Tín dụng trung, dài hạn là một hoạt động cơ bản của NHĐT&PTVN và cũng là vấn đề được ngân hàng quan tâm nhất hiện nay. Tuy vậy, trong việc thực hiện loại hình tín dụng này vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập. Để có thể giải quyết triệt để những vướng mắc này là một việc làm không đơn giản và đòi hỏi nhiều thời gian đặc biệt cần một sự phát triển kinh tế đồng bộ.
Trong quá trình hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn nói riêng, NHĐT&PTVN luôn luôn tự đổi mới và hoàn thiện, không ngừng vươn lên qua việc phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế và khó khăn tồn tại. Những kinh nghiệm về hoạt động tại ngân hàng là một bài học quý báu.
Tuy nhiên, NHĐT&PTVN cũng như các Ngân hàng thương mại khác cần mạnh dạn và nhanh chóng áp dụng các biện pháp để tài trợ vốn cho nhu cầu phát triển cấp thiết của nền kinh tế.
Khó khăn là không bao giờ hết nhưng chúng ta tin rằng với bề dày truyền thống và kinh nghiệm, kết hợp với tư duy sáng suốt, việc chỉ đạo điều hành kiên quyết và sáng tạo NHĐT&PTVN sẽ vượt qua được những trở ngại để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Chính phủ, nhân dân tin tưởng giao phó.
Hoàn thành bản chuyên đề này, bản thân tôi mong muốn sẽ góp phần nhỏ kiến thức của mình vào việc tháo gỡ những khó khăn trong công tác "nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại NHĐT&PTVN". Tuy nhiên, do đây là vấn đề khá phức tạp, rộng lớn và có nhiều khó khăn còn bản thân tôi lại là một sinh viên mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu lý luận là chủ yếu, thực tế còn nhiều hạn chế. Vì vậy bản chuyên đề không tránh khỏi những sơ xuất nên tôi rất mong nhận được những góp ý chỉ bảo của các thầy cô giáo và toàn thể các anh chị và các bạn.
84 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh trước đây. NHĐT&PTVN đã vượt qua được những khó khăn thử thách của giai đoạn chuyển đổi cơ chế, nhanh chóng hoà nhập vào thị trường để tồn tại, để đứng vững và ngày càng tăng truởng, phục vụ có hiệu quả cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước.
Trước tình hình kinh tế xã hội tăng trưởng và phát triển, NHĐT&PTVN đã có định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn phù hợp với chính sách tiền tệ của Đảng và Nhà nước, về mọi mặt kinh doanh ngân hàng nói chung, công tác tín dụng trung, dài hạn nói riêng đáp ứng yêu cầu bức thiết của nền kinh tế và bản thân ngân hàng.
Từ những định hướng đó, ngân hàng không ngừng đổi mới mô hình tổ chức, quy chế tương đối kịp thời và đầy đủ, tạo lập được hành lang pháp lý để điều hành chỉ đạo công tác tín dụng trung, dài hạn có chất lượng hiệu quả.
Công tác huy động vốn đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: Quy mô vốn huy động không ngừng tăng lên với tốc độ cao qua các năm và mặc dù chủ yếu là vốn huy động ngắn hạn nhưng với quy mô lớn và tính ổn định cao đã cho phép ngân hàng luôn có một lượng vốn tín dụng dồi dào để cho vay trung và dài hạn. Bên cạnh đó ngân hàng cũng cố gắng tìm kiếm các nguồn vốn trung dài hạn khác như nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức trong và ngoài nước, là nguồn vốn có nhiều ưu đãi về lãi suất và thời hạn.
Xét về mặt quy mô, NHĐT&PTVN được đánh giá là một trong ba ngân hàng có quy mô cho vay và dư nợ trung dài hạn lớn nhất. Đạt được kết quả này một phần là nhờ ngân hàng đã có chính sách khách hàng hợp lý, đặc biệt là về mặt thủ tục, quy trình cho vay. Hiểu rõ mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận nên NHĐT&PTVN luôn chú trọng hoàn thiện các thủ tục, điều kiện, thể lệ, quy trình quản lý tín dụng để nhằm vừa bảo đảm lựa chọn chính xác những khách hàng tốt, tránh rủi ro cho ngân hàng, đồng thời vẫn tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng vay vốn, tránh phiền hà, tiết kiệm thời gian và công sức cho khách hàng. Bên cạnh đó, thái độ làm việc, tinh thần trách nhiệm của các cán bộ nhân viên trong ngân hàng cũng thường xuyên được chỉnh đốn, quán triệt phương châm coi khách hàng là thượng đế, mọi vướng mắc giữa ngân hàng và khách hàng đều được giải quyết một cách nhanh chóng trên nguyên tắc kết hợp hài hoà lợi ích hai bên. Chính nhờ những cố gắng đó mà ngân hàng tạo lập được uy tín vững chắc, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với mình.
Trong những năm qua ngân hàng đã thực hiện phương châm đổi mới cơ chế tín dụng trung, dài hạn, đầu tư theo chiều sâu. NHĐT&PTVN đã thực sự trở thành bạn hàng của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Với chính sách khách hàng, ngân hàng xác định mọi hoạt động đều xuất phát từ khách hàng, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng làm mục tiêu hoạt động của mình. Ngân hàng tiếp cận doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ tín dụng theo đúng quy định, nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoàn thành các thủ tục xin vay nhanh chóng, thuận lợi. Ngân hàng đã nỗ lực phục vụ đầu tư phát triển thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, hoàn thành tốt nhiệm vụ kế hoạch đầu tư phát triển do Nhà nước giao, tập trung vốn cho các công trình, dự án trọng điểm của Nhà nước. Đồng thời nâng cao vai trò chủ đạo của ngân hàng với những khoản vay nằm trong kế hoạch của Nhà nước.
Đối với mọi dự án đầu tư, ngân hàng thực hiện nghiêm túc việc lập hồ sơ xét duyệt cho vay theo quy định được ban hành của các cấp có thẩm quyền, nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định dự án, phân tích tín dụng để tìm ra rủi ro tiềm ẩn, loại trừ những dự án kém hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng, bảo đảm an toàn vốn cho ngân hàng
Bên cạnh đó trong quá trình cho vay ngân hàng kiểm tra trước, trong và sau cho vay, mỗi khoản cho vay đều có người chịu trách nhiệm từ cơ sở đến trung ương.
Ngoài ra ngân hàng cũng đã lựa chọn những cán bộ đủ đức, đủ tài, nhiệt tình công tác vào những công trình trọng điểm tạo điều kiện giúp khách hàng tư vấn cho doanh nghiệp trong thời gian ngắn nhất để đưa các công trình vào sản xuất kinh doanh có hiệu quả mang lại lợi ích cho cả ngân hàng và khách hàng. Để tạo nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn, ngân hàng đã khai thác triệt để nguồn vốn huy động thực hiện đa dạng hoá hình thức, biện pháp và các kênh huy động vốn trong và ngoài nước, chú trọng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn thông qua việc phát hành kì phiếu, trái phiếu, tăng tiền gửi và tiền tiết kiệm dài hạn trong dân cư, khai thác nguồn tài trợ trung, dài hạn của các tổ chức tiền tệ quốc tế để phục vụ cho đầu tư phát triển .
Ngân hàng tích cực hướng cơ cấu cho vay trung, dài hạn vào các ngành công nghệ cao, các ngành kinh tế mũi nhọn, các ngành chế biến nông sản làm hàng xuất khẩu phục vụ phát triển kinh tế. Tín dụng trung, dài hạn được củng cố chấn chỉnh, chất lượng ngày càng tăng và giảm đi được phần nào nợ quá hạn.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn còn gặp một số khó khăn liên quan đến vấn đề chất lượng tín dụng trung, dài hạn cần phải giải quyết.
3.2. Những khó khăn cần giải quyết.
Cơ cấu nguồn còn chưa hợp lí, chưa phù hợp. Hiện nay tăng trưởng nguồn vốn nhất là vốn trung, dài hạn trong dân cư và huy động từ nguồn tiền gửi của khách hàng vẫn là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, là khâu mở đường cho hoạt động kinh doanh của NHĐT&PTVN. Để huy động vốn được thì phải bảo đảm lợi ích của người gửi tiền lãi suất huy động cao nhưng cho vay đầu tư cũng với lãi suất cao thì doanh nghiệp không chấp nhận được. Đây là vấn đề khó khăn tạo sức ép đối với ngân hàng trong khi phải giữ vững và phát huy vai trò của ngân hàng chủ đạo trong phục vụ đầu tư phát triển.
Việc thực hiện chính sách tiền tệ là thử thách lớn cho hoạt động của ngành ngân hàng đặc biệt đối với NHĐT&PTVN, phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư trung, dài hạn trong điều kiện vốn trung, dài hạn còn ít, nên một phần phải dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ tín dụng trung, dài hạn. Tuy đã được Chính phủ và Nhà nước cho phép nhưng điều này cũng có ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng .
Việc thực hiện chính sách tín dụng chỉ là bước đầu chưa đa dạng hình thức tín dụng trung, dài hạn, rủi ro tín dụng còn lớn chất lượng phân tích thẩm định dự án còn hạn chế so với yêu cầu vì vậy mà dẫn đến hiện tượng sau khi đến thời hạn, doanh nghiệp không có khả năng trả nợ, buộc ngân hàng phải chuyển các khoản nợ đó sang nợ quá hạn, nợ khó đòi, cuối cùng ngân hàng phải phát mại tài sản thế chấp do đó sẽ làm giảm chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Là một ngân hàng có bề dày truyền thống về đầu tư xây dựng cơ bản nhưng công tác kinh tế kĩ thuật và tư vấn đầu tư thực hiện chưa được tốt. Việc phân tích đúc rút kết quả đầu tư còn quá ít, chưa có tính hệ thống, thường xuyên và kịp thời. Việc xây dựng quy chế quy trình thẩm định từ trung ương tới địa phương còn chưa làm tốt gây nên nhiều đầu mối thẩm đinh còn kéo dài thời gian nhất là khâu thẩm định tại trung ương, chưa nâng cao được trách nhiệm của cán bộ thẩm định trực tiếp. Việc phân chia giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay chưa rõ ràng. Nhận thức về vai trò vị trí công tác thẩm định kinh tế kĩ thuật và tư vấn đầu tư có nới có lúc còn chưa thống nhất chưa ngang tầm với yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động.
Nợ quá hạn và tiềm ẩn rủi ro.
So với những năm qua thì tỷ lệ nợ quá hạn của NHĐT&PTVN ngày càng giảm. Tuy nhiên mức giảm ấy còn thấp và đáng lo ngại đe doạ sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Sự giúp đỡ của ngân hàng đối với doanh nghiệp mới chỉ đơn thuần qua các hoạt động như điều chỉnh, gia hạn nợ, cho vay thêm vốn chứ chưa thực hiện được vai trò tư vấn, định hướng giúp các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn gặp phải trong quá trình kinh doanh.
Cuối cùng là công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ chủ chốt của các cấp chưa hợp lý, bị động và nhiều lúc thiếu hụt. Cán bộ thì vừa thiếu về số lượng vừa yếu về năng lực, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế.
2.3.3. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên.
2.3.3.1.Nguyên nhân từ phía ngân hàng.
Trong hoạt động tín dụng hai yếu tố rủi ro và lợi nhuận luôn là bạn đồng hành. Nếu như ngân hàng chỉ chạy theo lợi nhuận cao mà thiếu sự thận trọng cần thiết thì có thể sẽ phải trả giá đắt cho những rủi ro gặp phải, nhưng ngược lại vì rủi ro mà không dám mở rộng cho vay thì có thể sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, mất đi nhiều khách hàng tốt. Đây là vấn đề nan giải mà hiện nay NHĐT&PTVN đang gặp phải. Vì mục tiêu an toàn vốn nên NHĐT&PTVN có xu hướng thu hẹp tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vẫn biết cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thời gian qua gặp nhiều rủi ro song không phải các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều như nhau. Đây là điểm ngân hàng nên chú ý hơn trong thời gian tới.
Hoạt động Marketing trong ngân hàng chưa được quan tâm chú ý. Hoạt động này mới chỉ được thực hiện đơn thuần dưới dạng các hoạt động bề nổi như tuyên truyền, quảng cáo chứ chưa thực sự xuất phát từ việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu khách hàng để tìm cách thoả mán tốt nhất nhu cầu đó. Lâu nay hoạt động Marketing vẫn thường được coi là nhiệm vụ của các nhân viên giao dịch trong khi đó mạng lưới thông tin về khách hàng còn yếu kém, ít áp dụng công nghệ thông tin vào việc thu thập các yếu tố về khách hàng, sản phẩm, dịch vụ…
NHĐT&PTVN hoạt động theo mô hình Tổng công ty, Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý, chịu trách nhiệm về sự phát triển của ngân hàng; Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của NHĐT&PTVN trước Hội đồng quản trị và trước Thống đốc, pháp luật về điều hành ngân hàng do đó việc thực hiện các qui trình nghiệp vụ của ngân hàng còn chưa được nhanh chóng và chính xác trong đó có cả nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn.
2.3.3.2.Nguyên nhân từ phía khách hàng.
Khả năng của các doanh nghiệp trong việc đáp ứng các yêu cầu tín dụng trung dài hạn của ngân hàng là rất thấp. Những vướng mắc chủ yếu thường gặp phải trong thời gian qua là do doanh nghiệp không có đủ vốn tự có theo yêu cầu, không đủ tài sản thế chấp theo qui định đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, không có dự án khả thi. Để đảm bảo nguyên tắc an toàn, các ngân hàng thường yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải có số vốn tối thiểu nhất địng tham gia vào dự án, cụ thể hiện nay theo quyết định 324/1998 của Ngân hàng Nhà nước thì với những dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất hợp lý hoá sản xuất thì tỷ lệ vốn tối thiểu là 10% tổng giá trị vốn đầu tư; dự án xây dựng cơ bản mới 30%; dự án phục vụ đời sống 40%. Với tình trạng thiếu vốn phổ biến trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì đây thực sự là rào cản không thể vượt qua được của nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Vướng mắc thứ hai là về tài sản thế chấp, theo tính toán hiện nay thì chỉ có 20% giá trị tài sản của các doanh nghiệp có thể sử dụng làm tài sản thế chấp hợp pháp, con số này là quá nhỏ bé so với nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp.
Cuối cùng là doanh nghiệp không có khả năng lập dự án khả thi. Có rất nhiều doanh nghiệp lập được các phương án kinh doanh rất tốt nhưng do không cụ thể hoá được thành các dự án khả thi nên cũng không được ngân hàng cho vay vốn.
