thể hiện trong các điều kiện để được vay vốn. Các DNNN hầu hết được vay bằng tín chấp và được vay với khối lượng lớn. Còn kinh tế ngoài quốc doanh khi vay vốn phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Hơn nữa, cơ cấu cho vay theo kỳ hạn cũng chưa hợp lý, SGD chủ yếu cho vay ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn chỉ chiếm một tỷ lệ thấp trong khi SGD hoàn toàn có khả năng mở rộng theo hướng này. Đành rằng, đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh là quy mô vốn nhỏ, chủ yếu chỉ vay bổ sung vốn lưu động, nhưng để phát triển mạnh và bền vững thì cần phải có sự đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đầu tư cho lâu dài. Bởi vậy, nếu SGD mở rộng được công tác cho vay trung và dài hạn cho những dự án khả thi thì sẽ đem lại hiệu quả cho cả Ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Xét về việc cung cấp tín dụng theo ngành nghề: như đã phân tích ở trên, hoạt động này của SGD còn nhiều hạn chế. Tổng số khách hàng ngoài quốc doanh ở SGD mới chỉ dừng lại 52 doanh nghiệp và 161 cá nhân, tổ hợp tác chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực Công nghiệp, Thương nghiệp, kinh doanh những mặt hàng đang được thị trường ưa chuộng. Đối với các ngành nghề khác như xây dựng, trang trí nội thất, dịch vụ vui chơi giải trí…Mặc dù, khả năng phát triển là rất lớn nhưng chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vẫn ở trong tình trạng thiếu vốn, trong khi Ngân hàng lại chưa thực sự kinh doanh hiệu quả nguồn vốn của mình. Mặt khác, lãi suất cho vay cũng là một trở ngại không nhỏ đối với kinh tế ngoài quốc doanh, trong khi kinh tế Nhà nước được vay với lãi suất chỉ vào khoảng 0.65 - 0.67%/tháng thì kinh tế ngoài quốc doanh phải vay với mức lãi suất là 0.67 - 0.75%/tháng vì được xem có độ rủi ro cao hơn. Nhưng thực tế, các doanh nghiệp Nhà nước được vay bằng tín chấp lại có độ rủi ro cao hơn, bởi lẽ khi họ không hoàn trả được nợ thì SGD chỉ còn cứu cánh duy nhất là chừ đợi giải quyết từ phía Chính phủ. Do đó, với mức lãi suất như trên sẽ hạn chế việc vay vốn. - Về thông tin tín dụng Thông tin tín dụng là điều kiện không thể thiếu khi muốn nâng cao chất lượng tín dụng cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Một thực tế cho đến nay, khả năng nắm bắt thông tin của trung tâm phòng ngừa rủi ro TPR- NHNN (mà hiện nay có tên gọi mới là CIC) rất giới hạn do nhiều nguồn cung cấp của các tổ chức tín dụng cho TPR rất khác nhau. Điều không thể phủ nhận là thông tin mà các tổ chức cung cấp cho TPR đều không đầy đủ và thiếu tính thời sự. Rõ ràng, với nhiều kênh, nhiều nguồn cung cấp thì thông tin nhận được sẽ bị nhiễu, nhiều khi mâu thuẫn với nhau do không chính xác, vấn đề là Ngân hàng và cán bộ tín dụng phải đủ năng lực để chọn lọc để xử lý thông tin có hiệu quả trong việc thẩm định dự án cho vay. Nhiều doanh nghiệp và cá nhân nghĩ rằng, được vay vốn Ngân hàng là rất khó khăn. Phần lớn, họ không nắm được các giấy tờ, hồ sơ cần thiết để vay vốn Ngân hàng dẫn đến việc phải đi lại nhiều lần, mất thời gian và chi phí cho cả hai bên. Điều này đã làm cho khách hàng thực sự chưa thoải mái khi đến vay vốn Ngân hàng. Có thể nhận thấy, tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi đối với thành phần kinh tế này trong những năm qua là rất thấp ,phần lớn chỉ phát sinh nợ quá hạn thời điểm. Đây là một thành tích nổi bật của SGD nhưng với tỷ lệ dư nợ còn thấp so với khả năng cung ứng cũng như so với mức dư nợ của thành phần kinh tế quốc doanh thì con số này sẽ làm nản lòng chính những cán bộ tín dụng trong việc xét duyệt cho vay vốn. Xét về quy trình tín dụng, tuy các cán bộ Ngân hàng đều được phổ biến một cách cụ thể quy trình tín dụng nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế nhất định. Đối với những dự án được vay vốn, sau khi giải ngân, SGD phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát vốn vay. Trên thực tế, công tác này chưa đạt hiệu quả cao. Phương pháp kiểm tra, kiểm soát không sâu, chỉ mang hình thức, không phát hiện kịp thời những sai phạm hoặc có phát hiện nhưng lại chưa có biện pháp xử lý hữu hiệu. Bên cạnh đó, trình độ cán bộ còn nhiều bất cập. Tuy SGD đã đẩy mạnh công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhưng kết quả vẫn chưa thực sự như mong muốn. Các kiến thức về một thị trường kinh tế đầy sôi động và phức tạp chi phối đến hoạt động của từng doanh nghiệp trong khi khả năng nắm bắt thực tế của các cán bộ chưa sâu. Điều này dẫn đến những sai sót trong việc điều tra, nghiên cứu, thẩm định các dự án, phương án vay vốn và dẫn đến những hiệu quả gây thiệt hại cho Ngân hàng sau này. Trước hết, về công tác thẩm định: hiện nay, SGD thường dựa vào số liệu do khách hàng cung cấp và cũng có tham khảo thêm một số thông tin thu thập từ bên ngoài. Nhưng nhiều khi công tác này chưa tốt, dẫn đến việc đánh giá không đúng hiệu quả của dự án cũng như khả năng thực tế của khách hàng. Do đó, công tác mở rộng tín dụng bị hạn chế, hiệu quả cho vay chưa cao. - Về tài sản thế chấp Như đã trình bày ở trên, hầu hết tất cả các khách hàng vay vốn đều phải có tài sản thế chấp (TSTC).Trong công tác định giá, hiện nay SGD thường định giá TSTC