CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG XUYÊN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò chi thường xuyên của NSNN
1.1.1 Khái niệm về chi thường xuyên
Chi thường xuyên là quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực Tài chính của Nhà nước nhằm trang trải những nhu cầu của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội thuộc khu vực công, qua đó thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục và đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ môi trường và các hoạt động sự nghiệp khác. Nói tóm lại thì chi thường xuyên của NSNN là quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ NSNN để đáp ứng nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về quản lý kinh tế, xã hội.
1.1.2 Phân loại chi thường xuyên
- Căn cứ vào tính chất kinh tế
Chi thường xuyên bao gồm 4 nhóm mục cụ thể như sau:
+ Nhóm các khoản chi thanh toán cho cá nhân gồm: tiền lương; phụ cấp lương; học bổng học sinh, sinh viên; tiền thưởng; phúc lợi tập thể; chi về công tác người có công với cách mạng và xã hội; chi lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội; các khoản thanh toán khác cho cá nhân.
+ Nhóm các khoản chi nghiệp vụ chuyên môn gồm: thanh toán dịch vụ công cộng; vật tư văn phòng; thông tin tuyên truyền liên lạc; hội nghị; công tác phí; chi phí thuê mướn; chi sửa chữa thường xuyên; chi phí nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành.
+ Nhóm các khoản chi mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định và xây dựng nhỏ gồm: sửa chữa lớn tài sản cố định phục vụ chuyên môn và các công trình cơ sở hạ tầng; chi mua tài sản vô hình; mua sắm tài sản dùng cho công tác chuyên môn.
+ Nhóm các khoản chi thường xuyên khác gồm: các nhóm mục của 2 mục lục Ngân sách nhà nước không nằm trong 3 nhóm mục trên và các mục từ mục 147 đến mục 150 thuộc khoản chi thường xuyên trong mục lục Ngân sách nhà nước.
- Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn
Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi cụ thể sau:
+ Chi cho sự nghiệp kinh tế: Hoạt động của các đơn vị SN kinh tế nhằm phục vụ cho yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, quản lý KT-XH và tạo điều kiện cho các ngành kinh tế hoạt động và phát triển một cách thuận lợi. Mục đích hoạt động của đơn vị SN kinh tế không phải là kinh doanh lấy lãi, do vậy NSNN cần dành một khoản chi đáp ứng hoạt động của các đơn vị này. Chi SN kinh tế bao gồm:
ã Chi SN nông nghiệp, SN thuỷ lợi, SN ngư nghiệp, SN lâm nghiệp, sự nghiệp giao thông, SN kiến thiết thị chính và SN kinh tế công cộng khác.
ã Chi điều tra cơ bản, đo đạc địa giới hành chính các cấp.
ã Chi về bản đồ, đo đạc cắm mốc biên giới, đo đạc lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa chính.
ã Chi định canh, định cư và kinh tế mới.
+ Chi sự nghiệp văn hoá-xã hội: Chi SN giáo dục, đào tạo; Chi SN y tế; SN VHTT; SN TDTT; SN phát thanh, truyền hình; SN khoa học, công nghệ và môi trường; SN xã hội; SN văn xã khác.
+ Chi quản lý hành chính: Là các khoản chi cho hoạt động của các cơ quan HCNN thuộc bộ máy chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương.
+ Chi về hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Chi về hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội: Bao gồm: mặt trận tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội CCB Việt Nam, Hội LHPN, Hội Nông dân Việt Nam.
Đối với nước ta các tổ chức trên là các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của nước ta, do vậy theo quy định của luật NSNN, NSNN có trách nhiệm bố trí chi NS đảm bảo hoạt động của các tổ chức này.
+ Chi trợ giá theo chính sách của Nhà nước.
+ Chi các chương trình quốc gia.
+ Chi trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội.
+ Chi tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp theo quy định của pháp luật.
+ Chi trả lãi tiền do Nhà nước vay.
+ Chi viện trợ cho các Chính phủ và các tổ chức nước ngoài.
+ Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2836 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước qua Kho Bạc Nhà Nước tỉnh Tiền Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chi CQTC
không thống nhất với KBNN về MLNSNN hoặc chế độ tiêu chuẩn, đinh
mức chi tiêu. Theo nguyên tắc thì CQTC lập phiếu báo điều chỉnh gửi đến
KBNN hoặc yêu cầu đơn vị đến KBNN nơi giao dịch thực hiện điều chỉnh.
Nhưng thực tế không có sự kết hợp này nên chính vì vậy mà số liệu của
KBNN với số liệu của đơn vị chỉ khớp nhau về tổng số, không khớp nhau số
chi tiết. Bên cạnh đó, KBNN là cơ quan trực tiếp cấp phát, thanh toán các
khoản chi NSNN cho các đơn vị hành chính sự nghiệp nhưng KBNN chưa
được tham gia thẩm tra quyết toán NS đối với các đơn vị, tách biệt các khâu
kiểm soát trước, trong và sau. Do đó đã hạn chế hiệu quả công tác kiểm soát
chi của Kho bạc nhà nước.
Tình trạng trên là hệ quả mang tính dây chuyền của hàng loạt
những tồn tại, vướng mắc trong công tác quản lý chi NSNN, trước hết là
chất lượng của công tác lập, duyệt, phân bổ dự toán chưa đồng bộ và chưa
sát với nhu cầu chi tiêu của đơn vị thụ hưởng NSNN. Chế độ kế toán nhà
nước chưa được ban hành, cả ba đầu mối đều hạch toán chi NSNN nhưng
chỉ tiêu và tiêu thức hạch toán cũng như thống kê báo cáo chưa có tính đồng
bộ; đồng thời công tác quyết toán NSNN chỉ mang tính hình thức. Tính hình
thức ở đây thể hiện rõ ở chỗ việc cơ quan chủ quản cấp trên, hoặc CQTC
duyệt quyết toán chi của đơn vị thực chất mới chỉ dừng lại ở giác độ kiểm
tra những tiêu thức tổng hợp về nguồn kinh phí đã nhận, một số khoản chi
tiêu lớn, chưa kiểm tra được toàn bộ các khoản chi tiêu của đơn vị.
Vai trò của cơ quan kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước trong
việc kiểm toán các báo cáo tài chính của đơn vị HCSN hầu như chưa được
nhắc đến. Chính vì vậy tính chính xác, trung thực của báo cáo tài chính chưa
có độ tin cậy cần thiết.
2.8.10.Việc phân định trách nhiệm giữa KBNN với các cơ quan tài chính
và giữa KBNN với các đơn vị sử dụng ngân sách chưa rõ ràng:
49
Phân định trách nhiệm giữa người chuẩn chi và người kiểm soát
chi, xét trên giác độ quản lý thì việc phân định rõ ràng trách nhiệm pháp lý
giữa người chuẩn chi và người kiểm soát chi là vấn đề hết sức trọng yếu
trong công tác kiểm soát chi NSNN. Nhờ đó mà giúp cho người kiểm soát
chi cũng như người chuẩn chi nắm rõ phạm vi, quyền hạn cũng như trách
nhiệm pháp lý của họ trong việc thực hiện chi công việc của mình, qua đó
công việc được tiến hành một cách trôi chảy hơn dựa trên nguyên tắc hết
sức rõ ràng và minh bạch. Nguyên tắc phân định trách nhiệm pháp lý này
phải được tôn trọng và thể chế hoá thành luật.
Trên thực tế, hiện nay vấn đề này đã bắt đầu chú ý, tuy nhiên chưa
được giải quyết một cách thỏa đáng. Các qui định về trách nhiệm của các
bên tham gia vào quản lý chi NSNN chỉ mới được đề cập đến với mức độ
rất chung, không rõ ràng. Trong các văn bản không hề chỉ ra những sai
phạm nào thuộc trách nhiệm của người chuẩn chi, những sai phạm nào
thuộc người kiểm soát chi, những sai phạm nào thuộc cơ quan quản lý cấp
trên. Chính vì vậy, việc xác định những sai phạm trong quản lý chi NSNN
hiện nay là không rõ ràng, kéo theo việc xác định trách nhiệm vật chất trước
những sai phạm, đó cũng hết khó khăn.
2.8.11. Quản lý ngân sách xã theo dự toán:
Ngân sách xã (NSX), phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách xã), là
một bộ phận của NSNN thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật NSNN, NSX có
những điểm khác với ngân sách các cấp:
- NSX vừa là một cấp NS, vừa là một đơn vị dự toán của NSX. NSX vừa là
kế toán quỹ NSX vừa là kế toán chi tiêu cho các đơn vị dự toán. Thực chất
mọi khoản chi NSX, xã là chủ thể sử dụng trực tiếp và không có nhiệm vụ
phân bổ dự toán như các cấp NS khác. Mọi khoản thu – chi và thanh toán
các khoản cho người thụ hưởng đều do Chủ tịch UBND xã quyết định.
- Toàn bộ các khoản chi của NSX đều liên quan đến lợi ích của xã. Các
khoản chi của NSX đều nhằm thực hiện nhiệm vụ của chính quyền cấp xã
50
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình theo qui định của pháp luật.
Toàn bộ các khoản chi của NSX đều có tác động trực tiếp đến đời sống kinh
tế- xã hội ở xã.
- Qui mô của các khoản chi thường xuyên tương đối nhỏ, tính chất đơn giản
như: Chi cho quản lý bộ máy; chi hoạt động xã hội và hoạt động VHTT, hỗ
trợ kinh phí cho giáo dục, y tế; công tác dân quân tự vệ đảm bảo an toàn trật
tự; chi hoạt động của các cơ quan Đảng, và các tổ chức chính trị - xã hội;
các khoản chi khác theo quy định của pháp luật…
- Nhiệm vụ chi đầu tư phát triển không lớn và cũng không thường xuyên
như: chi ĐTXD các dự án có mức vốn đầu tư nhỏ đã được thông qua HĐND
xã; chi đầu tư sửa chữa các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cấp xã
từ nguồn huy động, đóng góp của các tổ chức, cá nhân theo quy định của
pháp luật…
- Việc chấp hành NS, thanh và quyết toán do một đơn vị duy nhất đó là Ban
tài chính xã thực hiện mà không thông qua các đơn vị trung gian.
Dự toán NSX là cơ sở để tổ chức, thực hiện chi NS hiệu quả. Tuy
nhiên, trong thực tế trình độ xây dựng dự toán của các đơn vị sử dụng NS
chưa cao, chưa phản ánh được đến chi tiết từng mục chi nên quá trình thực
hiện thường xảy ra tình trạng thừa, thiếu phải bổ sung, điều chỉnh.
Dự toán NSX là căn cứ pháp lý để UBND xã tổ chức thực hiện trong
một năm NS, do đó đòi hỏi công tác lập dự toán phải chính xác, có chất
lượng. Nhưng trong thực tế, chất lượng dự toán chưa cao, ít tính thuyết phục
do việc lập dự toán chưa tính toán cụ thể trên chế độ định mức tiêu chuẩn,
chưa bao quát hết nhiệm vụ của NS cấp mình đảm nhận, chưa dự báo được
sự tăng trưởng kinh tế xã hội. Việc điều chỉnh dự toán hoặc bổ sung dự toán
thường xuyên xảy ra làm tăng khối lượng công việc của xã cũng như
KBNN, gây không ít khó khăn cho KBNN trong quản lý và kiểm soát chi
NSNN cấp xã.
Về hình thức cấp phát NSX: Hiện nay NSX sử dụng hình thức cấp
51
phát bằng dự toán nhưng sử dụng mẫu biểu là lệnh chi tiền, dẫn đến tình
trạng không thống nhất về mặt hình thức. Xã là một cấp NS nhưng đồng
thời là đơn vị thụ hưởng NSX duy nhất, nên Chủ tịch UBND xã (chủ tài
khoản) không phải cấp phát (tiền NS) cho cơ quan đơn vị nào khác sử dụng
ngoài UBND xã.
Sử dụng lệnh chi tiền nhưng hệ thống tài khoản áp dụng là chi thường
xuyên dự toán NSX (thanh toán: TK 331.01, tạm ứng 331.11), dẫn đến
không đồng nhất về phương pháp hạch toán.
Về cơ chế, cấp phát bằng lệnh chi tiền CQTC chịu trách nhiệm kiểm
soát, KBNN là người thực hiện chi NS. Nhưng với cơ chế chi bằng hình
thức dự toán, sử dụng mẫu biểu là lệnh chi tiền nên KBNN vẫn thực hiện
kiểm soát chi dẫn đến không đồng nhất về mặt cơ chế kiểm soát.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Ở chương 2 đề tài đã khái quát qua bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang, tổ chức bộ máy Kho Bạc Nhà Nước đóng trên địa bàn. Các qui
định, quy trình, thủ tục, điều kiện kiểm soát chi thường xuyên đối với từng
khoản mục chi cụ thể Kho Bạc Nhà Nước hiện đang áp dụng. Qua đó, đánh
giá những kết quả đạt được bên cạnh những tồn tại cần khắc phục cải tiến
nhằm từng bước hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên qua Kho
Bạc Nhà Nước.
52
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT CHI THƯỜNG
XUYÊN QUA KBNN TỈNH TIỀN GIANG
Kiểm soát chi ngày nay gắn liền với vai trò của KBNN, tính hiệu quả
của công tác này gắn liền với tính hiệu quả của việc sử dụng NS.Cơ chế
quản lý và kiểm soát chi NSNN hiện hành tuy đã được bổ sung, sửa đổi
nhưng vẫn còn những tồn tại, làm hạn chế kết quả hoạt động của NSNN và
tạo ra tình trạng lỏng lẻo, phá vỡ kỷ luật, kỷ cương tài chính. Do đó, cơ chế
quản lý NSNN, đặc biệt là cơ chế kiểm soát chi NSNN nhất thiết phải được
đổi mới để phù hợp với tình hình mới.
3.1. Phương hướng và mục tiêu hoàn thiện:
3.1. 1. Phương hướng:
- Triệt để thực hiện phương thức cấp phát theo dự toán được duyệt, tiến tới
tất cả các khoản chi của NSNN đều được cấp theo dự toán. Đồng thời, mở
rộng phạm vi, đối tượng thực hiện phương thức cấp phát NSNN theo dự
toán đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; phương thức quản lý và kiểm
soát chi NSNN đối với đơn vị thực hiện khoán biên chế và chi phí QLHC;
đơn vị SN có thu; quản lý cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra của công
việc,…Sự kết hợp giữa cấp phát, kiểm soát chi theo dự toán và khoán chi sẽ
ngày càng nhuần nhuyễn hơn, tạo cơ chế quản lý NSNN theo kết quả đầu ra,
thay vì quản lý theo đầu vào như hiện nay.
- Tăng cường vai trò của KBNN trong quản lý NSNN, đặc biệt là quản lý
cấp phát và thanh toán các khoản chi NSNN nhằm thực hiện tiết kiệm, hiệu
quả và chống lãng phí.
- Quản lý hiệu quả vốn NSNN phải đi đôi với cải cách hành chính, thực
hiện công khai, minh bạch trong điều hành NSNN.
- Phát huy cao độ quyền hạn, trách nhiệm và tính sáng tạo của KBNN địa
phương trong quản lý NSNN một cách toàn diện.
3.1.2. Mục tiêu:
- Phải đảm bảo tính bao quát về phạm vi, đối tượng và mức độ kiểm soát
53
chi theo đúng tinh thần của Luật NSNN, đảm bảo tất cả các khoản chi của
NSNN đều được kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ qua hệ thống
KBNN. Ngoài ra, cơ chế cấp phát và kiểm soát chi NSNN mới cũng phải
phù hợp với xu hướng cải cách hành chính trong quản lý chi NSNN và phù
hợp với các phương thức cấp phát ngân sách mới như khoán chi hành chính,
cơ chế tài chính áp dụng đối với đơn vị sự nghiệp có thu,…
- Bảo đảm sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tiền của Nhà nước. Vì vậy cơ
chế cấp phát và kiểm soát chi NSNN mới phải đạt được mục tiêu cấp đúng,
cấp đủ, kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng để góp phần loại bỏ tiêu cực, chống
tham ô, tham nhũng, chống phiền hà, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Cần làm cho các cơ quan, ĐVSD NSNN thấy được quyền và nghĩa vụ
trong việc quản lý, sử dụng kinh phí NS cấp đúng mục đích, đúng luật pháp
và có hiệu quả. Đặc biệt là phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người
chuẩn chi và KBNN.
- Xây dựng mối quan hệ tối ưu giữa cơ quan Tài chính và KBNN trong quản
lý vốn cấp phát và kiểm soát thanh toán của NSNN.
- Quy trình thủ tục kiểm soát chi NSNN phải đảm bảo khoa học, đơn giản,
rõ ràng, công khai và minh bạch, thuận lợi cho người kiểm soát, người được
kiểm soát; đồng thời phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu quản lý.