Khả năng quản lý và sử dụng khoản vay của doanh nghiệp còn thấp điều này cũng một phần bắt nguồn từ sự hạn chế về vốn kéo theo trình độ trang thiết bị, công nghệ lạc hậu, làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Tình trạng làm ăn thiếu trung thực thường xuyên xảy ra giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với các ngân hàng và giữa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh với nhau như sử dụng vốn vay không đúng mục đích, cung cấp thông tin không chính xác cho ngân hàng, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bên cạnh đó theo quyết định 417 của Ngân hàng Nhà nước đã qui định: Tất cả các doanh nghiệp nhà nước vay vốn ngân hàng không cần phải có tài sản thế chấp hay bảo lãnh mà chỉ cần có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có tính khả thi thì được vay vốn. Điêù này tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước trong việc vay vốn của ngân hàng để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Song đối với ngân hàng, rủi ro lại càng cao vì phương án sản xuất kinh doanh dù có tốt đến đâu cũng có những khả năng xảy ra những sai sót khi đó ngân hàng sẽ không có gì đảm bảo cho khoản tín dụng của mình. Thêm vào đó ngân hàng lại không có một sự hỗ trợ nào của Nhà nước khi các doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng gặp rủi ro.
2.3.3.3.Nguyên nhân khác
Môi trường pháp lý do hoạt động tín dụng trung, dài hạn chưa đầy đủ và đồng bộ chính sách tín dụng còn nhiều thiếu sót, khả năng thực thi của các luật về tài sản thế chấp còn yếu. Bên cạnh đó hiệu lực pháp lý của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự phát mại tài sản thế chấp.
Hoạt động cho vay trung, dài hạn còn chịu sự chi phối của nhiều cấp nhiều ngành chính vì vậy mà khi có một dự án cho vay theo chỉ định không có hiệu quả mà ngân hàng vẫn phải cho vay mặc dù ngân hàng biết trước dự án đầu tư này không đạt yêu cầu về thẩm định. Từ đó khiến cho hoạt động cho vay trung, dài hạn gặp nhiều khó khăn nợ quá hạn cao làm giảm chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHĐT&PTVN.
Một vấn đề nữa là mặc dù Chính phủ đã qui định các ngân hàng thương mại có quyền tự chủ quyết định về việc cho vay của mình và chịu trách nhiệm về các quyết định đó song trên thực tế không phải lúc nào ngân hàng cũng có được quyền tự chủ đó. Có nhiều khi do những tác động từ nhiều phía như chính quyền địa phương nên ngân hàng vẫn phải cho vay đối với không ít những dự án có thể đem lại rủi ro cho ngân hàng.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, vì vậy ngân hàng thiếu thông tin khi xem xét đánh giá khách hàng để quyết định cho vay. Điều đó một mặt hạn chế khả năng mở rộng tín dụng, mặt khác làm tăng thêm tình trạng rủi ro tín dụng của các ngân hàng do đánh giá khách hàng không chính xác khiến cho chất lượng tín dụng không được cao.
Chương III
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam
3.1.Định hướng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam trong thời gian tới.
Để xây dựng và chuẩn bị tiền đề cần thiết về vốn, công nghệ, kĩ năng quản trị điều hành ngân hàng hiện đại, để xây dựng NHĐT&PTVN thành tập đoàn tài chính đa năng, phát triển vững mạnh và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước, NHĐT&PTVN đã đề ra chiến lược cho giai đoạn 2001-2010 cụ thể như sau:
Xây dựng NHĐT&PTVN thành tập đoàn tài chính ngân hàng vững mạnh thực hiện kinh doanh đa năng tổng hợp ( đa sản phẩm, đa khách hàng, đa thị trường), đa sở hữu trong đó sở hữu Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, xây dựng mô hình tổ chức hợp lý phù hợp với sự phát triển của kinh tế đất nước.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ để nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh.
Tiếp tục phát huy nghề truyền thống theo đòi hỏi của cơ chế thị trường đó là cho vay trung, dài hạn để phục vụ đầu tư phát triển.
Cơ cấu lại toàn diện, triệt để lại hệ thống của toàn ngân hàng. Từng bước hình thành và phát triển mô hình tổ chức theo hướng tập đoàn, hình thành và phân định rõ chức năng theo 4 khối: ngân hàng, các công ty độc lập, các đơn vị sự nghiệp và các đơn vị liên doanh.
Hoàn thiện mô hình tổ chức theo hướng tập đoàn: mở rộng mạng lưới hoạt động, thành lập các đơn vị thành viên tại các địa bàn có tiềm năng, thành lập trung tâm Công nghệ thông tin, trung tâm đào tạo, chi nhánh công ty trực thuộc, từng bước cơ cấu lại Hội sở chính...
Nâng cao năng lực quản trị điều hành:
Từng bước hoàn thiện hệ thống các chế độ, quy định, quy trình cho từng nghiệp vụ. Mở rộng và nâng cao chất lượng công tác đối ngoại với các tổ chức tiền tệ-tài chính trong và ngoài nước. Tiếp tục thực hiện kiểm toán quốc tế và từng bứơc đưa vào triển khai áp dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. Nâng cao công tác kiểm tra kiểm soát bằng việc thành lập ban kiểm tra kiểm toán nội bộ và ban hành quy chế kiểm tra kiểm soát nội bộ. Từng bước hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý đáp ứng yêu cầu quản lý ngân hàng hiện đại, xây dựng và đưa vào vận hành các chương trình tin học phục vụ và quản lý điều hành, thông tin tín dụng ...
3.2. Phương hướng nhiệm vụ kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam trong năm 2003.
3.2.1. Các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2003.
Tốc độ tăng trưởng bình quân 25%/ năm.
Tổng tài sản đạt 95.000 tỷ đồng.
Huy động vốn đạt 62.000 tỷ đồng.
Dư nợ tín dụng ( kể cả uỷ thác và ngân hàng bán buôn) là 70.000 tỷ đồng, kinh doanh có lãi và thực hiện đày đủ nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước, trích dự phòng rủi ro theo quy định.
ROE đạt 9%.
Tiếp tục phục vụ đầu tư phát triển, dư nợ tín dụng trung, dài hạn đạt 50%; Dư nợ cho vay khu vực ngoài quốc doanh đạt 32% so với tổng dư nợ.
Phương hướng chủ yếu.
Về huy động vốn.
Đẩy mạnh công tác huy động vốn, khai thác nguồn vốn nước ngoài thông qua các hiệp định khung tài trợ xuất nhập khẩu, vay ngắn hạn quay vòng nước ngoài.
Phát huy sức mạnh toàn hệ thống trong công tác huy động vốn.
Đẩy mạnh khơi tăng nguồn vốn qua kênh ngân hàng đại lý, uỷ thác cho các tổ chức quốc tế CWB, ADB, IFC....
Cơ cấu lại khách hàng, chú trọng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thực hiện chính sách khách hàng phù hợp theo từng nhóm khách hàng để tăng tiền gửi khách hàng. Gắn hoạt động tín dụng, dịch vụ, thanh toán để thu hút tiền gửi của các tổ chức quốc tế.
Tích cực huy động vốn từ các tầng lớp dân cư bằng cách áp dụng và mở rộng nhiều hình thức huy động vốn tại địa bàn có tiềm năng, bảo đảm huy động đuợc vốn với chi phí hợp lý.
Phát hành trài phiếu ngân hàng và đại lý phát hành trái phiếu dự án với lãi suất huy động phù hợp với lãi suất thị trường và nhu cầu sử dụng vốn.
Về tín dụng.
Thực hiện đánh giá lại toàn bộ dư nợ hiện có đến 31/12/02 và triển khai uỷ quyền quyết định cho vay theo nghị quyết của Hội đồng quản trị.
Chuyển mạnh cơ cấu dư nợ, tăng tỷ trọng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư, bảo đảm đúng luật pháp, an toàn, tăng doanh lợi.
