1.1. Rủi ro tín dụng
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Thực tế đã có rất nhiều khái niệm về RRTD ngân hàng, cụ thể như:
- Theo “Financial Institution Management – A Modern Perpective”, A.Saunder và H.Lange thì cho rằng “RRTD là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các nguồn thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ cả về số lượng và về thời hạn”.
- Theo Timothy W.Koch [1] thì cho rằng “RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá khi khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn”.
- Theo khoản 1 điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN Việt Nam và các quyết định sửa đổi, bổ sung về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động ngân hàng của TCTD, RRTD là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Như vậy, có thể hiểu RRTD là biến cố xảy ra trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế là việc khách hàng vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ (bao gồm lãi vay và gốc) hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng như đã cam kết trong hợp đồng.
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng
1.1.2.1. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro
- Rủi ro giao dịch: Là rủi ro phát sinh do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch gồm:
ã Rủi ro lựa chọn: Liên quan đến quá trình đánh giá, phân tích tín dụng khi ngân hàng lựa chọn phương án cho vay.
ã Rủi ro đảm bảo: Phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại TSĐB, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên trị giá của TSĐB.
ã Rủi ro nghiệp vụ: Liên quan đến công tác quản lý khoản cho vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: Là rủi ro phát sinh do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
ã Rủi ro nội tại: Xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay.
ã Rủi ro tập trung: Khi ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng; cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định, cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.1.2.2. Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng
- Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn: Khi thiết lập mối quan hệ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải quy ước về khoản thời gian hoàn trả nợ vay. Tuy nhiên, đến thời hạn quy ước nhưng ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay.
- Rủi ro do không có khả năng trả nợ: Là rủi ro xảy ra trong trường hợp doanh nghiệp đi vay mất khả năng chi trả, ngân hàng phải thanh lý TSĐB của doanh nghiệp để thu nợ.
- RRTD không giới hạn ở hoạt động cho vay: Bao gồm các hoạt động khác mang tính chất tín dụng của ngân hàng như bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay thị trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ
85 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1715 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại các chi nhánh ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n vẫn chưa thực hiện được nghĩa vụ của mình thì
ngân hàng lại phải làm đơn đề nghị Thi hành án tiến hành thực hiện theo
quyết định của Tòa án, nếu Thi hành án vẫn không thỏa thuận được với người
bị kiện thì mới tiến hành cưỡng chế TSĐB và thực hiện các thủ tục để bán
đấu giá TSĐB. Nhưng thực tế, công việc này vẫn còn nhiều khó khăn và bất
cập vì Thi hành án phải kiểm tra tài sản thực tế và tiến hành các thủ tục thẩm
định giá trị tài sản và đưa ra mức giá thích hợp để thực hiện bán đấu giá tài
sản, làm cho việc xử lý TSĐB kéo dài, dẫn đến việc thu hồi nợ của ngân hàng
bị chậm trễ. Thực tế cho thấy, có những hồ sơ tính từ thời gian bắt đầu khởi
kiện cho đến hiện nay là đã hơn 4 năm mà vẫn chưa xử lý được tài sản để thu
hồi nợ, khoảng thời gian này khá dài, như vậy môi trường pháp lý của ta vẫn
còn nhiều bất cập và chưa thuận lợi trong việc xử lý TSĐB để giúp các
NHTM sớm thu hồi nợ vay.
¾ Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN chưa thực sự phát huy hết
hiệu quả. Thật vậy, thực tế cho thấy hoạt động thanh tra của ngân hàng chưa
có sự cải thiện nhiều về chất lượng. