Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng ngoại thương thành phố Cần Thơ

LỜI MỞ ĐẦU Trong tiến trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, các hoạt động thương mại không còn bó hẹp trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, mà hoạt động thương mại đã được mở rộng đến tất cả các nước trên toàn thế giới, không chỉ liên quan đến một đồng tiền thanh toán mà còn có rất nhiều đồng tiền khác nhau tham gia trong quá trình thanh toán. Chính sự toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu, làm tăng lượng giao dịch trong hoạt động tài chính giữa các nước. Cũng chính vì vậy, nó đã làm cho thị trường ngoại hối phát triển mạnh, hình thành nên những trung tâm tài chính quốc tế lớn, hỗ trợ đắc lực cho chu chuyển tiền tệ phục vụ nhu cầu thanh toán và đầu tư. Nếu quốc gia nào có thị trường ngoại hối phát triển sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất nhập khẩu và là nhân tố tích cực kích thích sự luân chuyển các luồng vốn đầu tư vào quốc gia đó.Thị trường ngoại hối còn là nơi cung cấp các công cụ phòng chống rủi ro trong kinh doanh ngoại hối cho các Ngân hàng thương mại cũng như các nhà đầu tư, các khách hàng. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ luôn gắn liền với rủi ro khi tỷ giá biến động. Cho nên mục đích trong giao dịch ngoại hối mà các nhà đầu tư hướng tới là tránh rủi ro về tỷ giá, bằng việc thực hiện các nghiệp vụ như hoán đổi, giao dịch tiền tệ tương lai, thực hiện quyền chọn tiền tệ. Bên cạnh đó thị trường ngoại hối cũng chính là nơi để các nhà kinh doanh ngoại tệ tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản chênh lệch tỷ giá. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị, tổ chức kinh tế và cá nhân đều chịu sự hướng dẫn của thị trường, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Tổ chức tín dụng cũng không nằm ngoài sự tác động đó – đây là tính khách quan tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Sự phù hợp của các chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt của Ngân hàng Nhà nước theo diễn biến thị trường đã tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ nói riêng ngày càng phát triển. Chính vì những lý do trên tôi chọn đề tài “ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG THÀNH PHỐ CẦN THƠ”. Với nguyện vọng luận văn sẽ đóng góp một phần nào đó trong việc củng cố, xây dựng, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ. Mong rằng những giải pháp trình bày trong luận văn có thể được áp dụng rộng rãi trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ và quản lý ngoại hối ở Việt Nam.Luận văn bao gồm các nội dung sau: Chương 1 : Cơ sở lý luận về thị trường ngoại hối và giao dịch ngoại hối. Chương 2 : Thực trạng về quản lý ngoại hối của Việt Nam và hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ. Chương 3 : Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối của Việt Nam và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ.

pdf84 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1480 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng ngoại thương thành phố Cần Thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3,95 1.079,48 11,40% 20,66% 13,02% (Nguồn: Phòng Vốn Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ) Qua số liệu ở bảng 5 về doanh số mua bán ngoại tệ quy VNĐ theo từng loại ngoại tệ riêng biệt cho thấy lượng ngoại tệ mua vào và bán ra của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ qua các 2002-2004 đa số là đồng USD. Doanh số mua đồng USD năm 2002 đạt 1.360tỷ chiếm 79,9% trên tổng doanh số ngoại tệ mua vào, năm 2003 đạt 3.729 tỷ chiếm 74,55%, năm 2004 đạt 5.325 tỷ chiếm 64,28%. Doanh số bán cũng vậy, năm 2002 đạt 1.361 tỷ chiếm 79,87%, năm 2003 đạt 3.730 tỷ chiếm 74,53%, năm 2004 đạt 5.326,5 tỷ chiếm 64,27%. Kế đến loại ngoại tệ được sử dụng để mua bán là đồng EURO. Doanh số mua EURO năm 2002 chiếm 7,05% trên tổng ngoại tệ mua vào, năm 2002 chiếm 4,02%, năm 2004 chiếm 22,19%. Doanh số bán cũng ngoại tệ thì đồng EURO cũng đứng thứ hai, năm 2002 chiếm 7,08%, năm 2003 Trang 56 chiếm 4,02% và năm 2004 chiếm 22,19% trên tổng ngoại tệ bán ra quy VNĐ. Từ kết quả trên cho thấy rằng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lựa chọn đồng USD để làm đồng tiền thanh toán, mặc dù giá USD giảm mạnh trên thị trường thế giới nhưng vẫn tăng lên ( dù rất nhẹ) ở thị trường Việt Nam và tương đối ổn định. Một điểm đáng lưu ý khác là trong năm 2004 việc mua bán ngoại tệ ở đồng EURO tăng lên chiếm 22,19% do tỷ giá EURO trên thị trường thế giới tăng mạnh so với USD ( từ chỗ 1EUR chỉ đổi được 0,8 nay đã đổi được 1,3USD), trong khi đô la Mỹ lại lên giá so với tiền đồng, thì sự lên giá của đồng EURO đối với tiền đồng là sự lên giá kép, cách đây vài năm một EURO chỉ đổi khoảng 13.000 đồng thì đến cuối năm 2004 đã đổi được trên 21.400 đồng tăng trên 60%. Chính vì thế mà các nhà xuất khẩu lựa chọn EURO để thanh toán. Ngoài ra việc sử dụng các đồng tiền khác trong thanh toán xuất nhập khẩu là rất hạn chế. Việc chỉ lựa chọn đồng USD để thanh toán đôi khi cũng dễ bị rủi ro về tỷ giá nếu doanh nghiệp không sử dụng các công cụ phòng ngừa. Tuy nhiên việc lựa chọn đồng tiền thanh toán cũng tuỳ thuộc vào sự tính toán kỹ lưỡng của các doanh nghiệp và sự ổn định tỷ giá của đồng tiền đó trên thị trường. Do vậy bên cạnh việc lựa chọn ngoại tệ, doanh nghiệp cần phải sử dụng các công cụ bảo hiểm tỷ giá cho hợp đồng xuất nhập khẩu của mình. Bởi vì trên thực tế tỷ giá của các loại ngoại tệ thường xuyên biến động và đi kèm với nó là những rủi ro hối đoái đối với các khoản doanh thu từ xuất khẩu. Doanh thu càng lớn thì rủi ro hối đoái càng cao, doanh nghiệp nên dự báo xu hướng giá của đồng tiền mình lựa chọn và tìm cho mình một công cụ phòng ngừa rủi ro hữu hiệu nhất. 2.3.4.5 Phân tích vai trò kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ so với các Ngân hàng thương mại trên địa bàn giai đoạn 2003-2004 Trang 57 Bảng 6 : Doanh số mua-bán ngoại tệ của các NHTM giai đoạn 2003-2004 Đơn vị tính : Triệu USD Năm So sánh 2004/2003 Thị phần Chỉ tiêu 2003 2004 Số tiền % 2003 2004 1. Doanh số mua 776 1.387 611 78,73 100% 100% - VCB Cần Thơ 323 526 203 62,84 41,63% 37,92% - NH Công Thương CT 60 115 55 91,66 7,73% 8,29% - NH Nông nghiệp 151 275 124 82,12 19,46% 19,83% - NH Eximbank 87 195 108 124,14 11,21% 14,06% - NH Sài Gòn Thương Tín 95 210 115 121 12,24% 15,14% - Các Ngân hàng khác 60 66 6 10 7,73% 4,76% 2. Doanh số bán 765 1.375 503 70,34 100% 100% - VCB Cần Thơ 323 525 202 62,54 42,22% 38,18% - NH Công Thương CT 58 113 55 94,82 7,58% 8,22% - NH Nông nghiệp 150 272 122 81,33 19,61% 19,78% - NH Eximbank 84 193 109 129,76 10,98% 14,04% - NH Sài Gòn Thương Tín 93 207 114 122,58 12,16% 15,05% - Các Ngân hàng khác 57 65 8 14,04 7,45% 4,73% ( Nguồn : Phòng