Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

• Phải luôn đặt lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh là tiêu chí hàng đầu trong hoạt động của doanh nghiệp, tránh tình trạng chạy theo quy mô, doanh số hay phạm vi hoạt động. • Cung cấp một cách đầy đủ, chính xác và trung thực những thông tin mà ngân hàng yêu cầu: các thông tin về tình hình tài chính được thể hiện ở các bản báo cáo kết quả kinh doanh, bản cân đối kế toán, bản lưu chuyển tiền tệ, nhất định không được lập các báo cáo “ma” để lừa bịp ngân hàng. • Trong hoạt động kinh doanh phải có phương án sản xuất kinh doanh chi tiết, phải tìm hiểu kỹ càng các thông tin: về thị trường tiêu thụ, về đối thủ cạnh tranh, về đối tác làm ăn. để nâng cao hiệu quả kinh doanh. • Bên cạnh những sản phẩm truyền thống của mình, các doanh nghiệp nên mạnh dạn mở rộng, đa dạng hóa các sản phẩm khác để phân tán rủi ro, mở rộng thị trường hoạt động.

doc79 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp Nhà nước tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất, cải tiến công nghệ...; thứ hai, là vì SGD luôn phát huy lợi thế về các mặt như: lợi thế về việc huy động vốn, lợi thế về sự ưu đãi của Chính phủ, kinh nghiệm...trong việc cho các DNNN vay, đồng thời, với những DNNN uy tín, làm ăn hiệu quả, SGD luôn có mối quan hệ tín dụng tốt, có những chính sách khách hàng, chính sách ưu đãi với họ như ưu đãi về lãi suất, thời gian trả nợ, tài sản đảm bảo... Trong dư nợ tín dụng trung và dài hạn thương mại (DNNN) năm 2004, dư nợ khối xây lắp là 674,96 tỷ đồng chiếm 26%, khối điện lực là 597,08 tỷ đồng chiếm 23%, khối dệt may là 142,78 tỷ đồng chiếm 5,5%, khối xăng dầu là 597,08 tỷ đồng chiếm 23%, khối khác là 584,1 tỷ đồng chiếm 22,5%. Như vậy cơ cấu tín dụng theo ngành đã có những chuyển biến tích cực theo hướng đa dạng, không chỉ tập trung vào cho vay xây lắp mà còn tập trung vào các ngành khác như: xăng dầu, điện lực... Trong hoạt động của mình, Sở luôn nhận thức được tầm quan trọng của tài sản đảm bảo, vì vậy với sự chỉ đạo sát sao của Ban giám đốc Sở và với sự nỗ lực cao của các cán bộ nhân viên, Sở đã áp dụng mọi biện pháp an toàn để làm tăng tỷ lệ tài sản đảm bảo nợ vay trong tổng dư nợ nói chung và dư nợ trung và dài hạn đối với DNNN nói riêng. Năm 2002, dư nợ có tài sản đảm bảo là 1.235 tỷ đồng chiếm 27,58% tổng dư nợ; năm 2003 lại giảm 134 tỷ đồng còn 1.101 tỷ đồng, chiếm 21.23% dư nợ; năm 2004 lại tăng lên đến 2.901 tỷ đồng, chiếm 57,37% dư nợ, tăng gấp 2,63 lần năm 2003. Trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN, dư nợ có tài sản đảm bảo năm 2002 là 576,96 tỷ đồng chiếm 12,88% dư nợ, năm 2003 là 586,59 tỷ đồng chiếm 11,31% dư nợ, năm 2004 là 1.489,22 tỷ đồng chiếm 29,45% dư nợ. Qua các số liệu trên ta có thể thấy rằng: quy mô tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN tại SGD là rất lớn, số lượng các DNNN có nhu cầu tín dụng trung và dài hạn tại SGD ngày càng tăng, trong đó có rất nhiều khách hàng truyền thống, có uy tín như: Tổng công ty xăng dầu, Tổng công ty xi măng Việt Nam, Tổng công ty điện lực... điều này thể hiện thế mạnh của Sở trong lĩnh vực cho vay trung và dài hạn đối với DNNN. 2.3. ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN TẠI SGD NHĐT&PT VN 2.3.1.Kết quả Như ta đã biết, chất lượng tín dụng được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu và cũng được xét trên nhiều giác độ (đối với ngân hàng, với khách hàng và với nền kinh tế). Trong các chỉ tiêu định lượng thì chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi hơn cả trong việc đánh giá chất lượng tín dụng là chỉ tiêu nợ quá hạn, bên cạnh đó là một số chỉ tiêu khác như: lợi nhuận từ hoạt động tín dụng, giá trị tài sản đảm bảo... Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu NQH 31/12/2002 NQH 31/12/2003 NQH 31/12/2004 Tuyệt đối Tỷ lệ % Tuyệt đối Tỷ lệ % Tuyệt đối Tỷ lệ % Ngắn hạn 1,33 6,1 37,632 48,51 22,43 48,01 T- D hạn a.DNNN b.DNNQD 0,76 0,6536 0,1064 3,5 3 0,5 21,919 17,995 3,924 28,26 23,16 5,1 18,759 14,932 3,827 40,15 31,96 8,19 KHNN&CĐ 19,673 90,4 18,02 23,23 5,529 11,84 Tổng NQH 21,763 100 77,571 100 46,718 100 (Nguồn: Báo cáo KQKD SGD- BIDV) Cơ cấu nợ quá hạn theo thời gian và theo thành phần kinh tế 2.3.1.1. Các kết quả đạt được Chỉ tiêu định lượng Nợ quá hạn: Nợ quá hạn năm 2004 đã giảm đi đáng kể so với năm 2003 (giảm 30,853 tỷ đồng). Trong đó nợ quá hạn trung và dài hạn đối với DNNN đã giảm xuống 3,063 tỷ đồng so với năm 2003, chỉ còn 14,932 tỷ đồng, điều này cho thấy kết quả của các biện pháp đảm bảo an toàn tín dụng đồng thời cũng thấy được sự tích cực của SGD trong việc xử lý nợ quá hạn, làm cho chất lượng tín dụng nâng lên rõ rệt. Tỷ lệ nợ quá hạn của tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN có xu hướng tăng nhưng vẫn trong tỷ lệ giới hạn cho phép, chất lượng tín dụng đảm bảo. Tỷ lệ nợ quá hạn nhìn chung là rất thấp (năm 2002 là 0,47%, năm 2003 là 1,46%, năm 2004 là 0,92%). Công tác thu hồi nợ: Công tác thu hồi nợ trong các năm đã được tiến hành theo đúng kế hoạch, đạt được nhiều kết quả khả quan. Trong năm qua đã thu được 138,92 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch, trong đó thu hồi nợ tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN cũng tăng lên, đóng góp đáng kể trong tổng nợ được thu hồi. Việc thu nợ tốt đã giúp Sở chủ động thêm nguồn vốn để góp phần đẩy mạnh sự tăng trưởng tín dụng trong các năm tiếp theo. Giá trị tài sản đảm bảo: Giá trị tài sản đảm bảo tăng lên rất cao trong năm 2004 đạt 2874 tỷ đồng, trong đó có sự đóng góp quan trọng của giá trị tài sản đảm bảo trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN vì theo quy định hiện nay thì các thành phần kinh tế đều bình đẳng trong việc tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng, DNNN vay cũng phải có tài sản đảm bảo, nếu không thì phải đáp ứng yêu cầu là có tín nhiệm với Sở trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi; có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay. Lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN: nếu như lợi nhuận từ hoạt động tín dụng năm 2004 là 112 tỷ đồng thì lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN chiếm tới khoảng 57%, đây là một sự đóng góp không phải là nhỏ của hoạt động này. Chỉ tiêu định tính SGD NH ĐT&PT VN rất có uy tín trong hoạt động tín dụng ở trong và cả ở nước ngoài, nhờ đó khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng là rất cao. SGD đã cung ứng một khối lượng vốn lớn, đặc biệt là vốn tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN, góp phần không nhỏ trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, ổn định tiền tệ, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế xã hội trên từng đại bàn và trên cả nước: phát triển cơ sở hạ tầng, sản xuất vật liệu xây dựng với hệ thống các nhà máy sản xuất gạch tuynen, gạch ốp lát, các nhà máy xi măng: Hoàng Thạch, Hải phòng, Bỉm Sơn..., mà sự tồn tại của các Doanh nghiệp này đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho bao lao động trên toàn quốc. Sở luôn thực hiện đúng các quy định của pháp luật trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN- phát huy vai trò chủ đạo của ngân hàng quốc doanh trong đầu tư phát triển. 