theo quy định chung, có tham khảo thêm giá tài sản đó trên thị trường tại thời điểm định giá. Trong số các TSTC mà các doanh nghiệp sử dụng để bảo đảm tiền vay của SGD, chủ yếu là đất đai, nhà ở và các bất động sản khác. Mức giá của các loại tài sản này thường không ổn định nên việc định giá đúng là rất khó khăn. Đối với những TSTC là các loại hình máy móc, thiết bị thì theo quy định, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản. Nhưng trên thực tế, các loại máy móc thường được mua đi bán lại nhiều lần nên các đơn vị kinh tế thường không có được giấy tờ sử dụng tài sản đó. Việc cho vay không có bảo đảm chưa được áp dụng, cộng với những khó khăn trong việc định giá TSTC đã ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay của Ngân hàng. + Về phía Cơ quan quản lý Nhà nước Mặc dù những năm qua, Quốc hội và Nhà nước đã thông qua và ban hành một số Luật liên quan đến đầu tư tư nhân: Luật doanh nghiệp (2000), Luật phá sản cho phép thành lập và giải thể công ty tư nhân,hợp tác xã.Tuy nhiên, các nhà đầu tư trong nước cũng như nhà đầu tư nước ngoài vẫn chưa hoàn toàn yên tâm do thiếu một số luật khác như Luật về thị trường vốn có liên quan đến phát triển công ty cổ phần, Luật về tài sản bảo đảm quyền sở hữu, tài sản của các cá nhân, Luật chống độc quyền kinh tế nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong kinh doanh.Hơn nữa, các pháp nhân kinh doanh ở Việt nam được chi phối bởi các Luật khác nhau cho từng loại hình doanh nghiệp. Điều này có thể tạo ra những khoảng cách biệt về chính sách cho từng loại hình doanh nghiệp có các chủ sở hữu khác nhau, sẽ không thể hiện được sự bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế. Nhà nước cũng đang từng bước điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô cho phù hợp với sự phát triển cuả đất nước. Tuy nhiên, nhiều khi các doanh nghiệp lại chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp sự thay đổi của cơ chế, chính sách nên gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ hoặc không đủ điều kiện để tiếp tục vay vốn. Do đó, rủi ro trong đầu tư tín dụng đối với thành phần này là rất lớn, đã hạn chế sự mở rộng đầu tư của SGD. Những phân tích thực trạng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh của SGD trong thời gian qua cho thấy những kết quả đạt được và những tồn tại trong hoạt động của Ngân hàng. Qua đó, cũng khẳng định được vai trò, những đóng góp quan trọng của SGD trong việc thúc đẩy nền kinh tế nước nhà phát triển theo hướng Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá. Để phát huy những kết quả đạt được và khắc phục những tồn tại trong hoạt động kinh doanh nói chung, việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng, SGD cần có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần KTNQD, để đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển của đất nước. Chương 3 giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGDi-NHĐT&PTVn 3.1. định hướng về hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh của sở giao dịch i. Đối với NHTM, việc nâng cao chất lượng tín dụng là một vấn đề hết sức cấp bách bởi Ngân hàng không chỉ tăng cường cung ứng vốn đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế mà còn là vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của bản thân Ngân hàng. Do vậy, bất cứ một Ngân hàng nào cũng đều cố gắng tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Tuỳ theo đặc điểm riêng của từng Ngân hàng, mục tiêu theo đuổi riêng và tình hình phát triển của nền kinh tế thời kỳ đó mà mỗi Ngân hàng có quan điểm về mở rộng tín dụng riêng và cố gắng tìm ra giải pháp thích hợp cho mình. Đối với SGD NHĐT&PTVN mục tiêu xuyên suốt trong quá trình hoạt động của SGD là: hiệu quả khách hàng là phương châm hoạt động. Vì vậy, quan điểm nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh của SGD là: -Cần hướng tập trung vào các khách hàng ngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đất nước cũng như đặc thù kinh tế trên địa bàn Hà Nội. Nhưng việc mở rộng tín dụng không có nghĩa là mở rộng một cách tràn lan mà phải nằm trong khả năng quản lý và kiểm soát của SGD. Vì vậy, nếu Ngân hàng chỉ chạy theo khối lượng tín dụng cung cấp cho khu vực này mà không quan tâm đến khả năng kiểm soát của Ngân hàng thì chất lượng tín dụng giảm sút, nợ khó đòi tăng là một điều tất yếu. - Đảm bảo nhu cầu và lợi ích của khách hàng, lợi nhuận và an toàn cho Ngân hàng đồng thời phải đúng pháp luật và phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. SGD sẽ phân loại khách hàng theo hai hình thức: - Phân loại khách hàng để tiếp cận: + Khách hàng thuọc kinh tế ngoài quốc doanh + Khách hàng thuộc kinh tế nhà nước + Khách hàng thuộc loại hình liên doanh, có vốn đầu tư nước ngoài... - Phân loại theo dự án: Tập trung vào những dự án và phương án kinh doanh có hiệu quả với bất cứ thành phần kinh tế nào để tiếp cận. SGD đã hình thành một phòng tín dụng "chuyên môn hoá" cho kinh tế ngoài quốc doanh. Phòng này sẽ chuyên sâu về tín dụng đối với khu vực này và sẽ là cơ sở nghiên cứu, tiếp cận và mở rộng tín dụng trong thời gian tới. Mục tiêu đến năm 2005 sẽ đạt được dư nợ 40% cho KTQD và 60% cho KTNQD. Đổi mới nhận thức và mạnh dạn cho vay khách hàng không kể thành phần kinh tế nào và chỉ tiêu bao nhiêu nhưng định hướng và nhiệm vụ cho mỗi cán bộ tín dụng trong 6 tháng phải có một khách hàng mới. Trước đây, SGD chưa coi họ là đối tượng khách hàng chính nhưng hiện tại và tương lai SGD sẽ coi kinh tế ngoài quốc doanh là đối tượng khách hàng chủ yếu của mình và thông qua tín dụng Ngân hàng sẽ thúc đẩy thành phần kinh tế này ngày càng phát triển. 