Tăng trưởng tín dụng hiệu quả an toàn trên cơ sở cân đối nguồn vốn ( kì hạn, loại tiền)
Gắn tín dụng với phát triển dịch vụ.
Đẩy mạnh cho vay kết hợp nhiều hình thức vay vốn, đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng...
Phát huy nghề nghiệp truyền thống phục vụ đầu tư phát triển qua các kênh sau:
* Chủ động lựa chọn các khách hàng tốt, dự án có hiệu quả, sản phẩm có sức cạnh tranh khi thực hiện AFTA, có khả năng trả nợ ngân hàng để đầu tư.
* Phối hợp cùng ngân hàng tham gia cho vay đồng tài trợ các dự án quan trọng của Nhà nước.
* Tập trung vốn tín dụng phục vụ các dự án theo chương trình kinh tế của Chính phủ như chuyển dịch cơ cấu nhất là trong nông nghiệp nông thôn, nâng cao sức cạch tranh của doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế.
* Phấn đấu nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng.
Về phát triển dịch vụ.
Đẩy mạnh cung ứng công nghệ để phát triển dịch vụ các tiện ích ngân hàng cung cấp cho khách hàng.
Mở rộng triển khai hoạt động ngân hàng bán lẻ, nâng cao chất lượng phục vụ để hỗ trợ công tác huy động vốn và hoạt động tín dụng.
Hoàn thiện quy trình và sử dụng mạnh công nghệ, nâng cao chất lượng phục vụ để khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, hướng tới mục tiêu giảm tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư.
Nghiên cứu đưa các sản phẩm dịch vụ thông dụng của các ngân hàng trong khu vực và ứng dụng trên cơ sở sử dụng Công nghệ thông tin phục vụ khách hàng tốt hơn: Home-banking, ATM, thẻ card...
Tiếp tục đề án cơ cấu lại ngân hàng.
Cơ cấu lại nợ và xử lý nợ tồn đọng: Tập trung xử lý nợ tồn đọng theo quy định 149 của thủ tướng Chính phủ. Có phương án xử lý nợ xấu nhóm 1 và nhóm 3, phấn đấu xử lý cơ bản trong năm 2003; phân loại nợ xử lý Nợ quá hạn phát sinh sau năm 2000 đúng quy định của pháp luật; Nâng cao chất lượng tín dụng xét duyệt cho vay vốn đúng luật pháp, gắn tăng trưởng tín dụng với thựchiện cơ cấu lại theo chỉ tiêu kế hoạch. Thực hiện tốt cơ chế tín dụng theo quyết định 1627 và trích dự phòng rủi ro đầy đủ.
Lành mạnh hoá tài chính, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bảo đảm thực hiện đầy đủ, đúng các điều kiện để được cấp vốnđiều lệ đợt II cho NHĐT&PTVN trong quý III năm 2003; Tiếp tục thực hiện kiểm toán quốc tế đến năm 2001.
Theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước chủ động phối hợp với bên tư vấn triển khai dự án hỗ trợ kĩ thuật cơ cấu lại ngân hàng, tập trung vào các nội dung: cơ cấu lại tổ chức và hoạt động, cơ cấu lại các nghiệp vụ tín dụng, quản lý công tác đào tạo cán bộ theo các nội dung trên bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả và thiết thực.
Tiếp tục thực hiện cơ cấu lại khoản mục tài sản Nợ - Có theo hướng an toàn, tăng khả năng sinh lời, tăng năng lực tài chính của ngân hàng. Đảm bảo yêu cầu đổi mới công nghệ, phòng ngừa rủi ro, bảo đảm tăng thu nhập cho người lao động gắn liền với nâng cao chất lượng và hiệu quả.
Tiếp tục thực hiện mô hình tổ chức và quản lý mới nhằm nâng cao năng lực quản trị điều hành. Mở rộng mạng lưới trên cơ sở có chọn lọc và chú ý đến yếu tố hiệu quả. Chú trọng tăng cường bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ, đáp ứng đòi hỏi của hội nhập quốc tế.
Về Công nghệ thông tin.
Bảo đảm tiến độ triển khai dự án hiện đại hoá ngân hàng, phấn đấu trong năm 2003 có 50% số các chi nhánh của ngân hàng được triển khai áp dụng dự án này.
Chủ động chuẩn bị các điều kiện cần thiết về nhân lực, đào tạo, kĩ thuật công nghệ... cho việc chuyển đổi công nghệ bảo đảm hoạt động bình thường.
Triển khai các chương trình ứng dụng công nghệ tin học trong quản trị điều hành, hoạt động nghiệp vụ.
Phát triển nguồn nhân lực, đổi mới tổ chức và quản trị điều hành.
Tiếp tục đổi mới công tác tổ chức cán bộ theo đề án đã được duyệt. Triển khai đề án phát triển mạng lưới tại địa bàn thủ đô Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh cùng với một số địa bàn khác có tiềm năng ổn định, thực hiện chuyển giao lãnh đạo theo lộ trình được duyệt.
Tập trung đào tạo nâng cao trình độ cán bộ.
Triển khai chương trình kiểm tra, kiểm toán nội bộ, tăng cường kiểm tra kiểm toán đánh giá các rủi ro lớn hoặc hoạt động có liên quan đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Nghiên cứu xây dựng quy trình kiểm toán đối với hệ thống Công nghệ thông tin.
Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quant trị điều hành, bảo đảm tuân thủ pháp luật, phân định rõ chế độ trách nhiệm của các cấp điều hành, làm việc theo đúng chức trách nhiệm vụ được giao, làm tốt công tác chính trị tư tưởng đoàn kết, thống nhất ý chí đến hành động, xây dựng tập thể vững mạnh.
Củng cố và xây dựng hệ thống thông tin nội bộ đáp ứng cho quá trình điều hành kinh doanh và quản lý kinh doanh an toàn hiệu quả.
Tiếp tục xây dựng cơ chế đào tạo, cơ chế nghiên cứu khách hàng tạo động lực thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động kinh doanh của toàn ngành.
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại NHĐT&PTVN
Như ở chương I đã phân tích nâng cao chất lượng tín dụng là khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng vay vốn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng và đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Trên cơ sở bám sát những nhu cầu đó, kết hợp với việc phân tích thực trạng chất lượng tín dụng trung, dài hạn của NHĐT&PTVN, có thể thấy để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng trung dài hạn thì trong thời gian tới NHĐT&PTVN cần tiến hành tổng hợp một số biện pháp xuyên suốt các khâu từ tạo nguồn, thu hút khách hàng đến quản lý tín dụng trước trong và sau khi cho vay. Cụ thể:
3.3.1. Giải pháp về nguồn vốn
Để huy động nguồn vốn trung, dài hạn có hiệu quả ngân hàng cần phải:
Tăng qui mô nguồn vốn hiện có: trong năm nguồn vốn cho vay trung dài hạn của NHĐT&PTVN hiện nay thì việc tăng nguồn vốn tự có là rất khó khăn, phức tạp và không thuộc quyền tự chủ của ngân hàng chính vì vậy việc tăng nguồn vốn hiện có chủ yếu thực hiện với bốn nguồn còn lại.
Đối với nguồn vốn huy động tiền gửi của dân cư, trong hệ thống NHĐT&PTVN, lãi suất và kì hạn tiền gửi không nên có sự can thiệp của Hội sở chính mà nên để các chi nhánh ngân hàng có thể tự ý thay đổi để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, để nâng cao nguồn vốn huy động. Việc thu hút vốn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố lãi suất. Do đó nâng cao lãi suất đối với tiền gưỉ trung dài hạn đồng thời hạ lãi suất tiền gửi không kì hạn để đảm bảo lãi suất trung bình vẫn không thay đổi, đồng thời khuyến khích khách hàng duy trì số dư tài khoản với thời hạn dài hơn nhằm tạo nguồn vốn tốt cho tín dụng trung dài hạn. Chi nhánh cần phát triển hình thức huy động tiết kiệm trung dài hạn có tính đến trượt giá. Loại tiết kiệm này có thời hạn tiết kiệm tối thiểu là 3 năm, vốn gốc được đảm bảo bằng tỷ lệ lạm phát danh nghĩa, lãi có thể được rút định kì hoặc nhập vào gốc, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao với lãi suất cố định hoặc điều chỉnh. Ngoài yếu tố lãi suất các chi nhánh còn phải tăng cường hơn nữa chất lượng phục vụ cũng như những tiện ích mang lại cho người gửi tiền, với những khách hàng gửi tiền kì hạn dài (9 hoặc 12 tháng) khi có nhu cầu rút tiền trước hạn nếu thời gian gửi đã đủ cho các kì hạn ngắn hơn(3 hoặc là 6 tháng) thì ngân hàng có thể xem xét cho hưởng một mức lãi hợp lý, lớn hơn tiền gửi không kì hạn và nhỏ hơn tiền gửi có kì hạn. Phát triển việc nhận và trả tiền gửi tại nhà theo yêu cầu qua điện thoại có thu phí, thực hiện hình thức tiết kiệm dài hạn trả lãi hàng tháng rất phù hợp với những ngươig già có khoản tiền lớn muốn gửi vào ngân hàng nhận lãi hàng tháng để đảm bảo cuộc sống. Những biện pháp như vậy sẽ khiến cho khách hàng yên tâm hơn khi gửi tiền với kì hạn dài hoặc nếu có gửi với kì hạn ngắn thì họ cũng để nhiều kì mà không rút, tạo sự ổn định cho nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng.
Đối với nguồn vay cần chú trọng vay bằng cách phát hành trái phiếu trung dài hạn với nhiều hình thức đặc bịêt chú trọng vào huy động dài hạn để thu hút nguồn vốn dài hạn ổn định vốn từ dân cư nhằm cân đối nguồn vốn của ngân hàng tạo điều kiện cho đầu tư các dự án trung dài hạn cần vốn lớn.
Đối với nguồn vốn uỷ thác thì một mặt ngân hàng chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm những khách hàng tốt, phối hợp giúp đỡ để khách hàng có đủ điều kiện vay vốn, mặt khác tích cực tìm kiếm thêm những nguồn uỷ thác mới bên cạnh nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, nguồn cho vay theo chương trình Đài Loan, chương trình Việt Đức hiện nay. NHĐT&PTVN cũng có thể thương lượng với các nhà tài trợ nước ngoài để họ giảm bớt những điều kiện quá khắt khe, không cần thiết nhằm tạo lợi nhuận cho các doanh nghiệp vay vốn.
Khai thác những nguồn vốn mới.
Ngoài các nguồn vốn mà NHĐT&PTVN hiện đang sử dụng, có nhiều nguồn vốn khác có thể sử dụng để cho vay trung dài hạn như: nguồn vốn vay ngân hàng Nhà nước, nguồn vay nợ nước ngoài.
Theo luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước không cho các tổ chức tín dụng vay vốn trung dài hạn do đó nguồn này không thể khai thác được. Mặt khác, theo qui định hiện hành về công tác huy động vốn của NHĐT&PTVN thì các chi nhánh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được chủ động huy động vốn với kì hạn và lãi suất ấn định sao cho đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Như vậy, có rất nhiều nguồn vốn để khai thác trong toàn hệ thống tuỳ theo đặc điểm, vị trí của từng chi nhánh. Ngoài ra còn có nguồn vay nợ nước ngoài, trước mắt việc khai thác nguồn vốn này chưa phải là yêu cầu cấp bách, hơn nữa việc đó cũng đòi hỏi nhiều yếu tố phức tạp song nhìn về một tương lai xa hơn NHĐT&PTVN nên có sự chuẩn bị ngay từ bây giờ. Bắt đầu từ việc mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng quốc tế cũng như chi nhánh các ngân hàng nước ngoài hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Hơn nữa, việc tăng cường hợp tác với các ngân hàng nước ngoài còn giúp NHĐT&PTVN có cơ hội mở rộng nghiệp vụ tiếp thu được công nghệ hiện đại và phương pháp quản lí tiên tiến của họ.
3.3.2. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng .
Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức và quản lí của ngân hàng từ việc phát hiện ra nhu cầu đến việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng về nguồn vốn cũng như các dịch vụ khác thông qua các chính sách, các giải pháp cụ thể, linh hoạt để thích ứng với môi trường, với thị trường và đạt tới mục tiêu sinh lợi.
Đây là một hoạt động mang tính tổng hợp bao gồm bốn chính sách lớn như: Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra; chính sách sản phẩm giá cả; chính sách phân phối; chính sách giao tiếp khuyếch trương. Với khuôn khổ hạn hẹp của bài luận văn, tôi xin nêu một số giải pháp cụ thể liên quan đến từng chính sách nhằm tăng cường hiệu quả công tác Marketing của NHĐT&PTVN trong thời gian tới, góp phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng.
Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra.
Đây có thể coi là khâu rất yếu không chỉ của NHĐT&PTVN mà của hầu hết các ngân hàng thương mại hiện nay. ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển mặc dù có hẳn một phòng thông tin đIện toán song nhiệm vụ chủ yếu của phòng này là thu thập số liệu từ các chi nhánh. Nhiệm vụ Marketing hầu như không được đặt ra nhằm mục đích nâng cao chất lượng công tác thông tin nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra tạo sự chủ động cho ngân hàng trong việc tìm kiếm, nắm bắt và đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng trong thời gian tới cần thực hiện các biện pháp sau: Tiếp tục phát huy hiệu quả của phòng Thông tin Điện toán hiện nay song cần có sự điều chỉnh về chức năng nhiệm vụ về cơ cấu nhân sự.
Về chức năng nhiệm vụ: Bên cạnh những chức năng nhiệm vụ hiện nay, phòng thông tin đIện toán cần phải đảm đương thêm những chức năng nhiệm vụ trên: Xác định nhu cầu về thông tin cần thu thập. Tiến hành điều tra, thu thập, xử lý thông tin. Phân tích các thông tin đã qua xử lý để đưa ra những dự đoán kết luận về nhu cầu của khách hàng hiện tại và tiềm năng, về tình hình cạnh tranh giữa ngân hàng Đầu tư và Phát triển với các ngân hàng và giữa các ngân hàng với nhau về khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường của NHĐT&PTVN là cơ sở để ngân hàng đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Do tình hình cạnh tranh khá gay gắt và ngày càng có xu hướng tăng lên giữa các ngân hàng thương mại để đảm bảo tồn tại được thì ngân hàng cần phải thu thập được các thông tin về các đối thủ cạnh tranh từ Ngân hàng Nhà nước, từ các tài liệu do chính các ngân hàng đó phát hành nhằm mục đích tuyên truyền quảng cáo về hình tượng ngân hàng mình.
Về nhân sự: Để có thể thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ mới đòi hỏi cơ cấu nhân sự của các phòng ban đặc biệt là phòng thông tin đIện toán phải có sự thay đổi. Do khối lượng công việc tăng lên nên số lượng nhân sự cũng có thể phải tăng lên nếu như số nhân sự trước đây đã phát huy hết khả năng. Số nhân viên tăng thêm này ngoài việc thông thạo còn phải là những người thành thạo về máy tính còn phải là những người có kiến thức còn phải am hiểu về thị trường về tài chính doanh nghiệp, về khoa học kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, đồng thời phải có khả năng tổng hợp và phân tích số liệu tốt.