2.3.1.2. Nguyên nhân Sở dĩ có được những kết quả đó là do: Thứ nhất, Sở đã thực hiện nghiêm túc luật tín dụng, các quy định, quy chế trong hoạt động tín dụng và cơ chế ủy quyền của Tổng Giám đốc NH ĐT&PT VN cũng như quy trình nghiệp vụ ban hành theo hệ thống quản lý chất lượng ISO đã ban hành. Thứ hai, Chính sách tín dụng của Sở luôn bám sát với chủ trương, chính sách, mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của Đảng, Nhà nước; tranh thủ sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các địa phương, các Bộ từ khâu chủ trương đầu tư, quy hoạch sản phẩm, danh mục đầu tư, quy hoạch xây dựng vùng nguyên liệu đã chủ động thẩm định các dự án có hiệu quả, dự án đầu tư khả thi, tham mưu cho UBND các địa phương và Bộ, ngành chủ quản ngay từ khâu quyết định đầu tư, tư vấn cho chủ đầu tư ngay từ khi lập dự án để có cơ cấu đầu tư, cơ cấu nguồn vốn hợp lý. Bên cạnh đó, các nguyên tắc trong quy trình phân tích tín dụng được quy định chặt chẽ hơn: đánh giá rủi ro tín dụng đối với khách hàng trên cơ sở hệ thống định hạng rủi ro tín dụng và các chỉ số rủi ro an toàn; SGD chỉ thực hiện giao dịch với các khách hàng được xác định rõ ràng, minh bạch; các khách hàng phải đảm bảo cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các tài liệu cần thiết... Công tác kiểm tra, kiểm soát các khâu trong hoạt động tín dụng cũng như công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, mạng lưới hậu kiểm công tác tín dụng từ Hội Sở chính được thực hiện thường xuyên hơn. Sở cũng luôn tiến hành công tác đánh giá quản trị rủi ro tín dụng, nhận diện rủi ro tín dụng và kiểm soát rủi ro thông qua hệ thống thông tin dự báo và thông tin phòng ngừa rủi ro, tuân thủ theo đúng các tỷ lệ về đảm bảo an toàn trong hoạt động của Tổ chức tín dụng theo quy định của Ngân hàng nhà nước và hướng dẫn của Hội sở chính. Với các hoạt động nhằm khuyến khích cán bộ nhân viên cũng như việc tuyên truyền về những nghĩa vụ, những trách nhiệm cán bộ nhân viên sẽ phải chịu nếu không tiến hành đúng các quy định trong việc cho vay... đã giúp nhân viên trong Sở nhận thức được tầm quan trọng của công việc và có ý thức hơn trong việc hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sở luôn có những chương trình đào tạo nhằm nâng cao tay nghề cũng như trình độ của cán bộ nhân viên, đồng thời trong Sở cũng thường xuyên tổ chức các cuộc thi về nghiệp vụ, tin học...giúp cho mặt bằng trình độ của các nhân viên trong SGD ngày càng đều hơn. Môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng khốc liệt đã buộc nhiều DNNN phải chấn chỉnh lại hoạt động của mình, và bằng nhiều biện pháp thì hoạt động của họ đã có hiệu quả hơn, do đó có thể hoàn trả vốn vay cho SGD theo đúng thời hạn trong hợp đồng đã ký. Và cuối cùng, một nguyên nhân rất quan trọng đó là: môi trường kinh tế, chính trị- xã hội ở nước ta khá ổn định, không có sự biến động lớn, điều kiện này đã thực sự tạo ra một môi trường khá thuận lợi cho hoạt động tín dụng của SGD. 2.3.2.Một số hạn chế 2.3.2.1. Một số hạn chế Dư nợ chưa cân đối, tỷ lệ dư nợ trung và dài hạn đối với DNNN còn cao. Quy trình, chất lượng thẩm định, công tác kiểm tra, giám sát vốn vay còn chứa đựng một số tồn tại. Tỷ trọng dư nợ có tài sản đảm bảo tuy đã tăng lên đáng kể nhưng vẫn chưa cao, ảnh hưởng tới sự an toàn trong hoạt động tín dụng. SGD tuy đã tập trung nhiều công sức để giải quyết nợ quá hạn, nợ tồn đọng nhưng kết quả thu nợ quá hạn còn chưa cao, tình hình tài chính của một số đơn vị có nợ quá hạn rất khó khăn không có khả năng trả nợ, tài sản đảm bảo tiền vay có nhiều tranh chấp, không đầy đủ yếu tố pháp lý nên rất khó khăn trong việc sử lý tài sản để thu nợ. Tiềm ẩn nợ quá hạn của một số bộ phận dư nợ đang trong hạn là nguy cơ làm giảm chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó thì tỷ giá thường xuyên biến động đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với các DNNN hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, do đó gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của Sở. Chất lượng giao dịch phục vụ khách hàng còn một số hạn chế: có một vài nhân viên không phục vụ khách hàng với thái độ tận tình, chu đáo, hoặc gây ra một số lỗi trong khâu kiểm đếm, gây tranh cãi với khách hàng. 2.3.2.2. Nguyên nhân Nguyên nhân thuộc về phía SGD: Khối lượng công việc của SGD nhiều nhưng biên chế lao động được bổ sung chưa tương xứng. Một số phòng chuyên môn, nghiệp vụ hiện nay còn thiếu cán bộ làm việc, đôi lúc chưa coi trọng công tác tiếp thị khách hàng...vì vậy chất lượng phục vụ khách hàng đã bị ảnh hưởng. Tuy chất lượng cán bộ đã tăng lên rất nhiều nhưng có một số cán bộ còn chưa được đào tạo bồi dưỡng kịp thời dẫn tới những bất cập và mắc một vài sai lầm trong công tác xử lý tài sản đảm bảo và tài sản thế chấp, chưa phân tích kỹ việc thẩm định tình hình tài chính cũng như phương án kinh doanh trước khi cho khách hàng vay. Công tác kiểm tra, kiểm soát của Sở vẫn còn một số tồn tại: đôi khi đã quan tâm tới khâu thẩm định trước khi cho vay, còn khâu quản lý sử dụng khoản vay vẫn còn đôi chút lỏng lẻo. Nguyên nhân thuộc về các DNNN: Trong số những DNNN là khách hàng của SGD, có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có năng lực trong điều hành quản lý nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp không có năng lực nên không thể trả được nợ cho ngân hàng. DNNN dù đã có nhiều nỗ lực trong cải thiện công nghệ kỹ thuật, tiếp cận với thị trường nhưng họ vẫn thiếu thông tin trong kinh doanh, không kịp thời nắm bắt được tình hình thị trường trong và ngoài nước làm cho sản phẩm xuất ra không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, dẫn đến không tiêu thụ được. Một số doanh nghiệp vay vốn của Sở để nhập khẩu máy móc từ nước ngoài do thiếu thông tin nên giá mua cao, máy móc lại lạc hậu, năng suất thấp nên không thu hồi