Để thực hiện tốt các mục tiêu trên, cần có giải pháp nâng cao hiệu quả
quản lý cấp phát và kiểm soát chi phù hợp theo từng giai đoạn phát triển đất
nước.
3.2.Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cấp phát và kiểm
soát chi:
3.2.1. Các giải pháp chung:
Trong điều kiện nước ta, nguồn lực tài chính cho phát triển KT-
XH còn hạn chế thì vấn đề hiệu quả của chi NS có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Với một chính sách phân bổ NS được cho là hợp lý thì hiệu quả của
chi NS được quyết định bởi cơ chế quản lý chi NS trong giai đoạn 2001-
2010 phải đạt được các mục tiêu và yêu cầu chủ yếu sau đây:
54
Một là, xây dựng một dự toán chi NS toàn diện, chi tiết đúng
MLNS hiện hành, đảm bảo tài chính cho các bộ ngành, ĐP, thực hiện các
nhiệm vụ phù hợp với định hướng phát triển KT-XH trong năm kế hoạch.
Thực hiện việc quản lý và điều hành NSNN theo dự toán và phải coi dự toán
là một đạo luật và chính phủ, bộ, ngành, cá nhân có trách nhiệm thi hành.
Hai là, thiết lập qui trình chuẩn bị, chấp hành và quyết toán NS
tuân thủ các nguyên tắc và trình tự nghiêm ngặt đảm bảo việc kiểm tra,
kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể tham gia vào quá trình quản lý chi NS
cũng như nguyên tắc phân định quyền hạn, trách nhiệm giữa các chủ thể
nhằm nâng cao năng lực hiệu quả quản lý chi ngân sách. Xoá bỏ sự can
thiệp quá chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước đối với công
việc của các đơn vị sử dụng ngân sách.
Ba là, thiết lập cơ sở truyền tin thống nhất trong lĩnh vực quản lý
ngân sách trên cơ sở nghiên cứu xây dựng một trung tâm tính toán và lưu dữ
liệu thống nhất trong ngành tài chính. Trong xu hướng phát triển chung của
khu vực và trên thế giới ngày nay, công nghệ thông tin đã, đang và sẽ là một
công cụ đắc lực hữu hiệu, không thể thiếu đối với công tác quản lý KT-XH.
Quản lý chi NS cũng không thể nằm ngoài xu hướng đó. Đây vừa là mục
tiêu, vừa là yêu cầu và cũng là biện pháp nâng cao chất lượng quản lý NS.
Để đạt được các mục tiêu trên, về nguyên tắc quản lý chi ngân
sách sẽ tập trung vào các mặt sau:
Hoàn thiện qui trình lập, phân bổ dự toán phải quán triệt nguyên tắc quản
lý chi theo dự toán, coi dự toán chi NS đã được Quốc hội, HĐND các
cấp phê chuẩn là một đạo luật bắt buột Chính phủ, bộ ngành, ĐP có trách
nhiệm tuân thủ. Dự toán chi NS theo MLNS là giới hạn tối đa đã được
chi về tổng thể và cơ cấu chi. Nguyên tắc này đòi hỏi sự tuân thủ tuyệt
đối qui định về MLNS trong cả chu trình NS từ khâu lập, chấp hành và
kế toán quyết toán NS. Đồng thời là căn cứ để hoàn thiện các phương
thức cấp phát NS hiện hành. Để đạt được mục tiêu này, BTC cần có
nghiên cứu thống
55
nhất định mức xây dựng NS và định mức chi NS. Hiện nay, chúng ta có hai
hệ thống định mức, một là định mức phân bổ hay định mức xây dựng NS,
hai là định mức chi NS. Thống nhất hai hệ thống định mức này sẽ là điều
kiện quan trọng để cho dự toán phù hợp với nhu cầu chi của đơn vị để tổng
số cũng như cơ cấu chi theo mục; đồng thời khi dự toán được Quốc hội phê
chuẩn thì cũng là lúc dự toán chi tiết của đơn vị được duyệt, đảm bảo ngày
1/1 hàng năm, Kho bạc có dự toán để kiểm soát, đơn vị có dự toán được chi.
Quán triệt nguyên tắc chi trực tiếp qua Kho bạc và nguyên tắc thanh toán
trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng ngân sách. Nguyên tắc chi trực tiếp qua
Kho bạc khẳng định hai nội dung.
Một là KBNN là cơ quan đầu mối duy nhất được nhà nước giao
nhiệm vụ QLNN về quỹ NSNN, do vậy có nhiệm vụ trực tiếp thanh toán
mọi khoản chi NS. Khẳng định Kho bạc có nhiệm vụ kiểm soát mọi khoản
chi NS trước khi xuất quỹ NS và có quyền từ chối thanh toán đối với các
khoản chi sai chế độ và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Hai là Nguyên tắc thanh toán trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng NS
yêu cầu các khoản chi NS phải được thanh toán trực tiếp đến đúng đối
tượng thụ hưởng là những người cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho chính phủ,
bao gồm cả công chức, viên chức hưởng lương từ NS nhằm hạn chế tối đa
thanh toán qua trung gian…Nguyên tắc này thực chất là một phần trong
nguyên tắc chi trực tiếp qua KBNN. Nhưng trong điều kiện ở nước ta hiện
nay tình trạng chi qua khâu trung gian vẫn còn rất phổ biến như chi hoạt
động hành chính…gây tác động tiêu cực đến công tác quản lý tiền mặt và
tạo cơ hội cho những hành vi gian lận, biển thủ công quỹ, do vậy cần nhấn
mạnh nguyên tắc này.
Qui trình kiểm soát chi NS phải đảm bảo phân định trách nhiệm giữa
chuẩn chi và KBNN. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong quản lý tài
chính. Nếu nhìn nhận toàn bộ quốc gia như một thực thể thì trong lĩnh
vực chi tiêu, vai trò thủ trưởng đơn vị để thực hiện hành vi chuẩn chi là
TTCP, các Bộ
56
trưởng, chủ tịch UBND các cấp và những người được uỷ quyền, còn kho
bạc là vai người kế toán có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành
chế độ tài chính, kế toán của người chuẩn chi khi thực hiện chế độ chi tiêu,
kế toán các khoản chi tiêu đó. Do vậy cần phải có nguyên tắc phân định
trách nhiệm giữa chuẩn chi và kế toán để có sự kiểm tra, kiểm soát trong khi
chi ngân sách, không đồng nghĩa với cản trở và bất hợp tác
Cải tiến các phương thức cấp phát NS: để tăng cường tính chủ động của
đơn vị thụ hưởng ngân sách, hạn chế tối đa sự can thiệp không cần thiết
của CQTC vào quá trình chi tiêu của đơn vị, tuân thủ nguyên tắc điều
hành NS theo dự toán đã được Quốc hội, HĐND các cấp phê chuẩn và
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN. Khi mà chất lượng của công tác
lập, duyệt và phân bổ ngân sách được ngày một nâng cao sẽ tạo tiền đề
cho việc hoàn thiện các phương thức cấp phát ngân sách cụ thể:
Xoá bỏ dần việc cấp phát NS bằng lệnh chi tiền của CQTC thay đó
là phương thức cấp phát bằng dự toán. Trừ những trường hợp chi đặc biệt
phải sử dụng hình thức cấp phát bằng lệnh chi tiền
Thực hiện quản lý và điều hành NS theo dự toán tổng thể, không
bó buộc đơn vị chấp hành theo dự toán từng nhóm mục. Khi điều kiện cho
phép, có nghĩa là khi công tác này đã ổn định, đi vào nề nếp thì sẽ thực hiện
theo dự toán được duyệt.
Đa dạng các phương thức kiểm soát chi NS: từng bước thực hiện cơ chế
tài chính khoán cho các đơn vị SN và các DN công ích, tạo tiền đề để
thay dần phương thức kiểm soát chi đầu vào như hiện nay bằng quản lý
theo đầu ra.
Phương thức quản lý chi theo đầu ra được hiểu là việc nhà nước
bỏ ra một khoản tiền nhất định để mua các dịch vụ công cộng do một bộ
ngành hoặc đơn vị nào đó cung ứng cho xã hội, ví dụ như dịch vụ y tế, giáo
dục, cung cấp nước sạch…Các bộ trưởng, thủ trưởng các đơn vị chịu trách
nhiệm trước chính phủ và quốc hội về việc sử dụng khoản NS đó đem lại
57
kết quả cam kết ban đầu. Nhà nước không can thiệp sâu vào việc sử dụng
khoản NS đó như thế nào, việc đó giao toàn quyền cho thủ trưởng đơn vị
quyết định. Nhà nước chỉ quan tâm đến hiệu quả chương trình đó đem lại
như thế nào từ nguồn ngân sách đó mà thôi.
Xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán nhà nước, thành lập trung tâm
tính toán và lưu trữ dữ liệu của ngành tài chính: phải sớm giải quyết tình
trạng phân tán và manh mún, không đồng bộ, ăn khớp trong công tác kế
toán, cần phải lấy kế toán kho bạc làm hạt nhân, để nghiên cứu hàng loạt
các vấn đề xoay quanh kế toán nhà nước như đối tượng kế toán, phương
pháp kế toán, hệ thống chứng từ, mẫu biểu..với mục tiêu là KBNN phải
là cơ quan duy nhất tham mưu giúp bộ tài chính làm tổng quyết toán
NSNN.
Thực hiện công khai hoá NS, trong đó thực hiện công khai qui trình cấp
phát NS và kiểm soát chi NS: nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của
nhà nước và bản chất của NS Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và
vì dân, mọi khoản chi NS đều được đáp ứng từ các nguồn đóng góp của
dân thông qua thuế, phí và lệ phí, vậy người dân phải có quyền được biết
về hoạt động thu-chi của ngân sách nhà nước. Công khai qui trình cấp
phát, kiểm soát chi NS trong chừng mực nào đó góp phần xác định rõ
quyền hạn và trách nhiệm của bên quản lý và bên được quản lý. Nhờ vậy
mà cơ quan quản lý kiểm soát các ĐVSDNS cho các đơn vị sử dụng NS
có điều kiện và cơ hội kiểm tra, giám sát ngược trở lại đối với các đơn vị
quản lý mình trong việc chấp hành các qui trình quản lý.
Vấn đề cán bộ: chúng ta hay nói nhiều về trình độ cán bộ chưa đáp ứng
được yêu cầu và nhiệm vụ, song đây chỉ là một mặt của vấn đề. Nếu
trình độ của cán bộ đã được cải thiện, nhưng tinh thần và thái độ làm
việc của đội ngũ cán bộ chúng ta chưa được xác định đúng vị trí là
những người phục vụ hoặc chưa đào tạo phải phục vụ như thế nào thì
công cuộc cải cách hành chính của chúng ta có lẽ sẽ bị hạn chế rất nhiều,
thậm chí có thể phản tác dụng.
58
Chính vì vậy mà một trong những nội dung cải cách hành chính
trong quản lý chi NSNN thì vấn đề quan tâm đào tạo một đội ngũ cán bộ
trực tiếp làm nhiệm vụ quản lý chi NS có thái độ phục vụ hoàn toàn mới
theo tinh thần “Văn minh giao tiếp”. Vấn đề này tưởng như nhỏ, nhưng nếu
như không có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra, giám sát nghiêm
ngặt thì hậu quả sẽ không phải là nhỏ..
3.2.2. Các giải pháp cụ thể:
3.2.2.1. Về dự toán NSNN:
Thời gian quy trình xây dựng dự toán ngân sách:
Các nước đều quy định năm NS dài 12 tháng, có nước trùng với năm
dương lịch, có nước không trùng, tuỳ theo tập quán mỗi nước. Dự toán được
phê chuẩn trước ngày bắt đầu của năm NS mới. Năm NS là một nguyên tắc
lớn trong quản lý NS kiểu truyền thống. Hết năm NS, dự toán kinh phí chưa
sử dụng đều hết giá trị. Nhưng điều này sẽ khác khi quản lý NS theo mô
hình mới, dựa theo kết quả đầu ra gắn với tầm nhìn trung hạn. Năm ngân
sách của Việt Nam, Hàn Quốc, Malaysia trùng với năm dương lịch (bắt đầu
từ 1/1 và kết thúc vào 31/12 hàng năm); Năm NS của Nhật bản bắt đầu từ
1/4 và kết thúc 31/3 năm sau; Thái Lan bắt đầu từ 1/10 và kết thúc 30/9 năm
sau. Mọi quy trình DTNS đều được kết thúc vào ngày cuối cùng của một
năm NS nhưng thời điểm bắt đầu của mỗi nước lại có sự khác nhau, tạo nên
độ dài thời gian xây dựng DTNS khác nhau. Quy trình DTNS của Việt Nam
dài khoảng 6 đến 7 tháng nhưng ở các nước trong khu vực thường là 10 đến
11 tháng. Thời gian xây dựng DTNS đủ dài và được quy định rõ ràng sẽ tạo
thuận lợi cho các cơ quan hữu quan (điều kiện thời gian) nâng cao chất
lượng chuẩn bị, lập, thẩm tra, thảo luận dự toán ngân sách tốt hơn. Khởi
điểm quy trình DTNS của Việt Nam khá muộn nên độ dài quy trình DTNS
của Việt Nam ngắn hơn các nước.
Nếu tính từ khi Chỉ thị của Thủ tướng về xây dựng dự toán NSNN
được ban hành thì quy trình DTNS Việt Nam bắt đầu từ 31/5; Nếu tính từ thời
59
điểm UBTVQH cho ý kiến về định mức phân bổ, chế độ chi NS quan trọng
thì thời điểm bắt đầu DTNS từ 1/5; Quy định chính thức về thời điểm "xuất
phát"của quy trình NS như ở Việt Nam là khá muộn so với thế giới. Thông
thường, các nước quy định các công việc chuẩn bị dự toán bắt đầu ngay từ
tháng thứ hai của năm NS hiện hành. Cá biệt có nước quy định ngay từ tháng
đầu tiên, ngay sau khi dự toán vừa được phê chuẩn( ở Malaysia ban hành
Thông tư hướng dẫn lập DTNS ngày từ tháng thứ nhất; Hướng dẫn DTNS và
chính sách của Thái Lan được ban hành ngay từ tháng thứ 2; Hàn Quốc ban
hành Hướng dẫn lập DTNS từ tháng thứ 3 hàng năm).
Do vậy, Về thời gian xây dựng dự toán ngân sách cần nghiên cứu
kéo dài tổng thời gian làm dự toán NSNN, có thể đẩy sớm thời hạn chuẩn bị
dự toán lên một vài tháng, bố trí thời gian hợp lý cho các bước, các khâu
của quy trình dự toán NSNN, đảm bảo quỹ thời gian vật chất cần thiết để
các Uỷ ban của Quốc hội, Quốc hội và HĐND các cấp có thể nghiên cứu,
thẩm định, thảo luận kỹ về dự toán NSNN.
Cơ quan chủ trì và phối hợp lập dự toán ngân sách:
1 Tất cả các nước đều quy định một cơ quan cấp bộ chủ trì việc chuẩn
bị và soạn lập DTNS, nhưng không nhất thiết đó phải là Bộ Tài chính.
2 (mô hình phối hợp lập dự toán các nước xem phụ lục 3)
Mỗi mô hình có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Việc tập trung một
đầu mối có ưu điểm lớn trong việc quản lý thống nhất, cung cấp cái nhìn toàn
diện về NS trên cơ sở nắm chắc nguồn thu, tạo cơ sở tốt cho việc bố trí sử
dụng (chi) ngân sách. Mức độ tập trung và sự phối hợp giữa nguồn và sử
dụng nguồn được đẩy mạnh hơn, hiệu quả hơn.
Việc dành riêng một cơ quan độc lập với BTC soạn lập dự toán chi NS
(Thái Lan, Hàn Quốc) hoặc để "nhiều đầu mối" cùng làm dự toán, có ưu điểm
nâng cao mức độ chuyên môn hóa khi xây dựng NS nhưng cũng kéo theo sự
cồng kềnh trong quy trình NS; hiệu quả phối hợp cân đối thu, chi không cao.
Đối với Việt Nam, nên nghiên cứu các phương án thống nhất đầu mối
quản lý NSNN từ cấp trung ương đến các địa phương.
60
Phương án thứ nhất, là xây dựng lại chức năng, nhiệm vụ của BTC và
Bộ KH&ĐT trên cơ sở nhận thức về đối tượng quản lý phục vụ của các Bộ
này phải có sự thay đổi sâu sắc phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, tôn trọng cách thức quản lý vĩ mô theo các nguyên lý của
kinh tế thị trường.
Phương án thứ hai là hợp nhất 2 bộ này lại thành một siêu bộ “Kinh tế
và Tài chính” với các chức năng tổng hợp cả về kinh tế và tài chính, NS.