Tổng hợp Ngân hàng Nhà nước Cần Thơ) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tốc độ phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ là rất tốt, tốc độ phát triển doanh số mua ngoại tệ năm 2004 đạt 526 triệu USD tăng 62,84% so với năm 2003. Tuy doanh số mua ngoại tệ tăng về số lượng 203 triệu USD so với năm 2003 nhưng về về thị phần rõ ràng có chiều hướng giảm, nếu năm 2003 thị phần về mua ngoại tệ là 41,63% thì năm 2004 chỉ còn 37,92%. Điều này thể hiện Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ không còn chiếm vị trí độc tôn trên mảng nghiệp vụ này, các Ngân hàng khác đã bắt đầu cạnh tranh, thể hiện Trang 58 ở tốc độ tăng doanh số mua ngoại tệ ở các ngân hàng quốc doanh như Nông nghiệp và Công thương, các ngân hàng cổ phần như Eximbank, Sài gòn thương Tín và các ngân hàng còn lại khác. Đáng kể nhất là tốc độ tăng trưởng nghiệp vụ này của năm 2004 so với năm 2003 thể hiện ở Ngân hàng Công thương là 91,66%, Ngân hàng Nông nghiệp 82,12% và đặc biệt là hai Ngân hàng cổ phần Eximbank 124,14%,Ngân hàng Sài gòn Thương Tín Cần Thơ 121%. Về doanh số bán cũng vậy, mặc dù doanh số bán tăng đều qua các năm nhưng tốc độ của nó cũng có chiều hướng giảm, nếu năm 2003 mức độ tăng trưởng là 187,58% thì năm 2004 tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 62,76%. Bên cạnh đó mức độ tăng trưởng của các Ngân hàng khác cũng tăng lên, Ngân hàng công thương là 94,82%, Ngân hàng Nông nghiệp 81,33%, Ngân hàng Eximbank 129,76% và Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín Cần Thơ là 122,58%. Chính tốc độ tăng trưởng nghiệp vụ bán ngoại tệ tại các Ngân hàng này đã làm cho thị phần bán ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ bị giảm xuống, nếu năm 2003 thị phần bán ngoại tệ là 42,22% nhưng năm 2004 chỉ còn 38,18%. Lý giải cho nguyên nhân của việc Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ mất dần thị phần mua bán ngoại tệ trên địa bàn Tp.Cần Thơ như sau: - Các Ngân hàng trên địa bàn đưa ra mức giá mua bán ngoại tệ cạnh tranh hơn, họ thường căn cứ vào tỷ giá của Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ công bố sau đó mới đưa ra giá mua bán của mình. - Các Ngân hàng trên địa bàn được phép mua bán ngoại tệ với các ngân hàng khác tại các địa bàn như Hồ Chí Minh, Hà Nội và các ngân hàng nước ngoài. Còn Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ không được phép mua bán ngoại tệ với các ngân hàng trên. Trang 59 - Các Ngân hàng trên có chính sách khách hàng linh hoạt hơn, có những thời điểm họ còn mua cao hơn giá ở ngoài thị trường tự do, họ có giá ưu đãi cho các bàn thu đổi ngoại tệ là các tiệm vàng, khách sạn..họ miễn phí thu ngoại tệ mặt khi nộp vào tài khoản, có hoa hồng cho người môi giới. Đặc biệt là đối với các Ngân hàng Cổ phần họ có thuận lợi hơn khi thực hiện chính sách khách hàng. - Một số Ngân hàng không thực hiện kết chuyển các loại ngoại tệ về Hội sở chính như Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, chính yếu tố này mà hiệu quả kinh doanh của họ có thể cao hơn nhờ vào kinh doanh chênh lệch tỷ giá. Để có thể giành lại thị phần trong các năm tới, Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ cần không ngừng đổi mới công tác điều hành tỷ giá, cần linh hoạt hơn, nếu cần có thể áp dụng lãi suất ưu đãi hơn khi cho vay ngoại tệ, hoặc miễn giảm phí thanh toán xuất nhập khẩu khi các đơn vị xuất trình L/C tại Ngân hàng, chi hoa hồng cho người môi giới, hoặc tư vấn cho khách hàng các công cụ phòng ngừa rủi ro đối với các hợp đồng xuất nhập khẩu, đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách cho mảng kinh doanh ngoại tệ...nhằm phát huy thế mạnh là ngân hàng đứng đầu về cho vay ngoại tệ tại Đồng bằng Sông Cửu Long, nếu không Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ sẽ lại mất dần thị phần. 2.3.4.6 Phân tích thực trạng tình hình kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ theo từng nghiệp vụ giai đoạn 2002-2004. • Nghiệp vụ giao ngay : Đây là nghiệp vụ phổ biến và chủ yếu của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về mua bán ngoại tệ phục vụ cho việc thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu. Tình hình mua bán ngoại tệ giao ngay được thể nhiện như sau : Trang 60 Bảng 07: Doanh số mua bán ngoại tệ giao ngay giai đoạn 2002-2004 Đơn vị tính : 1.000 USD Năm So sánh 2003/2002 2004/2003 Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số tiền % Số tiền % 1. Doanh số mua - Tiền mặt - Chuyển khoản 112.258 1.974 110.284 322.837 2.304 320.533 525.527 2.114 523.413 210.579 330 210.249 187,58 16,72 190,64 202.690 -190 220.880 62,78 -8,25 63,29 2. Doanh số bán - Tiền mặt - Chuyển khoản 112.258 134 112.124 322.833 184 322.649 525.440 207 525.233 210.575 50 210.525 187,58 37,31 187,76 202.607 23 202.584 62,76 12,5 62,78 Tổng doanh số 244.516 645.670 1.050.967 401.154 164,06 405.297 62,77 ( Nguồn : Phòng Vốn Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ) Mặc dù quyết định 17/1998/QĐ-NHNN7 ngày 10/01/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã tạo cơ sở cho các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối như giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi trên thị trường ngoại hối ở Việt Nam phát triển, nhưng nhìn chung nghiệp vụ giao ngay vẫn là chủ yếu ở các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ nói riêng, tỷ trọng các giao dịch giao ngay luôn chiếm tỷ trọng cao trong tất cả giai đoạn 2002-2004, cụ thể qua các năm như sau : Năm 2002 và năm 2004 tất cả các giao dịch ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ đều là giao dịch giao ngay, năm 2003 có giao dịch có kỳ hạn với một món 2.000.000EUR, tuy nhiên không đáng kể. Qua nghiên cứu tình hình kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ nghiệp vụ giao ngay chiếm tỷ trọng cao và giao dịch bằng chuyển khoản là chủ yếu, theo số liệu ở bảng 07 ta thấy tổng doanh số mua bán ngoại tệ năm 2002 là 244,56triệu USD, năm 2003 là 645,6 triệu USD và Trang 61 năm 2004 là 1.050,9triệu USD. Tốc độ tăng trưởng năm 2003 so với năm 2002 là 164,06% và năm 2004 so với 2003 là 62,77%. Trong tổng doanh số mua ngoại tệ thì mua bằng chuyển khoản chiếm tỷ trọng cao và tăng qua từng năm, năm 2002 là 110,3triệu USD, năm 2003 là 320,53triệu USD và năm 2004 là 523,4%. Nếu so sánh mức tăng trưởng thì ta thấy năm 2003 có mức tăng cao hơn năm 2004. Năm 2003 mức tăng trưởng là 190,64% còn năm 2004 chỉ 63,29%. Trong tổng doanh số bán thì bán bằng chuyển khoản cũng chiếm tỷ trọng cao cả về số lượng và mức tăng trưởng. Nếu năm 2002 là 112,1 triệu thì năm 2004 là 525,2 triệu USD. Việc mua bán ngoại tệ chuyển khoản chiếm tỷ trọng cao như vậy là tín hiệu đáng mừng. Nguyên nhân của vấn đề chính là việc các doanh nghiệp thường mua ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu. Khi mua họ phải xuất trình các chứng từ liên quan đến việc nhập hàng, hoặc phải ký quỹ trước một phần, khi đến hạn thanh toán họ sẽ làm lệnh chuyển tiền cho bên bán. Bên cạnh đó các doanh nghiệp xuất khẩu khi thu mua nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu thường thanh toán bằng chuyển khoản, hoặc khi vay ngoại tệ họ thường bán cho ngân hàng sau đó chuyển khoản thanh toán cho các đơn vị trong nước, hoặc rút tiền mặt VNĐ để mua nguyên liệu. Chính những lý do trên mà các giao dịch mua bán ngoại tệ thường thanh toán bằng chuyển khoản. • Nghiệp vụ ngoại hối có kỳ hạn : Trong năm 2003 Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ thành lập Phòng Vốn chuyên về mảng kinh doanh ngoại tệ, hạch toán và theo dõi các khoản mua bán ngoại tệ giữa chi nhánh với khách hàng, giữa chi nhánh với Trung Ương. Điều này thể hiện Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ đã có sự chuẩn bị đầy đủ về khả năng tài chính lẫn trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do Ngân hàng Nhà nước quy định. Thực tế Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ cũng đã thực hiện nghiệp Trang 62 vụ giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn, nhưng số lượng không đáng kể, mỗi năm chỉ có một đến hai món, năm 2003 có một món duy nhất 2.000.000EUR, năm 2004 không có món nào. Nguyên nhân: - Do cơ chế điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước khá linh hoạt , các chuyên gia kinh tế luôn dự đoán được mức biến động và khách hàng cũng dự đoán trước được khả năng diễn biến tỷ giá nên đã có sự chuẩn bị. Hơn nữa tỷ giá trong các năm qua tương đối ổn định nên khách hàng ít quan tâm đến nghiệp vụ này. - Phần lớn doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam không quan tâm đến việc bảo hiểm tỷ giá, chỉ mua ngoại tệ khi đến hạn thanh toán, chứ không áp dụng công cụ phòng ngừa rủi ro ngay khi ký hợp đồng. - Việc các doanh nghiệp không sử dụng nghiệp vụ này là do Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ không tư vấn đầy đủ cho khách hàng, ngân hàng chỉ mới dừng ở khâu đáp ứng các nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng chứ chưa đồng hành cùng với doanh nghiệp bên bàn đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu. Do vậy vấn đề đặt ra cho Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ là cần phải đẩy mạnh nghiệp vụ này nhằm góp phần giúp các doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro tỷ giá, mặt khác tạo cơ sở thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ khác như SWap, Option...hoàn thành chính sách đa dạng hoá nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của Ngân hàng Ngoại Thương Trung Ương đề ra. 2.3.4.7 Đánh giá hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ giai đoạn 2002-2004: Trong điều kiện nghiệp vụ tín dụng chứa đầy những rủi ro, việc chuyển hướng sang kinh doanh dịch vụ là cần thiết, tuy lợi nhuận bước đầu có thấp hơn chút ít, tuy nhiên đây là mảng nghiệp vụ an toàn, nếu làm tốt sẽ mang lại hiệu quả rất lớn. Vì vậy định hướng của Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ trong những năm tới là tập trung vào khách hàng thể nhân và đẩy mạnh kinh Trang 63 doanh dịch vụ, trong đó có nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. Để đánh giá hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ trong các năm qua đạt mức độ nào, chúng ta cùng theo dõi bảng số liệu sau: Bảng 8: Kết quả kinh doanh ngoại tệ của NHNT Cần Thơ 2002-2004 Đơn vị tính : Triệu đồng Năm So sánh 2003/2002 2004/2003 Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số tiền Lần Số tiền Lần - Thu lãi từ kinh doanh ngoại tệ 2.155 5.795 30.341 3.640 2,69 24.546 5,24 - Chi lỗ về kinh doanh ngoại tệ 616 2.902 24.837 2.286 4,71 21.935 8,56 - Lợi nhuận từ kinh doanh ngoại tệ 1.539 2.893 5.504 1.354 1,88 2.611 1,9 ( Nguồn : Phòng Vốn Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ) Như chúng ta đã biết, lợi nhuận thu được trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ là do chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán, thông thường mức chênh lệch này vào khoảng 0,1%. Qua số liệu ở bảng 8 ta thấy lợi nhuận của Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ có khuynh hướng tăng cao ( đồ thị 1). Qua quan sát bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng, doanh thu về kinh doanh ngoại tệ ngày càng tăng lên, khoản thu này thực chất là chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán,năm 2003 thu về kinh doanh ngoại tệ đạt 5,795tỷ đồng tăng 2,69 lần so với năm 2002, năm 2004 đạt 30,341tỷ đồng tăng 5,24 lần so với năm 2003. Chính doanh thu tăng đã làm cho lợi nhuận kinh doanh ngoại tệ cũng tăng theo, kết quả năm 2002 lãi 1,539tỷ, năm 2003 lãi 2,893 tỷ và năm 2004 lãi 5,504 tỷ. Bên cạnh việc tăng doanh thu và lợi nhuận, các khoản lỗ về kinh doanh ngoại tệ cũng xuất hiện nếu như năm 2002 doanh số lỗ là 616 triệu đồng thì năm 2004 con số này lỗ lên đến 24,837tỷ đồng, một con số khổng lồ, việc tăng doanh thu không theo kịp các khoản lỗ, nếu doanh thu Trang 64 năm 2004 tăng 5,24 lần so với năm 2003, thì lỗ kinh doanh ngoại tệ lại tăng 8,56lần. Ñoà Thò 1: KEÁT QUAÛ KINH DOANH NGOAÏI TEÄ 2002-2004 5795 2902 24837 893 5504 2155 30341 616 1539 0 5000 10000 15000 20000 25000 30000 35000 2002 2003 2004 Thu KDNT Loã KDNT Laõi KDNT Nguyên nhân của các khoản lỗ này là do tỷ giá các loại ngoại tệ luôn biến động bất thường và quan trọng hơn là chính sách kết chuyển ngoại tệ về trung ương. Hàng ngày Trung ương kết chuyển doanh số mua bán các loại ngoại tệ khác quy ra USD theo tỷ giá mua/mua, bán/bán, sau đó mua hết hoặc bán lại nếu thiếu. Thực chất là Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ bán trước USD và trên các tài khoản ngoại tệ khác vẫn còn. Để bù vào các khoản USD bán trước đó chi nhánh phải bán các loại ngoại tệ khác về USD, do vậy nếu tỷ giá các loại ngoại tệ khác tăng lên và giá USD giảm xuống thì Chi nhánh có lợi và ngược lại thì Chi nhánh lỗ. Trên thực tế tỷ giá các loại ngoại tệ khác luôn biến động thất thường nên việc theo dõi và chuyển đổi các loại ngoại tệ khác ra USD kịp thời là việc làm rất cần thiết. Tuy nhiên việc áp dụng chính sách này giúp cho việc quản lý vốn ngoại tệ của Trung Ương được tập trung, điều chuyển dễ dàng và đặc biệt là Trung ương kinh doanh ngoại tệ hộ chi nhánh, Trang 65 kết quả từ kinh doanh ngoại tệ mang lại lợi nhuận rất lớn. Năm 2001 Ngân hàng Ngoại Thương Trung ương lãi 62tỷ, năm 2002 lãi 87tỷ và năm 2003 lãi 134tỷ. Để hạn chế khoản lỗ kinh doanh ngoại tệ này, Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ cần phải tập trung hơn cho công tác kinh doanh ngoại tệ, phân tích và theo dõi diễn biến tỷ giá, đặc biệt là tỷ giá của các ngoại tệ khác để chuyển đổi kịp thời. Hoặc đề nghị với Trung Ương thay vì kết chuyển các loại ngoại