Thông qua công tác thông tin, nghiên cứu tìm hiểu điều tra sẽ giúp cho ngân hàng nắm bắt được chính xác nhu cầu của khách hàng hiện tại và tiềm năng, nắm bắt được mặt mạnh yếu của đối thủ cạnh tranh cũng như của chính mình, dự đoán được xu hướng biến động của nền kinh tế. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra những quyết định thích hợp nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Chính sách giá cả sản phẩm.
Giá cả trong hoạt động tín dụng trung dài hạn có thể coi là lãi suất cho vay. Về mặt này trong thời gian qua do đặc đIểm nguồn vốn của NHĐT&PTVN chủ yếu là vốn ưu đãi và vốn ngắn hạn nên có chi phí thấp, cho phép ngân hàng đưa ra mức lãi suất khá cạnh tranh. Về sản phẩm thì hiện nay NHĐT&PTVN cho vay khá đa dạng như: cho vay theo dự án, cho vay hợp vốn, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, bên cạnh đó ngân hàng cần phải phát triển nghiệp vụ thuê mua.
3.3.3. Biện pháp ngăn ngừa và hạn chế nợ quá hạn.
Đối với nợ quá hạn ngân hàng có thể sử dụng một trong hai biện pháp sau:
Biện pháp khai thác: NHĐT&PTVN cần hướng dẫn người vay trên nhiều khía cạnh, nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận, ngân hàng có thể gia hạn điều chỉnh hợp đồng tín dụng để giảm quy mô hoàn trả, trước mắt có thể tìm giải pháp cho vay tiếp vốn để tăng sức mạnh về tài chính của khách hàng khôi phục lại sản xuất kinh doanh.
NHĐT&PTVN đề nghị người vay quản lý chặt chẽ ngân quỹ, khuyên bán bớt tài sản có giá trị, giảm lượng hàng tồn kho, thanh lý bớt tài sản không sử dụng...
Nếu do nguyên nhân khách quan như thiên tai, trộm cắp,... người vay không thể trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng có thể xem xét gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay tương ứng với các kì hạn để có thể thu được lợi nhuận của khách hàng.
Phương pháp thanh lý: Trong trường hợp ngân hàng thấy rõ việc tổ chức khai thác là không thuận lợi, không có hi vọng thu hồi được nợ thì ngân hàng sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để xử lý các khoản nợ, khoản cho vay khó đòi. Biện pháp thanh lý được thực hiện khi người vay không sẵn lòng chi trả hoặc có hành động lẩn trốn, lừa đảo, tình trạng tài chính mất khả năng thanh toán.
Nếu là khoản vay có tài sản thế chấp hoặc bảo đảm thì NHĐT&PTVN cùng với các chuyên gia tư vấn pháp luật, nhân viên thanh lý thực hiện bán đấu giá các tài sản đó theo pháp luật hiện hành.
Nếu là những khoản vay không có tài sản thế chấp, bảo đảm thì ngân hàng phải nhờ sự phán quyết của toà án kinh tế mới có biện pháp thu hồi vốn như: Bán tài sản của người vay, nếu người vay không tài sản thì không thu hồi được nợ và người vay phải thụ án dân sự.
Ngoài ra ngân hàng còn phải thành lập bộ phận quản lý nợ xấu chuyên trách quản lý các khoản nợ nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng.
3.3.4.Thiết lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro.
Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro là cách mà ngân hàng bổ xung cho dự trữ thất thoát trong cho vay. Phần khấu trừ hay quỹ dự phòng cao hơn 0,75% tổng dư nợ được xem là cao. Nếu tỷ lệ này ở 1% trong vài ba năm nghĩa là ngân hàng đang gặp nhiều khó khăn, một nửa phần trăm trên dư nợ là tỷ lệ mà hầu hết các ngân hàng cố giữ và cũng không cảm thấy hài lòng với tỷ lệ này; 0,25 % là một tỷ lệ thích hợp. Để thiết lập quỹ dự phòng rủi ro một cách thích hợp và có hiệu quả người ta thường phân loại khoản vay theo 4 nhóm: Các khoản vay được coi là đặc biệt, các khoản vay duới tiêu chuẩn, các khoản vay đang gây lo ngại và các khoản vay được coi là lỗ.
Khoản vay coi là đặc biệt: Là những khoản vay có xu hướng yếu đi ví dụ như tài sản thế chấp, thông tin từ phía khách hàng chưa đầy đủ hoặc sai lệch do vậy phải giám sát chặt chẽ hơn nữa các khoản vay loại này.
Khoản vay dưới tiêu chuẩn: Đối với những khoản vay này thì khả năng thu hồi được nợ trong tương lai là khó có thể tránh khỏi với các biểu hiện như món vay đang trong tranh chấp, khoản vay quá hạn dưới 90 ngày, các khoản vay chưa đến hạn nhưng có khả năng xấu đi do khả năng tài chính của người vay đang trong tình trạng thua lỗ, món vay của doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc bị giải thể.
Khoản vay đang gây lo ngại: là khoản vay mà khả năng thu ngân và thanh toán đang trong tình trạng hoàn toàn không có khả năng thu hồi với các biểu hiện như sau món vay đã quá hạn từ 90 ngày đến 12 tháng, các món vay quá hạn được đảm bảo bằng tài sản thể chấp có sự giảm sút về giá trị, chất lượng hàng tồn kho kém khó có khả năng tiêu thụ, tình trạng công nợ của khách hàng có biểu hiện đáng lo ngại...
Khoản vay bị coi là lỗ: là những khoản vay hoặc một phần của chúng hoàn toàn không có khả năng thu hồi, khoản vay quá hạn trên 1 năm, khoản vay không trả được do các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hoả hoạn,lũ lụt..., doanh nghiệp giải thể không có nguồn trả nợ cho ngân hàng. Từ những phân tích trên, ngân hàng có thể trích lập quỹ bù đắp rủi ro nhằm hạn chế những tổn thất có thể xảy ra đối với ngân hàng.
3.3.5.Các vấn đề bảo đảm tiền vay.
Tài sản đảm bảo nợ vay là một biện pháp quan trọng trong quá trình cho vay của ngân hàng, nó tạo ra cơ sở pháp lý giúp cho ngân hàng có khả năng thu hồi nợ vay một khi khách hàng không có khả năng trả nợ, giảm tối đa thiệt hại khi có rủi ro xảy ra.
Việc thu nợ bằng tài sản cầm cố thế chấp là việc làm mà không một ngân hàng nào muốn. Vì đây chỉ là biện pháp cuối cùng giúp ngân hàng một phần nào đó có thể thu lại được vốn của mình khi khách hàng không trả được nợ khi đến hạn. Mặt khác không phải tài sản thế chấp nào cũng có thể bán đi một cách dễ dàng để cho ngân hàng thu nợ kịp thời vì thực tế hiện nay việc phát mại tài sản là rất khó thực hiện do tâm lý của người mua vẫn còn hiện tượng mê tín sợ gặp rủi ro.
Song dù sao nó cũng giúp ngân hàng phần nào giải quyết được những thiệt hại khi có rủi ro xảy ra, làm giảm bớt rủi ro ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Do đó, ngân hàng cần thực hiện nghiêm túc về thủ tục thế chấp trong quá trình cho vay, giải pháp này gắn liền với việc nâng cao năng lực công tác và phẩm chất đạo đức của cán bộ tín dụng trong việc đánh giá tài sản thế chấp và cũng là biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng, tránh tình trạng đánh giá quá cao hay quá thấp thực tế giá trị tài sản khiến cho việc phát mại tài sản khi có rủi ro xảy ra sẽ không bù đắp nổi thiệt hại cho ngân hàng hoặc tài sản thế chấp không có khả năng phát mại.