Trong đó, cần thiết kế một Bộ trưởng phụ trách chung; một Bộ trưởng phụ
trách tài chính, NS; một Bộ trưởng phụ trách kế hoạch, chiến lược phát triển
kinh tế.
Thẩm tra, cho ý kiến, thảo luận và phê chuẩn ngân sách
- Việc thẩm tra, thảo luận và quyết định DTNS ở các nước đều
giống nhau về tổng thể nhưng có sự khác nhau về cách thức tổ chức thực
hiện.
Các nước có tổ chức Thượng viện và Hạ viện thì việc thẩm tra, thảo
luận, quyết định phê chuẩn được tiến hành theo trình tự do nghị viện quyết
định nhưng nhìn chung là DTNS được thẩm tra và thảo luận ở Hạ viện
trước, sau đó chuyển tới Thượng viện. Sau khi được Thượng viện đồng ý,
dự toán lại được quay về Hạ viện để biểu quyết thông qua. Các nước đều sử
dụng các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội để thực hiện thẩm tra.
Tại Việt Nam, dự toán được trình lên Uỷ ban Kinh tế và NS của Quốc
hội. UBKT&NS của Quốc hội chủ trì phối hợp với các cơ quan khác của
Quốc hội để thẩm tra. Tiếp đó UBTVQH cho ý kiến; Quốc hội thảo luận tổ,
thảo luận hội trường và biểu quyết thông qua dự toán ngân sách.
Đại diện của Chính phủ có thể được mời để báo cáo giải trình
trong các phiên họp thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội. Sau đó,
UBKT&NS lập Báo cáo thẩm tra trình UBTVQH cho ý kiến trước ngày
18/10. UBKT&NS hoàn chỉnh báo cáo thẩm tra sau khi có ý kiến của
UBTVQH và gửi các đại biểu Quốc hội chậm nhất 10 ngày trước khi khai
61
mạc kỳ họp Quốc hội. Quốc hội họp, các đại biểu Quốc hội thảo luận tổ,
thảo luận công khai tại Hội trường, chất vấn và đi đến biểu quyết phê
chuẩn dự toán trước ngày 15/11 hàng năm.
Như vậy, Quốc hội Việt Nam đã bước đầu tăng được thực quyền và
phải làm việc kỹ hơn về dự toán ngân sách. Điều này dẫn đến khối lượng
công việc mà Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội phải thực hiện lớn hơn
trước, cần nhiều thời gian và sức lực hơn. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng
điều đó có thể cũng dẫn đến việc can thiệp sâu quá mức cần thiết vào dự
toán, đó là việc nên tránh.
Trong khi đó ở nhiều nước châu á, mức độ thẩm tra của các cơ quan
của Quốc hội và Quốc hội tuy có nhiều thời gian hơn nhưng chất lượng thấp
hơn. Tuy nhiên, Quốc hội các nước này tập trung nhiều vào các vấn đề vĩ
mô và hiệu quả chi tiêu, phân bổ, sử dụng ngân sách.
( Mô hình thẩm tra, thảo luận và phê chuẩn NS tại các nước châu Á (xem
phụ lục 4).
- Hình thức văn bản phê chuẩn DTNS giữa Việt Nam và các
nước có sự khác nhau khá lớn. Các nước được nghiên cứu đều phê chuẩn
dưới hình thức luật NS thường niên. Việt Nam phê chuẩn bằng Nghị quyết
Quốc hội (một về dự toán NSNN, một về phân bổ NSTW). Hiệu lực pháp lý
của văn bản phê chuẩn dự toán ngân sách ở Việt Nam thấp hơn so với các
nước nên hiệu lực thi hành thấp hơn. Trong khi đó ở các nước, DTNS sau
khi được Quốc hội phê chuẩn sẽ được ban hành dưới hình thức luật (Luật
Ngân sách thường niên). Do đó, hiệu lực thi hành cao hơn.
Thông thường, ở các nước tiên tiến hơn (Thái Lan, Malaysia,
Hàn Quốc...), hàng năm, Quốc hội đều ban hành một đạo luật cụ thể để
phê chuẩn Dự toán thu chi NS cho năm NS sắp tới. Các đạo luật này ở
mỗi nước có tên gọi khác nhau nhưng tựu chung lại là luật tài chính hoặc
luật NS thường niên. Luật này khác với luật khung về cách thức tổ chức
NS. Luật NS thường niên bao gồm luật DTNS, luật điều chỉnh DTNS và
luật quyết toán ngân sách.
62
Như đã trình bày, hiện nay, ở nước ta chưa có luật NSNN hàng năm.
Việc phê chuẩn dự toán, quyết toán NSNN hàng năm được thực hiện dưới
hình thức Nghị quyết của Quốc hội. Hình thức Nghị quyết (không phải luật)
phê chuẩn dự toán NSNN, phân bổ NSTW làm giảm tính pháp lý của văn
bản pháp quy về NS. Từ đó cũng làm giảm quyền lực của Quốc hội đối với
các cơ quan hành pháp khi tổ chức thực hiện dự toán ngân sách.
Khi đã được ban hành dưới dạng luật thì dự toán và dự toán điều
chỉnh NS phải được chấp hành nghiêm, tăng cường việc điều hành đất nước
bằng pháp luật. Mức chi theo dự toán được phê chuẩn ban đầu được tuân
thủ, không có tình trạng chi vượt, làm sai ý đồ quản lý vĩ mô trong kế hoạch
sử dụng nguồn tài chính công của Nhà nước, góp phần đơn giản hóa công
tác duyệt quyết toán. Đồng thời, tăng tính nghiêm túc trong các hoạt động
lập pháp cũng như hành pháp.
NSĐP và Hội đồng nhân dân
1Các nước đều có NSTW và NS của các cấp chính quyền ĐP, nhưng
cách thức tổ chức và mức độ thẩm quyền của các cơ quan dân cử về NS của
cấp mình có sự khác biệt giữa Việt Nam và các nước được nghiên cứu
2Tại Việt Nam, NSNN bao gồm cả NSTW và NSĐP; Trong NSĐP,
NSX lồng ghép trong NSH, ngân sách huyện lồng ghép trong ngân
sách tỉnh.
Trong khi đó, ở nước ngoài, đa số đều có sự phân biệt rất rõ NSTW
và NSĐP. NS được Quốc hội các nước thảo luận và quyết định là NS của
Nhà nước TW do các cơ quan của Chính phủ soạn thảo, trình Quốc hội phê
chuẩn. NS của các cấp chính quyền ĐP thuộc thẩm quyền của các cơ quan
dân cử ĐP và do các Hội đồng dân cử địa phương quyết định, không lồng
ghép vào NSTW, cho dù hàng năm TW đều có khoản trợ cấp cho NS các
địa phương.
Vị trí, vai trò của cơ quan dân cử địa phương ở Việt Nam trong lĩnh
vực NS yếu hơn các nước và còn mang tính hình thức.
63
1Tại Việt Nam, HĐND các cấp quyết định NSĐP cấp mình. Điều đó
đã được quy định trong luật NSNN. Tuy nhiên, luật cũng quy định
Quốc hội quyết định NSNN (bao gồm cả NSĐP). HĐND cấp tỉnh
quyết định NSĐP trong phạm vi tỉnh (bao gồm NS các cấp huyện, xã
tổng hợp vào). Như vậy, HĐND cấp dưới sẽ được quyết định cái mà
cấp trên đã quyết định hoặc đã giao. Tính hình thức về thẩm quyền
NS của cơ quan dân cử địa phương được thể hiện khá rõ.
Hơn nữa, thời gian, trình độ năng lực chuyên môn của các đại biểu
dân cử địa phương cũng còn hạn chế nên HĐND các cấp khó có thể phát
huy tốt thực sự vai trò của mình về ngân sách.
Tại các nước nghiên cứu, Cơ quan dân cử địa phương có thực quyền
hơn về NS do thẩm quyền và trách nhiệm được phân định rõ ràng hơn. Các
cơ quan dân cử các cấp được quyết định những gì thuộc phạm vi cấp mình.
Ví dụ tại Thái Lan, NSĐP được chia thành 2 phần: Một phần được
sử dụng theo quy định của địa phương và một phần sử dụng không theo quy
định của địa phương. Hội đồng dân cử địa phương chỉ quyết định các khoản
thu, chi thuộc thẩm quyền quyết định của địa phương mà không thông qua
phần NS do trung ương cấp gắn liền với các chỉ định từ trung ương. Mặc dù
Thái Lan không lồng ghép tổng hợp NS cấp dưới vào NS cấp trên nhưng
việc quyết định NSĐP phải phù hợp với kế hoạch tài chính trung hạn và các
chính sách của TW.
