LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 3
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH 3
I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH 3
1. Khái niệm về kinh tế ngoài quốc doanh 3
2. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta hiện nay 4
3. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh đối với nền kinh tế nước ta 7
II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH 10
1. Tín dụng ngân hàng 10
2. Phân loại tín dụng ngân hàng 12
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh 14
III. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH 16
1. Quan điểm về chất lượng tín dụng ngân hàng 16
2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngân hàng 17
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng. 21
4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh trong giai đoạn hiện nay 26
5. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng 27
CHƯƠNG II 29
TÌNH HÌNH NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 29
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 29
1. Giới thiệu chung 29
2. Cơ cấu tổ chức 30
3. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT hoàn kiếm một vài năm vừa qua 32
II. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 36
1. Về cơ cấu tín dụng 36
2. Về chất lượng tín dụng. 39
3. Những biện pháp đã và đang thực hiện nhằm nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc nói riêng tạI NHCT Hoàn Kiếm 46
III. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 48
1. Những kết quả đạt được 48
2. Hạn chế và nguyên nhân 50
CHƯƠNG III 54
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NHCT HOÀN KIẾM 54
I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TRONG NĂM TỚI 54
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 56
1. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án. 57
2. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay 58
3. Đổi mới cơ chế cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. 59
4. Chủ động giải quyết các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi 64
5. Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. 66
6. Quy trách nhiệm trong quan hệ tín dụng. 69
7. Coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. 69
III. KIẾN NGHỊ 71
1. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước 71
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương trung ương. 73
3. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước. 73
4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 75
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
82 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không đồng ý cho vay, mức cho vay, thời hạn cho vay và biện pháp bảo đảm tiền vay cũng như các đề xuất khác có liên quan.
Thẩm định, tái thẩm định dự án vay vốn trung dài hạn.
+ Xem xét hồ sơ có đầy đủ những giấy tờ cần thiết như: quyết định đầu tư, hoặc giấy phép đầu tư do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp, luận chứng kinh tế, kỹ thuật và phê duyệt của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
+ Tình hình tài chính của dự án trong đó xác định tổng mức đầu tư, mức cho vay, thời hạn vay, trả nợ, kế hoạch trả nợ…
+ Phân tích hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án.
+ Phân tích tính khả thi của sự án: yếu tố đầu vào, thị trường tiêu thụ, tổ chức quản lý sản xuất và lao động…
+ Đánh giá và kết luận.
Bước 4: Thẩm định tài sản bảo đảm vay nợ.
· Thứ năm, một số nguyên nhân khách quan khác.
- Nền kinh tế nước ta trong những năm qua tiếp tục phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách khiến cho môi trường kinh doanh và đầu tư bị ảnh hưởng không nhỏ, phần nào gây khó khăn cho hầu hết các doanh nghiệp và ngành ngân hàng nói chung.
- Chính sách và cơ chế quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước trong quá trình chuyển đổi và đổi mới đã và đang hoàn thiện. Tuy nhiên, khi hướng dẫn, triển khai và thực hiện, nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp vẫn gặp phải không ít khó khăn do khối lượng văn bản quá nhiều, một số không đồng bộ, thay đổi nhanh, hiệu lực thấp.
- Nguyên nhân từ phía khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, đó là các doanh ngiệp này thường có những dự án thiếu tính khả thi, ít có kinh nghiệm quản lý, thị trường đầu tư bấp bênh. Ngoài ra, tình hình tài chính của kinh tế ngoài quốc doanh chưa được phản ánh đầy đủ trên sổ sách kế toán, do vậy công tác kiểm tra, kiểm soát gặp nhiều khó khăn, có doanh nghiệp thậm chí sổ sách còn chưa phản ánh hết thực trạng của đơn vị như công nợ, nguồn vốn…
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI THÀNH PHẦN KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH TẠI NHCT HOÀN KIẾM
I. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG TRONG NĂM TỚI
Qua thực tiễn hoạt động kinh doanh trong những năm gần đây, đặc biệt là năm 2002, Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm đã rút ra được những thành công, hạn chế và bài học kinh nghiệmcho sự phát triển bền vững của Ngân hàng, được thể hiện qua Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2002 như sau:
- Ngân hàng phả luôn quan tâm đến khách hàng, nắm rõ tình hình của khách hàng, coi những khó khăn thuận lợi của khách hàng cũng chính là những khó khăn thuận lợi của Ngân hàng. Nếu nảy sinh vấn đề, cả Ngân hàng và khách hàng cùng nhau bàn bạc để tìm ra giải pháp thích hợp, nắm bắt thông tin kịp thời và chủ động giải quyết không trông chờ ỷ lại vào cấp trên.
- Ngân hàng cũng phải tự đổi mới, không ngừng nâng cao chất lượng cả về đội ngũ quản lý và đội ngũ cán bộ tín dụng. Điều này sẽ tạo một hình ảnh đẹp về Ngân hàng trong cách nhìn của khách hàng.
Từ bài học kinh nghiệm trên, NHCT Hoàn Kiếm đã đề ra định hướng nhiệm vụ kinh doanh năm 2003 như sau:
Năm 2003 mở ra cho chúng ta một triển vọng kinh tế tốt đẹp, chưa bao giờ kinh tế Việt Nam đứng trước những cơ hội to lớn, tiếp cận được nhiều thị trường như vậy. Tuy nhiên năm 2003 cũng sẽ khác nhiều so với năm 2002, bởi Việt Nam sẽ phải cắt giảm 775 dòng thuế nhập khẩu theo khuôn khổ AFTA và Trung Quốc đang trở thành đối thủ hết sức nặng ký đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu hơn nữa để không bị mất thị phần ngay tại Việt Nam. Các yếu tố trên đều dự báo cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước sẽ gay gắt hơn, quyết liệt hơn, do đó sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Mặt khác việc thực hiện hiệp định thương mại Việt Mỹ và những cam kết của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO cũng sẽ đặt các ngân hàng thương mại Việt Nam trước những thách thức mới.
Vì vậy NHCT Hoàn Kiếm xác định phải tập trung cao độ các nguồn lực để thích nghi với tình hình, với những nhiệm vụ đặt ra trong năm 2003:
Dư nợ cho vay: 1.000 tỷ.
Nguồn vốn: 5.500 tỷ.
Lợi nhuận hạch toán: 43 tỷ.
Nhằm cụ thể hoá phương hướng nhiệm vụ Ban lãnh đạo NHCT Việt Nam quán triệt tại hội nghị tổng kết ngày 23 và 24/01/2003 tại Hà Nội, Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm cần triển khi thực hiện tốt các biện pháp sau:
- Nghiên cứu nắm chắc tình hình kinh tế xã hội của đất nước, đưa ra những sách lược phù hợp cho từng thời kỳ, tránh những ảnh hưởng xấu có tính chu kỳ của nền kinh tế, đưa Ngân hàng phát triển lâu dài.
- Chú ý vấn đề nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của họ, từ đó xây dựng chiến lược cạnh tranh phù hợp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Đặc biệt, Ngân hàng phải nghiên cứu đưa ra các sản phẩm dịch vụ mới, phát triển doanh thu về dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao.