Cũng có những trường hợp khi khách hàng đi vay không cần tài sản thế chấp vì đó là khách hàng truyền thống có uy tín đối với ngân hàng từ lâu, làm ăn kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy, vấn đề tài chính trong việc ngân hàng quyết định cho vay đối với một khách hàng không phải ở chỗ khách hàng có tài sản cầm cố thế chấp hay không mà điều này phụ thuộc vào tình hình tài chính của doanh nghiệp đó và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp như thế nào.
3.3.5.Công nghệ ngân hàng và yếu tố con người.
Để nâng cao được chất lượng tín dụng trung, dài hạn thì trước khi quyết định cho vay một dự án nào đó, các cán bộ phải tập hợp đầy đủ thông tin liên quan đến khách hàng như tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, sản phẩm cạnh tranh... điều này phải dựa vào hệ thống thông tin mà ngân hàng có được. Nhưng do công nghệ ngân hàng còn yếu, số lượng máy tính chỉ tập trung tại các chi nhánh thuộc các thành phố lớn và tại các sở giao dịch, tại hội sở chính vì vậy ngân hàng cần hiện đại hoá công nghệ để nâng cao hiệu quả hoạt động của thông tin, phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra.
Ngân hàng cần phải trang bị thêm nhiều máy móc hiện đại, hệ thống vi tính nối mạng toàn quốc và nối mạng với các ngân hàng trên thế giới để có thể truy cập thông tin một cách nhanh nhất. Thường xuyên nghiên cứu áp dụng các phần mềm mới, phù hợp với hoạt động ngân hàng, cải tạo nâng cấp hệ thống máy tính.
Bên cạnh công nghệ ngân hàng thì nguồn nhân lực luôn là nhân tố quan trọng trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn vì chất lượng các khoản tín dụng này ngoài việc phụ thuộc vào quy trình tín dụng và các biện pháp kiểm soát thì khả năng phân tích xét đoán tình hình cũng như kinh nghiệm của cán bộ tín dụng là rất quan trọng. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của ngân hàng là phải nâng cao được năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng, khuyến khích
Tinh thần làm việc, phát huy tính sáng tạo, chủ đông tích cực của cán bộ nhân viên. Vì vai trò của con người trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội nói chung và ngành ngân hàng nói riêng là không thể phủ nhận được khả năng của họ, ngoài khâu tuyển dụng cần bố trí đúng người đúng việc tạo điều kiện cho mọi người có thời gian tìm hiểu, nghiên cứu học hỏi thêm từ công việc và từ những cán bộ khác có trình độ và kinh nghiệm cao hơn.
Ngoài ra chính sách đãi ngộ con người cũng là quan trọng đối với NHĐT&PTVN hiện nay tuy những năm qua đã bổ xung những cán bộ trẻ song so với nhu cầu của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới thì khả năng tiếp thị cũng như tác phong giao dịch còn bộc lộ nhiều điểm chưa đáp ứng được nhu cầu. Cho nên việc tổ chức đào tạo con người là quan trọng góp phần quyết định tới việc nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Đối với cán bộ tín dụng cần phải giao nhiệm vụ một cách cụ thể, không giao một cách chung chung, gắn trách nhiệm với lợi ích của họ khi hoàn thành công việc.
Nhìn một cách toàn diện ta thấy hoạt động tín dụng là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của ngân hàng nên rủi ro tín dụng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Với ý nghĩa quan trọng đó của tín dụng không chỉ làm cho người cán bộ thấy vinh dự tự hào mà còn trao cho họ một trách nhiệm nặng nề bởi đánh giá rủi ro tín dụng và hạn chế nó là một công việc hết sức khó khăn. Công việc của cám bộ tín dụng đòi hỏi không chỉ có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực mà họ đầu tư vốn vào, không chỉ có khả năng phân tích mà còn có khả năng phán đoán để đưa ra những quyết định chính xác. Chính vì cán bộ tín dụng phải chịu trách nhiệm nặng nề như vậy cho nên ngân hàng cần phải có chính sách ưu đãi, khen thưởng đúng mức đối với cán bộ tín dụng hoàn thành tốt nhiệm vụ, giúp ngân hàng bảo toàn vốn vay đồng thời có chế độ kỷ luật đối với cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ của mình gây thiệt hại cho ngân hàng.
NHĐT&PTVN cần chủ trương xây dựng nguồn nhân lực vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn, trí tuệ nhạy bén trong kinh doanh làm động lực phát triển, thực hiện xây dựng nguồn lực để tạo lợi thế cho hoạt động tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng, ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu đầu tư phát triển.
3.3.6.Nâng cao chất lượng thẩm định đối với dự án cho vay trung, dài hạn.
Để nâng cao được chất lượng tín dụng trung, dài hạn thì công tác cho vay phải được ngân hàng chú trọng đặc biệt là đối với những dự án. Với những dự án lớn thì khâu thẩm định cần được quan tâm. Để nâng cao được chất lượng thẩm định ngân hàng cần phải thường xuyên mở lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn cho cán bộ thẩm định hoặc cử cán bộ tham gia khoá đào tạo trong nước và nước ngoài về thẩm định, phân tích tín dụng.
Mặt khác, ngân hàng cần phải kiểm tra tính toán việc thực hiện hiệu quả của dự án, khoản vay, khoản bảo lãnh trên cơ sở nắm chắc thông tin có căn cứ xác đáng về sản phẩm dự kiến được đầu tư, nguồn vốn để trả nợ, lịch trả nợ, chỉ ra tiềm ẩn rủi ro để phòng ngừa.
Những biện pháp nâng cao chất lượng thẩm định mà ngân hàng áp dụng như sau:
Phân tích đánh giá chính xác về khách hàng, việc phân tích đánh giá đúng khách hàng về tư cách pháp nhân của khách hàng, tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp; phân tích đánh giá uy tín năng lực kinh doanh của khách hàng, phân tích tính pháp lý và tính khả thi của dự án, phương án vay vốn của ngân hàng.
Tăng cường nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng, kiểm soát đinh kì và đột xuất theo phương châm ngăn chặn sớm, phòng ngừa xử lý kịp thời theo phương châm ngăn chặn sớm, phòng ngừa phát hiện xử lý kịp thời những sai sót trong quá trình cho vay, hạn chế tối đa rủi ro tín dụng trung, dài hạn.
Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng. Các thông tin mà các tổ chức tín dụng cần quan tâm là các hố sơ pháp lý của doanh nghiệp, kết quả sản xuất, đặc biệt là lịch sử vay vốn của doanh nghiệp: doanh nghiệp đã từng vay vốn bao nhiêu lần, bao nhiêu tiền, vay của ai, tình hình trả nợ như thế nào....
Ngoài ra ngân hàng cần ban hành các văn bản hướng dẫn về quy trình, thao tác ngiệp vụ tín dụng phù hợp với từng loại cho vay, từng nhóm khách hàng. Quy trình tín dụng cần được phân chia cụ thể cho các bộ phận thực hiện nghiêm túc, đảm bảo thuận tiện cho khách hàng từ đó nâng cao được chất lượng tín dụng.
3.4.Kiến nghị
Để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn chỉ có nỗ lực của ngân hàng hàng thôi chưa đủ mà ngân hàng còn cần đến sự phối hợp giúp đỡ từ môi trường hoạt động cũng như từ các cơ quan có liên quan. Các cơ quan có tác động quan trọng là Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và các bộ ngành có liên quan.
