Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Quá trình đổi mới đang diễn ra ngày càng sâu rộng và triệt để trên mọi nhân tố của nền kinh tế, trong mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với NHNNo&PTNT Việt Nam đã có những đổi mới và hoàn thiện nhưng để sao cho có hiệu quả thì vẫn là một vấn đề bức xúc, có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Riêng hoạt động tín dụng NHNNo&PTNT Việt Nam cũng nằm trong xu hướng đổi mới đó và luôn tự hoàn thiện, khắc phục những hạn chế, khó khăn còn tồn tại góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của NHNNo&PTNT Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng nền kinh tế phát triển vững mạnh. Với luận văn về đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam”, em đã phần nào hệ thống hoá vị trí, vai trò và sự cần thiết trong việc nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng. Qua việc đánh giá thực trạng tín dụng, luận văn đã phân tích và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để từ đó khẳng định việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHNNo&PTNT Việt Nam trong thời gian tới là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với thông lệ quốc tế. Do trình độ hiểu biết, điều kiện và phạm vi nghiên cứu có hạn nên luận văn khó tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của thầy cô và các bạn để luận văn có ý nghĩa thiết thực hơn.

doc74 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kinh doanh, hiệu quả tín dụng được cũng cố … Nguồn vốn huy động tăng qua các năm. Trong 2 năm 2002 – 2003, nguồn vốn huy động và dư nợ vượt trên 30% chỉ tiêu đề ra. Đã có sự chuyển dịch cân bằng trong cơ cấu nguồn vốn huy động cũng như sử dụng vốn. Tỷ trọng của đồng ngoại tệ tăng lên đáng kể. Tỷ lệ nợ quá hạn ngày càng giảm xuống do có sự nổ lực tập trung giải quyết các khoản nợ khó đòi của NHNNo&PTNT Việt Nam qua các năm. Tỷ lệ Nợ quá hạn / Tổng dư nợ năm 1997 là 0,051 thì đến năm 2002 là 0,023. NHNNo&PTNT Việt Nam là một công cụ hữu ích, hiệu qua cho các chính sách kinh tế của Nhà nước, tạo ra sự an toàn về hoạt động tín dụng như: gia hạn tín dụng; tiền gửi dữ trữ bắt buộc; khả năng thanh toán nhanh; thanh toán ngoại hối … nỗ lực tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển, phục vụ các hộ nông dân, tổ chức kinh tế, … và các dự án đầu tư của Chính phủ. Hiệu quả tín dụng từng bước được nâng cao. Đây là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của bất cứ loại hình Ngân hàng thương mại nào.Thế nhưng không phải bất cứ có hoạt động Ngân hàng là sẽ có được hiệu quả hoạt động tín dụng. Vốn tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ nhằm xây dựng duy trì củng cố và phát triển các tổ chức kinh tế. Trong quá trình phát triển hoạt động tín dụng vẫn không ngừng được cải tiến cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm nâng cao hiệu quả nguồn vốn. Hiệu quả tín dụng của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam trong những năm qua đã có những bước chuyển dịch cơ cấu vốn tín dụng, cụ thể là việc tăng dần tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn, giảm tỷ trọng dư nợ vay ngắn hạn. Tổng dư nợ vay (ngắn, trung dài hạn) tăng nhanh năm sau cao hơn năm trước . e) Hoạt động tín dụng góp phần nâng cao lợi nhuận, uy tín cũng như ưu thế cạnh tranh của các chi nhánh Ngân hàng nói riêng và NHNN&PTNT Việt Nam nói chung. 2. Những hạn chế, vướng mắc của hoạt động tín dụng tại NHNNo & PTNT Việt Nam * Thứ nhất, trong cơ chế huy động vốn: Còn nhiều hạn chế trong chiến lược dài hạn huy động vốn nhàn rỗi, chậm đổi mới và phát triển nghiệp vụ huy động vốn. Nhìn chung trong thời gian qua, huy động vốn của NHNNo&PTNT Việt Nam chủ yếu vẫn là vốn ngắn hạn, trong vốn ngắn hạn thì tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm và loại tiết kiệm ngắn hạn là chủ yếu. Còn loại tiền gửi tiết kiệm dài hạn từ 2 năm trở lên còn nhiều hạn chế, chưa huy động được nhiều nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào các dự án thích hợp. Việc chưa đa dạng hoá các biện pháp huy động nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp làm cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng chưa thực sự năng động mà hầu hết là do nhu cầu từ phía doanh nghiệp. Ngoài ra còn chưa đáp ứng được nhu cầu tiền mặt cho các doanh nghiệp, xử lý công việc thanh toán còn trì trệ, gây tổn thất về tài chính cho khách hàng, không đáp ứng được nhu cầu tín dụng chưa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng sử dụng tài khoản mở ở Ngân hàng … Chính sách bảo hiểm các loại tiền gửi chưa được thoả đáng làm hạn chế nguồn vốn huy động nhằm mỡ rộng tín dụng. Bởi do lãi suất thị trường chưa thu hút và chưa đồng bộ nên cũng chưa đủ sức hấp dẫn điều đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình huy động vốn, nhất là các nguồn tiền nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư. Chưa kết hợp tốt và đổi mới phương thức huy động vốn. Mà hình thức chủ yếu sử dụng huy động vốn truyền thống, tuy đã có sử dụng các phương thức mới trong thời gian gần đây nhưng còn hạn chế. Những phương thức: trái phiếu NHTM; kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích; tiết kiệm bằng vàng; bằng VND đảm bảo giá trị theo vàng (được thí điểm mới tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2002); ngoài ra còn có các hình thức huy động tiết kiệm và kỳ phiếu bằng ngoại tệ trong nước để dùng cho vay các nhu cầu ngoại tệ phục vụ cho việc xuất khẩu hàng hoá và tăng cường công tác quản lý ngoaị hối. * Thứ hai, trong cơ chế sử dụng vốn Dư nợ tín dụng qua các năm đều tăng trưởng phù hợp với nhịp độ tăng trưởng kinh tế; cơ cấu đầu tư tín dụng đã có sự thay đổi, tín dụng ngoài quốc doanh đã được mỡ rộng so với trước đặc biệt là cho vay trực tiếp hộ sản xuất nông nghiệp ở nông thôn và các hộ sản xuất tiêủ thủ công nghiệp ở thành phố. Tuy nhiên vẫn còn những vướng mắc đó là: Chưa đa dạng hoá được nghiệp vụ cho vay vốn đối với nền kinh tế. Đó là NHNNo&PTNT Việt Nam có 2 phương pháp cho vay và 2 tài khoản cho vay thông dụng và phổ biến: phương pháp cho vay luân chuyển, sử dụng tài khoản cho vay luân chuyển; phương pháp cho vay từng lần, (từng dự án) sử dụng tài khoản cho vay thông thường hiện nay vẫn là chủ yếu. Hiệu quả cho vay vốn còn thấp và tình trạng vi phạm các nguyên tắc tín dụng còn phổ biến. Nợ quá hạn và nợ khó đòi hiện nay vẫn còn phát sinh ở những doanh nghiệp có vốn vay Ngân hàng, làm khê đọng một lượng vốn rất lớn trong nền kinh tế; tỷ trọng nợ qúa hạn trong tổng dư nợ còn chiếm tỷ trọng cao, năm 2002 là 2,3% tăng 1,6% so năm 2001 mặc dù năm 2002 đã xử lý rủi ro 764 