Do vậy, phải phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp ngân sách
một cách rõ ràng hơn, thiết thực hơn
Mặc dù Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đã trao cho
Quốc hội quyết định dự toán NSNN và phân bổ NSTW (điều 84), tăng thêm
một bước quyền tự chủ của địa phương, nhưng để phát huy hơn nữa tính chủ
động của HĐND các cấp trong việc quyết định, phân bổ dự toán và phê
chuẩn quyết toán NSĐP; khắc phục tính hình thức, trùng lắp và chồng chéo
trong quyết định dự toán, phân bổ ngân sách của Quốc hội và HĐND các
64
cấp, xin đề xuất một số khuyến nghị như sau:
+ Quốc hội quyết định dự toán NSNN với tổng số thu, tổng số
chi, mức bội chi và các nguồn bù đắp; quyết định phân bổ NSTW theo từng
loại thu, từng lĩnh vực chi; quyết định số bổ sung cho NSĐP; giao nhiệm vụ
về tổng số thu, tổng chi ngân sách cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
+ Đối với những khoản chi trong cân đối NSĐP, HĐND tỉnh
được quyền quyết định DTNS cấp mình trước khi cấp trên quyết định. Đối
với những khoản chi từ nguồn NS cấp trên bổ sung thì HĐND được thông
qua dự toán chi phù hợp với những nhiệm vụ KT-XH ở địa phương và phù
hợp với chính sách chế độ chung của Nhà nước.
+ Nghiên cứu tiến tới thực hiện nguyên tắc: Quốc hội quyết
định dự toán NSTW, phân bổ NSTW, quyết toán NSTW, chi tiết cho từng
Bộ, cơ quan TW; quyết định số bổ sung từ NSTW cho NS từng tỉnh, thành
phố trực thuộc TW; quyết định các chương trình, dự án quốc gia, các công
trình xây dựng cơ bản quan trọng được đầu tư từ nguồn NSTW; quyết định
điều chỉnh dự toán NSTW trong trường hợp cần thiết. Quốc hội chỉ thông
qua báo cáo tổng hợp dự toán và quyết toán NSNN. HĐND các cấp quyết
định dự toán, phân bổ NS, phê chuẩn quyết toán NS cấp mình, không bao
gồm NS cấp dưới. HĐND các cấp thông qua báo cáo tổng hợp NS cấp mình
và cấp dưới (có lồng ghép) và báo cáo lên cấp trên để thông qua NS chung
của cả nước.
3.2.2.2. Về hạch toán các khoản tạm ứng ngân sách.
Khi thực hiện tạm ứng NS, KBNN hạch toán, kế toán theo quy định
của Chế độ kế toán NSNN và hoạt động nghiệp vụ KBNN và MLNSNN;
trong đó, đối với những trường hợp đã rõ nội dung chi, có thể chi tiết đến
tiểu mục thì phải hạch toán chi tiết đến tiểu mục; trường hợp chưa rõ về nội
dung, không thể xác định được tiểu mục thì nên cho phép hạch toán tạm ứng
vào nhóm mục của MLNSNN nhằm hạn chế sự điều chỉnh mục khi thực
hiện thanh toán tạm ứng, tăng cường tính chủ động của ĐVSD NSNN; khi
65
thanh toán tạm ứng thực hiện hạch toán theo đúng các tiểu mục thực tế phát
sinh.
3.2.2.3.Thủ tục kiểm soát chi:
- Đối với đơn vị không thực hiện tự chủ: Khi thanh toán các khoản
chi nghiệp vụ chuyên môn, ngoài thủ tục như qui trình kiểm soát chi, đơn vị
vẫn phải cung cấp hồ sơ và tài liệu liên quan ( kể cả văn bản riêng chuyên
ngành) để KBNN kiểm soát theo chế độ qui định.
- Đối với các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ: Khi thanh toán chỉ cần
lập bảng kê chứng từ có nội dung phù hợp với từng khoản chi và định mức
chi tiêu qui định tại qui chế chi tiêu nội bộ của đơn vị. KBNN không kiểm
soát từng hồ sơ, tài liệu, chứng từ có liên quan và thủ trưởng đơn vị sử dụng
ngân sách ký tên trên bảng kê chứng từ này phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
liên quan đến tổng số tiền trên bảng kê.
- Đối với đơn vị sự nghiệp có thu: KBNN xây dựng qui trình, chương
trình tin học kiểm soát toàn bộ các khoản chi có trong dự toán đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt, kể cả phần thu sự nghiệp được để lại sử dụng theo
qui định cho phép. Tuy nhiên điều kiện kiểm soát chi cũng nên áp dụng như
đối với các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ về tài chính như trình bày ở trên.
3.2.2.4.Hoàn thiện hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm cơ sở
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí:
Việc cần làm ngay là phải tiến hành công tác rà soát các định mức,
tiêu chuẩn, chế độ trong các lĩnh vực, đặc biệt tập trung vào lĩnh vực quản
lý, sử dụng NSNN; ĐTXDCB; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà công
vụ, công trình phúc lợi công cộng và tài sản công khác.. Yêu cầu đặt ra là
không để xảy ra tình trạng không có định mức, tiêu chuẩn, chế độ hoặc định
mức, tiêu chuẩn, chế độ có nhưng lại quá lạc hậu, không phù hợp với thực
tế. Việc sửa đổi, bổ sung định mức, tiêu chuẩn, chế độ trong các lĩnh vực
theo hướng: hạn chế số lượng định mức cứng (áp dụng thống nhất trong cả
nước), tăng số lượng các khung định mức, trần định mức để các Bộ, ngành,
66
địa phương, đơn vị áp dụng cho phù hợp với tình hình thực tế và khả năng
ngân sách tại Bộ, ngành, địa phương mình; phù hợp với phương thức lập dự
toán ngân sách và phân bổ DTNS cho các cơ quan, đơn vị theo kết quả đầu
ra; phải bảo đảm phù hợp với yêu cầu thực tế, tiến bộ khoa học công nghệ
3.2.2.5.Phân công rành mạch, khắc phục những trùng lắp, chồng chéo
trong quản lý và kiểm soát chi:
Phân công rành mạch, rõ ràng việc kiểm soát NS giữa CQTC và cơ
quan KBNN cũng là một trong những nội dung thuộc lĩnh vực tổ chức bộ
máy, là công việc quan trọng trong quá trình thực hiện cải cách hành chính.
Chức năng cụ thể, rõ ràng, không trùng lắp, không chồng chéo, không bỏ
trống quản lý là hết sức cần thiết trong thực tiễn kiểm soát chi giữa cơ quan
Tài chính và KBNN bởi lẽ hiệu lực quản lý của CQTC có quan hệ rất mật
thiết đến xử lý công việc của cơ quan KBNN và ngược lại.
Theo quy định hiện nay, CQTC kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi
tiêu và sử dụng NS ở các cơ quan, ĐVSDNS. Để kiểm tra, CQTC cũng phải
đưa cán bộ đến đơn vị để kiểm tra chứng từ chi NS có trong dự toán, có
đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức không? trong khi đó, khi thanh toán cho
ĐVSDNS theo dự toán được giao thì KBNN cũng đã thực hiện nhiệm vụ
kiểm soát chi đối với quyết định chi của thủ trưởng ĐVSDNS tức đã kiểm
tra khoản chi có trong dự toán được giao không, có đúng chế độ, tiêu chuẩn,
định mức không. Như vậy, ở đây có sự trùng lắp trong kiểm tra của ngành
“Tài chính”.
Trong trường hợp này, CQTC (Phòng Tài chính, Sở Tài chính, các vụ
thuộc BTC) chỉ nên thực hiện sự kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm hoặc
kiểm tra theo chuyên đề có như thế hiệu quả công tác quản lý chi NS sẽ tốt
hơn và đơn vị sử dụng NS cũng không phải “bị kiểm tra trùng lắp” như hiện
nay. Và số liệu của KBNN là số liệu chính xác để CQTC thực hiện quyết
toán với các ĐVSDNS.
3.2.2.6. Hoàn thiện các hình thức cấp phát Ngân sách nhà nước
67
- Hình thức ghi thu – ghi chi: cần phải được hạn chế và đi đến xoá bỏ.
Hình thức này chỉ áp dụng đối với các khoản thu – chi bằng hiện vật và
bằng ngày công lao động.