được vốn kịp thời để trả nợ cho ngân hàng. Vẫn còn tồn tại một vài DNNN có tư cách kém: họ cố ý lừa đảo trong quá trình lập hồ sơ vay vốn, hoặc đến khi vốn đã được cấp thì nó lại không được sử dụng vào mục đích kinh doanh của doanh nghiệp mà lại được một số cán bộ trong doanh nghiệp sử dụng để phục vụ mục đích cá nhân của mình. Bên cạnh những nguyên nhân trên thì việc không trả được nợ của một số DNNN còn do một nguyên nhân vô cùng quan trong là nguyên nhân thuộc về đối tác làm ăn của doanh nghiệp, dù doanh nghiệp đã giao hàng nhưng bị đối tác dây dưa hoặc tình hình tài chính khó khăn đột ngột dẫn tới việc không trả được tiền hàng, như vậy kết quả là doanh nghiệp sẽ không thu kịp số vốn vay để trả cho ngân hàng. Nguyên nhân khác: Hệ thống pháp lý ban hành chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường, do đó đã có tình trạng các doanh nghiệp, cá nhân đã lợi dụng sơ hở để gây thất thoát cho ngân hàng. Các nguyên nhân bất khả kháng: nước ta là một nước nhiệt đới, khí hậu luôn thay đổi, đặc biệt trong những năm gần đây thì thiên tai hạn hán thường xuyên xảy ra đã làm cho nhiều DN bị gián đoán trong hoạt động kinh doanh, có nhiều DN còn bị thiệt hại rất nặng nề nền khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng gặp phải nhiều khó khăn. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN TẠI SGD NH ĐT&PTVN 3.1. ĐỊNH HƯỚNG CỦA SGD NHĐT&PTVN VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN Trong hoạt động kinh doanh, các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp luôn đặt ra các mục tiêu cần đạt được trong những tháng, quý, năm tiếp theo để từ đó đề ra định hướng hoạt động. SGD cũng vậy, Sở đã đặt ra các định hướng trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN để đạt được một số mục tiêu: Nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh tín dụng, tạo vị thế, hình ảnh và thương hiệu riêng từ đó không bị lúng túng trong cạnh tranh quốc tế. Phát triển, triển khai và hoàn thiện các sản phẩm tín dụng đa dạng, nâng cao chất lượng, hiệu quả, đáp ứng các nhu cầu hợp lý của khách hàng, thúc đẩy đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ theo hướng hội nhập. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN theo hướng bảo đảm hiệu quả, an toàn, chất lượng cho DN và SGD. Tạo lập một cơ chế thích hợp để động viên các nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước; góp phần giải phòng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, đồng thời bảo đảm cho DNNN giữ vững vai trò chủ đạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia; góp phần bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, gắn tăng trưởng với chất lượng tín dụng và giới hạn an toàn vốn theo quy định. Với mục tiêu đó, SGD đã có những định hướng hoạt động sau: 3.1.1. Giới hạn tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN Giai đoạn tới Sở có định hướng là giảm tỷ trọng của cho vay trung và dài hạn đối với DNNN (đặc biệt là các DN xây lắp kém hiệu quả) vì chỉ tiêu kế hoạch tỷ trọng cho vay trung, dài hạn trong tổng dư nợ là nhỏ hơn hoặc bằng 45%; chỉ tiêu kế hoạch dư nợ cho vay DNNN trên tổng dư nợ là nhỏ hơn hoặc bằng 60%. 3.1.2. Một số lĩnh vực đầu tư chủ yếu Danh mục đầu tư chủ yếu: Xây lắp dân dụng, công nghiệp và đầu tư cơ sở hạ tầng. Bưu chính, viến thông. Công nghiệp khai khoáng. Chế biến nông sản thực phẩm, thủy hải sản xuất khẩu. Sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Năng lượng, dầu khí. Du lịch. Các khu công nghiệp trọng điểm. Trong đó: Tập trung phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao, ít gây ô nhiễm môi trường, sản xuất hàng hóa có khả năng thay thế hàng nhập khẩu và tiến tới xuất khẩu. Phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông – lâm - thủy hải sản gắn liền với phát triển các vùng nguyên liệu, chăn nuôi, trồng rừng... Đầu tư vào một số ngành sản phẩm chủ yếu: xi măng, sành sứ, thép, công nghiệp điện tử, sản xuất đồ dân dụng, khu đô thị, chung cư... Với NHĐT&PTVN, giới hạn tín dụng cho các ngành, sản phẩm là: Dư nợ tối đa cho ngành dầu khí trong tổng dư nợ là 8%. Dư nợ tối đa cho ngành điện trong tổng dư nợ là 10%. Dư nợ tối đa cho ngành sản xuất xi măng trong tổng dư nợ là 8%. Dư nợ tối đa cho ngành bưu chính viễn thông trong tổng dư nợ là 5%. Dư nợ tối đa cho ngành than và khoáng sản trong tổng dư nợ là 5%. Các ngành khác, dư nợ tối đa cho mỗi ngành trong tổng dư nợ là 3%. 3.1.3. Chênh lệch lãi suất bình quân đầu ra - đầu vào tối thiểu 2%/năm 3.1.4. Sản phẩm tín dụng Đa dạng hóa các hình thức cấp tín dụng cho mọi ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ mà pháp luật nước ta không cấm. Các sản phẩm tín dụng trung và dài hạn cung cấp cho DNNN phải đáp ứng được các tiêu chí sau: Đánh giá được mức độ rủi ro. Loại hình tín dụng đề xuất phải phù hợp với đặc điểm, nhu cầu và loại hinh kinh doanh của DN. 3.1.5. Một số định hướng quan trọng khác Phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn nữa, tối đa là 2%. Tiếp tục đẩy mạnh xử lý dứt điểm nợ xấu, nợ tồn đọng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Chú trọng kiểm tra giám sát sau giải ngân, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích vay, hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra với khoản vay. Tăng cường công tác tiếp thị để mở rộng và đa dạng hóa khách hàng, tập trung vào khách hàng là DNNN kinh doanh có hiệu quả. Tăng cường công tác thu nợ, giảm bớt cho vay trung và dài hạn đối với dự án mới, chỉ cấp tín dụng cho những dự án có hiệu quả, thời gian thu hồi vốn nhanh. Nâng cao vai trò của công tác thẩm định với các nội dung chủ yếu như: tính khả thi về công nghệ, kỹ thuật của dự án, sức cạnh tranh của sản phẩm, tính khả thi, hiệu quả tài chính của dự án và doanh nghiệp vay vốn....để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng. Khai thác tối đa tài sản đảm bảo của khách hàng dư nợ hiện nay tại SGD. Thường xuyên hơn nữa trong việc tính chi phí huy động vốn trên các mặt bình quân, cơ cấu kỳ hạn... để có chính sách lãi suất linh hoạt, đảm bảo hiệu quả đặt ra. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNNN TẠI SGD NHĐT&PTVN 3.2.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh và chính sách tín dụng hợp lý Luôn phân tích môi trường kinh doanh để có một chiến lược kinh doanh đúng đắn. Một chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ giúp cho hoạt động của SGD hiệu quả hơn. Chiến lược kinh doanh của Sở phải được xây dựng trên cơ sở phân tích các yếu tố môi trường kinh doanh để đưa ra các biện pháp phù hợp với đặc điểm, điều kiện hoạt động kinh doanh trong từng thời kỳ của ngân hàng. Môi trường kinh doanh gồm có môi trường vi mô và môi trường vĩ mô. Môi trường vĩ mô gồm các nhân tố nằm bên ngoài sự quản lý của ngân hàng nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến toàn bộ hoạt động của ngân hàng, gồm: môi trường kinh tế, môi trường chính trị - xã hội, môi trường pháp luật...những môi trường này luôn luôn thay đổi: các văn bản pháp luật luôn được điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn, lãi suất, tỷ giá luôn biến động...vì vậy SGD phải luôn tổ chức thu thập đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin về môi trường này để có thể dự báo được sự biến động của chúng, giúp cho ngân hàng có cơ sở để điều chỉnh hoạt động ngân hàng cho phù hợp với sự thay đổi của môi trường. Môi trường kinh doanh vi mô bao gồm: các yếu tố thuộc về nội lực của ngân hàng, các đơn vị hỗ trợ cho hoạt động của ngân hàng, khách hàng của ngân hàng, đối thủ cạnh tranh của ngân hàng. SGD sẽ không thể nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN nếu không có một nội lực mạnh hoặc không coi trọng các đối thủ cạnh tranh của mình. Do đó, trên cơ sở phân tích môi trường vĩ mô, môi trường vi mô, SGD phải luôn xây dựng một chiến lược kinh doanh bám sát với những sự thay đổi của các môi trường đó, có như vậy mới nâng cao được chất lượng tín dụng. Xây dựng chính sách tín dụng phù hợp: Chính sách tín dụng của SGD cần được xây dựng phù hợp với từng địa bàn, từng ngành như: Chính sách tín dụng đối với các vùng kinh tế động lực, trọng điểm, các ngành then chốt; chính sách tín dụng phục vụ phát triển kinh tế miền núi và Tây nguyên; chính sách tín dụng đầu tư phục vụ chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn...trong mỗi chính sách tín dụng đó lại nên tập trung chú trọng vào đặc điểm của từng ngành, của từng vùng mà xây dựng các chính sách lãi suất, chính sách quy mô và giới hạn tín dụng...cho phù hợp. Đồng thời, với mỗi lĩnh vực, Sở nên soạn thảo ra hướng dẫn chi tiết về quy trình cho vay, phương thức kiểm tra, đánh giá và quản lý tín dụng, đề cương đánh giá toàn diện tình hình khách hàng để áp dụng thống nhất và bắt buộc trong toàn hệ thống. Với chính sách khách hàng: Tăng cường công tác tiếp thị để mở rộng và đa dạng hóa khách hàng ở mọi ngành, mọi lĩnh vực. Phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng, khách hàng khác đồng thời có những chính sách ưu đãi đối với khách hàng truyền thống. Luôn tổng kết tình hình cho vay đối với các doanh nghiệp để có phương thức quản lý tín dụng riêng đối với từng nhóm đối tượng khách hàng này. Với chính sách sách lãi suất: Lãi suất tín dụng do Ban giám đốc ngân hàng thông qua phải luôn được phổ biến đến mọi cán bộ tín dụng, bao gồm có: lãi suất cơ bản và lãi suất bình quân đối với các kỳ hạn, các ngành và lĩnh vực chủ yếu. Có chính sách lãi suất linh hoạt, cho phép khách hàng được lựa chọn hình thức của lãi suất. Với chính sách về thời hạn tín dụng và kỳ hạn nguồn: SGD phải luôn dựa trên kỳ hạn của nguồn để quyết định chính sách kỳ hạn cho vay. Phải luôn tuân thủ theo quy định về tỷ lệ chuyển hoán tối đa nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn. Với chính sách về các khoản đảm bảo: Cần luôn khai thác tối đa tài sản đảm bảo của các khách hàng dư nợ hiện nay tại SGD bằng cách áp dụng tổng hợp các biện pháp sau: Hoàn thiện việc ký hợp đồng đảm bảo tằng tài sản hình thành từ vốn vay và đăng ký giao dịch đảm bảo đối với tất cả các dự án đang còn dư nợ. Ký hợp đồng thế chấp trụ sở, cầm cố dây chuyền thiết bị, máy móc thi công và tiến hành đăng ký giao dịch đảm bảo đối với tất cả các doanh nghiệp vay đang vay vốn lưu động. Bước đầu tiến hành cầm cố quyền đòi nợ phát sinh từ các khoản phải thu đối với các doanh nghiệp vay vốn lưu động. 3.2.2.Cải tiến quy trình phân tích tín dụng, không ngừng hoàn thiện nội dung của sổ tay tín dụng Trong 4 bước của quy trình phân tích tín dụng như đã đề cập ở trên thì bước 1 – phân tích trước khi cấp tín dụng có vai trò quan trọng nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Nội dung chủ yếu của bước này là thu thập và xử lý các thông tin liên quan đến khách hàng bao gồm năng lực sử dụng vốn vay và uy tín, khả năng tạo ra lợi nhuận và nguồn ngân quỹ, quyền sở hữu các tài sản và các điều kiện kinh tế khác có liên quan đến khách hàng. Với vai trò trên, việc tìm ra giải pháp để nâng cao chất lượng của bước này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì nó sẽ góp phần nâng cao chất lượng phân tích tín dụng từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Để thực hiện điều này, có một số giải pháp như sau: Thiết lập hệ thống thông tin từ nhiều nguồn khác nhau: thông tin cần phải được đa dạng từ nhiều nguồn, không chỉ bó hẹp ở một số nguồn. Hiện nay có thể thu thập thông tin từ các nguồn, bên cạnh các nguồn thông tin từ việc phỏng vấn trực tiếp khách hàng hay mua, tìm kiếm thông tin qua trung gian thì có một số biện pháp khác như: Áp dụng hơn nữa tiến bộ công nghệ thông tin trong việc quản lý khách hàng, tiến hành thống kê, nghiên cứu, lưu trữ thông tin từ đó bổ sung cho việc phân tích đánh giá khách hàng cho các lần vay sau. SGD nên tổng kết và hoàn thiện các công cụ, phương pháp phân tích thẩm định dự án, đánh giá các thông tin pháp lý của các doanh nghiệp. Hoàn thiện các báo cáo về phương pháp dự báo dòng tiền và mô hình cảnh báo rủi ro tín dụng, hướng dẫn đánh giá lợi thế cạnh tranh của khách hàng theo mô hình SWOT, mô hình porter và đưa vào áp dụng bắt buộc trong phân tích, đánh giá đối với tất cả các dự án mới và khách hàng đang có dư nợ tín dụng. Chuyên môn hóa trong khâu nhận hồ sơ và phân tích: Khâu hướng dẫn và thu nhận hồ sơ nên giao cho một vài nhân viên thuộc bộ phận tín dụng đảm trách tùy theo đặc điểm của từng dự án. Điều này giúp giảm áp lực công việc thủ tục cho cán bộ tín dụng, đồng thời giúp khách hàng lập hồ sơ chính xác hơn, tránh phải lập nhiều lần, gây mất thời gian cho cả khách hàng và cán bộ tín dụng. Thành lập phòng chuyên về phân tích theo lĩnh vực ngành nghề, hỗ trợ cho cán bộ tín dụng trong khâu phân tích. Hoặc với mỗi lĩnh vực thì có thể để cho một nhóm cán bộ chuyên đảm nhận để phân tích. Sau khi thu nhận hồ sơ cán bộ tín dụng sẽ chuyển cho bộ phận hoặc cán bộ phân tích theo từng ngành. Cán bộ tín dụng kết hợp với kết quả phân tích thuộc thẩm quyền của mình với kết quả của bộ phận hay cán bộ phân tích để lập tờ trình bộ phận ra quyết định. Hoạt động chuyên môn hóa trên sẽ giúp Sở tiết