tỷ đồng / 1.020 tỷ đồng Độ an toàn trong hoạt động tín dụng còn chưa được đảm bảo, Bởi do NHNNo&PTNT Việt Nam có đặc điểm hoạt động kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nên luôn tiềm ẩn rủi ro cao. Hơn nữa các cơ chế chính sách của Nhà nước đảm bảo cho hoạt động kinh doanh trong nông nghiệp còn nhiều bất cập, như quỹ bảo hiểm mùa màng chưa có đầy đủ hoặc thiên tai thường xuyên ảnh hưởng đến các kết quả kinh doanh của lĩnh vực nông nghiệp … Những hạn chế của tài sản thế chấp trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng đó là: + Tài sản thế chấp trong khu vực kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu Nhà nước khi doanh nghiệp không trả được nợ thì Ngân hàng khó phát mại tài sản để thu nợ. + Tài sản thế chấp như: Nhà cửa, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải … rất khó chuyển đổi thành tiền để thu nợ ngoài ra còn phát sinh các chi phí bảo quản tốn kém. + Giá trị tài sản thế chấp chưa đa dạng, phạm vi sử dụng hẹp như: sổ tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu Ngân hàng, tín phiếu kho bạc … + Việc quản lý các tài sản thế chấp có nơi, có lúc chưa đủ độ an toàn. Một tài sản được dùng để thế chấp ở nhiều Ngân hàng và đến khi đổ vỡ tín dụng mới phát hiện được. + Việc xử lý tài sản thế chấp còn nhiều bất cập trong yếu tố pháp lý. Chưa có chính sách bảo hiểm tín dụng cho kinh doanh của Ngân hàng, do vậy nhiều khoản tiền cho vay còn gặp nhiều rủi ro, gây những tổn thất mà không được đền bù thích đáng. * Thứ ba, đó là yếu tố khách hàng. NHNNo&PTNT Việt Nam tuy đã có phát triển công tác khách hàng nhưng đôi khi nhận thức về công tác khách hàng còn chưa coi trọng đúng mức, và so với yêu cầu sự nghiệp phát triển thì còn: chưa được triển khai và nhất quán, nhiều bộ phận, cán bộ vẫn chưa ý thức hết được tầm quan trọng của khách hàng, nội dung nghiên cứu về khách hàng còn chưa đầy đủ. 3. Những nguyên nhân chủ yếu: Những nguyên nhân làm ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động tín dụng bao gồm nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan: 3.1. Nguyên nhân chủ quan: Thứ nhất: do buông lỏng quản lý, thiếu tinh thần trách nhiệm còn thể hiện ở một số chi nhánh Ngân hàng tỉnh, huyện, liên xã: Không làm đúng quy trình nghiệp vụ, không kiếm soát chặt chẽ trước trong và sau khi co vay, mặc dù phát hiện được khách hàng sử dụng vốn sai mục đích nhưng không có biện pháp thu hồi nợ kịp thời, việc định giá tài sản đảm bảo nợ vay không sát dẫn đến cho vay lớn hơn nhiều tài sản (thế chấp, cầm cố) dẫn đến rủi ro cao trong việc thu hồi nợ vay. Có trường hợp cho vay hồ sơ tài sản đảm bảo nợ vay không đúng thủ tục pháp lý hiện hành đến khi những khoản nợ vay không có khả năng thanh toán thì việc xử lý tài sản đảm bảo nợ vay rất khó thực hiện. Thứ hai: Việc kiểm tra kiểm soát nội bộ có nhiều nơi còn buông lỏng, làm việc chỉ mang tính chiếu lệ. Việc kiểm tra, kiểm soát chưa thường xuyên, chưa nghiêm túc, việc xử lý thiếu cương quyết không dứt điểm, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tín dụng. Thứ ba: Trình độ cán bộ Ngân hàng: Tuy đã được quan tâm đào tạo lại, đại bộ phận cán bộ được trưởng thành trong thời kỳ kinh tế bao cấp, một số cán bộ mới được bổ sung thì thiếu hiểu biết thực tiễn, chưa đáp ứng đòi hỏi của cơ chế thị trường, việc xử lý điều tra và thu thập thông tín nhiều khi chỉ mang tính võ đoán, thiếu kiến thức về những nghành lĩnh vực mình cho vay vốn, thiếu kiến thức về luật pháp các văn bản hướng dẫn dẫn đến nhận thức sai đưa ra những quyết định trong công việc không chính xác. Dẫn đến việc cho vay các phương án sản xuất, dự án.. không có khả năng thu hồi nợ vay. Thứ tư: Về phía người điều hành: một số ít tỏ ra thiếu bản lĩnh, thiếu kiểm tra thường xuyên, chạy theo lợi ích cục bộ. Việc bố trí sử dụng cán bộ thiếu chọn lọc, một số nơi lấy lý do thiếu người, kiêm nhiệm gồm cả ba chức năng riêng biệt: kế toán, thủ quỹ tín dụng vào một người, rất nguy hiểm cho công tác quản lý. Trình độ thẩm định của cán bộ có trách nhiệm trực tiếp (như cán bộ thẩm định, cán bộ tín dụng) nhìn chung còn yếu về mặt nghiệp vụ, chưa dày dạn trong kinh tế thị trường. 3.2. Nguyên nhân khách quan: Thứ nhất: Môi trường kinh tế chưa ổn định Việc quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh đổi mới và hoàn thiện để phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình thích ứng của các doanh nghiêp theo cơ chế thị trường còn chậm, việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước diễn ra chưa kịp với xu thế phát triển của đất nước. Việc quản lý về các chính sách về xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ đặc biệt là ở những cửa khẩu (như: Tân thanh, móng cái, lào cai, cầu treo, lao bảo, tây ninh...)tình trạng các mặt hàng nhập lậu một cách ồ ạt, cạch tranh khốc liệt với các mặt hàng sản xuất trong nước, dẫn đến nhiều doanh nghiệp sản xuất không tiêu thụ được sản phẩm gây ứ đọng vốn, giảm hiệu quả kinh doanh. Thị trường tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu ở nước ta hiện nay vẫn còn mang tính chất manh múm, chưa được nghiên cứu và hoạch định dài hạn, chưa được các cơ quan quản lý nhà nước nghiên cứu dự báo một cách kịp thời. Nhiều doanh nghiệp khi vay vốn Ngân hàng để thu mua hàng xuất khẩu (hàng đông lạnh, cà phê, cao su, gạo, ....) do việc thu thập thông tin không đầy đủ nên nhiều khi bán với giá thấp , dẫn đến không trả được nợ vay Ngân hàng. Thứ hai: Môi trường pháp lý về tài sản thế chấp cầm cố còn nhiều vướng mắc: Một số văn bản pháp lý của các ban nghành liên quan có liên quan tới vần đề thế chấp cầm cố vốn vay Ngân hàng còn nhiều bất cập, có những quy định chưa đồng bộ, chưa đầy đủ và thiếu văn bản hướng dẫn hoặc chưa phù hợp với yêu cầu vì vậy trong quá trình thực hiện xử lý gặp rất nhiều khó khăn Về giấy tờ pháp lý của tài sản thế chấp cầm cố: Nhiều doanh nghiệp nhà nước không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu và sử dụng tài sản khi giao vốn. Các cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản chưa quản lý chặt chẽ bản gốc giấy tờ đăng ký quyền sở hữu trong suốt thời gian thế chấp cầm cố dẫn đến một tài sản có nhiều bản gốc đã tạo điều kiện cho người sở hữu lừa đảo đem thế chấp ở nhiều ngân hàng nhằm mục đích chiếm dụng vốn. Về những quy định phát mại tài sản thế chấp cầm cố: Trong thực tế còn gặp rất nhiều khó khăn bởi vì cả Luật dân sự và Luật doanh nghiệp còn quy định chung chung về cơ quan có thẩm quyền tổ chức đấu giá tài sản, chưa có những quy định cụ thể về xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp bên vay thiếu khả năng trả nợ, và cơ quan có trách nhiệm tổ chức bán