3.2 .giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại sgdi-nhđt&ptvn. Trong điều kiện nền kinh tế còn đang trong giai đoạn sắp xếp lại, hành lang pháp lý còn chưa đồng bộ, sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM trên địa bàn v.v... thì tình trạng giành giật khách hàng là không tránh khỏi ,việc cố tình hạ thấp điều kiện tín dụng làm nguy cơ rủi ro hoạt động tín dụng sẽ rất cao.Kinh tế ngoài quốc doanh cũng không nằm ngoài quy luật ấy.Để củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng đôí với thành phần này tại SGD, em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp chính sau: 3.2.1.Nâng cao năng lực tài chính, huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Nguồn vốn điều lệ hiện nay của SGDI là quá nhỏ so với yêu cầu đòi hỏi.để đảm bảo có đủ khả năng tài chính đứng vững trong cạnh tranh,SGD cần nâng cao năng lực tài chính bằng việc nâng cao nguồn vốn tự có bằng nguồn vốn hỗ trợ của Chính phủ và NHNN. Cụ thể là đề nghị Nhà nước,Chính phủ,NHNN,BTC cấp bổ xung vốn điều lệ. Vì phục vụ chủ yếu cho qúa trình CNH-HĐH đất nước nên phải luôn coi tạo vốn là khâu mở đường, tạo mặt bằng vốn vững chắc ngày càng tăng trưởng,việc đa dạng hoá các hình thức,các biện pháp,các kênh huy động vốn từ mọi nguồn trong và ngoài nước.Vì vậy cần phát huy lợi thế hoạt động ngân hàng để huy động vốn. 3.2.2. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ vốn vay và quá trình trả nợ vay, xử lí nợ quá hạn, nợ khó đòi đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Cán bộ tín dụng của SGD phải có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Trong quá trình luân chuyển của đồng vốn sẽ có rất nhiều yếu tố tác động gây ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của SGD. Nó bao hàm các nhân tố khách quan và các nhân tố chủ quan. Vì vậy, để SGD có biện pháp xử lý kịp thời khi gặp những nhân tố bất lợi đối với hoạt động tín dụng thì công việc kiểm tra, giám sát khách hàng cần tập trung vào những yếu tố sau: - Hồ sơ vay vốn và kế hoạch trả nợ của khách hàng. - Tìm hiểu các thông tin về khách hàng để từ đó đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng. - Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng. - Mức độ chiếm lĩnh sản phẩm của khách hàng trên thị trường. - Khả năng quản trị kinh doanh của khách hàng vay vốn. Để kiểm tra, giám sát các khoản vay đạt kết quả cao thì tuỳ thuộc vào đặc thù sản xuất kinh doanh, mức độ quan hệ, sự tín nhiệm của khách hàng với SGD mà có thể áp dụng các hình thức kiểm tra, hiám sát khác nhau. Đặc điểm riêng của SGD là khách hàng vay vốn chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh những mặt hàng phục vụ cho sản xuất, tiêu dùng hàng ngày.Vì vậy, cần phải kiểm tra, giám sát thường xuyên thường tiền vay theo từng mặt hàng cũng như sự biến động của thị trường đối với những mặt hàng đó. Đây là biện pháp quan trọng giúp cho cán bộ tín dụng nắm bắt được thông tin về các đối tác liên quan, tính thực tế của sản phẩm, xác định thời gian phát tiền vay, thời hạn cho vay, mức tiền cho vay đối với sản phẩm, khả năng thu hồi vốn để trả nợ cho SGD của từng mặt hàng. Đặc biệt phát hiện ra những khoản vay vốn của Ngân hàng mà khách hàng sử dụng lãng phí hoặc không đúng mục đích từ đó đưa ra biện pháp xử lý thích hợp. Nợ quá hạn, nợ khó đòi là một vấn đề bức xúc đối với một ngân hàng,đặc biệt là đối với kinh tế ngoài quốc doanh.Nó có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân,nhưng dù bắt nguồn từ bất cứ nguyên nhân nào thì vấn đề quan trọng là tìm mọi cách thu hồi và xử lí nó. Với khoản nợ có vấn đề mới phát sinh:Ngân hàng cần phải xem xét nguyên nhân,nếu có sai lệch về chu kì kinh doanh hoặc về vấn đề các khoản phải thu chưa thu thì ngân hàng cần có các biện pháp nhã nhặn nhắc nhở khách hàng nhanh chóng trả nợ cho ngân hàng .Ngân hàng cần đánh giá chính xác nguyên nhân từ phía khách hàng hay từ phía các đối tượng khác để có biện pháp xử lí thích hợp.Trong trường hợp khách hàng chỉ rơi vào tình trạng khó khăn tạm thời thì nên gia hạn cho khách hàng để tìm cách khắc phục, không nên quá nguyên tắc trong trường hợp này. Với những khoản nợ đã gia hạn mà vẫn tiếp tục nợ quá hạn, trở thành nợ khó đòi thì ngân hàng nên tiến hành thu hồi tạm thời những khoản thanh toán có thể của khách hàng, đồng thời xem xét tình hình thực tế của khách hàng để đưa ra quyết định xiết nợ kịp thời trước khi khách hàng hoàn toàn không có khả năng hoàn trả.Trong tình huống xấu, ngân hàng cần kien quyết xử lí, không để khách hàng lợi dụng sự quen biết làm ảnh hưởng.Trong trường hợp cần thiết, nên kết hợp với cơ quan pháp luật để xử lí tién hành thuận lợi hơn. Trong trường hợp nguồn thu nợ thứ nhất không đủ để trả nợ, ngân hàng buộc phải sử dụng đến nguồn thu nợ thứ hai, đó là tài sản bảo đảm tiền vay.Tài sản bảo đảm tiền vay phải dược xử lí trên cơ sở giá tri thị trường của nó. 3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định khi cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh Việc nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết để phát triển hoạt động kinh doanh của SGD bởi vấn đề chất lượng tín dụng mới có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của SGD. Nếu SGD gia tăng khối lượng tín dụng mà không quan tâm đến chất lượng tín dụng thì chẳng khác nào cho vay mà không thu hồi nợ. Chất lượng tín dụng là kết quả các khoản tín dụng được thực hiện trọn vẹn, người vay thực hiện đúng các cam kết vay tiền, SGD thu được gốc và lãi đúng hạn. Trên thực tế trong quan hệ tín dụng thì quyền cho vay thực tế là ở SGD, quyền trả nợ thực tế là ở người vay. Do đó, khi SGD đã quyết định và khoản vay đã được thực hiện thì việc thu hồi vốn lại phụ thuộc vào người vay hay nói đúng hơn là phụ thuộc vào chính kết quả sử dụng vốn vay. Như vậy, trong quan hệ tín dụng, việc cho vay hoàn toàn đơn giản vì nó phụ thuộc vào quyền quyết định của SGD còn việc thu hồi nợ sẽ là khó khăn vì nó phụ thuộc vào thái độ và khả năng thực hiện các cam kết nghĩa vụ trả nợ của người vay. Vì vậy, thẩm định khi cho vay là rất quan trọng, đòi hỏi cán bộ SGD phải tuân thủ các nguyên tắc, nội dung cơ bản của việc phân tích thẩm định khi cho vay. -Thẩm định tư cách pháp lý và khả năng tài chính của khách hàng -Thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng Phân tích tính cách và uy tín của khách hàng 3.2.4.Đổi mới chính sách tín dụng 3.2.4.1 Đa dạng hoá các hình thức về lãi suất SGD cũng như các NHTM khác, cho vay dựa vào huy động vốn, do đó không thể tăng quy mô tín dụng cho nền kinh tế nếu công tác huy động vốn của Ngân hàng không được cải thiện. Với cơ chế lãi suất hợp lý sẽ là một cơ hội để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Sử dụng tốt công cụ lãi suất trên cơ sở SGD hạn chế tối đa các chi phí không cần thiết để hạ thấp lãi suất đầu vào nhằm tăng trưởng tín dụng. Bên cạnh đó, cần có các công cụ huy động vốn hiệu quả hơn như tăng lãi suất đầu vào, nghiệp vụ hoán đổi lãi suất SWAP - Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo đối tượng vay vốn. Trên thực tế, lãi suất mà SGD áp dụng cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường cao hơn các Doanh nghiệp Nhà nước. Do đó, tạo sự không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế . Vì vậy, với các khách hàng quen thuộc, có uy tín vay trả sòng phẳng thì có thể được hưởng một mức lãi suất ưu đãi thấp hơn, điều đó sẽ góp phần củng cố mối quan hệ lâu dài với khách hàng, vừa khuyến khích khách hàng tăng cường mối quan hệ với SGD, vừa tích cực làm ăn có hiệu quả, trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho Ngân hàng. - Đa dạng hoá các hình thức lãi suất để tạo điều kiện phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng. Dựa vào từng loại lãi suất và từng kỳ hạn, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn những khoản vay thích hợp đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của họ đạt hiệu quả cao, đảm bảo trả nợ cho Ngân hàng đúng hạn. 3.2.4.2. Thay đổi phương pháp tính hạn mức tín dụng. Theo quyết định số 1627/2001 QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc NHNNVN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng có quy định"các tổ chức tín dụng có thể áp dụng các phương thức cho vay phù hợp với từng khách hàng". Nhu cầu vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn, với vị thế của mình thành phần này không thể đáp ứng được nguồn vốn cho mình mà phải dựa phần lớn vào Ngân hàng. Chính vì lý do đó, Ngân hàng quy định cho vay từng lần và hạn mức cho vay đối với đơn vị kinh tế này tối đa không vượt quá 1,5 lần vốn tự có (thấp hơn nhiều so với khu vực kinh tế quốc doanh), trong khi đó vốn tự có của kinh tế ngoài quốc doanh so với kinh tế quốc doanh lại quá nhỏ bé sẽ gây ra những thủ tục phiền hà cho cả khách hàng và cán bộ tín dụng và nhiều thiệt thòi cho kinh tế ngoài quốc doanh. Ngoài ra, để cải thiện tình hình cho vay thì SGD ngoài việc chú trọng đến khả năng tài chính và tài sản đảm bảo cũng nên xem xét đánh giá đúng các phương án kinh doanh của khối doanh nghiệp này để quyết định cho vay một lượng vốn phù hợp hơn, thực hiện điều này cũng là tạo cơ hội phát triển cho các thành phần kinh tế phát triển cân đối hơn. 3.2.4.3 Đa dạng hoá hình thức bảo đảm tiền vay. Thông thường từ trước đến nay, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, SGD vẫn yêu cầu có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, không phải vấn đề này lúc nào cũng thực hiện được. Do đó, bên cạnh việc cho vay theo hình thức này, SGD có thể nghiên cứu cho vay theo các hình thức khác như kết hợp linh hoạt linh hoạt các hình thức bảo đảm bằng tín chấp, tín chấp và thế chấp, tín chấp, thế chấp và bảo lãnh. Với sự phát triển của nền kinh tế hiện nay thì việc cho vay bằng tín chấp có những khả năng phát triển. Mặc dù không phải cho vay bằng tín chấp là Ngân hàng có thể bỏ qua những thủ tục