- Tiếp tục mở rộng cho vay đối với những khách hàng có dự án khả thi, các công trình trọng điểm nhằm giữ vững và nâng cao chất lương dư nợ. Để làm được việc này đòi hỏi công tác tiếp thị không chỉ thực hiện ở giai đoạn tìm kiếm. Mở rộng khách hàng mà phải diễn ra trong suốt quá trình phục vụ khách hàng trong từng nghiệp vụ, từng cán bộ giao dịch.
- Quan tâm hơn nữa tới các doanh nghiệp, tiến hành phân tích kỹ khả năng phát triển và trình độ quản lý của họ để đầu tư vốn. Bởi vì họ chính là tiềm năng lớn cần quan tâm khai thác.
- Thực hiện tốt chính sách khách hàng trong đó quan tâm hơn nữa tới các doanh nghiệp nhỏ thuộc các bạn hàng lớn. Từ đó thu hút họ về giao dịch tại Ngân hàng.
- Tiếp tục thực hiện tốt công tác huy động vốn, đẩy mạnh thu hút tiền gửi dân cư với giao dịch thuận lợi và công nghệ hiện đại. Do đây vẫn là nguồn vốn nhàn rỗi, ổn định và lâu dài nhất, tạo cơ sở vững chắc cho hoạt động kinh doanh ngân hàng.
- Từng cán bộ công nhân viên, từng phòng ban nghiệp vụ trong Ngân hàng không ngừng phấn đấu để trở thành cầu nối quan trọng giữa Ngân hàng với khách hàng, bằng việc làm tốt và có trách nhiệm đối với công việc của mình. Chỉ có điều đó mới để lại trong lòng khách hàng những ấn tượng tốt về Ngân hàng.
- Không ngừng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt, cán bộ phải có đức, có tài, có tâm, đủ lực để đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
- Tiếp tục thực hiện sự chỉ đạo của NHCT Việt Nam về việc đẩy mạnh xử lý nợ tồn đọng còn lại, nhằm giảm bớt gánh nặng về tài chính, đồng thời tạo vốn hữu dụng cho Ngân hàng.
- Tiếp tục tìm kiếm và đề xuất với NHCT Việt Nam về việc mua trụ sở làm việc mới thuận lợi và phù hợp với tầm vóc kinh doanh của Chi nhánh.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Sau những diễn biến phức tạp của nền kinh tế từ khủng hoảng kinh tế năm 1997 đến việc làm ăn kém hiệu quả của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã làm cho mục tiêu của Đảng và Nhà nước là đưa kinh tế ngoài quốc doanh phát triển, tích luỹ tư bản để thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá trở nên khó khăn hơn. Trong con mắt của nhiều ngân hàng thương mại, kinh tế quốc doanh đã không còn là khách hàng chiến lược nữa. Nhưng với xu hướng chung của nền kinh tế cùng với quá trình cổ phần hoá hàng loạt các doanh nghiệp Nhà nước để giữ vững mục tiêu đồng đều mọi thành phần kinh tế, khu vực kinh tế Nhà nước chỉ nắm những nghành kinh tế chủ đạo, khi đó vai trò của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là không thể phủ nhận trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Chính vì những lý do đó hoạt động tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cần có sự chỉ đạo sát sao và sự quan tâm đúng mực. Sau đây là một số giải pháp nhằm giúp Chi nhánh từng bước nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế này.
1. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án.
Thực hiện đúng quy trình thẩm định dự án, nâng cao chất lượng thẩm định dự án trước khi quyết định cho vay là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Để làm được điều đó, việc thẩm định dự án phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau để đối chiếu, đảm bảo tính chính xác của nguồn thông tin thu nhận được, xử lý các thông tin đó để có các căn cứ ra quyết định có cho vay hay không.
Trong quá trình thẩn định, cán bộ Ngân hàng phải tiến hành thẩm định khách hàng xin vay ở những vấn đề sau:
- Tư cách pháp lý: Đó là việc căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập.
- Qua các báo cáo thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự thanh tra, giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý tài chính của chủ doanh nghiệp.
- Về vấn đề tài sản thế chấp: Hiện nay hầu hết các ngân hàng đều buộc khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phải có tài sản thế chấp khi cho vay. Bởi vì họ luôn có tư tưởng rằng cho vay bằng tài sản thế chấp là an toàn nhất, bởi khả năng phát mại tài sản để thi hồi phần nợ không đòi được từ khách hàng. Nhưng chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của Ngân hàng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng. Bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp quốc doanh có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không rõ ràng. Mặt khác chính bản thân tài sản thế chấp cũng có chứa đựng nhiều rủi ro khi có biến động về giá. Hơn nữa các chi phí khi tiến hành phát mại tài sản làm cho số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bị giảm đi rất nhiều. Do đó Chi nhánh cần phải nhìn lại vấn đề về tài sản thế chấp. Coi đó là điều kiện bất đắc dĩ trong đòi hỏi từ khách hàng chứ không phải là một nguyên tắc. Đây là một vấn đề cần sự quan tâm hơn nữa từ phía Ngân hàng.
- Về việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Đây là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với Ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp đang còn nhiều vướng mắc, thì việc căn cứ vào tình hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều hết sức cần thiết. Vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực sự có năng lực, kinh nghiệm đánh giá xem xét tính khả thi của dự án trên toàn bộ các phương diện, kỹ thuật, tài chính, kinh tế xã hội để dưa ra những quyết định đúng đắn. Ngoài ra thông qua quá trình thẩm định, cán bộ ngân hàng có thể tư vấn thêm cho khách hàng những vấn đề có liên quan đến tình khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, Ngân hàng cũng phải chú ý đến công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ đảm bảo nghiêm túc các điều kiện, yêu cầu của quy trình tín dụng.
2. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay
Nâng cao vai trò của công tác thanh tra kiểm soát là công việc hết sức quan trọng nhằm bảo đảm chất lượng cho vay, do đó khi Ngân hàng muốn nâng cao chất lượng tín dung nói chung và chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng thì vai trò của công tác thanh tra, kiểm soát phải được nâng lên ở mức tương xứng.
Trong quá trình kiểm tra, giám sát vốn cho vay, Ngân hàng phải thường xuyên đành giá mức độ tín nhiệm của khách hàng. Nếu phát hiện khách hàng thông tin sai sự thật thì Ngân hàng phải lập tức tiến hành xử lý theo quyền hạn và nghĩa vụ của mình. Điều này là rất cần thiết vì trong quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng còn trải qua một thời gian dài và có thể bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Vì thế đòi hỏi phải giám sát thường xuyên, theo dõi kịp thời khả năng rủi ro có thể xảy ra để có biện pháp đối phó kịp thời, giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Trong thực tế, việc giám sát vốn vay của Ngân hàng lại phụ thuộc vào khả năng, trình độ và điều kiện của từng cán bộ tín dụng. Nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà báo cáo số liệu của các doanh nghiệp ngoà quốc doanh thường có độ tin cậy thấp, ngoài vòng kiểm soát của cơ chế hiện hành thì việc giải quyết thông tin sai sự thật còn là vấn đề gặp nhiều lúng túng. Có chăng đây chỉ là một biện pháp tình thế, bởi vì hiện nay ta chưa có biện pháp tích cực buộc các doanh nghiệp thực hiện đúng luật kế toán, thống kê và thực hiện kiểm toán bắt buộc hàng năm. Vì vậy phải tăng cường hoạt động giám sát vốn vay trong hoạt động của khách hàng với yêu cầu phải có chương trình giám sát riêng, cán bộ bộ phận này phải có năng lực về đánh giá hoạt động tín dụng ở cả hai phía, những người làm ở bộ phận này không liên quan đến việc cho vay, thu nợ. Nhiệm vụ của cán bộ này là đánh giá tình hình hoạt động nói chung, chất lượng tín dụng nói riêng để kiến nghị với lãnh đạo các biện pháp nhằm thiết lập hệ thống phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra cho Ngân hàng mình.