đấu giá tài sản. Nhiều trường hợp doanh nghiệp không trả được nợ nhưng bên vay không phát mại được tài sản, vì vậy ngân hàng không thu hồi được nợ mặc dầu vần còn tài sản để phát mại. Thứ ba: Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn thiếu chặt chẽ: Việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp còn nhiều sơ hở, tình trạng nhiều khách hàng thành lập công ty cơ sở kinh doanh nhưng thực tế trình độ quản lý và năng lực tài chính còn yếu kém. Thứ tư: Năng lực sản xuất kinh doanh của một số doanh nhiệp còn yếu kém: do kinh doanh thua lỗ, trình độ năng lực quản lý bị hạn chế, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Qua số liệu điều tra thực tế đang ở mức báo động: số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm khoảng 15%, khoảng 40 – 50% các doanh nghiệp chỉ đủ trang trải chi phí không có lãi, làm ảnh hưởng lớn đến việc trả nợ vay vốn tại Ngân hàng. Kết luận: Hiệu quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng NNo & PTNT Việt Nam trong những năm qua đã khẳng định vai trò của một Ngân hàng thương mại lớn trong nền kinh tế thị trường trong việc góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyền dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng “ công nghiệp hoá hiện đại hoá “ . Tuy nhiên, những vấn đề tồn tại và hạn chế như đã trình bày trên đây cần được xem xét nghiêm túc để có biện pháp giải quyết hữu hiệu nhăm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Xứng đáng là ngân hàng thương mại chủ lực trong quá trình “ thúc đẩy và phát triển nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn “ ở Việt Nam hiện nay Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam I. Định hướng phát triển của NHNNo&PTNT Việt Nam 1. Mục tiêu tổng quát NHNNo&PTNT Việt Nam phải thực sự trở thành lực lượng chủ đạo và chủ lực trong vai trò cung cấp tín dụng cho đâù tư và phát triển nông nghiệp và nông thôn phù hợp với chính sách, mục tiêu của Đảng, Nhà nước trong từng giai đoạn. Mở rộng hoạt động một cách vững chắc, an toàn, có quy mô vốn tự có đủ lớn, áp dụng công nghệ tin học, cung cấp các dịch vụ và tiện ích thuận lợi, thông thoáng đến mọi loại hình doanh nghiệp và dân cư ở thành phố, thị xã, tụ điểm kinh tế nông thôn, nâng cao và duy trì khả năng sinh lời, phát triển và bồi dưỡng nguồn nhân lực để có sức cạnh tranh và thích ứng nhanh chóng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Mức phấn đấu trong thời kỳ 10 năm (2000 – 2010): Tăng trưởng dư nợ cho vay bình quân 16% / năm: đến cuối năm 2005 đạt 84.000 tỷ VND; đến cuối năm 2010 đạt 176.000 tỷ VND. Dư nợ cho vay trung dài hạn tăng bình quân 14 – 16% / năm: đến cuối 2005 đạt 33.000 tỷ VND; đến cuối 2010 đạt 176.000 tỷ VND. Đạt mức tăng trưởng cho vay chiếm 94 – 96% Tổng tài sản có với tăng vốn tự có đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn 8% (năm 2005 vốn tự có 500 triệu USD tương đương 7.000 tỷ VND và năm 2010 vốn tự có là 1 tỷ USD tương đương 16.000 tỷ VND). Tăng nguồn vốn để đảm bảo nguồn vốn cho vay, an toàn chi trảvà đầu tư cân đối nguồn vốn cho vay trung dài hạn. Tổng nguồn vốn đến năm 2010 đạt 250.000 – 260.000 tỷ VND. Tăng nhân viên kết hợp mỡ rộng sản phẩm, dịch vụ, hệ thống hỗ trợ để bình quân tài sản có / 1 nhân viên khoảng 6 tỷ, số lượng nhân viên đến năm 2010 là 30.000 người, bố trí 15.000 cán bộ tín dụng, bình quân 1 cán bộ tín dụng đạt 12 tỷ dư nợ. Tăng mạng lưới phù hợp theo quy mô phát triển, cạnh tranh và hội nhập. Cân đối chi phí hoạt động trên tổng thu nhập để đảm bảo khả năng sinh lời trên 14%. Doanh thu từ hoạt động cho vay chiếm 60 – 70%, từ dịch vụ và các hoạt động khác chiếm 30 –40%. Có hệ thống quản lý giám sát nội bộ và khách hàng để đảm bảo tỷ lệ nợ quá hạn không quá 3% tổng dư nợ theo thời điểm Thu nhập người lao động tăng phù hợp theo quy mô phát triển để cạnh tranh với thu nhập khu vực tư nhân. 2. Mục tiêu cụ thể (Giai đoạn 2001 – 2005) Nâng cao hiệu quả tín dụng, không có nợ tồn đọng mới phát sinh do nguyên nhân chủ quan. Tiếp tục duy trì khả năng thanh khoản. Hoà nhập với chuẩn mực kế toán quốc tế. Tăn cường khả năng sinh lời và khả năng bền vững. Mỡ rộng và từng bước đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. Tăng cường huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn. Xây dựng hệ thống thông tin quản lý dữ liệu, đáp ứng mọi yêu cầu của công tác quản lý, điều hành. Sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo mô hình Ngân hàng thương mại hiện đại. Tăng cường công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ, nhân viên. a. Chỉ tiêu phấn đấu (Giai đoạn 2001 – 2005): Tổng tài sản Nợ đạt: 120.000 tỷ đồng, tăng 113% so với năm 2000; tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 22% mà cụ thể năm 2001: 69.820 tỷ đồng, năm 2001: 83.500 tỷ, năm 2003: 96.000 tỷ, năm 2004: 108.000 tỷ, năm 2005: 120.000 tỷ. Trong đó vốn huy động là 105.000 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 87,5% so với tổng nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 24%. Nguồn vốn uỷ thác đầu tư đến năm 2005 đạt 3.600 tỷ đồng. Tổng tài sản Có: 120.000 tỷ đồng, tăng 113% so với năm 2000 (Tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt 22%, cụ thể là năm 2001: 69.820 tỷ; năm 2002: 83.500 tỷ; năm 2003: 96.000 tỷ; năm 2004: 108.000 tỷ; năm 2005: 120.000 tỷ đồng. Dư nợ tín dụng 100.000 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 83,3% trong tổng sử dụng vốn, tốc độ tăng trưởng bình quân là 24,4%/ năm, trong đó cho thuê tài chính đạt 8.000 tỷ, đồng thời dành tỷ lệ vốn thích đáng vào nghiệp vụ bảo lãnh, tham gia nghiệp vụ thị trường mở. Tỷ lệ nợ quá hạn dưới 3% so tổng dư nợ. Đến năm 2005 nguồn thu của NHNNo&PTNT VIệt Nam phấn đấu đạt: Thu từ nghiệp vụ tín dụng chiếm từ 80 – 85%; thu từ dịch vụ chiếm từ 15 – 20%. b. Phương hướng, mục tiêu năm 2004: * Phương hướng: Năm 2004, Nhà nước đã xác định những mục tiêu lớn của đất nước đó là: nâng cao chất lượng và hiệu quả tăng trưởng kinh tế với mức tăng trưởng GDP trên 8%; thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung, hình thành các vùng chuyên canh, thâm canh có năng suất cao, có thị trường tiêu thụ. Đa dạng hoá ngành nghề trong nông thôn. Phấn đấu giảm các chi phí bất hợp lý trong quá trình sản xuất kinh doanh, huy động tối đa các nguồn lực đầu tư phát triển (nhất là nội lực) gắn với tăng cường kỷ luật tài chính và coi trọng tiết kiệm, đẩy mạnh áp dụng thành tựu khoa học kĩ thuật, thực hiện tốt xoá đói giảm nghèo, giữ vững an ninh chính trị trong mọi tình huống để phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững. Trên tinh thần đó trong điều kiện khó khăn, thách