cần thiết. Khách hàng cũng cần phải có số liệu chứng minh tình hình tài chính lành mạnh, phải có tài sản cố định và tài sản lưu động lớn, đối tượng cho vay là những sản phẩm có hiệu quả và ổn định trên thị trường. Các biện pháp bảo đảm tiền vay đều phải lập thành văn bản, nhưng lập chung với hợp đồng tín dụng hay lập thành văn bản riêng là do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất của của tài sản, không bắt buộc phải có hợp đồng riêng như trước đây. Như vậy sẽ đơn giản hoá thủ tục cho các hộ gia đình vay món nhỏ, hoặc khi khách hàng cầm cố các chứng từ có giá, vàng bạc thì chỉ cần ghi vào hợp đồng chính là hợp đồng tín dụng mà không nhất thiết phải có hợp đồng riêng về thế chấp, cầm cố. Đối với các loại thế chấp bất động sản hoặc cầm cố các loại tài sản lớn, phức tạp thì các bên có thể thoả thuận lập hợp đồng riêng để thuận cho việc quản lý và xử lý sau này. 3.2.5. Đổi mới chính sách khách hàng. Một thực tế cho thấy hiện nay các NHTM nói chung và SGD nói riêng mới bắt đầu chú trọng tới công tác Marketing, hoạt động của phòng quản lý khách hàng chưa mang tính nghiệp vụ cao và hiệu quả rõ nét. Vì vậy cần tăng cường hoạt động trên các phương tiện thông tin đại chúng để SGD tự giới thiệu mình với khách hàng.Cụ thể: -Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt qua hệ với khác hàng, dùng các chính sách ưu đãi thu hút khách hàng. -SGD cần tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo các chính sách chế, thể lệ cho vay tới tới kinh tế ngoài quốc doanh. -SGD cũng cần tiến hành phân loại khách hàng để cho vay. SGD cần phải phân loại khách hàng theo những tiêu thức nhất định nhằm chọn ra những khách hàng tốt nhất để có chính sách riêng đối với họ. Có thể phân loại đơn vị kinh tế theo các mức sau: Đơn vị xếp loại A: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong hai năm liên tiếp gần nhất, đang kinh doanh những mặt hàng được thị trường ưa chuộng hoặc trong tương lai được thị trương ưa chuộng, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước, không có nợ quá hạn đối với Sở giao dịch. Nếu doanh nghiệp loại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất, trong chừng mực nào đó thì có thể cho vay bằng tín chấp. Đơn vị xếp loại B: là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định, uy tín trên thị trường chưa cao, lãnh đạo doanh nghiệp là những người có năng lực, coi trọng chữ tín. Đối với đơn vị này thì cho vay trên trên cơ sở tài sản thế chấp, cầm cố và bảo lãnh của bên thứ ba. Đơn vị xếp loại C: là những đơn vị kinh doanh thua lỗ không có biện pháp khắc phục, quan hệ với Ngân hàng và bạn hàng không sòng phẳng, thường xuyên có nợ quá hạn thì SGD phải tìm cách từ chối hợp lý, nhanh chóng thu hồi vốn. Tuy nhiên đây chỉ là cách phân loại tạm thời, không phải là khuôn mẫu để quyết định cho vay đối với khách hàng mà điều cốt yếu là phương án sản xuất kinh doanh nếu tỏ ra thực sự có hiệu quả thì Sở giao dịch có thể nới rộng ở mức độ nào đó nhưng trong điều kiện cho phép. Khi môi trường kinh doanh ngày càng thông thoáng và cơ hội phát triển cho các thành phần kinh tế thì vấn đề đặt ra là SGD cần phải nắm bắt được thông tin khách hàng một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời, tư vấn, chăm sóc khách hàng và phát hiện những biểu hiện không bình thường của khách hàng để kịp thời xử lý. Nghiên cứu và khai thác đối tượng khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh bởi vì đây vẫn còn đang một thị trường tiềm năng cho SGD hướng tới. Hơn nữa Hội nghị khách hàng cần lấy phiếu thăm dò ý kiến khác hàng ngoài quốc doanh để cung cấp đầy đủ các dịch vụ mà đối tượng khách hàng này mong muốn, tạo cơ chế thông thoáng và khuyến khích cho đối tượng này, tạo cái nhìn mới về SGD trong con mắt của đối tượng khách hàng này. 3.2.6.Tăng cường đội ngũ cán bộ có tay nghề và trình độ nghiệp vụ cao. Thực tế có thể đưa món nợ vay thành nợ khó đòi ngay từ khâu xét duyệt và thẩm định dự án sản xuất kinh doanh. Do cán bộ xử lý thẩm định dự án chỉ hiểu một cách mơ hồ về nghành nghề dự định đầu tư, điều này tất yếu có sự sai lệch trong việc thẩm định hồ sơ vay vốn đối với khách hàng. Một vai trò của rất quan trọng đó là Sở giao dịch không chỉ đơn thuần là nhà đầu tư mà còn là nhà tư vấn cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó không thể đưa mục tiêu mở rộng tín dụng nếu không bổ sung nâng cao trình độ tay nghề của đội ngũ cán bộ tín dụng của Sở giao dịch về năng lực thẩm định và am hiểu về lĩnh vực đầu tư, trau dồi, rèn luyện để có thái độ phục vụ tốt, nêu cao tinh thần trách nhiệm" Dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm", đồng thời cần hợp lý hoá quy trình nghiệp vụ khách hàng ngoài quốc doanh qua một đầu mối chính (1 cửa), đơn giản hoá thủ tục, giải quyết nhanh gọn, phục vụ thông suốt. Ngoài ra, Sở giao dịch nên phối hợp với trung tâm điều hành, các NHTM khác và các cơ quan thuộc Chính phủ tổ chức các cuộc hội thảo về phương pháp đánh giá tài sản thế chấp vay vốn Ngân hàng, các thông số thẩm định kết quả tài chính, kết quả hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vấn đề về thông tin phòng chống rủi ro và cán bộ tín dụng phải đủ năng