tệ khác quy ra USD để mua, cuối ngày Chi nhánh dư ngoại tệ nào thì mua luôn ngoại tệ đó, nếu thiếu thì bán ngoại tệ đó theo giá trung bình cộng giữa giá mua và giá bán. Có như vậy, hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ mới tăng cao hơn nữa. Trang 66 Chương 3 : CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI CỦA VIỆT NAM VÀ ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGOẠI TỆ TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG CẦN THƠ Thời gian qua, mặc dù chính sách quản lý ngoại hối đã hoàn thiện căn bản phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế thị trường mở, gia tăng yếu tố thị trường trong việc xác định tỷ giá hối đoái, bước đầu đưa một số giao dịch kinh doanh ngoại hối vào cuộc sống như giao ngay, kỳ hạn và hoán đổi. Tuy nhiên, thị trường ngoại hối của Việt Nam còn non trẻ và sơ khai về trình độ, quy mô hoạt động và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh. Qua phân tích thực trạng thị trường ngoại hối Việt Nam và tình hình kinh doanh ngoại tệ ở Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ ở Chương 2, qua đối chiếu với các đặc điểm của thị trường ngoại hối quốc tế có thể cho rằng thị trường ngoại hối của Việt Nam và thế giới còn có khoảng cách khá xa về tổ chức, quy mô, nghiệp vụ và kỹ năng giao dịch. Dưới đây là một số giải pháp để phát triển và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở Việt Nam nói chung và ở Ngân hàng Ngoại Thương nói riêng. 3.1 Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối ở Việt Nam 3.1.1 Nâng cao hiệu quả đối với cơ chế điều hành tỷ giá: 3.1.1.1 Tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá: Xung quanh vấn đề tỷ giá trong quản lý vĩ mô tồn tại quan điểm cho rằng giá trị đồng tiền Việt nam đã bị đánh giá quá cao so với ngoại tệ. Điều này làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu, đặc biệt khi Trung Quốc thực hiện chính sách bán phá giá hàng hoá. Vì vậy theo quan điểm này Chính phủ phải tiến hành phá giá đồng tiền Việt Nam ở mức độ cao bằng cách gia tăng tốc độ điều chỉnh tỷ giá. Trang 67 Chúng ta thừa nhận rằng, tỷ giá là nhân tố hết sức quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, nó không phải là yếu tố duy nhất. Thật vậy, tình trạng hàng Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế chủ yếu là do chất lượng hàng chưa cao, cơ cấu hàng xuất chưa đa dạng và chưa bắt kịp thị hiếu người tiêu dùng, năng suất sản xuất kém...Như vậy liệu phá giá đồng tiền Việt nam có làm thay đổi thực trạng này hay không? hay nó sẽ tạo áp lực lớn lên lạm phát, gây tâm lý bất ổn trong dân cư, làm mất lòng tin của dân chúng vào chính sách tiền tệ của Chính phủ nói chung và giá trị đồng tiền Việt Nam nói riêng. Ngoài ra, phá giá tiền tệ trước mắt có thể khuyến khích xuất khẩu, nhưng trong dài hạn, giá cao của nguyên liệu nhập khẩu sẽ chuyển vào giá thành hàng xuất khẩu mất đi lợi thế do đồng tiền mất giá mang lại. Trong lĩnh vực đầu tư, đồng tiền không ổn định không những không khuyến khích các nhà đầu tư trong nước bỏ vốn ra kinh doanh, mà còn khó thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thêm nữa, trong điều kiện hiện nay của nền kinh tế, việc phá giá đồng tiền Việt Nam sẽ tạo tâm lý sùng bái Đôla Mỹ hoặc Vàng, làm tăng cầu ngoại hối một cách giả tạo. Các yếu tố trên chứng tỏ rằng việc phá giá mạnh đồng tiền Việt Nam hiện nay là không phù hợp có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Tuy nhiên, các điều chỉnh tỷ giá theo cách tăng đều như hiện nay bộc lộ nhiều hạn chế. Quan sát tỷ giá từ tháng 2/1999 nhận thấy, tỷ giá chính thức luôn có mức thay đổi nhỏ và biến động theo hướng tăng dần. Ưu điểm của cách làm này là giá VND được điều chỉnh theo sự biến động sức mua hàng hoá, tạo tâm lý ổn định cho người sở hữu ngoại tệ, nhưng mặt trái của vấn đề là nảy sinh hiện tượng găm giữ ngoại tệ của chủ tài khoản. Để hạn chế nhược điểm này, Ngân hàng Nhà nước nên thay đổi cách điều tiết tỷ giá theo hướng có tăng, có giảm với nhiều mức độ khác nhau theo tín hiệu thị trường quốc tế, sao cho tổng mức giảm giá VND tương xứng với sự biến động của chỉ số lạm phát trong kỳ. Được như vậy, hiện tượng găm giữ ngoại tệ của doanh nghiệp Trang 68 giảm dần, các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá có cơ hội phát huy hiệu quả, hoạt động kinh doanh ngoại tệ mới trở lên năng động. 3.1.1.2 Từng bước tiến đến loại bỏ các công cụ kiểm soát tỷ giá mang tính hành chính: Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Chính Phủ để điều hành chính sách tiền tệ. Theo đó, tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước được thiết lập trên cơ sở tỷ giá bình quân của thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng và tỷ giá kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại không được lớn hơn ± 0,25% so với tỷ giá chính thức. Với cách tính này, Ngân hàng Nhà nước có khả năng khống chế sự biến động thất thường của tỷ giá.Tuy nhiên, hạn chế của nó là tỷ giá không phản ánh đúng cung - cầu ngoại tệ trên thị trường, làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Ngân hàng bị gượng ép, giả tạo. Thiết nghĩ trong tương lai Ngân hàng Nhà nước cần thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng gắn liền với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng Nhà nước sẽ giảm dần, tiến đến loại bỏ các biện pháp điều tiết tỷ giá mang tính hành chính như: khống chế tỷ giá kỳ hạn, giới hạn phí hoán đổi tiền tệ, hạn chế biên độ xác định tỷ giá kinh doanh...Tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại kinh doanh ngoại tệ theo cơ chế thị trường và quen dần với các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá. Nói cách khác, tỷ giá phải được thả nổi hoàn toàn và được xác định dựa trên cung - cầu tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước không nên áp đặt trực tiếp lên tỷ giá mà chỉ được quyền tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. 3.1.1.3 Cần có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất : Tỷ giá và lãi suất là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Tỷ giá và lãi suất luôn có mối quan hệ chặt Trang 69 chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạt động của nền kinh tế. Sự khập khễnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể gây ra những hậu quả bất lợi như : bản tệ bị mất giá gây nguy cơ lạm phát, chảy máu ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ, hạn chế nguồn vốn đầu tư nước ngoài...Vì vậy trong quản lý vĩ mô, chính sách lãi suất và tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định.Cụ thể, trong thời gian từ nay đến 2010, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận và hạn chế can thiệp trực tiếp vào tỷ giá. Khoảng sau năm 2010, theo học thuyết ngang giá lãi suất, chính sách tự do hoá lãi suất đòi hỏi cơ chế tỷ giá cũng phải được thiết lập trên quan hệ cung cầu tiền tệ. Nói cách khác, chế độ tỷ giá thả nổi được kiểm soát bằng các giải pháp kinh tế và chính sách tự do hoá lãi suất là giải pháp lâu dài mà Ngân hàng Nhà nước cần thực hiện để điều hành chính sách tiền tệ trong tương lai. 3.1.2 Đẩy mạnh vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với tài khoản tiền gửi ngoại tệ vãng lai : Trong quản lý ngoại hối, việc mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ phải đảm bảo quyền tự do trong kinh doanh, nhưng đồng thời phải ngăn chặn tình trạng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ làm phản ánh sai lệch cung - cầu ngoại tệ của nền kinh tế. 3.1.2.1 Đối với người cư trú : Theo thông tư 08/2003/TT-NHNN ngày 21/05/2003 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước V/v hướng dẫn thi hành nghĩa vụ bán và quyền mua ngoại tệ đối với giao dịch vãng lai của người cư trú là tổ chức, theo quy định này thì tỷ lệ kết hối bằng 0%. Để thu hút ngoại tệ từ đối tượng này, trước hết Chính phủ phải bảo đảm thoả mãn tất cả các nhu cầu ngoại tệ hợp lý cho nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước phải thực sự hiểu rằng đó không chỉ là yêu cầu của bản thân các tổ chức kinh tế mà chính là nhu cầu cần thiết của nền kinh tế được Trang 70 thực hiện thông qua các doanh nghiệp. Được như vậy các tổ chức có nguồn thu ngoại tệ mới an tâm bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng. Hai là các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá phải được sử dụng một cách hiệu quả. Để phòng chống rủi ro tỷ giá hữu hiệu, các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá phải được thiết lập theo cơ chế thị trường. Ba là phải kết hợp giữa việc quản lý tài khoản ngoại tệ với hoạt động cho vay ngoại tệ của ngân hàng. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp có số dư tài khoản ngoại tệ cao nhưng khi cần vốn kinh doanh họ không chuyển số ngoại tệ này thành bản tệ mà đề nghị ngân hàng thương mại cấp tín dụng bằng VND. Biện pháp này giúp doanh nghiệp hạn chế rủi ro khi ngoại tệ lên giá, nhưng bất lợi của nó là gây khan hiếm ngoại tệ một cách giả tạo. Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước nên xây dựng các quy định khắt khe trong việc cấp tín dụng với các doanh nghiệp có số dư tài khoản ngoại tệ cao nhằm hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ của các đơn vị và làm cân bằng cung - cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Đối với cá nhân là người cư trú : Trong bối cảnh nền kinh tế “ ngầm” còn tồn tại, nạn buôn lậu phát triển mạnh, hệ thống quản lý tài sản cá nhân hoạt động kém hiệu quả...Chính phủ nên tiếp tục cho phép các Ngân hàng thương mại thu hút ngoại tệ của các cá nhân người cư trú dưới hình thức tài khoản tiền gửi, tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu bằng ngoại tệ song song với hệ thống tài khoản bản tệ. Với cách làm này, Chính phủ có thể tập trung một phần lượng ngoại tệ tản mạn trong lưu thông, khắc phục những hạn chế do sự bất cập giữa chính sách tỷ giá và lãi suất, bước đầu tạo được lòng tin của công chúng vào chính sách tiền tệ của Chính phủ., thực hiện quyền tự do cá nhân đối với tài sản riêng. Khi cần điều chỉnh số dư ngoại tệ của cá nhân là người cư trú, Ngân hàng Nhà nước sử dụng công cụ lãi suất, tỷ giá để điều tiết. Mọi ép buộc mang tính hành chính như : cấm cá nhân mở tài khoản ngoại tệ, bắt buộc kết hối... đều phản tác dụng đối với đối tượng này và kéo họ xa Trang 71 rời hoạt động ngân hàng làm hạn chế khả năng kiểm soát ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. 3.1.2.2 Đối với các tổ chức và cá nhân là người không cư trú: Đối với người không cư trú, Ngân hàng Nhà nước chỉ cho phép họ mở tài khoản ngoại tệ để hạch toán các khoản thu ngoại tệ từ nước ngoài được chuyển vào chi tiêu ở Việt Nam. Nguồn ngoại tệ này chỉ được sử dụng tại những nơi được phép thu ngoại tệ. Nếu phát sinh các nhu cầu chi tiêu khác tại Việt Nam, chủ tài khoản phải đổi ngoại tệ thành đồng tiền Việt Nam tại các Ngân hàng thương mại để sử dụng. 3.1.3 Nâng cao hiệu quả hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng: Quan sát thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trong những năm qua nhận thấy, hoạt động của thị trường này vẫn còn nhiều khiếm khuyết, đó là sự mất cân xứng giữa lệnh mua và lệnh bán ngoại tệ, số giao dịch vừa ít về lượng, vừa kém về doanh thu , nghiệp vụ kinh doanh quá đơn điệu...Để tạo một sức sống mới cho thị trường . Ngân hàng Nhà nước cần quan tâm đến các vấn đề sau : 3.1.3.1 Gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia: Trong những năm vừa qua, tổng dự trữ ngoại hối của quốc gia tăng nhanh. Dự trữ ngoại hối năm 2001 đạt 3.601 triệu USD tăng 18,84% so với năm 2000. Tuy nhiên, theo dự tính của IMF, để cân bằng cán cân thanh toán, tổng dự trữ ngoại hối năm 2006 phải là 6.341 triệu gần gấp đôi số dự trữ của năm 2001 là 3.601 triệu USD. Cụ thể : Trang 72 Dự trữ ngoại hối Việt Nam từ 1999-2006 Đơn vị : Triệu USD Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng dự trữ ngoại hối 3.030 3.601 3.971 4.557 5.101 5.692 6.341 Tương đương tuần nhập khẩu 8,6 9,4 9,1 9,5 9,6 9,8 10 Nguồn : Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và dự tính của IMF Một vấn đề mà Ngân hàng Nhà nước cần quan tâm là thay đổi cách đánh giá tồn quỹ ngoại hối. Hiện nay, quỹ dự trữ ngoại hối được xác định theo tuần nhập khẩu, nói cách khác, nguồn ngoại hối dự trữ chỉ mới dừng lại ở việc sẵn sàng cung ứng ngoại tệ để cân bằng cán cân thương mại. Điều này xuất phát từ thực trạng thường xuyên thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ trong những năm trước đây. Tuy nhiên trong tương lai, cách tính này không an toàn vì nó không bao quát hết nhu cầu ngoại tệ của đất nước, bởi vì bên cạnh cán cân vãng lai, cán cân vốn cũng tạo một áp lực lớn về ngoại hối. Thật vậy, những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nguồn vốn nước ngoài chuyển vào Việt Nam không ngừng gia tăng trong khi nhu cầu chuyển vốn ra nước ngoài của Việt Nam thấp. Cán cân vốn luôn thặng dư và mức thặng dư gia tăng theo thời gian. Tuy nhiên qua hơn 10 năm tính từ khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế, thời gian ân hạn của một số khoản vay đã kết thúc, thời gian trả nợ đến gần, khoản lãi và gốc của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp cũng đến kỳ thanh toán, nhu cầu chuyển vốn ra nước ngoài kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đang có xu hướng ngày càng tăng. Đây là những nhu cầu ngoại tệ hợp lý mà Chính phủ phải thoả mãn. Để tránh tình trạng căng thẳng ngoại tệ trong tương lai, Ngân hàng Nhà nước cần có khoản dự phòng cho các nhu cầu ngoại tệ phát sinh từ cán cân vốn trong việc xác định tồn quỹ ngoại hối, đồng thời gia tăng nguồn ngoại