thức còn rất lớn nhưng NHNNo&PTNT Việt Nam vẫn xác định các mục tiêu, chỉ tiêu cho năm 2004 như sau: * Mục tiêu: Tiếp tục thực hiện chiến lược kinh doanh đã xác định, giữ vững vai trò chủ đạo, chủ lực, thực hiện đầu tư có chọn lọc trên thị trường nông nghiệp, nông thôn. Đông thời cũng cố phát triển thêm thị trường, thị phần ở khu vực thành thị. Mỡ rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng, đẩy mạnh thực hiện đề án cơ cấu lại NHNNo&PTNT Việt Nam có hiệu quả, các cam kết quốc tế, đầu tư vốn và đào tạo nguồn nhân lực để phát huy được hiệu quả, công nghệ Ngân hàng nhằm tăng thêm năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh, mỡ rộng hơn nữa các quan hệ quốc tế để hội nhập. * Chỉ tiêu cụ thể: Mức tăng trưởng nguồn vốn 22 – 25% so với năm 2003. Tăng trưởng dư nợ: 20 – 22% so với năm 2003. Dư nợ cho vay trung dài hạn chiếm 45% trong tổng dư nợ. Giành từ 4 –6% tổng nguồn vốn huy động để tham gia thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Thu dịch vụ ngoài tín dụng chiếm 15% so tổng thu nhập. Nợ quá hạn: dưới 3%. Lợi nhuận tăng 5% trở lên so năm 2003. Thu nhập của người lao động tăng hơn năm 2003, đáp ứng đày đủ theo chính sách Nhà nước với người lao động. II. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam 1. Hoàn thiện hoạt động huy động vốn: Trong cơ chế thị trường, huy động vốn qua kênh tín dụng ngân hàng chiếm vị trí quan trọng. Bởi bằng cách “đi vay để cho vay”, huy động vốn qua kênh tín dụng ngân hàng giải quyết cả hai đầu (đầu vào đầu ra), rạo ra kênh lưu thông vốn trong xã hội rất nhanh nhạy và liên tục. Việc khai thác nguồn vốn này như thế nào đó trách nhiệm trước hết thuộc về các TCTD và nó cũng là chủ lực trong chiến lược huy động vốn lâu dài; là giải pháp chủ yếu thực hiện “nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng”. Điều này lại càng có ý nghĩa quan trọng đối với NHN0& PTNT Việt Nam hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Để khai thác tốt nguồn vốn này NHN0& PTNT Việt Nam phải xử lý các vấn đề: Một là: Xác lập cơ chế huy động vốn của NHN0& PTNT Việt Nam phải phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của đất nước. Thực hiện chính sách này, các chi nhánh của NHN0& PTNT Việt Nam hướng vào: - Đổi mới cơ chế huy động vốn tại các chi nhánh, mà trước hết phải là lực lượng chủ yếu để thường xuyên tăng trưởng nguồn vốn tín dụng. Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế mở và sử dụng các tài khoản được thuận tiện; không phân biệt đối xử mở tài khoản giữa DNNN với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoặc với hộ tư nhân, cá thể nếu có đủ điều kiện. Đơn giản hoá một số thủ tục, mở rộng địa bàn thanh toán (không lệ thuộc vào địa dư hành chính)… Mục tiêu mở rộng huy động tiền gửi ở NHN0& PTNT Việt Nam là nhằm thu hút tối đa mọi nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Một mặt để tăng cường nguồn vốn tín dụng đầu tư sinh lợi, mặt khác tạo điều kiện mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt; giảm tiền mặt trong lưu thông, tiết kiệm chi phí phát hành tiền mặt. Hai mặt này có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau và tăng cường hiệu quả vận động vốn tiền tệ trong nền kinh tế, góp phần giảm lạm phát. - Mở rộng phạm vi sử dụng tài khoản tiền gửi. - áp dụng chế độ thưởng phạt đối với công tác thanh toán và sử dụng tiền mặt. Để đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi của cả đôi bên: khách hàng và ngân hàng, nên có những chính sách thưởng phạt rõ ràng. Nếu ngân hàng chậm thanh toán theo yêu cầu của khách hàng hoặc chuyển sai địa chỉ thì ngân hàng phải bồi thường cho khách hàng phù hợp với thiệt hại do ngân hàng gây ra cho khách hàng. Ngược lại, nếu khách hàng vi phạm quy chế thanh toán, quản lý tiền mặt như đổi séc hưởng tỷ lệ, cho thuê mướn tài khoản… thì bị phạt. Qua một thời kỳ nhất định, ngân hàng cần tổng kết và có chế độ thưởng cho khách hàng thực hiện tốt các copong tác thanh toán và quản lý tiền mặt. Quy chế này trong thời kỳ bao cấp và đầu thời kỳ đổi mới đã được đặt ra nhưng việc thực hiện còn hạn chế, nay cần phát huy ở mức hợp lý hơn. - Cần có chiến lược khách hàng, đặc biệt là khách hàng có số dư tiền gửi lớn và thường xuyên nộp tiền mặt vào ngân hàng lớn. Ngân hàng có chính sách phổ cập và ưu đãi suất cả tiền gửi và cho vay với mức độ phù hợp so với thông thường qua ngân hàng. Hai là: Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Việc tăng cường và khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức cá nhân mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng là rất cần thiết và quan trọng, góp phần thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, bởi vì tài chính hộ gia đình cũng là một bộ phận trong hệ thống tài chính. Do đó cần mở ra các hình thức huy động vốn phong phú đa dạng hơn, viên chức ngân hàng phải tiếp cận trực tiếp với hộ gia đình, doanh nghiệp để có thể huy động vào ngân hàng lượng vốn ngày càng lớn chứ không phải chờ đợi khách hàng đến với ngân hàng là chủ yếu. - áp dụng nhiều hình thức huy động tiết kiệm khác nhau: Chủ tịch Hội đồng quản trị NHN0& PTNT Việt Nam đã ban hành văn bản số 404/HĐQT - KHTH (10/10/2001) “V/v: Ban hành quy định các hình thức huy động vốn trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam” Nhằm phát triển các loại tiết kiệm không thời hạn và có thời hạn, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gởi góp, tiết kiệm bằng VNĐ đảm bảo giá trị theo vàng và ngoại tệ… Để thực hiện cần mở rộng mạng lưới huy động đến tận địa bàn dân cư; đơn giản thủ tục, đổi mới phong cách giao dịch, đặc biệt phải thực hiện sớm và mở rộng tiền gửi một nơi, lĩnh nhiều hơn. Mở rộng hình thức tiết kiệm thành các hình thức có khả năng chuyển nhượng (hoặc nghiệp vụ chiết khấu), tiết kiệm dưỡng lão, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm học đường, tiết kiệm xây dựng nhà ở… Đặc biệt là cơ chế lãi suất tiết kiệm phải được điều chỉnh sao cho cả ngân hàng và người gửi có được lãi suất thoả đáng. Lãi suất tiết kiệm phải kích thích người gửi, gửi càng lâu lãi suất càng cao nhằm động viên tối đa nguồn tiền nhàn rỗi mà trước đây người dân thường cất trữ bằng vàng, ngoại tệ để dự phòng. Việc áp dụng nhiều hình thức huy động vốn chắc chắn sẽ làm nguồn vốn tăng lên, đáp ứng tối đa nhu cầu đa dạng của dân chúng. Huy động vốn phải trên cơ sở đảm bảo an toàn, bí mật, thuận tiện cho khách hàng. Việc huy động vốn bằng hình thức này hay hình thức khác không thể tự ý “bày đặt”, mà phải nghiên cứu kỹ thị trường và các yếu tố ảnh hưởng. Chẳng hạn, mỗi một hình thức huy động mới ra đời phải nghiên cứu cụ thể các yếu tố: sự ổn định kinh