kiệm được chi phí cũng như thời gian phân tích, hạn chế những rủi ro mang tính chủ quan của cán bộ tín dụng, đồng thời giúp cán bộ tín dụng giảm được áp lực nặng nhọc trong công việc phân tích, còn cán bộ phân tích lại có thêm điều kiện để nghiên cứu kiến thức chuyên ngành được phân công, góp phần nâng cao chất lượng tín dụng. Tiếp tục đánh giá và xếp hạng doanh nghiệp (từng ngành, lĩnh vực) theo điểm số để đưa ra quyết định tài trợ: Việc đánh giá, xếp loại doanh nghiệp nói chung đã khó nhưng việc đánh giá và xếp loại doanh nghiệp nhà nước theo từng ngành nghề còn khó hơn: sẽ phải xây dựng hệ thống các yếu tố cần phân tích đối với từng loại doanh nghiệp (doanh nghiệp xây lắp, doanh nghiệp khai thác tài nguyên...), hệ thống thang điểm chuẩn phù hợp, kết quả điểm quyết định ngân hàng có cho vay hay không, mức điểm quyết định mức cho vay, quyết định lãi suất cho vay..., những việc này đòi hỏi cần có thời gian, nhân lực. Tuy nhiên nếu có thể làm được điều này thì lợi ích đem lại là rất lớn: giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu nợ quá hạn, tăng lơi nhuận của hoạt động tín dụng trung và dài hạn...tức là làm chất lượng tín dụng tăng lên. Trong bước cuối cùng - thu nợ và đưa ra các phán quyết tín dụng mới, nếu khách hàng không trả được nợ thì Sở cần tìm hiểu thật kỹ nguyên nhân để ra những quyết định mới: thu nợ, phong tỏa và bán tài sản thế chấp, tước đoạt các khoản tiền gửi...hay tiếp tục tài trợ cho khách hàng với sự ưu đãi về lãi suất, gia hạn nợ...Việc này cũng rất quan trọng, nó vừa mang lại lợi ích cho hoạt động của SGD, lại vừa đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội, bởi vì nếu SGD có thể “cứu vãn” được hoạt động của các doanh nghiệp thì họ có thể tiếp tục sản xuất, cán bộ trong doanh nghiệp sẽ tiếp tục có việc làm... Điều này đóng góp giải quyết một trong những vấn để bức xúc của xã hội là thất nghiệp. Cuối cùng, trong quá trình phân tích tín dụng, các cán bộ tín dụng cần phải thực hiện đầy đủ các nguyên tắc của quá trình này, phải ý thức được rằng mỗi bước là một mắt xích của một dây truyền mà nếu mắt xích nào đó bị hỏng thì toàn bộ dây truyền sẽ không hoạt động tốt được. Sổ tay tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng: nó đưa ra khuôn khổ các chính sách, nguyên tắc về hoạt động tín dụng, đồng thời quy định những thủ tục, trình tự cho vay nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng...chính vì vai trò quan trọng đó mà SGD cần bổ sung, chỉnh sửa sổ tay tín dụng thường xuyên hơn để phù hợp với yêu cầu quản lý và điều hành về tín dụng. 3.2.3. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ các khâu trong hoạt động tín dụng Đối với mỗi ngân hàng, tín dụng luôn là hoạt động phong phú, đa dạng nhưng đồng thời cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn nhất. Bởi vậy, để đảm bảo mục tiêu nâng cao hiệu quả, kiểm soát rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng thì cần phải luôn kiểm tra, giám sát các khâu trong hoạt động tín dụng. SGD nên thành lập đoàn kiểm tra, xây dựng chương trình kiểm tra, thu thập các thông tin và sử dụng triệt để sự hữu ích của hệ thống máy vi tính để phục vụ công tác kiểm tra. Sau bước kiểm tra này, cần thiết phải thực hiện việc kiểm tra, xem xét chất lượng đợt kiểm tra để rút kinh nghiệm cho những đợt kiểm tra sau. Công việc kiểm tra cần được lập kế hoạch, và phải lập đề cương kiểm tra (với nội dung hoặc chi tiết hoặc tóm tắt). Tuy nhiên, SGD cũng nên tiến hành thường xuyên hơn các đợt kiểm tra bất chợt để tránh tình trạng có sự chuẩn bị sẵn của các cán bộ tín dụng, công tác kiểm tra đột suất này sẽ đem lại hiệu quả cao hơn cho công tác kiểm tra. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ Công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ có vai trò rất quan trọng: phát hiện những sai sót trong những mặt nghiệp vụ, kịp thời uốn nắn, chỉnh sửa, góp phần hạn chế những rủi ro, đảm bảo kinh doanh an toàn, giữ nghiêm kỷ cương pháp luật, tạo tiền đề để SGD phát triển bền vững. Trong thời gian qua, hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ đã chứng minh được tính thiết yếu không thể thiếu của nó trong việc đảm bảo chất lượng tín dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì cũng còn không ít những tồn tại cần khắc phục nhanh chóng để nâng cao chất lượng tín dụng. Giải pháp cho một số mặt còn tồn tại là: Tiếp tục tăng cường cho bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ, bổ nhiệm kiểm tra viên cho các chi nhánh của Sở, hoàn chỉnh mô hình bộ máy tổ chức và thực hiện quy chế tổ chức và họat động cho hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ theo luật các tổ chức tín dụng. Các văn bản đã có về quy định, quy trình kiểm tra, kiểm toán cần được tiếp tục hoàn thiện, cần phổ biến để kiểm tra viên ý thức hơn nữa nhiệm vụ của mình. Công tác này cần phải được tiến hành ở mọi cấp, mọi phòng ban, trong mọi thao tác nghiệp vụ, đồng thời với nó là phải đổi mới phương thức kiểm tra một cách toàn diện, sâu sắc cả về mặt chất và mặt lượng. Tiếp tục chỉ đạo các chi nhánh của Sở trong việc sửa chữa những sai sót sau thanh tra, kiểm tra, tránh việc lặp lại những thiếu sót, sai lầm đó. Có cán bộ chuyên môn tiến hành kiểm tra, kiểm soát, tránh tình trạng kiêm nhiệm chức vụ vì có thể có những ý kiến chủ quan trong đánh giá. Xúc tiến các chi nhánh của SGD chấp hành tốt về thời gian gửi báo cáo hàng tháng, quý năm về SGD. Giải quyết triệt để tình trạng: kiểm tra theo vụ việc, nặng về kiểm tra chứng từ kế toán, chưa quan tâm đi sâu kiểm tra các mặt hoạt động khác, thụ động kiểm tra theo chỉ đạo của cấp trên. Chủ động hơn nữa trong việc tham mưu cho lãnh đạo các cấp trong việc hoạch định và thực thi chiến lược kinh doanh dài hạn. Triển khai giải quyết kịp thời những kiến nghị sau kiểm tra, kiểm soát và những văn bản chỉ đạo để nhanh chóng khắc phục, giải quyết những sai sót. 3.2.5. Nâng cao chất lượng cán bộ trong ngân hàng Tiến hành tuyển mộ, tuyển chọn một cách công khai, bình đẳng. Tuyển mộ là quá trình thu hút những người xin việc có trình độ từ lược lượng lao động xã hội và lực lượng lao động bên trong tổ chức. Có thể sử dụng nhiều cách để có được nguồn tuyển mộ phong phú: Thông qua sự giới thiệu của cán bộ trong SGD; Cử cán bộ của phòng nhân sự tới tuyển mộ trực tiếp tại các trường đại học. Tuy nhiên với hai cách này thì có thể sẽ có sự không công bằng vì các cán bộ đi tuyển mộ có thể tiến cử những người là con em, họ hàng của họ. Vì vậy, theo em Sở nên sử dụng các phương thức sau để tuyển mộ: Thu hút nguồn tuyển mộ thông qua quảng cáo trên các phương tiện thông tin: báo, tạp chí, trên các trang Wet của Sở, trên tivi. Phương pháp này cần chú ý nội dung quảng cáo để người xin việc nhanh chóng liên lạc với SGD. Tuyển mộ thông qua các hội chợ việc làm: phương pháp này cho phép các ứng cử viên và các nhà tuyển dụng tiếp xúc trực tiếp với nhau, mở rộng khả năng lựa chọn với quy mô lớn hơn. Sau khi đã tuyển mộ là quá trình tuyển chọn. SGD nên đưa ra các bài trắc nghiệm để kiểm tra về lịch sử làm việc, trình độ của người xin việc. Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hội nhập nên việc các nhân viên trong Sở sử dụng được ngôn ngữ giao tiếp quốc tế (Tiếng Anh) là rất quan trọng, tuy nhiên, quan trọng hơn cả vẫn là trình độ nghiệp vụ, khả năng tiếp cận với thông tin, và sự nhanh nhạy trong việc xử lý các thông tin thu nhận được. Do đó trong các bài thi trắc nghiệm kiến thức, nên đánh hệ số cao cho phần nghiệp vụ, tin học và bài thi tiếng Anh theo quan điểm của em nên thiết kế theo cấu trúc thi GMAT. Tiếp tục đa dạng hóa các loại hình đào tạo để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của Sở. Có thể áp dụng các loại hình đào tạo như: Đào tạo tại Hội sở chính NH ĐT&PTVN; đào tạo tại các trường Đại học, các Học viện; Đào tạo, bồi dưỡng tại nước ngoài. Đặc biệt, để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập, SGD nên quan tâm hơn nữa trong việc cử cán bộ đi học nghiệp vụ tại nước ngoài, có nhiều hình thức: chọn cán bộ đi học, đào tạo ngắn ngày, dài ngày ở nước ngoài; gửi nhân viên có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ đi thực tập dài ngày ở các ngân hàng nước ngoài; chọn cán bộ đi nghiên cứu sinh, học cao học ở nước ngoài; cử cán bộ đi tham quan, khảo sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng ở nước ngoài... để chuẩn bị cho kế hoạch phát triển trong tương lai. Tạo điều kiện vật chất, tinh thần và các động lực nhằm khuyến khích cán bộ. Cần tạo điều kiện cho cả cán bộ đang được đào tạo và đang làm việc. Những cán bộ nào có kết quả lao động tốt nên được chọn đi tham quan, khảo sát, học tập ở nước ngoài, được khen thưởng trước toàn bộ nhân viên trong Sở, được thăng chức...Riêng với những cán bộ đang được đào tạo, để chất lượng đào tạo tốt, nên thực hiện thường xuyên các công việc: Tổ chức kiểm tra nghiêm túc trong các khóa học theo định kỳ. Có như vậy mới tạo ra môi trường học tập nghiêm túc cho các học viên, tạo nên tính khách quan trong quá trình đào tạo và góp phần tạo nên sự thi đua học tập giữa các học viên. Khen thưởng cho những học viên có điểm số cao, đây là yếu tố tạo động lực cho người học. Lấy kết quả học tập làm một trong những tiêu chuẩn để xét điểm thi đua hàng năm và xếp lương kinh doanh. Chấn chỉnh, kỷ luật kịp thời, công minh những cán bộ có hành vi trái với các quy định, nội quy của ngân hàng hoặc có hành vi sai trái gây thiệt hại cho ngân hàng. Bên cạnh những hình thức nhằm khuyến khích học tập, tạo niềm say mê trong học tập, tạo kết quả học tập và làm việc tốt thì Sở giao dịch cần xử phạt nghiêm minh các hành vi sai trái. Tuy nhiên, tùy mức độ sai trái mà có những biện pháp kỷ luật khác nhau. Để kỷ luật có hiệu quả thì SGD cần tuân thủ theo những nguyên tắc:. Phải thông tin đầy đủ và kịp thời các điều khoản của kỷ luật lao động đến mọi cán bộ nhằm khuyến khích ý thức tốt, tự thực hiện giữ gìn kỷ luật trong từng cán bộ và kỷ luật phòng, ban. Trước khi tiến hành kỷ luật, cần phải tiến hành điều tra, xác minh được các vi phạm, mức độ vi phạm và các hình thức kỷ luật tương ứng đã được quy định và thông báo cho cán bộ vi phạm biết. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ Chính phủ cần đẩy nhanh tiến độ sắp xếp lại các DNNN, đổi mới và nâng cao hiệu quả của DNNN, mạnh dạn giải thể những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, giải quyết tình trạng nợ đọng ngân sách xây dựng các công trình cho các đơn vị thi công. Kiến nghị cụ thể: Tiến hành cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu DNNN (kể cả các tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp có quy mô lớn), thu hẹp tối đa số doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước đầu tư 100% vốn, chỉ giữ lại các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như: an ninh, quốc phòng, điện lực... Gắn chặt tiến trình cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu DNNN với thị trường vốn nhằm mục đích khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong xã hội, nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp; với đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong tiến trình sắp xếp lại doanh nghiệp sẽ có hiện tượng dư thừa lao động, để giải quyết tình trạng này thì Nhà nước cần điều chỉnh chính sách đối với lao động dôi dư ở các doanh nghiệp, cần bổ sung quy định về tỷ lệ lao động tối đa được áp dụng chính sách lao động dôi dư. Nhằm tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài để mở rộng hoạt động kinh doanh, đồng thời nhằm mục đích tạo ra một cơ chế linh hoạt trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp thì Nhà nước nên bỏ quy định về tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp: hoàn thiện chính sách thuế, tiền thuê đất ...để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa; đồng thời Nhà nước cần xây dựng một hệ thống văn bản, nghị định không mâu thuẫn, chồng chéo nhau. Nhà nước cần ban hành cơ chế tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm sự can thiệp hành chính của cơ quan Nhà nước đối với doanh nghiệp, Nhà nước chỉ bao cấp vốn điều lệ cho những DNNN cần nắm giữ 100% vốn, có như thế doanh nghiệp mới ý thức và cố gắng hơn trong hoạt động, tránh tình trạng ỷ nại vào Nhà nước. Thay vì hỗ trợ trực tiếp, Chính phủ có thể hỗ trợ một cách gián tiếp cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, giảm chi phí đầu vào, nâng cao tính cạnh tranh. Đổi mới quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp theo hướng: Các loại hình doanh nghiệp sẽ được nhà nước có chính sách, chế độ để giám sát theo các chỉ tiêu tài chính, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu về tài chính, hệ thống đánh giá rủi ro qua các công cụ kiểm toán, kế toán... được công khai minh bạch và được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế. Thống nhất quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp theo hướng xóa bỏ sự chia cắt về quyền sở hữu doanh nghiệp giữa các Bộ, ngành, địa phương. Nhà nước giữ vai trò là nhà đầu tư vốn thống nhất thông qua một tổ chức đầu tư vốn trung gian bằng việc thành lập công ty đầu tư tài chính Nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Tạo môi trường kinh tế ổn định: trong điều kiện kinh tế phát triển, xã hội ổn định sẽ là điều kiện tốt cho tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN phát triển vì khi đó doanh nghiệp sẽ có như cầu vốn lớn hơn để sản xuất kinh doanh, có khả nợ tốt hơn. Thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển của kinh tế - xã hội trong dài hạn thì chính phủ sẽ giúp cho chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, các ngân hàng ổn định, phù hợp với chiến lược đó. Chính phủ cần có sự hỗ trợ triệt để và có các giải pháp hiệu quả hơn để các ngân hàng thương mại có thể thực hiện được việc tái cơ cấu: có ý kiến phản hồi kịp thời đối với các kiến nghị, đề xuất của các ngân hàng thương mại, với các khoản nợ tồn đọng cần sử dụng ngân sách nhà nước để chuyển vốn và xóa. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước Ngân hàng Nhà nước, với vai trò điều hành chính sách tiền tệ góp phần ổn định nền kinh tế, có tác động rất lớn đến hoạt động của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc doanh. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại quốc doanh trong hoạt động tín dụng nói chung, trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN nói riêng thì Ngân hàng nhà nước (NHNN) cần có các biện pháp, chính sách: Trước tiên, NHNN cần tiếp tục hoàn chỉnh các văn bản pháp luật, các quy định, tạo ra sự thống nhất giữa chúng. Bên cạnh đó là việc nghiên cứu, bổ sung quy chế để giải quyết kịp thời, loại bỏ tình trạng một doanh nghiệp vay vốn từ nhiều ngân hàng với cùng một dự án xin vay. NHNN cần triển khai quyết liệt, bắt tay cùng làm và tháo gỡ những vướng mắc với các ngân hàng thương mại, đồng thời tăng cường quan hệ đối ngoại để tranh thủ sự trợ giúp có hiệu quả của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Luôn quản lý chặt chẽ lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế: mỗi một nghiệp vụ tín dụng của một ngân hàng thương mại sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, nếu lượng tiền cung ứng tăng sẽ làm lãi suất tăng lên, kéo theo đó là một loạt các vấn đề khó khăn khác. Chính vì vậy NHNN phải luôn quản lý chỉ tiêu này. Về vấn đề nợ quá hạn: NHNN cần ban hành thêm một số quy định khác mang tính định lượng đối với nợ quá hạn như: tỷ lệ nợ quá hạn ròng tối đa mà các ngân hàng thương mại được phép duy trì, phương pháp xác định nợ quá hạn ròng... Giám sát để loại bỏ tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng: để tồn tại, các ngân hàng luôn phải hoạt động trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt mà nếu không có chính sách hợp lý, họ sẽ dễ dàng bị thua lỗ, hoặc phá sản. Chính vì vậy, mỗi ngân hàng thường có những chính sách hoạt động riêng để cạnh tranh với các ngân hàng khác. Nhiều ngân hàng có thể tăng lãi suất để huy động vốn, giảm lãi suất thấp xuống để thu hút được nhiều khách hàng đến vay hơn; có khi họ còn chấp nhận lỗ để có thể huy động vốn, hoặc cho vay ... nhiều hơn. Đây là một hình thức của cạnh tranh không lành mạnh và nó sẽ gây ra hậu quả rất nặng nề cho nền kinh tế, đó là khủng hoảng kinh tế. Chính vì vậy, nhất thiết phải có sự điều chỉnh của NHNN nhằm đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại thông qua các quy định cụ thể, các biện pháp quản lý chặt chẽ đối với cạnh tranh không lành mạnh. Hoàn thiện chính sách lãi suất để hoạt động của các ngân hàng thương mại được tự chủ hơn nữa: Hiện nay, tuy đã áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt nhưng chính sách lãi suất vẫn còn một số tồn tại như khung lãi suất huy động và cho vay trong hệ thống ngân hàng áp dụng một cách tương đối cứng nhắc, không thực sự linh hoạt, điều này ảnh hưởng đến chiến lược kinh doanh của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, việc hoàn thiện chính sách lãi suất là rất quan trọng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của ngân hàng đối với các ngân hàng thương mại nhằm sớm phát hiện những ngân hàng nào đang gặp khó khăn để có biện pháp sử lý kịp thời: Thanh tra NHNN cần chọn điểm, diện thanh tra trong từng năm có trọng điểm, trọng tâm theo từng ngân hàng chuyên doanh cụ thể. Đối với từng loại hình ngân hàng, trước mỗi đợt kiểm tra cần tổ chức các lớp tập huấn về kỹ thuật, nghiệp vụ thanh tra đối với từng lĩnh vực chuyên sâu theo đặc điểm của từng ngân hàng thương mại. NHNN nên nhanh chóng ban hành các quy chế cụ thể để chuẩn hóa các văn bản, quy trình, thủ tục thanh tra, kiểm tra không ngành ngân hàng để công tác nghiệp vụ thanh tra ngân hàng ngày càng được củng cố và nâng cao về cả chất là lượng. Tăng vốn chủ sở hữu cho các ngân hàng thương mại. Vốn chủ sở hữu trong mỗi ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi ngân hàng: nó là điều kiện tiên quyết để ngân hàng có thể đi vào hoạt động, cần thiết để duy trì hoạt động của ngân hàng, nó là một tấm đềm phòng chống rủi ro phá sản...Tuy nhiên hiện nay, khi đang trong quá trình hội nhập, có thể nói rằng vốn chủ sở hữu của các ngân hàng là vẫn còn nhỏ, thực lực tài chính của các ngân hàng còn mỏng. Trong tương lai, để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng nước ngoài thì NHNN cần tăng vốn chủ sở hữu cho các ngân hàng thương mại quốc doanh. NHNN cần tiến hành cổ phần hóa một số ngân hàng thương mại quốc doanh: Mục tiêu chính của cổ phần hóa là tăng vốn, thực hiện mở rộng kinh doanh, đảm bảo các tiêu chí về an toàn. Cổ phần hóa sẽ tạo cho ngân hàng động lực sử dụng vốn có hiệu quả hơn, đồng sự giám sát của xã hội đối với ngân hàng sẽ thường xuyên hơn, điều này làm cho các ngân hàng hoạt động đúng hơn với chức năng của mình trên thị trường. Do đó, cổ phần hóa là con đường nhanh nhất để các ngân hàng thương mại quốc doanh đạt được những chỉ số an toàn về vốn. Hiện nay, có 2 ngân hàng được lựa chọn để thí điểm thực hiện cổ phẩn hóa là Ngân hàng Ngoại thương và Ngân hàng Nhà đồng bằng Sông Cửu Long. Ngân hàng đầu tư và phát triển tỷ không được chọn làm thí điểm nhưng cũng luôn theo dõi việc cổ phần hóa của 2 ngân hàng trên để đưa ra cho mình một bước đi phù hợp, cố gắng đạt mục tiêu: đến năm 2010 có vốn chủ sở hữu là 1,5 tỷ USD . 