Ngoài ra Ngân hàng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ nhằm thanh lọc những cán bộ mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín đối với khách hàng.
3. Đổi mới cơ chế cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Nguyên tắc quan trọng đặt lên hàng đầu trong cho vay là “an toàn và hiệu quả”, thực tế trong công tác cho vay đã xảy ra một số mâu thuẫn cần giải quyết hài hoà đó là tăng cường doanh số cho vay, tăng dư nợ nhưng phải giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gia tăng cùng với sự tồn tại của nhiều hình thức sở hưũ, ngành nghề kinh doanh, vì vậy thường xuyên đổi mới cơ chế cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là điều cần thiết. Yêu cầu đặt ra đối với cơ chế cho vay là phải gọn nhẹ, linh hạot, phù hợp với từng loại hình kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động cho vay trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
· Về thủ tục cho vay:
Trên thực tế khách hàng phàn nàn về sự rắc rối, nhiêu khê của thủ tục vay vốn. Trong khi đó những thủ tục này vẫn không làm giảm rủi ro rín dụng mà lại làm giảm sự hài lòng của khách hàng. Do vậy cần đưa ra thủ tục gọn nhẹ mà vẫn đảm bảo an toàn cho Ngân hàng, có thể thực hiện theo hướng sau:
- Rút ngắn thời gian xét duyệt vốn: Khách hàng vay luốn muốn được vay nhanh chóng, vì vậy cán bộ tín dụng cần hoàn tất hồ sơ vay vốn trong thời gian ngắn nhất nhưng phải đảm bảo yếu tố đúng đủ. Ngân hàng có thể kết hợp với phòng công chứng Nhà nước để chững nhận giấy tờ vừa chính xác vừa đảm bảo thời gian nhanh chóng.
- Tạo sự đơn giản, đễ hiểu về thủ tục cho vay phù hợp với trình độ của mọi đối tượng khách hàng: Cán bộ tín dụng cần hướng dẫn khách hàng về những giấy tờ cần thiết một cách rõ ràng, để họ hiểu và thông cảm với những khó khăn của ngân hàng. Đối với người vay là hộ tư nhân cá thể, các giấy tờ cần đơn giản hoá và in thành những mẫu biểu chung.
· Về kỳ hạn cho vay:
Hiện nay Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm chủ yếu cho vay ngắn hạn, cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ và chủ yếu là cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Trong khi đó nhu cầu vốn trung dài hạn ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là rất lớn. Nhiều khi các đơn vị kinh tế thuộc khu vực này muốn mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ nhưng không vay được vốn ngân hàng nên đành bỏ lỡ cơ hội. Do đó Ngân hàng nên định hướng cho vay trung dài hạn trong điều kiện tăng cường chất lượng quá trình thẩm định một cách kỹ lưỡng. Việc xác định kỳ hạn nợ không chỉ đơn thuần căn cứ vào bảng tổng kết tài sản, kế hoạch sản xuất mà còn phải dựa vào hợp đồng mua bán, tiêu thụ sản phẩm… do vậy Ngân hàng cần xác định kỳ hạn cho vay sao cho phù hợp với chu kỳ kinh doanh của khách hàng và tuổi thọ của máy móc thiết bị. Mỗi khách hàng có một chu kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau do đó đối với từng loại hình kinh doanh của khách hàng mà Ngân hàng tiến hành cho vay với kỳ hạn phù hợp. Theo quy định hiện hành thì trung hạn không quá 5 năm, dài hạn là trên 5 năm nhưng Ngân hàng không nên gò ép thời hạn cho vay theo chủ quan gây khó khăn cho khách hàng.
· Về lãi suất cho vay
Lãi xuất cho vay là vấn đề không chỉ Ngân hàng quan tâm mà các khách hàng cũng luôn chú ý, là điểm hội tụ của nhiều mối quan hệ liên quan trực tiếp tới lợi ích vật chất của các bên. Lãi suất cho vay phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế khac nhau nên để thay đổi lãi suất cần phải thay đổi nhiều yếu tố khác. Hiện nay Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm thực thi mức lãi suất dựa trên mức lãi suất cơ bản do NHCT Việt Nam quy định. Chi nhánh đã thực hiện mức lãi suất linh hoạt cho từng khách hàng nhưng vẫn còn sự phân biệt đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Điều này làm nhu cầu về vốn của khách hàng thuộc thành phần kinh tế này không được đáp ứng một cách đầy đủ. Ngân hàng nên mở rộng cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thông qua việc sử dụng mức lãi suất “ mềm” hơn tạo điều kiện cho thành phần kinh tế này có thể vay vốn và kinh doanh có lãi. Ngân hàng có thể áp dụng mức lãi suất linh hoạt theo mức vốn vay.
· Về cơ chế bảo đảm tiền vay:
Có rất nhiều hình thức đảm bảo tiền vay như thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, ký quỹ tiền gửi. Hiện nay Chi nhánh mới chỉ áp dụng hình thức bảo đảm bằng tài sản thế chấp là chủ yếu. Trong khi đó các khách hàng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hầu như tài sản có giá trị rất thấp, thậm chí họ không có tài sản đáng kể để đem đi thế chấp do đó họ không có điều kiện để vay vốn nhất là các nguồn vốn lớn. Vì vậy Ngân hàng nên kết hợp nhiều hình thức bảo đảm khác nhau để giải quyết cho vay đối với các đơn vị như vậy.
- Đối với đơn vị được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp phần còn lại thì yêu câù đơn vị thực hiện đảm bảo đủ nợ theo yêu cầu.
- Đối với những đơn vị được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ để đảm bảo phần còn lại thì yêu cầu đơn vị dùng tài sản hình thành từ vốn vay tiếp tục bảo đảm cho phần còn lại.
- Đối với những đơn vị không đủ điều kiện để thực hiện như hai dạng trên thì Ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn thông qua hội đồng tín dụng trong đó có các chuyên gia tư vấn theo chuyên môn yêu cầu để quyết định có cho vay hay không và cho vay ở mức nào.
Hiện nay trong việc cho vay các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh thường quan tâm nhiều đến taì sản thế chấp. Nhưng bản thân tài sản thế chấp cũng chứa đựng nhiều rủi ro như tính chính xác về quyền sở hữu tài sản mang thế chấp, sự biến động giá cả và những tác động khác gây hư hại cho tài sản thế chấp… Mặt khác việc thanh xử lý tài sản thế chấp cũngkhông phảI đễ dàng và không có ngân hàng nào cho vay mà lại mong muốn phải dùng đến biện pháp cuối cùng là xử lý tài sản thế chấp, mà tài sản thế chấp chỉ là cái tạo tâm lý tin tưởng vào cơ sở pháp lý trong việc cho vay. Trên thực tế nhiều ngân hàng đã trở thành hiệu cầm đồ cho các doanh nghiệp mà không sao thu hồi vốn. Vì vậy cùng với việc đa dạng hoá các hình thức bảo đảm và có các phương pháp quản lý tài sản thế chấp thì Chi nhánh nên quan tâm nhiều hơn tới khâu thẩm định.