hối cho mục tiêu ổn định tỷ giá khi thị trường tài chính trong nước và quốc tế biến động. Trang 73 Muốn vậy Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách cung tiền kèm với mục tiêu tăng quỹ dự trữ ngoại hối của quốc gia, phối hợp với Bộ tài chính trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu dầu thô, mặt hàng xuất khẩu chiến lược của quốc gia, tăng cường biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ cho hệ thống Ngân hàng. 3.1.3.2 Ngân hàng Nhà nước cần phải thực hiện đúng chức năng là người mua bán cuối cùng: Một đặc điểm nổi bật của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là sự mất cân đối trong giao dịch. Tuỳ theo từng giai đoạn trong nền kinh tế, lúc thừa ngoại tệ tất cả các thành viên đều đặt lệnh bán ( 1994-1995), lúc căng ngoại tệ mọi Ngân hàng đều đặt lệnh mua ( 1997-1998). Khi cầu ngoại tệ hợp lý không được thoả mãn, các thành viên dần dần mất niềm tin vào thị trường làm giảm hiệu lực của hoạt động ngoại hối. Vì vậy, để có thể điều tiết thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm can thiệp hữu hiệu vào tỷ giá, Ngân hàng Nhà nước phải sẵn sàng thoả mãn mọi nhu cầu ngoại tệ hợp lý của thị trường và ngược lại, theo tác động hai chiều của giao dịch, Ngân hàng Nhà nước có thể thu gom ngoại tệ từ các Ngân hàng thương mại. Điều này chỉ có thể thực hiện khi Ngân hàng Nhà nước quản lý tốt tài khoản ngoại tệ, gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối và xây dựng cơ chế tỷ giá phù hợp. 3.1.4 Nâng cao vị thế đồng tiền Việt Nam: Tiền tệ là “máu” của nền kinh tế, cho nên khả năng chuyển đổi của đồng tiền không chỉ ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách quản lý ngoại hối quốc gia mà còn tác động mạnh đến quá trình giao thương, đầu tư giữa các nước trên thế giới và tiến trình hội nhập của nền kinh tế riêng lẻ với nền kinh tế toàn cầu.Thật vậy, đối với cán cân vãng lai, việc bản tệ được tự do chuyển Trang 74 đổi thành ngoại tệ làm cho hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó năng động hơn, sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước gia tăng. Trong các giao dịch vốn, khả năng chuyển đổi của đồng tiền bản tệ sẽ tác động mạnh đến hoạt động thu hút vốn đầu tư, tạo cho các nhà đầu tư nước ngoài an tâm trong việc chuyển vốn đầu tư cũng như chuyển lợi nhuận về nước. Một lợi ích đáng kể nữa của việc bản tệ được tự do chuyển đổi là tạo tâm lý tốt trong các tầng lớp dân cư, hạn chế tình trạng lưu thông nhiều đồng tiền trong quốc gia. Hiện tượng đô la hoá nền kinh tế được hạn chế. Việc huy động các nguồn lực trong nền kinh tế trở nên thuận lợi hơn do người dân ít lo ngại về giá trị đồng tiền đang được lưu ký trên tài khoản tại Ngân hàng. Ngoài ra, đồng tiền tự do chuyển đổi làm giảm sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào chính sách quản lý ngoại hối và cơ chế điều hành tỷ giá . Điều này góp phần bỏ các hạn chế trong quá trình chu chuyển vốn, góp phần đẩy nhanh tiến độ hội nhập của nền kinh tế. Để nâng cao giá trị cho bản tệ, củng cố hoạt động quản lý ngoại hối Ngân hàng Nhà nước nên thực hiện việc tự do chuyển đổi đồng tiền Việt Nam trong các giao dịch vãng lai. Khi kinh tế tương đối ổn định, quỹ dự trữ dồi dào, Chính phủ tiến hành tự do chuyển đổi tiền tệ trong các giao dịch vốn và sau đó mở rộng ra các giao dịch khác. Để thực hiện được điều này Chính phủ cần thực hiện các yêu cầu sau: - Chính phủ phải có một chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh. Chẳng hạn chính sách tài chính đối nội vừa đảm bảo sự phát triển nền sản xuất trong nước vừa cải thiện cán cân thương mại, nếu đạt được nó sẽ mở đường cho việc chuyển đổi đồng tiền. Ngược lại, đồng tiền chuyển đổi sẽ giúp cho quá trình cải cách được thông suốt. Bởi vì đồng tiền vững mạnh cộng với chế độ tỷ giá phù hợp sẽ giúp cán cân thanh toán thêm vững chắc. Ngoài ra khi tiền tệ được tự do chuyển đổi sẽ tạo ra các nhân tố kích thích thị trường, tạo điều kiện phát triển kinh tế. Trang 75 - Cần phải cải thiện khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, của doanh nghiệp Việt Nam và của đất nước Việt Nam. - Để có thể thực hiện thành công việc chuyển đổi đồng tiền đòi hỏi phải có đủ lượng ngoại tệ dự trữ . Nguồn ngoại tệ dồi dào sẵn sàng thoả mãn các nhu cầu ngoại tệ hợp lý sẽ củng cố lòng tin của công chúng vào giá trị bản tệ và là tác nhân quan trọng đẩy nhanh tiến độ tự do hoá trong chuyển đổi tiền tệ. - Bên cạnh đó Chính phủ cần đặc biệt quan tâm đến các giải pháp kích thích nền kinh tế như: hiện đại hoá nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp, xử lý các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ, thu hút đầu tư, xây dựng chính sách thích hợp để phát triển nông nghiệp, khuyến khích sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng chiến lược, triệt để chống buôn lậu, bài trừ tham nhũng ... 3.2 Giải pháp nâng cao khả năng kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ. 3.2.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ: Trong những năm gần đây, với sự tham gia vào thị trường Việt Nam của rất nhiều Ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ như ANZ Bank,Citi Bank,HSBC.....Với ưu thế về kỹ thuật nghiệp vụ, am hiểu thị trường, công nghệ hoàn hảo đã tạo một sức cạnh tranh rất lớn không chỉ đối với các Ngân hàng ở Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh mà còn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các Ngân hàng trên địa bàn Tp.Cần Thơ. Để có thể đứng vững trước sức ép cạnh tranh này Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ cần thực hiện các yêu cầu sau : - Phải xây dựng được một chế độ tỷ giá ngoại tệ tự do chuyển đổi với biên độ linh hoạt, tuỳ theo từng thời điểm cụ thể nhằm thu hút các nguồn ngoại tệ phục vụ nhu cầu thanh toán của khách hàng. Trang 76 - Thường xuyên theo dõi biến động và cập nhật thông tin tỷ giá trên thị trường ngoại hối quốc tế chính xác, tức thời nhằm giảm thiểu rủi ro, kinh doanh an toàn và có lãi. - Cần xây dựng các chương trình tự động hoá việc tính giá vốn của từng loại ngoại tệ, đánh giá kết quả kinh doanh ngoại tệ, tính toán thu nhập của hoạt động kinh doanh chuyển đổi ngoại tệ, tính số dư tài khoản vãng lai để tạo thuận lợi trong kinh doanh. - Cải tiến quy trình giao dịch đối với khách hàng, đẩy mạnh công tác tư vấn thông qua các công cụ trên thị trường ngoại hối nhằm giúp họ thực hiện hiệu quả các công cụ phòng ngừa rủi ro, đa dạng hoá các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. - Xây dựng và áp dụng biểu phí dịch vụ cạnh tranh, nhất là các loại phí liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, hoặc các hoạt động thu hút ngoại tệ về cho Ngân hàng. 3.2.2 Đầu tư phát triển công nghệ thông tin ngân hàng hỗ trợ phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ : Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, mọi ngân hàng đều phải tự vươn lên để đủ sức cạnh tranh và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Không nằm ngoài xu thế đó, Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ cần phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ cấu tổ chức một cách có hệ thống. Cơ cấu lại tổ chức bộ máy ngân hàng đồng nghĩa với việc sắp xếp lại hệ thống công nghệ thông tin cho phù hợp với mô hình mới, lấy công nghệ làm công cụ đắc lực thúc đẩy các hoạt động kinh doanh. Với khả năng cho phép tự động hoá hoạt động tác nghiệp, xây dựng và phát triển các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, đột phá các lĩnh vực bán buôn và đặc biệt là mảng kinh doanh ngoại tệ, tăng cường kiểm tra, giám sát, hiện đại hoá công nghệ thông tin ngân hàng vừa có tính thời sự, vừa là yếu tố lâu dài đảm bảo sự phát triển bền vững của một Ngân hàng hiện đại. Trang 77 Thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về việc ưu tiên cho công nghệ thông tin, trong thời gian qua, ngành ngân hàng đã chứng kiến sự phát triển ngoạn mục trong hoạt động kinh doanh của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương với sự gia tăng mạnh mẽ của một loạt các sản phẩm phục vụ khách hàng. Tuy nhiên mảng kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng Ngoại Thương chưa quan tâm đúng mức, hệ thống mạng truyền thông phụ thuộc quá nhiều vào bưu điện, chưa có mạng thông tin trực tuyến về thị trường ngoại tệ quốc tế, chưa có hệ thống phân tích thông tin thị trường ngoại hối, hệ thống truyền số liệu thường xuyên bị quá tải... Kinh doanh ngoại tệ là mảng nghiệp vụ mang lại lợi nhuận tương đối cao, an toàn hơn là kinh doanh tín dụng, năm 2004 doanh thu kinh doanh ngoại tệ chiếm 14% trên tổng doanh thu, đây chính là lý do để Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ quan tâm đầu tư công nghệ cho mảng nghiệp vụ này. Ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại sẽ giúp cho Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ nâng cao chất lượng quản lý, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh tệ nói riêng, giảm chi phí quản lý, giảm giá thành sản phẩm, nắm bắt kịp thời thông tin thị trường ngoại hối, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh. Do vậy có thể nói rằng nền tẳng công nghệ thông tin hiện đại không những là chìa khoá tạo điều kiện cho Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ khẳng định vị trí,vai trò của mình là nhà cung cấp dịch vụ kinh doanh ngoại tệ hàng đầu tại khu vực Đồng Bằng sông Cửu Long mà còn giúp Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ tự tin tham gia quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. 3.2.3 Đẩy mạnh công tác khách hàng: Nhìn nhận một cách khách quan, với một hệ thống sản phẩm tốt có chất lượng hiện nay, mức phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ còn chưa thật sự tương xứng với tiềm năng của Khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi có thế mạnh về xuất khẩu thuỷ sản và Trang 78 hàng nông sản. Một nguyên nhân chủ yếu là do công tác khách hàng còn nhiều yếu kém: - Hệ thống Ngân hàng Ngoại Thương chưa có những quy định thống nhất về công tác dịch vụ khách hàng trên toàn hệ thống. - Chưa tổ chức những chiến lược quảng bá rộng rãi, chuyên nghiệp về các sản phẩm ngân hàng trong chiến lược Marketing thống nhất, các chương trình còn mang tính tự phát,nhỏ lẻ. - Chất lượng dịch vụ khách hàng còn kém, thể hiện ở trình độ nắm bắt đặc tính nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, thái độ phục vụ, công nghệ hỗ trợ, kiến thức nghiệp vụ, tính tức thời của việc cập nhật tỷ giá ... chưa đáp ứng yêu cầu của khách hàng. - Chưa khai thác được hệ thống khách hàng hiện có cho sản phẩm kinh doanh ngoại tệ, nhiều khách hàng còn chuyển ngoại tệ để bán cho các ngân hàng nước ngoài...Chưa có chính sách chăm sóc khách hàng phù hợp với từng đối tượng. Những hạn chế nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ, có thể tỷ giá mua thấp hơn một chút nhưng chất lượng dịch vụ tốt, quan hệ gắn bó thì khách hàng sẵn sàng bán ngoại tệ cho Ngân hàng. Để thu hút khách hàng cho nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ cần thực hiện các giải pháp sau: + Củng cố và tăng cường xây dựng Phòng Vốn trở thành bộ phận chuyên nghiệp dành cho nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ. + Có chính sách đặc biệt đối với những khách hàng xuất khẩu có quan hệ tốt với ngân hàng thông qua việc hỗ trợ về lãi suất vay, lãi suất chiết khấu, giảm phí thanh toán ... + Có cam kết hỗ trợ bán ngoại tệ cho các nhu cầu hợp lý đối với những khách hàng truyền thống, có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn. Trang 79 + Chuẩn hoá các chiến lược tiếp thị sản phẩm và đảm bảo các kế hoạch tiếp thị cụ thể phải được thực thi tại các Chi nhánh cấp II, nâng cao hơn nữa vai trò quảng cáo và quảng bá thương hiệu. + Quán triệt tinh thần chỉ đạo - quản lý theo ngành dọc, tạo tính thống nhất trong toàn hệ thống Ngân hàng Ngoại Thương. + Có sự phối hợp thống nhất và nhịp nhàng giữa các phòng ban có liên quan đến các hoạt động về ngoại tệ, nhằm cung cấp thông tin kịp thời cho khách hàng khi có nhu cầu mua bán ngoại tệ. 3.2.4 Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ : Các nghiệp vụ ở thị trường ngoại hối bao gồm: giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai. Về cơ sở pháp lý các Ngân hàng thương mại Việt Nam được phép tiến hành 4 loại nghiệp vụ là giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi và quyền chọn. Tuy nhiên hoạt động kinh doanh trên thị trường ngoại hối của nước ta vẫn còn sơ khai, non trẻ, chỉ mới tập trung vào nghiệp vụ giao ngay, các nghiệp vụ khác ít phát sinh. Vì vậy việc hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ là rất cần thiết đối với các Ngân hàng thương mại trong đó có Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ. Hiện nay Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ đã bắt đầu thực hiện nghiệp vụ kỳ hạn nhưng số lượng rất ít, còn nghiệp vụ hoán đổi và quyền chọn thì chưa có. Như đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng lên tỷ giá kỳ hạn và hoán đổi là tỷ giá giao ngay, chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền trong giao dịch và thời hạn hợp đồng. Vì mục đích chính của việc sử dụng các nghiệp vụ này là phòng chống rủi ro tỷ giá nên cần phải khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng rộng rãi. Biện pháp thực hiện : - Tỷ giá cần được xây dựng trên cơ sở quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường. Rõ ràng với chính sách tỷ giá cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo môi trường để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi. Trang 80 - Ngân hàng cần xây dựng chương trình giới thiệu về lợi