- Hình thức lệnh chi tiền: cần xác định rõ phạm vi và đối tượng sử
dụng. Hình thức này chỉ nên áp dụng đối với một số khoản chi như cấp vốn
cho các DNNN, các tổ chức KT-XH không có quan hệ thường xuyên với
NSNN; chi trả nợ, viện trợ; chi bổ sung từ NS cấp trên cho NS cấp dưới
3.2.2.7. Đổi mới quản lý NS theo hướng quản lý NS theo kết quả đầu ra:
Hiện nay, đổi mới quản lý NS theo mô hình mới, dựa theo kết quả
đầu ra gắn với tầm nhìn trung hạn đang diễn ra ở hầu khắp các nước phát
triển như Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Úc, NiuZilân, Anh, Pháp, Mỹ,
Thuỵ Điển... Trong đó, điểm nổi bật là sự thay đổi tư duy về cách thức quản
lý NS đã dẫn đến các trào lưu đổi mới quy trình lập, phân bổ NS theo khuôn
khổ NS trung hạn và khuôn khổ chi tiêu trung hạn, lấy tiêu thức kết quả đầu
ra (của quá trình phân phối, sử dụng nguồn lực công) làm căn cứ chủ yếu để
lập dự toán, thiết lập quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả sử dụng ngân sách.
Trong khi đó, ở nước ta vẫn thực hiện quản lý NS theo quy trình
truyền thống. Tư duy quản lý NS truyền thống dựa chủ yếu trên cơ sở tổng
nguồn lực hiện có và dự báo sẽ có trong năm để xây dựng dự toán và phân
bổ NS. Theo đó, các chế độ quản lý, các định mức chi tiêu, MLNS.. được
thiết lập để kiểm soát theo phương châm càng chặt chẽ càng tốt.
Thực tiễn chỉ rõ cách thức quản lý theo kiểu truyền thống (cả ở Việt
Nam và trên thế giới) là một quá trình quản lý duy ý chí, mang tính chủ
quan, áp đặt từ phía các nhà quản lý nguồn lực, từ trên xuống. Điều đó
thường dẫn đến các kết cục là: Hiệu lực quản lý thấp. Ít gắn kết giữa kinh
phí cấp ra với mục tiêu phải đạt được. Tầm nhìn ngắn hạn và thiếu chủ
động. Bất cập ngay từ khâu chuẩn bị xây dựng dự toán. Phân bổ dàn trải,
thiếu trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả sử dụng nguồn lực thấp.
Trên thực tế, theo quy trình và phương pháp quản lý NS truyền thống,
68
thì mức độ gắn kết giữa các chỉ tiêu tài chính (nguồn và sử dụng nguồn tài
chính) với chỉ tiêu của các kế hoạch phát triển KT-XH hoặc các kế hoạch
phát triển ngành còn hạn chế, nhiều khi không chỉ rõ được mối liên hệ giữa
chúng (mặc dù mọi kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hoặc kế hoạch phát
triển ngành đều cần đến tài chính). Thiếu sự gắn kết rõ ràng giữa việc huy
động, phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính với các mục tiêu và chính
sách phát triển KT-XH sẽ dẫn đến việc có thể không có đủ nguồn lực để
thực hiện các mục tiêu, chính sách đã đề ra; hoặc có thể sử dụng không
đúng chỗ, không đúng thời điểm... Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến
việc phân bổ dàn trải, chi tiêu không hiệu quả, ít nhất cũng là do lo thiếu
nguồn tài chính nên bố trí công trình kéo dài hoặc chi không đủ lượng cần
thiết.
Qua nghiên cứu quá trình chuyển đổi mô hình quản lý NS ở các nước
cho thấy quản lý, phân bổ NS theo kết quả đầu ra là phương thức quản lý
tiên tiến, hiệu quả. Tuy nhiên, để thực hiện theo phương thức mới này, cần
chuẩn bị rất chu đáo, trước hết cần nâng cao nhận thức chung của các cơ
quan chức năng về phương pháp quản lý mới; Tiếp đến là xây dựng được hệ
thống các chỉ số đánh giá kết quả hoạt động và nâng cao năng lực cung cấp
thông tin về tài chính - NS của các cơ quan, đặc biệt là cơ quan dân cử.
Thực hiện đổi mới quy trình xây dựng dự toán và phương pháp phân
bổ NS dựa theo kết quả đầu ra gắn với tầm nhìn trung hạn chính là cách làm
thích hợp và tốt nhất để Quốc hội và HĐND chủ động thực hiện vai trò
giám sát hiệu quả nhất đối với quá trình xây dựng dự toán, phân bổ và sử
dụng nguồn NSNN của đất nước. Đồng thời, cách thức quản lý mới cũng
đảm bảo nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử trong việc phân bổ, sử
dụng ngân sách vì các mục tiêu công bằng xã hội, xóa đói, giảm nghèo...
3.2.2.8. Cải cách hành chính theo hướng minh bạch, công khai, đơn
giản hoá các thủ tục và nâng cao hiệu quả quản lý
Trong các hoạt động nghiệp vụ KBNN, công tác quản lý chi NSNN
69
là trọng tâm cần đẩy mạnh cải cách hành chính bởi vì đây là một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất của KBNN, đồng thời có quan hệ trực tiếp
và ảnh hưởng đến tất cả các đối tượng sử dụng NSNN. Thực tế công tác
quản lý chi NSNN của KBNN hiện nay cho thấy việc bố trí quy trình kiểm
soát các khoản chi cơ bản trong đó có chi thường xuyên đã đảm bảo tương
đối phù hợp. Quy trình kiểm soát chi NS đã được cải tiến theo hướng đơn
giản hoá, minh bạch và phù hợp thực tiễn nhằm quản lý chặt chẽ, an toàn
tiền vốn của Nhà nước; đồng thời tạo thuận lợi cho đối tượng giao dịch. Tuy
nhiên, công tác này đang còn nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết.
- Những nội dung chi giống nhau, cùng một loại công việc như nhau
nhưng được giao cho nhiều bộ phận quản lý, tạo sự phân tán; quy trình luân
chuyển và xử lý công việc giữa các bộ phận còn nhiều điểm chưa hợp lý.
Đây là một thực tế cần nghiên cứu để có các giải pháp mang tính tổng thể,
toàn diện và lâu dài, nhằm xây dựng quy trình nghiệp vụ của KBNN hiện
đại, đáp ứng được các yêu cầu: quản lý tài chính nhà nước chặt chẽ, đúng
luật; tạo thuận lợi cho các đối tượng giao dịch; đạt hiệu quả cao trong hoạt
động quản lý. Ví dụ, một số đơn vị thực hiện chương trình mục tiêu là các
đơn vị dự toán như Sở Y tế, Văn hoá, Thể dục thể thao… được giao dự toán
chi thường xuyên và do bộ phận kế toán kiểm soát thanh toán. Đồng thời,
nhiều nội dung chi chương trình mục tiêu có tính chất giống chi thường
xuyên ( chi cho con người, chi hoạt động chương trình mục tiêu về y tế, văn
hoá, giáo dục,..) cũng được CQTC giao dự toán theo chương trình mục tiêu
và được phân công cho bộ phận kế hoạch kiểm soát thanh toán. Như vậy,
đơn vị sử dụng NSNN có cùng một bản dự toán, chi cho công việc có tính
chất giống nhau nhưng lại giao dịch với hai bộ phận của KBNN nên có
nhiều điểm không thuận tiện cho cả đơn vị và KBNN. Để giải quyết vấn đề
này cần phân công phòng kế toán chịu trách nhiệm kiểm soát toàn bộ các
khoản chi chương trình mục tiêu có tính chất thường xuyên được giao bằng
dự toán; phòng kế hoạch tổng hợp là đầu mối tổng hợp thông tin để báo cáo
70
tình hình thực hiện chương trình mục tiêu theo yêu cầu của các cấp có thẩm
quyền.
- Về việc đối chiếu tình hình sử dụng dự toán của các đơn vị với
KBNN: Để giảm bớt công việc lập đi lập lại nhiều lần đối với KBNN khi
đơn vị thực hiện đối chiếu không khớp đúng đến từng mục chi của MLNS
đồng thời hạn chế bớt những tiêu cực nhỏ ( cơ chế xin cho số liệu) phát sinh
trong quá trình đối chiếu giữa KBNN và đơn vị sử dụng NSNN. KBNN nên
cung cấp số liệu công khai đến từng mục chi trên báo cáo chi hàng tháng,
quí của KBNN trên các ki-ốt thông tin hoặc cung cấp báo cáo giấy cho các
đơn vị tự kiểm tra đối chiếu khớp đúng trước khi đến KBNN. Điều này thể
hiện tính minh bạch trong kiểm soát chi qua KBNN đồng thời đơn vị sử
dụng NSNN cùng tham gia và chịu trách nhiệm về kết quả theo dõi chi đến
từng mục của MLNSNN, phát hiện kịp thời những sai xót từ phía KBNN do
hạch toán nhầm mục chi và yêu cầu KBNN chỉnh sửa. Mặt khác đơn vị
không bị lệ thuộc vào KBNN khi muốn đối chiếu chính xác số liệu chi của
mình.