tế, trình độ kinh tế hàng hoá, chính trị, xã hội, đời sống của dân, phong tục tập quán… - Mở rộng việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng được thực hiện mấy năm trở lại đây đã phát huy tác dụng tốt và có hiệu quả; trên cơ sở rút kinh nghiệm cần tiếp tục duy trì và phát triển nó. NHN0& PTNT Việt Nam căn cứ vào nhu cầu vốn của các doanh nghiệp từng thời kỳ, từng hoàn cảnh mà phát hành kỳ phiếu đáp ứng đủ và kịp thời nhu cầu vốn của họ. Lãi suất phát hành kỳ phiếu thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm cùng loại vì việc phát hành kỳ phiếu là không thường xuyên và mỗi khi phát hành đều có mục đích. Thực tế hiện nay NHN0& PTNT luôn phát hành kỳ phiếu để tạo vốn và phần lớn số dư tiền gửi tiết kiệm lại được rút ra và chuyển sang mua kỳ phiếu có mục đính, như vậy việc huy động vốn sẻ ít đem lại hiệu quả thiết thực, cụ thể là làm tăng thêm chi phí kinh doanh cho ngân hàng. Để khắc phục cần xác định lãi suất huy động vốn thông qua kỳ phiếu ngân hàng trên cơ sở mức độ rủi ro và thời gian đến hạn. Bên cạnh hình thức huy động kỳ phiếu như lâu nay vẫn làm, nên áp dụng hình thức huy động kỳ phiếu chuyển nhượng, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi và góp phần phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán ở nước ta. Ba là: Huy động vốn thông qua thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Để có vốn đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trước hết phải cải cách và hoàn thiện thị trường tín dụng nhằm đổi mới các quan hệ tín dụng giữa NHN0& PTNT Việt Nam với khách hàng bằng cách đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, tăng cường việc cung ứng vốn của NHNN cho NHN0& PTNT Việt Nam trên cơ sở tái chiết khấu, tái cấp vốn. Hiện nay trên lĩnh vực này hệ thống Ngân hàng Việt Nam thực hiện còn giới hạn, thậm chí nhiều khi coi như không có, hoặc có cũng chỉ là giải quyết có tính chất vụ việc không thường xuyên. Do đó, cần phải gấp rút hoàn thiện và phát triển các thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán. Nên thành lập trung tâm tư vấn tín dụng và đầu tư để giúp đỡ người có tiền vốn nhàn rỗi lựa chọn hình thức đầu tư có lợi nhất tuỳ thuộc vào khối lượng tiền vốn của từng người và kế hoạch sử dụng nguồn vốn của họ. Trước mắt trung tâm tư vấn tín dụng và đầu tư hoạt động dưới sự bảo trợ của NHNN, sau một thời gian có thể chuyển sang hoạt động dịch vụ, vừa làm tư vấn, vừa làm Marketing cho NHN0& PTNT Việt Nam. Bốn là: Hoạt động kinh tế của NHN0& PTNT Việt Nam cần gắn ksết với việc hình thành và phát triển các trung gian tài chính khác để luân chuyển vốn, vận động vốn có hiệu quả. Vốn cho CNH, HĐH nền kinh tế mà trực tiếp là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nguồn vốn tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, được hình thành từ nhiều năm; nguồn vốn tín dụng ngân hàng chỉ là một bộ phận trong tổng nguồn vốn đó. Hơn nữa bản thân NHN0& PTNT Việt Nam cũng là một trung gian tài chính, nên sự phối kết hợp trong hệ thống là một lẽ đương nhiên. Do đó, muốn hoạt động kinh doanh của NHN0& PTNT Việt Nam phát huy hiệu quả và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì phải gắn kết với các nguồn vốn đầu tư của trung gian tài chính khác hoạt động trên thị trường tài chính cùng đầu tư vào quá trình CNH, HĐH nền kinh tế. Điều này phải được thể hiện rõ trong chiến lược tạo vốn gắn liền với việc giải quyết các yêu cầu cung ứng và chuyển dịch các nguồn vốn trong nền kinh tế giữa các chủ nguồn vốn, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp. Chính vì vậy, các giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu vốn là một bộ phận cấu thành của chính sách huy động và sử dụng vốn của NHN0& PTNT Việt Nam. Chính sách này có liên quan và định hướng trước hết là hệ thống các tổ chức tài chính trung gian, chuyên làm nghiệp vụ vay, trả (huy động vốn, cho vay vốn) và các nghiệp vụ môi giới, giao dịch vốn. Đó là hệ thống các NHTM, các công ty tài chính, các hợp tác xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí… Việc hoàn thiện, phát triển hệ thống các tổ chức tài chính trung gian còn nhiều hạn chế. Do đó, cả về số lượng, loại hình và công nghệ phục vụ, đều lạc hậu so với thế giới. Điều đó không những cản trở tới việc thực hiện chính sách, đầu tư mà còn gây thiệt hại rất nhiều cho nền kinh tế do không thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi để đâù tư phát triển và cho sự phát sinh tự phát của các hoạt động tài chính không chính thức (với các dịch vụ cho vay nặng lãi, số, đề, hụi…) Việc khắc phục những thiếu sót trên đòi hỏi phải tiến hành hàng loạt các giải pháp cấp bách bao gồm. - Hình thành và phát triển đa dạng các dịch vụ, sản phẩm mới trong hệ thống NHTM nói chung và NHN0& PTNT Việt Nam nói riêng, các công ty tài chính, các hợp tác xã tín dụng làm nhiệm vụ thu hút vốn từ tất cả các tầng lớp dân cư, các tổ chức xã hội và các doanh nghiệp để cung ứng cho sản xuất kinh doanh va chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Có một hệ thống luật pháp thống nhất, đồng bộ, đảm bảo quyền lợi về tài sản, vốn của người chủ sở hữu các khoản tiền gửi, tiền vay và các hợp đồng cung ứng, sử dụng vốn. - Thực hiện một chính hợp lý và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD để thu hút và cung ứng vốn, đảm bảo giá trị tiền gửi của người có tiền, hạn chế rủi ro, tăng cường chữ tín trong xã hội và trong nhân dân. - Xây dựng và mở rộng đổi mới hoạt động của công ty bảo hiểm, nhằm tăng cường và mở rộng diện của hoạt động bảo hiểm, hạn chế tổn thất do rủi ro bất ngờ gây ra trong hoạt động tín dụng khi đầu tư cho sản xuất và đời sống. Đồng thời, tổ chức bảo hiểm phải trở thành đơn vị cung ứng vốn quan trọng thông qua việc giành một phần phí thu được để mua cổ phiếu của các công ty, trái phiếu hoặc tín phiếu của Nhà nước. - Phát triển đa dạng các hình thức thu hút vốn thông qua việc đấu thầu để phát hành các chứng khoán ngắn hạn và dài hạn của Nhà nước (công trái quốc gia, tín phiếu kho bạc), góp phần hình thành thị trường tài chính (thị trường tiền tệ và thị trường vốn), góp phần hình thành thị trường tài chính (thị trường tiền tệ và thị trường vốn) trong cả nước, trước mắt tổ chức hoạt động tốt công ty chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Đổi mới công nghệ phục vụ các tổ chức tài chính trung gian, nhằm mục đích phục vụ nhanh, gọn và kịp thời và yêu cầu về mua, bán chứng khoán, ngoại tệ, về thanh toán, chuyển nhượng các giấy tờ và các hợp đồng mua bán. Nghiên cứu các mặt hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian, của thị trường tài chính và sở giao dịch chứng khoán cho thấy hoạt động này rất phức tạp, nhưng rất cần thiết đối với nền kinh tế trong quá trình luân chuyển các nguồn vốn tiền tệ, phục vụ cho các nhu cầu của sản xuất và đời sống. Để có một thị trường tài chính thực sự, trước hết phải đảm bảo các điều kiện nhất định cho sự ra đời và phát triển của các công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu; sự hoàn thiện và hoạt động đa dạng của các tổ chức tài chính trung gian, mà trung tâm là hệ thống các NHTM. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật phải được ban hành một cách đồng bộ, chặt chẽ, để có thể giám sát hoạt động của thị trường này, chống lại các hành vi lừa đảo, bảo vệ lợi ích của người mua và người bán chứng khoán; kiểm tra tư cách pháp nhânh, tài sản, vốn của các công ty và các nhân viên môi giới trên thị trờng; và cuối cùng là phải có quy chế về luật chơi rõ ràng, bình đẳng cho các bên tham gia thị trường. Tóm lại, việc mở rộng và đa dạng hoá các hình thức huy động và thu hút vốn nhằm tăng vốn kinh doanh của NHN0& PTNT Việt Nam để phục vụ cho quá trình CNH, HĐH nền kinh tế là hết sức quan trọng và cần thiết, song cần có bước đi cụ thể, rõ ràng ở cả tầm vĩ mô, vi mô bao gồm những hình thức trực tiếp, gián tiếp và sự kiên trì trong thực hiện. Chúng ta sẽ khắc phục được khó khăn và tìm ra được những giải pháp xử lý nếu thực sự coi đây là một nội dung cấu thành của chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn để tạo cho NHN0& PTNT Việt Nam phục vụ cho nền kinh tế đất nước. 2. Tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Sử dụng vốn có hiệu quả chính là cần một cơ chế tăng vốn kinh doanh có hiệu quả cao. Vì khi vốn đưa vào sản xuất kinh doanh sẽ tạo nên một cơ chế “vô tận” vốn đẻ ra vốn, sinh sôi nảy nở, nhất là trong điều kiện vốn tiềm năng hiện hữu có hạn… Chính vì vậy, NHNNo&PTNT Việt Nam cần có những nghiên cứu để: 2.1. Thay đổi cách nhìn nhận về đảm bảo tiền vay để mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng Theo các văn bản đã ban hành thì về nguyên tắc cho vay phải có đảm bảo, riêng đối với hộ nông dân vay dưới 10 triệu đồng, cho vay chủ trang trại sản xuất hàng hoá vay dưới 20 triệu đồng, nuôi trồng giống thuỷ sản dưới 50 triệu đồng thì NHNo& PTNT Việt Nam có thể thực hiện biện pháp không bảo đảm bằng tài sản thế chấp; hoặc thực hiện các biện pháp tín dụng có tài sản bảo đảm hình thành từ vốn vay đối với tất cả các thành phần kinh tế. Để mở rộng quy mô tín dụng gắn liền với hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá theo chúng tôi trong quan điểm này cần thống nhất: Thứ nhất, không nên coi của bảo đảm tín dụng như là một điều kiện duy nhất mà chỉ xem nó như là một điều kiện bổ sung để thực hiện sự hoàn trả: Để bảo tín dụng là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của người đi vay, tức là thiết lập cơ sở pháp lý để có thêm một nguồn thu nợ thứ hai, dự phòng trong trường hợp nguồn thu nợ thứ nhất không thực hiện được. Trong thực tế nhiều chi nhánh của NHNo& PTNT Việt Nam khi cho vay đã coi đảm bảo như là tiêu chuẩn quan trọng nhất và thậm chí coi đó là tiêu chuẩn duy nhất. Chính quan điểm này đã dẫn đến khiếu xem xét một cách thận trọng nguồn trả nợ trực tiếp của khách hàng có hay không, hay nói cách khác là thiếu đánh giá đầy đủ năng lực tài chính của khách hàng. Vì vậy, trong cho vay vấn đề trước tiên phải xem xét người đi vay có khả năng trả nợ không thông qua các tiêu chuẩn như mục đích vay, năng lực tài chính, môi trường kinh doanh… đảm bảo thực hiện ở đây như là một điều kiện bổ sung để phòng ngừa các rủi ro. Thứ hai, để mở rộng tín dụng cần thiết phải đa dạng hoá các hình thức đảm bảo. Trên thực tế đảm bảo tín dụng hiện nay chủ yếu tập trung hàng đầu là thế chấp bất động sản và quyền sử dụng đất. Thứ ba, mở rộng các hình thức đảm bảo. Chẳng hạn, xây dựng ngành kinh doanh kho bãi; mở rộng hình thức cầm cố bằng quyền sở hữu về tài sản… Thứ tư, mở rộng cơ chế cho vay không bảo đảm đối với tất cả các đối tượng và thành phần kinh tế có phương án và dự án kinh doanh có hiệu quả: Nghị quyết số 49/CP do Chính phủ ban hành ngày 06/05/1997 quy định một số giải pháp cấp bách để đảm bảo thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1997, trên cơ sở đó NHNN Việt Nam đã ban hành công văn số 417/CV – NH14 ngày 31/05/1997 hướng dẫn thực hiện, trong đó quy định: “Các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh không phải thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp”. Nghị quyết này được đổi mới bằng Nghị định 178/1999/NĐ - CP (29/12/1999) của Chính phủ về đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng và Thông tư 06/2000/TT – NNHN1 (04/04/2000) của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện Nghị định 178/1999/NĐ - CP về đảm bảo tiền vay. Theo đó: Việc cho vay không có đảm bảo của các tổ chức tín dụng được mở ra rất rộng đối với các đối tượng và các thành phần kinh tế bằng biện pháp: Đảm bảo tiền vay trong trường hợp cho vay không có đảm bảo bằng tài sản. Cụ thể: - TCTD tự chủ động lựa chọn khách hàng để cho vay không có bảo đảm bằng tài sản và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. - TCTD Nhà nước được cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ, nhằm thực hiện các dự án đầu tư thuộc chương trình kinh tế đặc biệt, chương trình kinh tế trọng điểm của Nhà nước, chương trình kinh tế – xã hội và đối với một số kế hoạch thuộc đối tượng hưởng chính sách tín dụng ưu đãi về điều kiện vay. Trong đó: + Đối với hộ sản xuất nông, lâm ngư, diêm nghiệp vay vốn dưới 10 triệu đồng không cần thế chấp tài sản (Quyết định 67/TTg – QĐ của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 30/3/1999); Hộ nông dân, chủ trang trại sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ hải sản mang tính sản xuất hàng hoá được vay vốn đến 20 triệu đồng không cần thế cấp tài sản (Nghị quyết 03/200/NQ – CP ngày 02/02/2000); Hộ sản xuất giống thuỷ hải sản được vay vốn đến 50 triệu đồng không cần thế chấp tài sản (Quyết định 103/2000/QĐ - TTg ban hành ngày 25/8/2000). - TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của các tổ chức Hội đoàn thêt như: Hộ gia đình nghèo vay vốn có bảo lãnh bằng tín chấp của các cơ sở Hội, đoàn thể như: (Hội nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam) - Cán bộ công nhân viên vay vốn sản xuất kinh doanh phục vụ đời sống có cam kết và xác nhận của cơ quan quản lý tiền lương, tổ chức tín dụng thu nợ từ tiền lương và thu nhập khác (Văn bản 34/CV – NHNN1 ngày 07/01/2000 và văn bản số 98/CV – NHNN1 ngày 28/01/2000). Với các quy định nêu trên đã mở ra cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có uy