Rất nhiều các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có giấy tờ, đất đai, giấy phép xây dựng hoặc mua bán các tài sản đó đều không thông qua các cơ quan chức năng mà chỉ là tờ giao kèo giữa bên mua và bên bán. Vì vậy Ngân hàng cần tăng cường khâu quản lý, kiểm tra thường xuyên tới những tài sản thế chấp, cầm cố để có những biện pháp chấn chỉnh , xử lý kịp thòi tránh trường hợp khách hàng dùng một tài sản thế chấp để đi vay nhiều ngân hàngcùng một lúc. Để hoạt động này có hiệu quả Ngân hàng cần có sự phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng khác, chính quyền địa phương và các cơ quan Nhà nước có chức năng trong việc thẩm tra , giám sát tài sản của các đơn vị ngoài quốc doanh.
Ngoài hình thức thế chấp tài sản Chi nhánh nên phát triển các hình thức bảo đảm khác theo hướng sau:
- Phát triển các hình thức bảo đảm bằng các chứng từ có giá. Đây cũng là một loại tài sản đem thế chấp nhưng nó là một loại đặc biệt. Ưu điểm của loại tài sản này là gọn nhẹ, không bị tác động của yếu tố môi trường, những tác động lý hoá nên đẽ bảo quả. Và ưu điểm lớn nhất của loại tài sản này là có khả năng sinh lời, tất nhiên là vẫn còn nhiều yếu tố rủi ro do những tác động kinh tế. Muốn áp dụng hướng này một cách rộng rãi thì điều kiện đầu tiên là phải phát triển thị trường chứng khoán để các chững chỉ tiền gửi, trái phiếu, thương phiếu dễ dàng được mua bán trên thị trường mà không phải qua cơ quan trung gian, hơn nữa giá của chứng khoán cũng được xác định rõ ràng. Tuy nhiên trong điều kiện thị trường chứng khoán như nước ta hiện nay thì loại giấy tờ có giá mà tình ổn định cao chứa đựng ít rủi ro là các trái phiếu Chính phủ, Ngân hàng nên mở rộng hình thức bảo đảm bằng loại tài sản này.
- Bảo lãnh cũng là hình thức có nhiều ưu điểm giúp cho các đơn vị vừa và nhỏ mới thành lập có diều kiện vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên ở nước ta hoạt động bảo lãnh vẫn còn hạn hep và quy chế bảo lãnh chua đầy đủ. Đặc biệt đối vời các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh như hiện nay vẫn chưa có cơ quan nào quản lý và đỡ đầu. Do vậy cần có những chính sách, quy chế cụ thể để phát huy tốt nhất những ưu thế của hình thức bảo lãnh.
- Ngoài ra còn có những hình thức bảo đảm bằng các khoản phải thu, hàng tồn kho, các hợp đồng… các hình thức này đòi hỏi thủ tục hành chính và sự giám sát thường xuyên.
Mỗi hình thức bảo đảm đều có những ưu và nhược riêng, tuy nhiên việc sử dụng chúng một cách tổng hợp và linh hoạt để chúng bù đắp và bổ sung cho nhau thì sẽ tạo điều kiện cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tiếp cận được tới nguồn vốn mà vẫn đảm bảo an toàn cho Ngân hàng.
· Về phương thức cho vay:
Chi nhánh cần phải đa dạng hoá các phương thức cho vay. Hiện nay NHCT Hoàn Kiếm mới chỉ cho vay được theo hạn mức tín dụng, cho vay từng lần và cho vay theo dự án đầu tư nhưng chiếm một tỷ lệ nhỏ. Chủ yếu là cho vay từng lần, mỗi lần vay vốn khách hàng lại phải lập lại những thủ tục cần thiết để vay vốn, như vậy mất rất nhiều thời gian cho cả khách hàng lẫn Ngân hàng. Còn cho vay theo hạn mức tín dụng thì Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau một mức dư nợ tối đa trong thời gian nhất định căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh và tài sản đảm bảo của khách hàng. Căn cứ vào mức dư nợ đó, khách hàng lập đầy đủ các giấy tờ cần thiết nhưng chỉ phải lập một lần. Trong phạm vi hạn mức tín dụng thoả thuận, khách hàng có thể rút vốn mà chỉ cần làm giấy nhận nợ và giấy rút tiền. Mọi khoản thu của khách hàng sẽ được ghi vào bên có để trả nợ ngay. Điều đó sẽ làm giảm lãi phải trả ngân hàng cũng như giảm dư nợ thức tế để tăng mức dư nợ được vay tiếp theo.
Như vậy cần đưa phương pháp cho vay theo hạn mức tín dụng vào áp dụng đối vói khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Ngân hàng có thể cho những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh vay hoặc buộc họ có tài sản thế chấp để đảm bảo. Nếu sau một thời gian khách hàng không trả dần nợ vay để làm giảm dư nợ tín dụng trên tài khoản cho vay theo hạn mức hay có dấu hiệu chiếm dụngvốn vay thì khi đó Ngân hàng có thể tạm ngừng cung cấp tiếp vốn vay, yêu cầu khách hàng thực hiện đúng các khoản trong hợp đồng tín dụng và chuyển cho vay từng món đối với số tiền vay đã phát hành.
Ngoài ra Ngân hàng có thể tiến hành cho vay trả góp như một số ngân hàng đã tiến hànhnhằm tăng thêm lợi nhuận như trên đã phân tích.
Ngân hàng nên áp dụng nghiệp vụ thấu chi, ưu diểm của nghiệp vụ này là khách hàng được sử dụng vốn và tiền vay một cách linh hoạt và chủ đoọng. Đối với khách hàng có năng lực tài chính lành mạnh, tài khoản tiền gửi phát sinh thường xuyên, đồng thời phát sinh nợ chỉ trong thời gian ngắn thì Ngân hàng nên cho phép khách hàng sử dụng tài khoản vãng lai. Khi tài khoản này là dư có thì khách hàng là chủ nợ của Ngân hàng và ngược lại thì Ngân hàng là chủ nợ của khách hàng. Tuy nhiên tài khoản chỉ được sử dụng trong một thời gian nhất định. Do nghiệp vụ này mới chỉ áp dụng đối với các công ty lớn, làm ăn có hiệu quả. Hiện nay các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh làm ăn thực sự chưa có hiệu quả nhưng với sự nỗ lực của bản thân họ cùng với sự ủng hộm khuyến khích của Nhà nước thì trong tương lai không xa các ngân hàng có thể áp dụng nghiệp vụ này.
4. Chủ động giải quyết các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi
Trong hoạt kinh doanh tín dụng, hiện tượng phát sinh nợ quá hạn xảy ra là điều dễ thấy bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan của các đơn vị vay vốn. Vấn đề đặt ra là Ngân hàng cho vay như thế nào để hạn chế tối thiểu việc phát sinh nợ quá hạn và có những biện pháp xử lý để vừa đảm bảo thu hồi được nợ, vừa không gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay đồng thời giữ được mối quan hệ tốt giữa Ngân hàng với khách hàng.
Đối với NHCT Hoàn Kiếm, để hạn chế nợ quá hạn có thể sử dụng một số biện pháp như:
- Chỉ cho vaykhi đã có khá đầy đủ về thông tin, khi đã phân tích tình khả thi, tình hiệu quả của dự án, báo cáo tài chính, khả năng tài chính, khả năng quản lý và đặc biệt là các tiêu chuẩn về đạo đức của người vay.