ích mang lại cho các doanh nghiệp khi thực hiện các nghiệp vụ này, phân tích rủi ro về sự biến động tỷ giá đối với nghiệp vụ xuất nhập khẩu. - Thực hiện thử nghiệm nghiệp vụ quyền chọn giữa VND và USD, khi thị trường đã quen dần thì mở rộng sang các loại ngoại tệ khác hoặc khi thị trường ngoại hối Việt Nam đã đạt đến trình độ quốc tế. - Áp dụng nhiều hình thức huy động vốn ngoại tệ linh hoạt và đa dạng nhằm thu hút tối đa các nguồn ngoại tệ vào Ngân hàng. - Áp dụng kinh doanh đa dạng các loại ngoại tệ khác ngoài USD. 3.2.5 Nâng cao trình độ cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại tệ: Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ là một nghiệp vụ tương đối phức tạp, ngoài việc ứng dụng các công nghệ hiện đại, đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, nhanh nhạy trong phân tích và thích ứng với cường độ công việc cao. Trong điều kiện thị trường ngoại hối của Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, việc đầu tư nâng cao trình độ và đầu tư cho đội ngũ cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại thương Cần Thơ là rất cần thiết. Để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại tệ, Ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau: - Tổ chức đào tạo và đào tạo lại những người làm công tác này thông qua việc cử đi tham gia các lớp huấn luyện tại các Trường đại học uy tín, nếu có điều kiện cử đi học tại nước ngoài như Anh, Mỹ, Nhật, Singapore nơi có thị ngoại hối phát triển. - Mời các chuyên gia có kinh nghiệm đến tập huấn cho đội ngũ nhân viên này để họ có điều kiện tiếp xúc và học hỏi kinh nghiệm trực tiếp từ những chuyên gia. - Hoạt động kinh doanh ngoại tệ mang tính quốc tế, liên quan đến các thị trường trên thế giới và biến động không ngừng đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có trình độ ngoại ngữ và khả năng phân tích. Do vậy khi tuyển dụng nhân sự Trang 81 mới cho hoạt động này cần quan tâm đến khả năng phân tích, trình độ ngoại ngữ , vi tính và những kiến thức am hiểu thị trường ngoại hối. - Nếu cần thiết, Ngân hàng Ngoại Thương Trung Ương cần xây dựng một trung tâm đào tạo riêng để tập huấn các nghiệp vụ liên quan đến ngoại tệ, cập nhật những kiến thức kỹ năng mới phục vụ cho công tác kinh doanh của Ngân hàng. Kinh doanh ngoại hối mang lại hiệu quả rất cao, nhưng chính sách tiền lương và chế độ khen thưởng chưa được quan tâm đúng mức đã ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của các nhân viên này. Để khuyến khích họ tập trung vào kinh doanh, Ngân hàng cần có tỷ lệ trích thưởng hợp lý trên lợi nhuận do đội ngũ nhân viên làm công tác kinh doanh ngoại tệ mang lại, có như vậy mới khuyến khích các dealer tập trung vào công việc kinh doanh và hiệu quả kinh doanh ngoại tệ sẽ cao hơn. Trang 82 KẾT LUẬN Qua nghiên cứu hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ, bản thân nhận thấy nghiệp vụ kinh doanh hối là một nghiệp vụ mới đầy tiềm năng để phát triển, nếu thực hiện tốt sẽ mang lại hiệu quả rất lớn không những cho các nhà kinh doanh tiền tệ mà còn giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long có điều kiện sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, tìm kiếm lợi nhuận, bảo đảm an toàn nguồn vốn và đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá. Nội dung luận văn bao gồm 03 chương được sắp xếp có hệ thống. Trên cơ sở lý luận để phân tích thực trạng kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ giai đoạn 2002-2004, xác định mức độ sử dụng các nghiệp vụ ngoại hối hiện nay ra sao, xác định nguyên nhân của việc hạn chế sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, nêu lên những thành tựu và tồn tại trong cơ chế quản lý ngoại hối, về chính sách điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước...Từ đó đề ra các giải pháp có tính khả thi, góp phần xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ. Do thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm đối với nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ còn nhiều hạn chế nên Luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Nhưng với mong muốn được đóng góp một phần nhỏ bé của mình để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ, ngày càng có nhiều khách hàng sử dụng nghiệp vụ ngoại hối để phòng ngừa rủi ro tỷ giá và chính sách quản lý ngoại hối của Nhà nước ngày càng hoàn thiện hơn đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hội nhập. Bản thân sẽ tiếp tục nghiên cứu hoạt động kinh doanh ngoại hối trong thời gian tới để góp phần Trang 83 tìm ra giải pháp thích hợp phục vụ tốt nhất cho sự phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối tại Việt Nam Một lần nữa, xin chân thành cám ơn Quý Thầy cô Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đã hướng dẫn nghiên cứu và giảng dạy những kiến thức kinh tế bổ ích trong suốt khoá học. Cám ơn Thầy PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn, người đã hết lòng giúp đỡ tác giả trong thời gian thực hiện luận văn này./. Trang 84 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn: Tiền tệ - Ngân hàng – NXB Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2001. 2. TS. Trần Ngọc Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Định, TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS. Nguyễn Thị Liên Hoa : Tài chính quốc tế – NXB Thống kê năm 2001. 3. TS. Trần Ngọc Thơ, TS. Nguyễn Ngọc Định, TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS. Nguyễn Thị Liên Hoa : Tài chính doanh nghiệp hiện đại – NXB Thống kê năm 2003. 4. PTS. Nguyễn Thị Thu Thảo : Đổi mới và hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối ở Việt Nam – NXB Chính trị quốc gia năm 1999. 5. TS. Nguyễn Văn Tiến : Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối – NXB Thống kê năm 2001. 6. TS. Nguyễn Văn Tiến : Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở – NXB Thống kê năm 2000. 7. PGS.TS Nguyễn Công Nghiệp : Tỷ giá hối đoái phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh – NXB Tài chính năm 1996. 8. TS. Lê Quốc Lý : Tỷ giá hối đoái những vấn đề lý luận và thực tiễn điều hành ở Việt Nam – NXB Thống kê năm 2004. 9. PTS. Lê Văn Tề : Kinh doanh ngoại hối và xác định tỷ giá - NXB Tp.Hồ Chí MInh năm 1994. 10. Một số văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối - Số chuyên đề, Vụ Quản lý ngoại hối. 11. Báo cáo hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ năm 2002-2004. 12. Tạp chí ngân hàng, Thời báo ngân hàng, tạp chí thông tin Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 13. Anunal report 2002,2003,2004 của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. 14. By Sam Y.Cross : All about ...the foreign exchange market in the United states – Federal Reserve Bank of New York 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf42935.pdf
Tài liệu liên quan