tín, tình hình tài chính mạnh được phép vay không cầm đảm bảo và tất cả các TCTD được cho vay không đảm bảo theo các điều kiện quy định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: Tuy Nhà nước đã cho phép các ngân hàng được quyền cho vay không đảm bảo, nhưng điều đó không có nghĩa là phải cho vay không đảm bảo và bất cứ giá nào. Việc chọn lựa có đảm bảo hay không là thuộc thẩm quyền kinh doanh của các ngân hàng và chịu trách nhiệm về quyết định cho vay của mình, nhưng không vì trách nhiệm mà quá dè dặt làm ảnh hưởng đến mục tiêu kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp và hộ sản xuất, làm chậm tiến trình phát triển kinh tế của đất nước đang trên đường hội nhập. 2.2. Mở rộng tín dụng trung, dài hạn; đồng thời gắn với tín dụng ngắn hạn phục vụ cho phát triển nền kinh tế quốc dân. Chia tách giữa vốn ngắn hạn và dài hạn trong quá trình sử dụng chỉ là phương diện quản lý và nghiên cứu, còn trên thực tế giữa hai loại vốn này luôn luôn vận động đan xen nhau; nên trong quá trình sử dụng vốn cho phát triển nền kinh tế quốc dân phải có cách kết hợp như thế nào để tạo ra hiệu quả tốt nhất; đó là việc phải làm. Nhìn bề ngoài thì thấy rõ hơn: tín dụng phục vụ cho CNH, HĐH nền kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào tín dụng trung và dài hạn; nhưng trong cùng một dự án đầu tư, cũng như một đơn vị tổ chức sản xuất kinh doanh bao giờ cũng kết hợp giữa hai loại vốn: vốn cố định và vốn lưu động, kết hợp giữa tài sản lưu động và tài sản cố định. Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng lại càng phải biết cách kết hợp tốt hơn vì nó nhạy cảm hơn các lĩnh vực sản xuất, lưu thông khác. Thực tế hiện nay vấn đề này đã được thừa nhận ngay cả từ trong chính sách; trước đây, thời bao cấp, đã từng nhỏ của nhu cầu tất yếu. Đến nay Nhà nước ta đã có những chính sách “sử dụng vốn ngắn hạn ổn định để đầu tư cho dài hạn:”. Đó là một sự tiến bộ xã hội. Vận dụng trong sự kết hợp chặt chẽ lại càng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tạo vốn của các NHTM nói chung, NHNo& PTNT Việt Nam nói riêng để phục vụ CNH, HĐH nền kinh tế. Bởi vì một thực tế, vận động của vốn là xuất phát từ tạm thời, ngắn hạn qua quá trình trở thành dài hạn và chính qua quá trình đầu tư vốn dài hạn sau này lại chuyển thành ngắn hạn (vốn khấu hau) theo hình thức tái tạo lại ban đầu. Do đó sự kết hợp là một tất yếu, vấn đề là vận dụng nó như thế nào có hiệu quả thiết thực, mang lại lợi ích kinh tế – xã hội cao. Hiện nay nhu cầu về đầu tư tín dụng dài hạn thì lớn, nhưng nguồn vốn lại rất hạn hẹp, nên kết hợp giữa hai loại tín dụng ngắn hạn và dài hạn như thế nào trong quá trình CNH, HĐH nền kinh tế có hiệu quả luôn cần một cơ chế tốt, nhất là NHNo& PTNT Việt Nam đã và đang mở nhiều chi nhánh tại các khu công nghiệp, khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam). Đồng thời phải có cách mở rộng loại tín dụng trung và dài hạn: Trước mắt phải thấy rằng nền kinh tế Việt Nam đã tụt hậu xa so với các nước trong khu vực mà cách đây trên 20 năm bắt đầu một điểm xuất phát gần như nhau. Trình độ công nghệ cũng như máy móc thiết bị của nước ta hiện nay hết sức lạc hậu, nên ảnh hưởng rất lớn đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Để thực hiện mục tiêu đổi mới cơ bản thiết bị và công nghệ lạc hậu vào những năm đầu thế kỷ 21, theo các nhà kinh tế thì mức đổi mới hàng năm phải đạt khoảng 15%. Muốn đạt được chỉ tiêu này chúng ta phải có chính sách huy động vốn thích hợp để khai thác nguồn vốn trong nước và mở rộng nguồn vốn từ bên ngoài. Bên cạnh những biện pháp huy động vốn, việc áp dụng phương thức tài trợ thích hợp cũng giúp cho chúng ta mở nguồn vốn đầu tư. Cũng cần thấy rằng trong thời gian qua nguồn vốn trong nước chưa được khai thác triệt để, kể cả nguồn vốn đã huy động vào các ngân hàng; nhiều ngân hàng ứ đọng vốn không cho vay ra được, mặc dù đã được phép chuyển một tỷ lệ nhất định vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn (trước đây: 30% và từ năm 2003 là 35%%). Trong lúc đó nền kinh tế đang thiếu vốn trầm trọng để đổi mới thiết bị công nghệ. Như vậy, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển nói chung và đầu tư để đổi mới thiết bị công nghệ nói riêng, đòi hỏi chúng ta không chỉ có những chính sách, biện pháp huy động vốn thích hợp, mà còn phải đưa vào áp dụng các kỹ thuật tài trợ mới để thực hiện quá trình đầu tư, đây cũng là biện pháp tận dụng nguồn vốn trong nước, tức là nhanh chóng đưa vốn tiết kiệm sang đầu tư, đồng thời nhằm mục đích khai thác thêm các nguồn vốn nhập khẩu từ bên ngoài. 2.3. Nâng cao hiệu quả tín dụng. Trong bối cảnh chung trên tất cả các mặt báo ngành và báo kinh tế hiện nay đều quan tâm đến vấn đề hiệu quả tín dụng ngân hàng ở nhiưêù góc độ; mô tả thực trạng hiệu quả tín dụng ngân hàng còn nhiều yếu kém, phân tích tìm kiếm nguyên nhân và giải pháp cứu chữa… Đây quả thật là một trong những trọng tâm quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng, lại càng có ý nghĩa đối với NHN0& PTNT Việt Nam. Phó Thống đóc thường trực NHNN Việt Nam năm 1996 tại hội nghị tổng kết ngành ngân hàng đã từng nhận xét: “Nợ quá hạn không đơn thuần là vấn đề tồn tại trong nghiệp vụ nữa mà phải coi là vấn đề nổi cộm, phải xử lý trong hoạt động ngân hàng. Các TCTD phải coi đây là công việc hàng đầu, là tín nhiệm, là điều kiện tồn tại và phát triển của ngân hàng mình”. Từ đó chúng ta phải xác định rõ trách nhiẹm cả ba phía. - Đối với ngân hàng Nhà nước. Tập trung nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ và chức năng của mình, như hoàn thiện hệ thống văn bản pháp ly liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng; bảo đảm công tác quản lý Nhà nước đối với ngành ngân hàng vừa toàn diện vừa chặt chẽ trên cơ sở tiến bộ và hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng hiện nay… - Đối với ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam: + Phải luôn xác định lĩnh vực tín dụng là nơi sản sinh trực tiếp tình trạng nợ quá hạn tăng cao và hiệu quả tín dụng cần được quan tâm chăm sóc. Vì NHN0& PTNT Việt Nam sẽ là người lãnh nhận đầu tiên và nặng nề nhất những hậu quả nếu không khắc phục được tình trạng đó. Để ngăn chặn đà gia tăng nợ quá hạn và cải thiện hiệu quả tín dụng ngay tại các chi nhánh của NHN0& PTNT Việt Nam, thì phải có hàng loạt các biện pháp. Chẳng hạn, rà soát lại toàn bộ các khoản nợ quá hạn cũ, phân tích xác định nguyên nhân và tìm cách xử lý thích hợp đối với từng loại nợ quá hạn nợ, nợ khó đòi, nợ không thu hồi được; nghiêm túc thực hiện việc chuyển nợ quá hạn kịp thời. Đối với các khoản không thể gia hạn được nhằm lành mạnh dư nợ thực chất (năm 