Không nên quá nhấn mạnh lợi nhuận và phát triển Ngân hàng khi cho vay. Phải gắn liền lợi ích của Ngân hàng với lợi ích của khách hàng.
- Chú trọng giám sát hoạt động của đơn vị trước trong và sau khi đơn vị vay vốn, hướng dẫn đơn vị sử dụng vốn vay đúng mục đích và kinh doanh hiệu quả, phát hiện những khoản vay có vấn đề để kịp thời xử lý.
- Nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định, ký duyệt cho vay, tránh những tiêu cực trong quá trình cho vay.
Tuy nhiên vẫn không thể tránh khỏi hiện tượng nợ quá hạn, vì vậy Ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để xử lý thu hồi bảo toàn vốn cho Ngân hàng.
Trước hết Ngân hàng phải phân loại nợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau để tìm ra các biện pháp hiệu quả để sử dụng khi thu hồi các loại nợ.
- Đối với các đơn vị hoạt động thua lỗ, chưa có khả năng trả nợ cho Ngân hàng, trong trường hợp đơn vị thực sự cần thêm vốn và nếu có vốn thì có thể tiếp tục sản xuất kinh doanh và mang lạI hiệu quả cao. Khi doanh nghiệp trình bày rõ với Ngân hàng về vốn cần vay thêm, kế hoạch sản xuất kinh doanh, lợi nhuận mạng lại … Ngân hàng cần xem xét một cách cụ thể. Cán bộ Ngân hàng phải có thẩm quyền, có trình độ, khả năng đánh giá dự án, kế hoạch thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn, đồng thời cán bộ tín dụng phải trực tiếp xuống kiểm tra tình hình hoạt động của đơn vị, từ đó xem xét khả năng đầu tư tiếp cho đơn vị hay ngừng đầu tư và thực hiện thu nợ.
- Đối với các khoản nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan như thiên tai, bệnh tật, tai nạn… đơn vị không thể trả nợ ngay được, Ngân hàng có thể xem xét gia hạn nợ.
- Đối với đơn vị có hàng hoá ứ đọng, tồn kho chưa bán được thì Ngân hàng có thể tìm, giới thiệu người mua hàng để giải quyết hàng tồn kho cho đơn vị có tiền trả nợ. Trường hợp hàng tồn kho không có khả năng tiêu thụ do chất lượng kém, lạc hậu… thì đơn vị phải chịu bán lỗ để trả nợ cho Ngân hàng.
- Đối với đơn vị sử dụng vốn sai mục đích, có ý lừa đảo trong quan hệ thì Ngân hàng phải thu hồi nợ ngay hoặc chuyển sang nợ quá hạn để xử lý nếu không có tiền.
- Trong công tác thu nợ, Ngân hàng cần coi việc thu nợ là một trọng tâm trong hoạt động. Công tác này phải được thực hiện liên tục, cán bộ tín dụng phải thương xuyên theo dõi, kiểm tra nắm vững tình hình tài chính, khả năng trả nợ, theo dõi việc thực hiện hợp đồng tín dụngcủa khách hàng. Ngân hàng quyết định thời hạn trả nợ, mức trả nợ, kỳ hạn trả nợ cho đơn vị kinh doanh, phải tính toán sao cho phù hợp với năng lực sản xuất, tính ổn định sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Trong giai đoạn đầu của thời hạn trả nợ, không nên ép khách hàng trá quá khả năng của họ, Ngân hàng phải xác định mức trả phù hợp với thu nhập của khách hàng trong thời gian đó.
5. Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro.
Rủi ro là một vấn đề không thể tránh khỏi trong bất cứ một ngành nghề sản xuất kinh doanh nào. Đặc biệt trong kinh doanh tiền tệ của các NHTM, xuất phát từ đặc trưng hoạt động kinh doanh thực hiện trên một diện rất rộng, rất đa dạng, phong phú và phức tạp, có liên quan đến hầu hết tất cả các ngành kinh doanh trong nền kinh tế, vì vậy yếu tố rủi ro luôn tiềm ẩn và có nguy cơ to lớn. Thực hiện tốt các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro là hoạt động hết sức quan trọng và cần thiết đối với mọi NHTM nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao và chất lượng tín dụng tốt. Đối với NHCT Hoàn Kiếm trước hết cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
· Chủ động phân tán hạn chế rủi ro là phân tán rủi ro.
Điều này có nghĩa rủi ro ở một mức độ nào đó là chắc chắn phải có nhưng nếu rủi ro xảy ra ngắt quãng về thời gian, phân tán về không gian cũng như lĩnh vực thì thiệt hại có thể sẽ không dẫn đến sự bất ổn trong kinh doanh ngân hàng. Như vậy, đối với kinh doanh tín dụng mức rủi ro làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng và kết quả kinh doanh của mỗi ngân hàng như thế nàp lại phụ thuộc vào chính khả năng ngăn ngừa và khắc phục của mỗi ngân hàng.
Phân tán rủi ro là một giải pháp có tính chủ động và ngăn ngừa tích cực những hậu quả lớn có thể xảy ra đối với mỗi ngân hàng, nhất là những ngân hàng nhỏ, năng lực tài chính hạn chê. Việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ, nó được biểu thị dưới hình thức mỗi ngân hàng nên đa dạng hoá ngành nghề cho vay, không nên tập trung quá nhiều vốn cho một người vay, hạn chế cho vay những lĩnh vực có độ rủi ro cao, những lĩnh vực kinh doanh hay sản phẩm mà thị trường đã có dấu hiệu bão hoà, sản phẩm sản xuất ra không có khả năng cạnh tranh…
· Nghiên cứu và hình thành các đảm bảo tín dụng chắc chắn.
Khi nói về phương thức bảo đảm an toàn vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM người ta thường sử dụng hai phương thức mà về nguyên tắc được phân thành bảo đảm bằng con người và bảo đảm bằng đồ vật, tài sản. Tuy nhiên việc sử dụng đảm bảo có thể khác nhau trong từng trường hợp bởi vì nó còn phụ thuộc vào quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng và ở các loại tín dụng khác nhau. Cho nên vấn đề đặt ra là phải tìm ra những hình thức bảo đảm tốt nhất, không chỉ thực hiện kỹ lưỡng và chính xác theo quy định pháp lý khi đặt ra đảm bảo mà trong đó cũng giám sát chi tiết đảm bảo trong thời hạn tín dụng. Cần chú ý tới các yếu tố sau:
- Người bảo lãnh phải có đủ điều kiện và khả năng
- Tài sản bảo đảm phải được nghiên cứu theo giá cả số lượng và chất lượng trên thị trường
- Việc lựa chọn bảo đảm phải phù hợp với tính chất của khoản vay
Trên thực tế áp dụng, nếu ngân hàng làm tốt việc thế chấp tài sản, kiên quyết từ chối cho vay nếu tài sản thế chấp không đầy đủ, rõ ràng thì chắc chắn sẽ hạn chế được phần lớn những rủi ro vì ít nhất món vay đã được đảm bảo bằng tài sản có giá trị lớn hơn nhiều.
· Nâng cao chất lượng nghiệp vụ đánh giá khách hàng.