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng trung, dài hạn.
Nhà nước nên có chính sách tạo nguồn vốn lâu dài cho nền kinh tế phát triển ổn định. Lãi suất ngân hàng cần sớm được ngân hàng xã hội hoá, thị trường hoá, tính toán trên cơ sở các yếu tố có liên quan như tỷ suất lợi nhuận bình quân, tỷ lệ lạm phát và quan hệ cung cầu trên thị trường. Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách lãi suất hợp lý, ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát đồng thời khuyến khích để người dân gửi tiền tiết kiệm, người sản xuất yên tâm đầu tư.
Các văn bản pháp quy để thực hiện luật ngân hàng, luật doanh nghiệp, thônh tin hướng dẫn các nghị định của Chính phủ về đảm bảo tiền vay, đăng kí giao dịch bảo đảm, sử lý nợ tồn đọng, tài sản cầm cố thế chấp... cần được các bộ các ngành sớm ban hành đồng bộ tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn.
Nghiên cứu thực hiện bảo hiểm tiền cho vay.
Ngân hàng nhà nước đang nghiên cứu và đưa vào sử dụng bảo hiểm tiền gửi. Trong thời gian tới cần thực hiện bảo hiểm tiền các tổ chức tín dụng cho vay, tức là bảo hiểm cho hoạt động tín dụng. Việc bảo hiểm này phải dựa trên cơ sở phát huy tối đa tính tương hỗ trong hệ thống ngân hàng. Cơ quan bảo hiểm có quyền giám sát chặt chẽ các hoạt động của tổ chức tín dụng và đưa ra các giải pháp trợ giúp kịp thời để hạn chế tối đa các thiệt hại. Trong trường hợp nghiêm trọng cơ quan bảo hiểm có thể báo với Ngân hàng Nhà nước hoặc bộ tài chính để kịp thời có các giải pháp cần thiết.
Hoàn thiện môi trường kinh tế.
Hoạt động tín dụng trung, dài hạn nối riêng và hoạt động ngân hàng nói chung phải dựa trên sự phát triển kinh tế chung. Vì vậy, để có thể phát triển bèn vững hoạt động tín dụng trung, dài hạn và hoạt động ngân hàng thì cần phải hoàn thiện môi trường pháp kinh tế. Các doanh nghiệp cần phải kinh doanh lành mạnh, giảm thiểu được tình trạng nợ lòng vòng, cải tiến được cơ cấu quản lý phức tạp. Chế độ kế toán và kiểm toán cần được đưa vào sử dụng rộng rãi hơn.
Nhà nước cũng cần tăng cường các khâu quản lý vĩ mô về quy hoạch thị trường qua các công cụ bình ổn. Để làm được điều này cần phải từng bước thực hiện các chính sách lớn của nhiều ban ngành khác nhau. Cần phải có mục tiêu và chiến lược dài hạn cụ thể để có thể phát triển môi trường kinh tế sớm nhất.
Kiến nghị khác.
Nhà nước cần tăng cường kiểm tra kiểm soát các Ngân hàng thương mại để phát hiện chấn chỉnh các sai sót trong việc thẩm định và quyết định cho vay đối với các dự án lớn phục vụ đầu tư phát triển của ngân hàng. Hiện nay do cạnh tranh gay gắt nên ngân hàng đã bỏ qua các điều kiện thủ tục vay vốn theo quy định, buông lỏng công tác thẩm định xét duyệt cho vay dẫn đến khoản vay có chất lượng thấp. Đồng thời cần xử lý nghiêm khắc các vi phạm của các ngân hàng cố ý phá luật để giành khách hàng.
Chính phủ và các bộ ngành liên quan cần có chính sách xử lý các khoản Nợ quá hạn, khó đòi của các doanh nghiệp do các nguyên nhân khách quan như thay đổi cơ chế, chính sách, thiên tai, bão lụt ... cần tạo nguồn cho ngân hàng để xoá nợ. Góp phần nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn cho ngân hàng.
Các thủ tục về công chứng Nhà nước đối với hợp đồng vay vốn ngân hàng cần phải dược giải quyết mau lẹ kịp thời. Tại nơi không có công chứng,Nhà nước nên có văn bản cho phép UBND các cấp được công chứng tài sản. Nhà nước nên có quy định cho phép tổ chức tín dụng được quyền phát mại tài sản thế chấp cầm cố của khách hàng.
Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước báo cáo với Chính Phủ về tháo gỡ giới hạn cho vay (15% vốn tự có của NHDT&PTVN ) để có cơ sở chủ động xử lý cho vay các dự án trung, dài hạn lớn tạo điều kiện mở rộng và tăng trưởng tín dụng.
Các văn bản của Nhà nước về thế chấp cầm cố bảo lãnh và các hình thức bảo đảm hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự cần được ban hành đồng bộ tạo hành lang hoạt động cho Ngân hàng thương mại như sơm ban hành nghị định về thực hiện bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức đoàn thể xã hội ở cơ sở (theo điều 376 của bộ luật dân sự )
Kết luận
Tín dụng trung, dài hạn là một hoạt động cơ bản của NHĐT&PTVN và cũng là vấn đề được ngân hàng quan tâm nhất hiện nay. Tuy vậy, trong việc thực hiện loại hình tín dụng này vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập. Để có thể giải quyết triệt để những vướng mắc này là một việc làm không đơn giản và đòi hỏi nhiều thời gian đặc biệt cần một sự phát triển kinh tế đồng bộ.
Trong quá trình hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn nói riêng, NHĐT&PTVN luôn luôn tự đổi mới và hoàn thiện, không ngừng vươn lên qua việc phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế và khó khăn tồn tại. Những kinh nghiệm về hoạt động tại ngân hàng là một bài học quý báu.
Tuy nhiên, NHĐT&PTVN cũng như các Ngân hàng thương mại khác cần mạnh dạn và nhanh chóng áp dụng các biện pháp để tài trợ vốn cho nhu cầu phát triển cấp thiết của nền kinh tế.
Khó khăn là không bao giờ hết nhưng chúng ta tin rằng với bề dày truyền thống và kinh nghiệm, kết hợp với tư duy sáng suốt, việc chỉ đạo điều hành kiên quyết và sáng tạo NHĐT&PTVN sẽ vượt qua được những trở ngại để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Chính phủ, nhân dân tin tưởng giao phó.
Hoàn thành bản chuyên đề này, bản thân tôi mong muốn sẽ góp phần nhỏ kiến thức của mình vào việc tháo gỡ những khó khăn trong công tác "nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn tại NHĐT&PTVN". Tuy nhiên, do đây là vấn đề khá phức tạp, rộng lớn và có nhiều khó khăn còn bản thân tôi lại là một sinh viên mới chỉ dừng lại ở những nghiên cứu lý luận là chủ yếu, thực tế còn nhiều hạn chế. Vì vậy bản chuyên đề không tránh khỏi những sơ xuất nên tôi rất mong nhận được những góp ý chỉ bảo của các thầy cô giáo và toàn thể các anh chị và các bạn.
Tài liệu tham khảo
Ngân hàng thương mại- nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1993.
Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng nâng cao. TS Tô Ngọc Hưng và Nguyễn Kim Anh.
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính.Frederic S. Mishkin.
Tạp chí ngân hàng.
Tạp chí tài chính tiền tệ.
Hệ thống các văn bản pháp lý về tín dụng của NHĐT&PTVN
Điều lệ của Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam.
Các báo cáo thường niên của NHĐT&PTVN...
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0033.doc