2002 đã chuyển nợ quá hạn: 5.503 tỷ đồng, tăng so với năm 2001: 167,3%, vì vậy nợ quá hạn chiếm tỷ lệ 2,3% tăng so với 2001: 1,6%. Kiểm soát chặt chẽ, hạn chế đến mức thấp nhất khả năng phát sinh các khoản nợ quá hạn mới; một giải pháp tận gốc cho vấn đề này có lẽ là cần gấp rút hoàn thiện cơ chế quản lý tín dụng ngân hàng. Theo đó, công tác tín dụng cần được lượng hoá, quy trình hoá các công đoạn, thao tác thủ tục tín dụng theo hướng hợp lý - nhanh gọn và hiệu quả. áp dụng phương pháp xếp hạng tín dụng trên cơ sở thiết lập các tiêu thức đánh giá khoa học và phù hợp thực tiễn; tất cả tạo thành cơ chế trước khi ra các quyết định tín dụng theo hướng tối ưu. Do vậy, NHN0& PTNT Việt Nam rất cần và phải xây dựng cho được cơ chế này. + Trích lập quỹ rủi ro tín dụng nhằm xử lý kịp thời các khoản rủi ro. Trong đầu tư tín dụng vào một số lĩnh vực có nhiểu rủi ro, nhất là cho vay hộ sản xuất luôn gắn với điều kịn thiên nhiên nên thường xuyên bị thiên tai đe doạ. Việc đầu tư tín dụng ngân hàng cho nông nghiệp đã chứa đựng khả năng rủi ro rất lớn, trong khi yêu cầu nâng cao hiệu quả tín dụng và hiệu quả đầu tư là vấn đề cấp bách và thiết thực đối với hoạt động của ngân hàng. Chính vì lẽ đó, cần thiết lập quỹ rủi ro tín dụng với sự tham gia của ngân hàng và NSNN. Cụ thể: - Trích từ lợi nhuận của ngân hàng về đầu tư cho kinh tế hộ và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nhất thiết phải tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên của từng vùng mà quy định. NHNN nên khống chế tỷ lệ (nhóm I = 0%, nhóm II = 20%, nhóm III = 50%, nhóm IV = 100%) theo Quyết định 488/2000/QĐ - NHNN5 (27/11/2000) của Thống dốc NHNN Việt Nam đã được Chủ tịch Hội đồng quản trị NHN0& PTNT Việt Nam cụ thể hoá tại văn bản số 88/HĐQT - 03 (25/4/2001) “V/v: Ban hành Quy định phân loại tài sản” “Có” trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động. III. Một số kiến nghị 1. Kiến nghị đối với Chính phủ : Chính phủ cần có định hướng quy hoạch phát triển đối với từng vùng kinh tế, từng ngành, từng địa phương để hướng sản xuất phù hợp với nhu cầu, tránh tình trạng đầu tư tràn lan không có hiệu quả, cung lớn hơn cầu như các nhà máy đường, bia, gạch tuynel,… như hiện nay. Cần phân biệt rõ chức năng quản lý để giảm thấp sự can thiệp của các cấp quản lý kinh tế vào việc thực hiện các hoạt động tín dụng. Tạo ra tính chủ động cũng như trách nhiệm cho mỗi cán bộ tín dụng tránh chịu sức ép của các cấp chính quyền, sự can thiệp quá sâu của các cấp quản lý Nhà nước về kinh tế gây ảnh hưởng đến quyết định hay kết quả của hoạt động tín dụng. Tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, xác định đúng vị trí của DNNN trong quá trình đổi mới và thực hiện mục tiêu CNH. Đặc biệt tiếp tục thực hiên quá trình cổ phần hoá các DNNN, tạo ra sự đan xen về mặt sở hữu trong các doanh nghiệp cổ phần giúp đẩy mạnh thị trường vốn phát triển. Nâng vốn tự có cho NHNNo&PTNT Việt Nam, đây còn là một yêu cầu bức thiết của các Ngân hàng thương mại khác. Như vậy, Ngân hàng có điều kiện mỡ rộng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế. Chính phủ và các Bộ ngành cần có chính sách xử lý các khoản nợ quá hạn, khó đòi của các Ngân hàng thương mại để tạo nguồn cho các Ngân hàng xử lý, bù đắp các khoản nợ khoanh, xoá, trước hết là nguồn để xoá nợ. 2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng, tạo hành lang pháp lý thuận lợi trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với các Ngân hàng thương mại để chấn chỉnh những sai sót, vi phạm trong việc thẩm định và quyết định cho vay của Ngân hàng. Đồng thời xử lý nghiêm khắc các vi phạm của các Ngân hàng mà đặc biệt là các cán bộ tín dụng thực hiện việc cho vay thiếu trách nhiệm dẫn đến nhiều khoản vay có chất lượng thấp. Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các Bộ ngành để xây dựng trung tâm chuyên thu thập và cung cấp thông tin về các Doanh nghiệp, các hộ sản xuất về mặtpháp lý, lịch sử khách hàng, tình hình tài chính, công nợ để các Ngân hàng nắm bắt rõ hơn về các Doanh nghiệp trước khi quyết định cho vay đồng thời quản lý, kiểm soát được các Doanh nghiệp, tránh tình trạng gian lận trong vay vốn tại Ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần hộ trợ về cơ chế, vốn để áp dụng công nghệ hiện đại vào các khâu trong hoạt động của NHNNo&PTNT Việt Nam mà đặc biệt là hoạt động tín dụng nhằm phục vụ và quản lý khách hàng tốt hơn. Ngoài ra giúp Ngân hàng áp dụng được những công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm trong quản lý, trong kiểm soát rủi ro nhằm từng bước nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động NHNNo&PTNT Việt Nam tiến tới hội nhập trên thế giới. Kết Luận Quá trình đổi mới đang diễn ra ngày càng sâu rộng và triệt để trên mọi nhân tố của nền kinh tế, trong mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với NHNNo&PTNT Việt Nam đã có những đổi mới và hoàn thiện nhưng để sao cho có hiệu quả thì vẫn là một vấn đề bức xúc, có ý nghĩa lớn cả về lý luận và thực tiễn. Riêng hoạt động tín dụng NHNNo&PTNT Việt Nam cũng nằm trong xu hướng đổi mới đó và luôn tự hoàn thiện, khắc phục những hạn chế, khó khăn còn tồn tại góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của NHNNo&PTNT Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng nền kinh tế phát triển vững mạnh. Với luận văn về đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của NHNNo&PTNT Việt Nam”, em đã phần nào hệ thống hoá vị trí, vai trò và sự cần thiết trong việc nâng cao hiệu quả tín dụng Ngân hàng. Qua việc đánh giá thực trạng tín dụng, luận văn đã phân tích và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để từ đó khẳng định việc tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại NHNNo&PTNT Việt Nam trong thời gian tới là yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phù hợp với thông lệ quốc tế. Do trình độ hiểu biết, điều kiện và phạm vi nghiên cứu có hạn nên luận văn khó tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, chỉ dẫn của thầy cô và các bạn để luận văn có ý nghĩa thiết thực hơn. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Federich Mishkin 2. Quản trị ngân hàng thương mại - Pete Rose 3. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - TS. Phan Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Thảo. 4. Lý thuyết tài chính tiền tệ - TS. Nguyễn Hữu Tài 5. Tạp chí Lý thuyết tài chính tiền tệ các năm 2002, 2003, 2004. 6. Tạp chí Ngân hàng các năm 2002, 2003, 2004. 7. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam các năm 2001, 2002, 2003. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36165.doc
Tài liệu liên quan