Đi đôi với sự mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động tín dụng luôn là sự tăng lên của số lượng khách hàng, các đối tượng khách hàng rất đa dạng và phong phú bao gồm nhiều loại hình doanh nghiệp, nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Theo đó khả năng rủi ro trong đầu tư vốn tín dụng ngày càng tăng. Chính vì vậy, để đảm bảo an toàn trong kinh doanh và nâng cao chất lượng sử dụng vốn tín dụng, ngân hàng cần chon cho mình những khách hàng tốt, có phương án sản xuất khách hàng có hiệu quả, có hướng phát triển tốt… Xây dựng mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng và ngân hàng trên cơ sở nâng cao chất lượng đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của khách hàng. Để nâng cao nghiệp vụ đánh giá khách hàng cần có những tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá. Chất lượng đánh giá khách hàng được nhận định chủ yếu qua khả năng phân tích tình hình khách hàng trước, trong và sau khi cho vay. Điều này có quan hệ nhân quả với chất lượng tín dụng. Đánh giá khách hàng càng chính xác, chất lượng tín dụng thu được ngày càng cao bởi thông qua đánh giá ngân hàng sẽ định được mức độ an toàn về vốn đầu tư, từ đó đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Muốn nâng cao chất lượng đánh giá khách hàng điều cần thiết là phải xây dựng được phương pháp phân tích kinh tế, xếp loại khách hàng thống nhất, kết hợp với hoạt động Marketing trên cơ sở số liệu thu thập được, qua báo cáo của khách hàng và sự thẩm định của cán bộ tín dụng.
· Nâng cao chất lượng thông tin đề phòng rủi ro.
Thu thập, phân tích, xử lý kịp thời, chính xác các thông tin có liên quan đên khách hàng và thị trường luôn được coi là quan trọng hàng đầu trong công tác thẩm định tín dụng. Để công tác thông tin đề phòng rủi ro đạt hiệu quả NHCT hoàn Kiếm cần:
- Tăng cường trang bị các phương tiện thông tin hiện đại cho tổ thông tin phòng ngừa rủi ro để có điều kiện và cung cấp thông tin kịp thời.
- Tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm trang bị phương pháp tìm kiếm, tra cứu, phân tích các thông tin từ thị trường để cung cấp cho cán bộ tín dụng và lãnh đạo trước khi quyết định cho vay.
- Cần thiết phải có quy định cụ thể về trách nhiệm và nghĩa vụ gửi các báo cáo tài chính, kết quả kinh doanh cho ngân hàng đối với cac doanh nghiệp khách hàng theo đúng quy định đảm bảo thời gian và tính chính xác. Coi đây là một điều kiện bắt buộc để tiếp tục quan hệ tín dụng.
- Nên có quy chế cụ thể về việc nhận, cung cấp thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng (trung tâm thông tin tín dụng NHNN, trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro NHCT Việt Nam).
6. Quy trách nhiệm trong quan hệ tín dụng.
Trong hoạt động tín dụng, nếu vấn đề trách nhiệm được quy định rõ ràng, cụ thể sẽ nâng cao được chất lượng cho vay. Trách nhiệm ở đây thuộc về cả hai phía. Đơn vị vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả và hoàn trả vốn và lãi đúng hạn. Ngân hàng phải giám sát vốn vay theo đúng mục đích đề ra, khi phát hiện thấy có vấn đề phải có biện pháp tác động kịp thời, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại có thể xảy ra. Khi đơn vị vay vốn không hoàn trả gốc và lãi đúng hạn, Ngân hàng có quyền áp dụng các chế tài để thu hồi vốn cho vay. Điều này đồi hỏi hệ thống pháp luật nước ta phải đồng bộ và chặt chẽ. Trong trường hợp cho vay nhưng không thu hồi được nợ thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm với ngân hàng. Ở đây chỉ nên áp dụng trách nhiệm hành chính, tuỳ từng trường hợp mà áp dụng trách nhiệm cụ thể. Tuy nhiên nếu không áp dụng khôn khéo và đúng người đúng việc thì có thể dẫn đến nhiều cán bộ tín dụng sợ trách nhiệm mà không dám cho vay hoặc quá khắt khe trong quan hệ tín dụng mà bỏ qua các cơ hội thu lợi nhuận cho Ngân hàng. Điều này có thể tạo điều kiện cho các ngân hàng khác tranh thủ lôi kéo khách hàng của mình.
7. Coi trọng công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.
Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Toàn bộ những quyết định cho vay, quy trình thực hiện cho vay, thu hồi nợ… không có một máy móc hay một công cụ nào có thể đảm nhận nổi. Vì vậy kết quả hoạt động cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tính năng động, sáng tạo và đạo dức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Do vậy, để góp phần nâng cao chất lượng tín dụng thì đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính là một giải pháp rất quan trọng và có giá trị trong mọi giai đoạn phát triển của bản thân ngân hàng. Thực hiện giải pháp này sẽ tiến hành chủ yếu trên các phương diện sau:
- Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng: thường xuyên có kế hoạch tổ chức đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, cơ chế chính sách, pháp luật, thẩm định dự án, phân tích hoạt động kinh tế, thanh toán quốc tế, tin học, ngoại ngữ... kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ giúp cho người cán bộ có đủ năng lực trình độ làm việc trong nước và quan hệ đối ngoại. Đối với những nhân viên cả mới và cũ đều cần phải hiểu rõ tầm quan trọng của việc thường xuyên nghiên cứu, học tập để cập nhật những kiến thức về chuyên môn và những kiến thức xã hội khác, gắn lý luân với thực tiễn để có thể vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả khi cho vay.
- Kiện toàn công tác sử dụng cán bộ: tuỳ theo chức năng nhiệm vụ yêu cầu của từng vị trí công tác được phân công trong hoạt động tín dụng mà người cán bộ tín dụng cần phải có những tiêu chuẩn riêng phù hợp. Nhìn chung họ phải có đủ sức tiếp cận với cơ chế thị trường đa dạng, am hiểu về chính sách pháp luật, trung thực gắn bó với nghề nghiệp và sự nghiệp của ngành. Đối với những cán bộ tín dụng đầu tư cho ngành nghề nào cũng phải hiều được những vấn đề cơ bản có liên quan đến nghiệp vụ sản xuất kinh doanh của ngành nghề đó, từ đó mới có thể làm tốt công tác tư vấn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, sử dụng đồng vốn của ngân hàng.
- Có cơ chế khuyến khích thưởng phạt vật chất đối với cán bộ làm công tác tín dụng: cần thiết có chế độ lương, thưởng khác nhau đối với những nhiệm vụ quan trọng khác nhau, tránh hiện tượng bình quan chủ nghĩa vì công tác tín dụng thực sự nặng nề, lắm rủi ro. Một sự đãi ngộ như nhau ở những vị trí khác nhau với năng lực và cường độ làm việc khác nhau sẽ làm triệt tiêu mọi nỗ lực, cố gắng sáng tạo. Do vậy, cần áp dụng chế độ lương, thưởng ưu đãi đối với những người làm tốt công tác tín dụng như mở rộng, khai thác, chiếm lĩnh thị phần tín dụng tốt trên địa bàn,…những người có chất lượng trả nợ tín dụng cao như nợ quá hạn không có hoặc có tỷ lệ thấp và chỉ mang tính tạm thời,..Bên cạnh đó cũng cần phải xử phạt nghiêm minh những hành vi cố tình vi phạm quy định hay hành vi lừa đảo, cương quyết xử lý thích đáng để làm gương và có tác dụng giáo dục, răn đe những người khác.