lực để chọn lọc xử lý thông tin có hiệu quả trong việc thẩm định dự án cho vay. Thường xuyên tổ chức cuộc thi cán bộ tín dụng giỏi nhằm khuyến khích cán bộ tín dụng học hỏi kinh nghiệm từ các Ngân hàng bạn đồng thời cập nhật những thông tin mới từ phía Chính phủ. Bên cạnh đó, Sở giao dịch cũng cần có chế độ khen thưởng thích đáng cùng với chế lý nghiêm minh trong việc khoán công tác tín dụng cho từng cán bộ. Với những cán bộ vượt kế hoạch trong công tác tín dụng, cho vay an toàn cần có khen thưởng cả về vật chất cũng như tinh thần nhằm khuyến khích động viên sự nhiệt tình trong công tác, đồng thời nâng cao trách nhiệm cá nhân của mỗi cán bộ. Mặt khác, Sở giao dịch cần tiếp tục hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phục vụ tốt hơn nữa nghiệp vụ kinh doanh như đầu tư thêm máy tính, các phần mềm ứng dụng cũng như máy móc chuyên dụng khác để tăng chất lượng các dịch vụ chuyển tiền, gửi tiền và rút tiền tự động. 3.2.7.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ Kiểm tra, kiểm soát nội bộ là công việc đóng vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh của SGD. Nó là một trong những yếu tố đem lại sự an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng của SGD. Vì vậy, SGD cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát nhằm phát hiện những vi phạm, sai sót để có biện pháp xử lý kịp thời. Nhưng SGD cần phải xây dựng chính sách kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng phù hợp với thực tế hoạt động của SGD và sự thay đổi của thị trường. - Củng cố kiện toàn hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại SGD và các đơn vị thành viên. Hệ thống kiểm tra nội bộ chuyên trách và các cán bộ kiểm tra hoạt động độc lập với các bộ phận nghiệp vụ và được độc lập đánh giá, kết luận, kiến nghị trong hoạt động kiểm tra kiểm toán. - Xây dựng hoàn chỉnh các quy chế, quy trình kiểm tra. Xây dựng chương trình kiểm tra định kỳ (kể cả hệ thống giám sát từ xa) để giám sát phòng ngừa ngăn chặn mọi sai sót, mọi hành vi vi phạm pháp luật để bảo đảm an toàn hoạt động kinh doanh toàn hệ thống và từng đơn vị thàn viên. Chủ động kiểm tra kiến nghị xử lý các trường hợp sai phạm. Đảm bảo mọi hoạt động của SGD được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ. - Hệ thống kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước Giám đốc về việc kiểm tra giám sát bảo đảm thông suốt, an toàn và đúng luật pháp mọi hoạt động của SGD. - Thực hiện việc kiểm tra, giám sát bằng các biện pháp xây dựng chương trình tin học về quản lý khai thác thông tin giữa Ban kiểm tra, kiểm toán nội bộ với các phòng, ban tại SGD và các đơn vị, chi nhánh trực thuộc trong toàn hệ thống. Coi trọng việc kiểm tra giám sát từ xa nhằm thu thập các thông tin cảnh báo để ngăn chặn các sai sót có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động của Sở giao dịch. - Trên cơ sở xây dựng các hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chung của SGD; xây dựng và phát triển hệ thống thu thập, quản lý và cung cấp thông tin qua quản lý rủi ro trên tất cả các mặt hoạt động phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát đạt hiệu quả hơn. Công tác thanh tra, kiểm soát được đề cập ở đây không chỉ nằm vào phía đơn thuần là kiểm tra khách hàng mà còn quan trọng ở chỗ phải kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản xã hội chủ nhĩa và làm mất uy tín Sở giao dịch. 3.3. Một số đề xuất và kiến nghị. 3.3.1 Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước * Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và ban hành các nghị định về chính sách, luật doanh nghiệp, sở hữu tài sản, thế chấp tài sản. - Luật doanh nghiệp đã có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000, Chính phủ khẩn trương yêu cầu các bộ chức năng xây dựng xong các dự thảo Nghị định triển khai luật này, trình Chính phủ ban hành tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp tư nhân, kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đúng pháp luật, ổn định, vững chắc sớm cho ra đời luật cạnh tranh... - Bộ Tư pháp, Bộ tài chính sớm ban hành các nghị định về cho vay bằng tín chấp; tín chấp và thế chấp; tín chấp, thế chấp và bảo lãnh để các NHTM có thể mở rộng tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dễ dàng hơn. - Chính phủ cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động có hiệu quả, được vay vốn Ngân hàng đến mức 100 triệu, hoặc 200 triệu đồng không phải thế chấp tài sản, miễn là đảm bảo được ba điều kiện: dự án có hiệu quả, doanh nghiệp 3 năm liền có lãi, tình hình tài chính lành mạnh và có uy tín trong quan hệ vay vốn Ngân hàng. - Cho phép người Việt nam ở nước ngoài, Việt kiều, người nước ngoài làm việc ở Việt nam, tự do mua bán đất đai nhà ở, bất động sản...khi không cần sử dụng được phép bán lại, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển. - Cho phép kinh tế tư nhân tham gia hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế. - Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự trong quan hệ vay vốn giữa Ngân hàng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi xảy ra các tranh chấp khi doanh nghiệp không trả nợ được cho Ngân hàng . - Chính