3.3.3. Kiến nghị với NH ĐT&PTVN Thay đổi các chính sách, cơ chế tín dụng theo hướng tạo thuận lợi cho các chi nhánh thực hiện. Với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực khác nhau thì cần có những chính sách tín dụng cụ thể. Với các tổng công ty, cần quản lý thống nhất giữa các chi nhánh trên cùng địa bàn, đảm bảo thực hiện một chính sách như nhau đối với một công ty. Đầu tư công sức và tiền bạc để áp dụng công nghệ ngân hàng hiện đại, áp dụng công nghệ thông tin nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả xử lý thông tin, lưu trữ và quản lý các doanh nghiệp, từ đó sẽ hạn chế được rủi ro tín dụng. Phát triển mạng lưới thông tin rộng khắp tới các chi nhánh để có thể chuyển tải một cách nhanh nhất và kịp thời các thông tin quan trọng về chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, về sự thay đổi trong các văn bản pháp luật có liên quan, về hoạt động của các doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng... Cần nghiên cứu kỹ càng hơn về tính đúng đắn và ý nghĩa của việc chuyển nợ quá hạn, từ đó đề ra kế hoạch hành động nhất quán phù hợp với hoàn cảnh đổi mới và tiến trình hội nhập. Nhanh chóng ứng dụng các chuẩn mực hoạt động của Ngân hàng thương mại quốc tế vào hoạt động của ngân hàng, tránh tình trạng quá đề cao thành tích nên tìm mọi cách để giảm tỷ lệ nợ quá hạn mà bỏ qua những tiềm ẩn đang rình rập và đe dọa ngân hàng đằng sau các khoản nợ quá hạn đó. Trên cơ sở tổng hợp các hoạt động của các doanh nghiệp cần xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý, không áp dụng một loại lãi suất cứng nhắc, đồng loạt cho tất cả các doanh nghiệp. Lãi suất phải mềm dẻo, linh hoạt, được hợp lý hóa trên cơ sở lãi suất điều hành đầu vào bình quân của SGD tại từng thời điểm nhưng phải ngang bằng với lãi suất của các ngân hàng mạnh nhằm giữ vững và mở rộng khách hàng. Để trở thành ngân hàng đứng đầu về lĩnh vực đầu tư phát triển và là một ngân hàng mạnh toàn diện thì NH ĐT&PTVN không thể thiếu được một yếu tố vô cùng quan trọng đó là nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ. Do đó, NHĐT&PTVN cần tổ chức đều đặn và thường xuyên các buổi học nghiệp vụ, tập huấn định kỳ nhằm đào tạo và bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho các cán bộ tín dụng, tạo điều kiện cho người được học trước truyền đạt lại những kiến thức, kỹ năng cho những người chưa được học. Thường xuyên kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng, đồng thời nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, thực hiện nghiêm túc các chính sách, cơ chế, quy trình tín dụng đã ban hành để giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng. 3.3.4. Kiến nghị với các DNNN Phải luôn đặt lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh là tiêu chí hàng đầu trong hoạt động của doanh nghiệp, tránh tình trạng chạy theo quy mô, doanh số hay phạm vi hoạt động. Cung cấp một cách đầy đủ, chính xác và trung thực những thông tin mà ngân hàng yêu cầu: các thông tin về tình hình tài chính được thể hiện ở các bản báo cáo kết quả kinh doanh, bản cân đối kế toán, bản lưu chuyển tiền tệ, nhất định không được lập các báo cáo “ma” để lừa bịp ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh phải có phương án sản xuất kinh doanh chi tiết, phải tìm hiểu kỹ càng các thông tin: về thị trường tiêu thụ, về đối thủ cạnh tranh, về đối tác làm ăn... để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh những sản phẩm truyền thống của mình, các doanh nghiệp nên mạnh dạn mở rộng, đa dạng hóa các sản phẩm khác để phân tán rủi ro, mở rộng thị trường hoạt động. Nguyên nhân chính hiện nay gây ra tình trạng không hiệu quả của các DNNN là trong các doanh nghiệp đã không khuyến khích được các nhà điều hành hành động vì mục tiêu làm gia tăng giá trị doanh nghiệp và không khuyến khích được người lao động làm việc với khả năng thực sự của họ. Vì vậy, những người lãnh đạo doanh nghiệp cần tạo ra một cơ chế nhằm khuyến khích các nhà điều hành và đội ngũ lao động làm việc vì lợi ích của doanh nghiệp. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể phát triển bền vững trong dài hạn. Nâng cao trình độ của các cán bộ thông qua việc đào tạo trong công việc hoặc đào tạo ngoài công việc: có thể tổ chức các lớp cạnh doanh nghiệp, cử đi học ở các trường chính quy, hoặc thông qua các cuộc hội nghị và các cuộc hội thảo... Đổi mới công nghệ sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm...từ đó sẽ dễ dàng thắng thế trong quá trình cạnh tranh. Nhanh chóng tiến hành cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giảm biên chế trong các DNNN; bố trí đúng người, đúng việc, tránh tình trạng trình độ cán bộ thì cao trong khi công việc lại đơn giản hoặc công việc phức tạp, đòi hỏi cán bộ giỏi thì cán bộ lại có trình độ quá thấp, không đáp ứng được yêu cầu công việc. Công việc này sẽ giúp doanh nghiệp có được một số lượng nhân viên chuẩn, tăng hiệu quả làm việc của họ. KẾT LUẬN Qua tìm hiểu về tín dụng trung và dài hạn đối với DNNN tại SGD NH ĐT&PTVN ta đã hiểu được rõ hơn về những vấn đề cơ bản liên quan đến hoạt động này nói chung và hoạt động này nói riêng tại Sở. Trong tương lai, nước ta sẽ phát triển hơn nữa hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng và do đó nhu cầu của các DNNN về vốn trung và dài hạn sẽ ngày càng gia tăng. SGD cần có những biện pháp để vừa có thể đáp ứng được nhu cầu này, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước lại vừa có thể thực hiện chiến lược kinh doanh của mình, tiến tới hội nhập. Tại SGD, hoạt động này đã đạt được rất nhiều thành tựu nhưng cũng có không ít những mặt còn hạn chế và cần được giải quyết. Với những kiến thức còn hạn chế, em xin được nêu lên một số giải pháp và kiến nghị trên, mong rằng có thể đóng góp một phần nhỏ cho việc giải quyết vấn đề này. Do thời gian tìm hiểu và kiến thức còn ít ỏi nên luận văn của em sẽ không tránh khỏi những sai sót, em mong nhận được sự đóng góp phê bình của các thầy cô giáo, các cán bộ trong SGD và cô giáo hướng dẫn – Ths. Phan Thị Hạnh để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Quản trị ngân hàng thương mại.Peter S.Rose. Giáo trình Ngân hàng thương mại. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Khoa Ngân hàng – Tài chính. Giáo trình tín dụng Ngân hàng. Học viện Ngân hàng. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - NXBThống kê. Sổ tay tín dụng. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam (kỷ yếu hội thảo khoa học). NXB Chính trị Quốc gia. Những nội dung cơ bản xây dựng văn hóa doanh nghiệp – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Tạp chí ngân hàng số 5,11 năm 2001; số 10 năm 2002; số 1,8,9,12 năm 2004. Tài chính tháng 2,3 năm 2005. Tài chính doanh nghiệp số 4,6,8,9 năm 2004. Một số tài liệu khác. Môc lôc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28450.doc
Tài liệu liên quan