Tóm lại, để khuyến khích năng lực làm việc của nhân viên tín dụng, xoá bỏ tư tưởng co cụm và tạo tâm lý phấn đấu trong công tác, việc bố trí cán bộ cần phân rõ trách nhiệm pháp lý của từng vị trí công tác, đảm bảo quyền lợi gắn với trách nhiệm, khen thưởng kịp thời, thưởng phạt phân minh… có như vậy trong kinh doanh tín dụng sẽ hạn chế bớt rủi ro không đáng có do ý thức chủ quan của cán bộ ngân hàng hoặc khách hàng gây ra, tạo chất lượng cao trong hoạt động tín dụng.
III. KIẾN NGHỊ
1. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước
1.1. Điều hành linh hoạt các quy chế quản lý tầm vĩ mô.
Trong khuôn khổ các quy định về kinh tế, tài chính, tín dụng, vấn đề thực sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế còn nhiều hạn chế. Điều đó được thể hiện trong chính sách tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng. Các quy định và điều kiện cho vay còn quá cứng nhắc và còn phân biệt đối xử như về tài sản thế chấp, mức lãi suất cho vay. Mức lãi suất cho vay đối với khu vức kinh tế ngoài quốc doanh còn mang tính áp đặt và cao hơn so với khu vực kinh tế Nhà nước. Vì vậy để khuyến khích kinh tế ngoài quốc doanh vay vốn Ngân hàng thì NHNN cần xem xét để đưa ra những quy định linh hoạt hơn và bình đẳng hơn.
Cụ thể, theo điều 11 quy chế cho vay do thống đốc NHNN ban hành ngày 25/8/2000 thì lãi suất cho vay đối với khách hàng phải phù hợp với lãi suất tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. Như vậy nếu căn cứ vào quy định này thì các ngân hàng thương mại khó có thể áp dụng cho khách hàng mức lãi suất linh hoạt đối với các khoản cho vay có thời hạn dài. Trong thời hạn cho vay lãi suất có thể thay đổi, thời hạn càng dài thì khả năng thay đổi càng lớn, nhất là trong những giai đoạn nền kinh tế có nhiều biến động hoặc Chính phủ có thể tác động làm ảnh hưởng lớn đến lãi suất thông qua các công cụ, chính sách kinh tế. Trong những trường hợp như trên các ngân hàng thương mại thường áp dụng cho khách hàng của mình một chế độ lãi suất linh hoạt có nghĩa là lãi suất được điều chỉnh định kỳ trong thời hạn cho vay. Với quy định như trên đã làm cho cả các ngân hàng và khách hàng của họ phảI đối mặt với rủi ro lãi suất, nhất là trong quan hệ tín dụng trung dài hạn. Vì vậy theo em, NHNN nên cho phép các tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất cho vay phù hợp với lãi suất tại thời điểm xác định lãi suất chứ không phải phù hợp với lãi suất tại thời điểm ký kết hợp đồng như hiện nay.
1.2. Cải thiện thủ tục hành chính.
Ngân hàng nhà nước phải đưa ra các biện pháp cải tổ triệt để thủ tục hành chính, giảm bớt thủ tục nhất là thủ tục cho vay. Hướng giải quyết là kết hợp nhiều yếu tố cần thiết trong một yêu cầu. Những vấn đề mà các quy định pháp luật hoặc các định chế khác đã nêu thì không nên đưa vào. Việc ban hành hệ thống pháp luật phải tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, đồng bộ và linh hoạt đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường.
Để giải quyết vấn đề này ngân hàng Nhà nước cần rà soát lại các văn bản Nhà nước đã ban hành để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.
1.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC).
CIC là nơi cung cấp các thông tin về tín dụng cho các tổ chức tín dụng. Nhưng hiện nay các thông tin này mới chỉ dừng ở mức là tình hình vay vốn của các đơn vị tại các tổ chức tài chính khác. NHNN nên nâng cao hiệu quả hoạt động của CIC bằng các biện pháp như: kết hợp với bộ tài chính, cơ quan thuế… để thu nhập thông tin về nghĩa vụ thuế và tình hình nộp Ngân sách nhà nước của các đơn vị. Điểm này có thể giúp cho cán bộ ngân hàng kiểm tra được một phần tính xác thực của các báo cáo tài chính và tình hình làm ăn thực tế của các đơn vị xin vay vốn.
1.4. Thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp.
Quyết định số 305/2000 QĐ-NHNN5 ngày 15/9/2000 của thống đốc NHNN ban hành quy định về việc thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của NHTM. Theo quy định này, các NHTM được phép thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp, công ty này có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập bằng vốn tự có và trực thuộc NHTM, thế nhưng hiện tại thì NHCT vẫn chưa có, do đó cần thiết hội đồng quản trị sớm xem xét và ra quyết định thành lập công ty để giúp các chi nhánh có thể xử lý nhanh chóng các khoản nợ và khai thác tài sản thế chấp nhằm thu hồi vốn nhanh ổn định cho hoạt động kinh doanh từ đó nâng cao chất lượng tín dụng.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương trung ương.
NHCT Việt Nam là cơ quan chủ quản của NHCT Hoàn Kiếm. Do đó cần có những biện pháp để phối hợp cùng Chi nhánh trong việc khắc phục những hạn chế, phát huy những mặt mạnh, để làm được điều đó cần thực hiện các vấn đề sau:
- Tổ chức giải quyết nhanh, rõ ràng các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của Chi nhánh như việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư…
- Hỗ trợ Chi nhánh NHCT Hoàn kiếm trong việc lắp đặt trang thiết bị hiện đại phục vụ quá trình hoạt động như hệ thống máy móc, máy rút tiền tự động, Nối mạng cho toàn Ngân hàng… Đặc biệt là trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên trong Chi nhánh.
- Thường xuyên kết hợp với NHCT Hoàn Kiếm tổ chức các buổi thảo luận , hội nghị, nghiên cứu khoa học để vừa nắm thêm thông tin về tình hình hoạt động của Ngân hàng, vừa cung cấp thêm những kinh nghiệm , kiến thức cho cán bộ Ngân hàng trong quá trình hoạt động.
- Phối hợp chặt chẽ với NHNN tổ chức hiệu quả chương trình thông tin tín dụng, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin giúp các chi nhánh phòng ngừa rủi ro một cách tốt nhất.
- Quan tâm giải quyết vấn đề nợ tồn đọng trong toàn hệ thống ngân hàng công thương, làm trong sạch các khoản vay mới, vấn đề này mở ra hướng giải quyết nợ quá hạn cho Chi nhánh.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các sai sót của Chi nhánh và đội ngũ nhân sự.
3. Kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước.
3.1. Xây dựng khung giá thống nhất làm căn cứ định giá tài sản thế chấp.
Tiêu thức đánh giá tài sản thế chấp được xây dựng có căn cứ thực tế và có cơ sở pháp lý để vừa có thể thuyết phục khách hàng, lại vừa đảm bảo quyền lợi cho Nhân hàng. Nhà ở, đất đai là loại tài sản được đem thế chấp chủ yếu nhưng lại rất đa dạng, phong phú đòi hỏi phải có quy định riêng. Nghị định 61/ CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở có quy định rõ về giá tối thiểu của từng loại nhà và hệ số điều chỉnh giá chuẩn theo vị trí ngôi nhà. Tuy nhiên hiện tại chính sách quản lý đất đai của Nhà nước còn chưa hợp lý, cụ thể là chính sách hai giá về nhà ở. Một giá là giá nhà nước, một giá là giá thị trường đã làm cho thị trường đất đai lên cơn sốt, gây khó khăn trong công tác thẩm định tài sản thế chấp là bất động sản. Hiện tại các ngân hàng vẫn còn định giá bất động sản theo khung giá của nhà nước, nghĩa là thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế khiến việc vay vốn của các đơn vị bị thiệt thòi. Các cơ quan nên sớm xây dựng một khung giá phù hợp với tình hình thị trường và sớm hình thành thị trường bất động sản ở Việt Nam.
3.2. Hoàn thiện pháp luật về công chứng chứng thực hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản.
Trong những năm qua hầu hết những hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng đều phải được công chứng chứng thực theo quy định của pháp luật. Nhưng khi có tranh chấp xảy ra thì nhiều trường hợp quyền và lợi ích của Ngân hàng theo các hợp đồng thế chấp cầm cố tà sản đã qua công chứng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn không được đảm bảo. Thực tế những người thực hiện công chứng không phải chịu trách nhiệm về nội dung của các hợp đồng mà họ đã công chứng. Ngoài ra thủ tục công chứng quá phức tạp, tốn nhiều thời gian, việc phân định thẩm quyền công chứng chưa rõ ràng khiến các đơn vị gặp nhiều khó khăn.
Chính phủ nên nghiên cứu tham khảo giải quyết khó khăn này bằng cách thiết lập một cơ quan đăng ký thế chấp cầm cố, bảo lãnh, mỗi lần thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh đều phải đăng ký với cơ quan này. Khi Ngân hàng nhận cầm cố, thế chấp thì phả có trách nhiệm liên hệ với cơ quan này để xem tài sản bảo đảm có đủ tiêu chuẩn hay không. Đây là giải pháp vừa đảm bảo an toàn tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng vừa đỡ tạo nên những gánh nặng hành chính cho các đơn vị và rất phù hợp với tình hình nước ta hiện nay.
3.3. Tăng cường biện pháp quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Thực hiện kiểm soát chặt chẽ việc cấp giấy phép thành lập và đăng ký kinh doanh của các đơn vị sao cho phù hợp với năng lực thực tế của đơn vị. Hạn chế tình trạng các doanh nghiệp được thành lập bừa bãi, bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Có biện pháp hữu hiệu để tăng cường kiểm tra giám sát công tác kế toán tại đơn vị, buộc họ phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê và kiểm toán bắt buộc đối với những đơn vị có vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng để đảm bảo tình chính xác các thông tin cung cấp cho ngân hàng.
3.4. Sớm hoàn thiện và ban hành pháp luật về thương phiếu.
Tín dụng thương mại là một phần của nền tài chính quốc gia nhưng ở Việt nam hiện nay vẫn chưa có luật về thương phiếu làm hạn chế sự phát triển của tín dụng thương mại. Nhà nước nên sớm nghiên cứu và ban hành pháp luật về thương phiếu nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng bảo vệ quyền lợi của người cho vay. Mặt khác nếu có luật về thương phiếu các ngân hàng cũng có thể mở rộng hoạt động tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu.
3.5. Nhanh chóng đưa quỹ bảo lãnh đi vào hoạt động.
Hiện nay việc bảo đảm các khoản tín dụng ngân hàng chủ yếu là thế chấp và cầm cố trong khi hình thức bảo lãnh vẫn còn chưa phổ biến. Chính phủ nên sớm thành lập quỹ bảo lãnh cho các đơn, vị nhất là các đơn vị thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, để họ có thể vay được vốn của ngân hàng.
4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Hoạt động cho vay có hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào người sử dụng vốn vay. Thời gian qua kinh tế ngoài quốc doanh đã chứng tỏ vai trò của mình trong nền kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp tự làm mất uy tín của mình, làm ăn theo kiểu lừa đảo, chụp giật, phát triển quá nóng, làm ăn thua lỗ, phá sản, sử dụng vốn sai mục đích, không thực hiện chế độ kế toán hiện hành… Chính vì vậy đã gây cho Ngân hàng không ít những khó khăn trong việc thu hồi nợ, tạo tâm lý thiếu tin tưởng khiến các ngân hàng không dám cho vay. Vì vậy để việc cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có hiêu quả thì bản thân các doanh nghiệp này phải cố gắng rất nhiều.
Thứ nhất, phát huy hết năng lực sản xuất kinh doanh thực sự của mình, học tập cách quản lý tiên tiến, không nên chủ quan, nóng vội trong kinh doanh.
Thứ hai, trung thực trong quan hệ với ngân hàng như cung cấp thông tin đúng đắn, sử dụng vốn vay đúng mục đích…
Thứ ba, phải thực hiên nghiêm chỉnh chế độ kế toán mà Nhà nước đã ban hành, chấp hành đúng luật doanh nghiệp.
Thứ tư, tự kiểm tra đánh giá về doanh nghiệp mình, tăng cường trình độ quản lý cũng như trình độ tay nghề của công nhân viên.
KẾT LUẬN
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển mạnh cả về chiều mạnh lẫn chiều sâu, đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiên các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước.
Một trong những điều kiện hàng đầu để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể phát triển mạnh là vốn, đặc biệt là vốn vay ngân hàng. Hoạt động cho vay tại NHCT Hoàn Kiếm đã tạo điều kiện về vốn để các doanh nghiêp này có thể sản xuất kinh doanh. Và thực tế đã chứng minh không ít các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã sử dụng vốn vay đúng mục đích, đem lại lợi nhuận cao, trả nợ đúng hạn cho ngân hàng và trở thành bạn hàng truyền thống của ngân hàng. Tuy nhiên, chất lượng hoạt động tín dụng đối với thành phần kinh tế này vẫn chưa hoàn toàn được đảm bảo, còn có những vấn đề tồn tại cần tiếp tục nghiên cứu. Do đó, biên pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại NHCT Hoàn Kiếm là mục tiêu xuyên suốt luận văn của tôi. Từ những đánh giá về chất lượng tín dụng tại Ngân hàng, bài viết đã nêu lên những khó khăn, hạn chế và những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này. Từ đó đưa ra những giải pháp đối với NHCT Hoàn Kiếm và những kiến nghị đối với những cơ quan có liên quan để cùng nhau giải quyết, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với khu vực kinh tế ngoà quốc doanh trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngân hàng thương mại – Edward W. Reed và Edward K.Grill – NXB Khoa học Kỹ thuật.
2. Ngân hàng thương mại – GS-TS Lê Văn Tư - NXB Thống Kê.
3. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại – Davidcox – NXB Chính trị quốc gia.
4. Quản trị tài chính doanh nghiệp – Vũ Duy Hào và Đàm Văn Huệ – NXB Thống Kê.
5. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Mishkin – NXB Khoa học kinh tế.
6. Luật các tổ chức tín dụng.
7. Quy chế cho vay của các tổ chúc tín dụng.
8. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHCT Hoàn Kiếm năm 2000-2002
9. Tạp chí Tài chính doanh nghiệp.
10. Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ.
11. Tạp chí Ngân hàng.
12. Tạp chí Thông tin khoa học ngân hàng.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NganHang 60.doc