3.2.2.9. Hoàn thiện quản lý và kiểm soát chi NS xã:
Thống nhất hình thức, biểu mẫu và cơ chế kiểm soát chi như các cấp
ngân sách. Sử dụng giấy rút dự toán phù hợp với cơ chế kiểm soát theo dự
toán.
3.2.2.10. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống thông tin
Để nâng cao hiệu quả giám sát NS và vai trò của các cơ quan, đơn vị.
Cần tổ chức luân chuyển thông tin giữa cơ quan hành pháp và lập pháp một
cách khoa học, hiện đại. Tổ chức phân loại chi ngân sách một cách thống
nhất, có đầy đủ các chỉ tiêu cần thiết, tuân thủ thông lệ quốc tế, tạo dựng
được cơ sở dữ liệu tài chính, NS có chiều dày lịch sử, toàn diện. Thực hiện
thống nhất các chỉ tiêu về NS cả ở khâu dự toán, chấp hành và quyết toán
ngân sách, cả ở đơn vị sử dụng và cơ quan quản lý NSNN các cấp. Tính đầy
đủ, liên tục, có hệ thống, nhất quán về chỉ tiêu của hệ thống thông tin và
71
cách thức luân chuyển thông tin luôn chiếm vị trí quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội và HĐND.
Trên thực tế, muốn nâng cao hiệu quả can thiệp của Quốc hội
đối với DTNS thì vấn đề không thể thiếu là việc cung cấp và xử lý thông
tin - tài liệu có liên quan đến dự toán NSNN, phương án phân bổ NSTW
và quyết toán NSNN. Trong thời gian gần đây, mặc dù đã có những
chuyển biến nhất định nhưng những thông tin về thu, chi NSNN của từng
cấp ngân sách chưa được nêu trong tài liệu trình cho Quốc hội một cách
có hệ thống, toàn diện và đầy đủ. Tài liệu ngân sách được trình cho Quốc
hội vẫn dừng lại ở các nhóm thu chính và các nhóm chi theo chức năng
mà những nội dung này cũng cần nhanh được hiện đại hoá.
3.2.2.11. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quản lý cấp phát và kiểm
soát thanh toán chi NSNN qua KBNN
Yêu cầu có được nguồn nhân lực để đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ
luôn là mối quan tâm, trăn trở thường trực của các tổ chức và cấp lãnh đạo
KBNN Tiền Giang. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. KBNN
thường xuyên quan tâm bồi dưỡng cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp
vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác cấp phát và kiểm soát thanh toán chi
NSNN. Hàng năm, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ về chính sách,
cơ chế, quy trình, thủ tục và trình tự giải quyết các vấn đề nghiệp vụ. Trên
cơ sở đó, KBNN Tiền Giang tổ chức tập huấn, bồi dưỡng tiếp cho đội ngũ
cán bộ thuộc đơn vị mình. Trong quá trình tác nghiệp, cán bộ KBNN chịu
áp lực rất lớn giữa một bên là chấp hành nguyên tắc, chính sách chế độ quy
định về quản lý tài chính và NS nhằm đảm bảo quản lý chặt chẽ với việc
vận dụng hợp lý, phù hợp với thực tế nảy sinh; giữa việc tạo thuận lợi cho
khách hàng, nhằm kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo an toàn tài sản. Thông qua
các hội thi nghiệp vụ do KBNN tổ chức đã nâng cao nhận thức về vai trò,
nhiệm vụ, trách nhiệm của người công chức KBNN, là ý thức học tập, bồi
72
dưỡng năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tinh thông nghiệp vụ.
Tinh thần ham học hỏi, rèn luyện chuyên môn, đạo đức và bản lĩnh nghề
nghiệp đã trở thành truyền thống tốt đẹp của công chức ngành KBNN, đặc
biệt đối với những người làm công tác cấp phát, kiểm soát chi NSNN.
KBNN Tiền Giang đã và đang triển khai các đề án do KBNN đề ra
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và chất lượng phục vụ của KBNN mà
trọng tâm là xây dựng KBNN Tiền Giang mẫu mực về quy trình nghiệp vụ,
mẫu mực về công sở và mẫu mực trong văn hoá ứng xử, văn hoá giao tiếp,
từng bước xây dựng văn hoá nghề KBNN với mục tiêu là cung cấp cho các
ĐVSDNS những điều kiện phục vụ tốt nhất, hoàn thiện và văn minh nhất.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Nâng cao hiệu quả kiểm soát chi NSNN qua KBNN đòi hỏi phải dày
công nghiên cứu và giải quyết một cách đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau.
Từ những giải pháp mang tính định hướng đến những giải pháp cụ thể như
đổi mới và hoàn thiện quy trình lập, duyệt, phân bổ và quyết toán NS; đổi
mới phương thức cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN; đặc biệt là việc
thay đổi tư duy của các đơn vị thụ hưởng NS và phương pháp kiểm soát chi
NSNN của KBNN. Để thực hiện có hiệu quả những giải pháp nói trên, đòi
hỏi phải có những điều kiện cần thiết về cơ sở pháp lý, chất lượng dự toán,
đến trình độ kỹ thuật công nghệ và đặc biệt là năng lực chuyên môn và
phẩm chất của đội ngũ cán bộ Kho Bạc Nhà Nước.
73
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn hiện nay, NSNN đóng vai trò rất quan trọng, bảo
đảm cho NSNN thực hiện chức năng và nhiệm vụ duy trì quyền lực nhà
nước – là công cụ điếu tiết vĩ mô nền kinh tế, cung cấp kinh phí để đầu tư
cơ sở hạ tầng, các ngành then chốt, tạo môi trường cho các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển, đầu tư chống ô nhiễm môi trường,
tài trợ cho các hoạt động xã hội, chống lạm phát … Do vậy, việc quản lý sử
dụng NSNN đúng đối tượng, đúng mục đích và có hiệu quả không chỉ là
trách nhiệm riêng của cơ quan tài chính hay KBNN mà là trách nhiệm
chung của tất cả các cơ quan đơn vị QLNN và các đơn vị sử dụng Ngân
sách nhà nước.
Trong đề tài này là sự kết hợp giữa nhận thức mới trong lý luận chung
về NSNN và kiểm soát chi NSNN qua KBNN với thực trạng công tác quản
lý cấp phát NS và kiểm soát chi NS qua KBNN theo luật NSNN. Đồng thời,
nêu ra những tồn tại cơ bản trong quá trình tổ chức thực hiện. Từ đó, đề ra
những giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những tồn tại và góp phần nâng
cao hiệu quả kiểm soát chi NSNN theo luật định. Trong đó giải pháp cải tiến
thủ tục, quy trình kiểm soát các khoản chi chủ yếu có ý nghĩa rất quan trọng
và thực tiễn trong việc phục vụ quá trình kiểm soát chi Ngân sách nhà nước
Với việc kiến nghị tập trung thống nhất các nguồn vốn đầu tư của nhà
nước và thực hiện khoán chi NSNN sẽ góp phần nâng cao năng lực quản lý
bộ máy nhà nước, giảm được hao phí lao động xã hội và sử dụng kinh phí
thuộc Ngân sách nhà nước được tiết kiệm và có hiệu quả hơn.
Đối với công tác quản lý chi tiêu NSNN, đây không chỉ đơn thuần là
công việc kiểm soát chi tiêu của các đối tượng thụ hưởng NSNN mà là phân
phối và sử dụng các nguồn lực tài chính của địa phương được tập trung từ
các thành phần kinh tế và của nhân dân lao động.
Hơn nữa, Ngân sách nhà nước không phải là vô tận đều là tiền của,
công sức lao động của nhân dân đóng góp, nó không thể thất thoát lãng phí.
74
Năng lực sản xuất còn nhiều, đời sống nhân dân được nâng lên nếu ta có
một cơ chế và quy trình hoàn chỉnh về kiểm soát chi Ngân sách nhà nước./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan Van Thac Si Thao.pdf