phủ có chính sách xử lý rủi ro đối với các Ngân hàng cho vay vốn doanh nghiệp ngoài quốc doanh, bình đẳng đối với doanh nghiệp Nhà nước như: khoanh nợ, giảm nợ, ân hạn, ưu đãi lãi suất... - Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc nên nghiên cứu, xem xét tách các doanh nghiệp của Bộ công an, Quân đội, cơ quan của Đảng ra khỏi tổ chức đó, hoạt động bình đẳng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo đúng luật doanh nghiệp. Đối với Trung Quốc, phát triển kinh tế Tư nhân là động lực cho sự phát triển nền kinh tế và thực tế chứng minh khu vực kinh tế tư nhân của họ cũng phát triển rất nhanh trong giai đoạn hiện nay. Chính phủ cũng cần có cách nhìn tích cực hơn về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh . * Quản lý chặt chẽ và chấp hành pháp lệnh thống kê đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Các cơ quan nhà Nhà nước tăng cường kiểm tra các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động đúng pháp luật, thực hiện đúng pháp lệnh kế toán thống kê. Yêu cầu các doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng hoặc 10 tỷ đồng trở lên, hàng năm phải thực hiện kiểm toán. Song cũng tránh tình trạng thanh tra, kiểm tra quá nhiều, chồng chéo,...gây khó khăn cho doanh nghiệp. * Đẩy nhanh tiến độ Cổ phần hoá - Chính phủ mạnh dạn cổ phần hoá các doanh nghiệp của Nhà nước có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả, mà không phải thuộc lĩnh vực quan trọng như, công ty bia Sài Gòn, Công ty Sữa Việt nam, một số công ty Xi măng, nhà máy mía đường, may mặc... tạo sự đột phá tăng tốc đẩy nhanh thực sự quá trình cổ phẩn hoá doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả. - Chính phủ cam kết thực hiện đúng cam kết với IMF, ADB, WB, WTO, AFTA... về cải tổ doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh. * Hình thành các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh - Hình thành Quỹ hỗ trợ xuất nhập khẩu. Tách riêng tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách ra khỏi hoạt động NHTM, thành lập Ngân hàng chính sách. - Hình thành Quỹ bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, Chính phủ nên xây dựng dự án, đàm phán thu hút dự án nước ngoài, các tổ chức quốc tế về: đào tạo nâng cao trình độ quản lý kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp Việt nam; xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh; giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập doanh nghiệp . - Có chính sách đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như các doanh nghiệp Nhà nước. 3.2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước - Thu hút dự án, chương trình của quốc tế, các nước khác, hỗ trợ nghành Ngân hàng Việt nam về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản trị, điều hành hoạt động Ngân hàng theo trình độ quốc tế, đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định dự án, đánh giá dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ Ngân hàng, trang bị công nghệ Ngân hàng hiện đại. - Sửa đổi về cơ chế, chính sách cho vay, bảo lãnh theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu của các Ngân hàng, tăng thu nhập, tăng lương cho chủ Ngân hàng và cán bộ Ngân hàng. Tuyển chọn cán bộ vào làm việc tại Ngân hàng theo quy trình và tiêu chuẩn của Ngân hàng nước ngoài - Nghiên cứu, xem xét trong vài năm tới cổ phần hoá 1-2 NHTM quốc doanh nhưng Nhà nước vẫn nắm giữ trên 50% vốn cổ phần, trong tổng số 6 NHTM quốc doanh hiện có. Tất nhiên cũng cần xem xét các yếu tố khác là trong cơ cấu hiện tại, thì số lượng NHTM cổ phần quá đông trong khi thị phần còn nhỏ. - Thực hiện đúng lộ trình mở cửa hoạt động Ngân hàng nước ngoài, bãi bỏ các quy định hạn chế hoạt động các Ngân hàng ở Việt nam theo cam kết với hiệp địng thương mại Việt- Mỹ, AFTA. Cho phép các Ngân hàng của Nhật, Mỹ, khối EU mở chi nhánh hoạt động ở Việt nam, tạo môi trường cạnh tranh thông thoáng cho hoạt động Ngân hàng, thúc đẩy thị trường vốn phát triển. -Sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn thực hiện pháp lệnh thương phiếu, thúc đẩy hoạt động tín dụng thương mại phát triển. 3.2.3.Kiến nghị đối với Ngân hàng ĐT &PT Việt Nam Ngân hàng DDT &PTVN là cơ quan quản lí trực tiếp mọi hoạt động của SGD.Vì vậy, cần có những sự quan tâm, hướng dẫn cụ thể mọi hoạt động của SGD: -Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng, tạo hành lang pháp lí thuận lợi đối với kinh tế ngoài quốc doanh thông qua việc chỉ đạo hướng dẫn cụ thể, kịp thời các chủ trương, chính sách của ngành và của Chính phủ. -Cần xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh cụ thể cho từng giai đoạn. -Quan tâm giải quyết các khoản nợ làm trong sạch hệ thống. 3.2.4. Kiến nghị đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế thị trường, mọi quyết định đưa ra của doanh nghiệp đều có tác động quan trọng và ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Do vậy, để đứng vững trên thị trường, mỗi doanh nghiệp nói chung và các cá thể nói riêng phải tạo cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng và đáp ứng nhu cầu thị trường. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn luôn phàn nàn về sự bất bình đẳng nhưng cũng phải tự nhìn nhận lại chính bản thân hoạt động của mình, để khi các quan điểm của Ngân hàng và của doanh nghiệp gặp gỡ nhau, đó là: doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng, có hiệu quả, đáp ứng được những điều kiện tối thiểu của Ngân hàng và Ngân hàng có thể yên tâm khi cho vay. Bởi Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp dạng đặc biệt, cũng hoạt động kinh doanh để sinh lời và đảm bảo an toàn cho mình. Vì vậy, đứng trên một góc độ nào đấy cả Ngân hàng và doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần phải "hiểu rõ" nhau hơn khi đó Ngân hàng vừa có thể cho vay để tăng dư nợ và có hiệu quả đồng thời doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng có đủ vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp, Ngân hàng cùng phát triển. Cho nên, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần đạt một số chỉ tiêu sau: - Có khả năng ổn định và phát triển lâu dài - Có đội ngũ quản lý giỏi, có khả năng thích ứng với môi trường kinh doanh - Không có biểu hiện làm ăn nhất thời, chụp giật, lừa đảo - Có cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ tốt. Có sản phẩm uy tín ổn định trên thị trường (cả trong nước và quốc tế) - Có triển vọng chiếm lĩnh thị trường trên quy mô lớn Do đó: -Thứ nhất, kinh tế ngoài quốc doanh phải tự nâng cao trình độ của mình trong kinh doanh, chú trọng tới việc xây dựng và hoạch định phương án sản xuất kinh doanh, kể cả mời chuyên gia tư vấn. -Thứ hai, trung thực trong việc sử dụng vốn cũng như các điều kiện liên quan đến cho vay, tránh tình trạng làm ẩu, gây thất thoát vốn khiến cho trả nợ Ngân hàng gặp khó khăn. -Thứ ba, cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời cho khách hàng. Thực hiện việc hạch toán kế toán theo đúng chế độ hiện hành. kết luận Trong công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế ngoài quốc doanh ngày cang được phục hồi, phát triển và khẳng định vai trò của nó trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh dưới tác động của cơ chế chung, bên cạnh việc tự huy động vốn của bản thân vốn tín dụng Ngân hàng đầu tư cho thành phần này đóng vai trò rất quan trọng. Hoạt động tín dụng này chẳng những thúc đẩy sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh mà chính thông qua đó tác động trở lại, thúc đẩy đối với hệ thống Ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ, hoàn thiện các cơ chế, chính sách tín dụng... Mặc dù đã đạt được những kết quả ban đầu nhưng hoạt động nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều tồn tại và những vấn đề phát sinh cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết. Qua bản luận văn này, em đã hệ thống hoá vị trí, vai trò, và sự cần thiết trong việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh với những đặc thù vốn có của thành phần kinh tế này.Thông qua thực trạng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh với những kết quả ban đầu và những tồn tại cần xem xét , em xin mạnh dạn đưa ra các giải pháp và kiến nghị với mong muốn góp phần vào việc nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại SGD trong thời gian tới. Với trình độ hiểu biết và thời gian thực tập có hạn,nên em không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình hoàn thành bản luận văn. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp và chỉ bảo của thầy cô và các bạn để em có thêm những kinh nghiệm qúy báu trong các quá trình nghiên cứu tiếp sau. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tổng kết kinh doanh năm, 2000, 2001,2002 của Sở giao dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam. 2. Tạp chí Ngân hàng các số năm 2000, 2001,2002. 3. Quy định 284, 324, 1627 của Thống đốc Ngân hàng về quy chế cho vay. 4. Tạp chí Thi trường Tài chính Tiền tệ các số năm 2001. 5. Tạp chí Kinh tế phát triển các số năm 2000, 2001. 6. Các văn bản hướng dẫn của NHĐT&PTVN về thẩm định, quy trình tín dụng. 7. Kinh tế chính trị cao cấp tập 1 (Nhà xuất bản chính trị quốc gia) 8. Ngân hàng thương mại (Edward W.reed& Edward K.gill). (Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1995). 9. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính (Frederic S Mishkin). 10. Niêm giám thống kê 2002 (Tổng cục thống kê). 11. Niên giám thống kê Hà nội 2001(Cục thống kê thành phố Hà nội) lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong trường ĐH KTQD nói chung và các thầy, cô giáo khoa Ngân hàng-Tài chính nói riêng đã góp nhiều công sức dạy dỗ,bảo ban và giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập tại trường để em có được những kiến thức như ngày hôm nay. Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn cô giáo-Thạc sĩ Phạm Hồng Vân đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập và hoàn thành bản luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị công tác tại SGD-NH ĐT&PTVN, đặc biệt là các cô chú, anh chị phòng Tín dụng II đã tạo mọi điều kiện cũng như nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập tai đây cũng như trong quá trình thực hiện bản luận văn tốt nghiệp này. Mục lục Lời cám ơn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33918.doc
Tài liệu liên quan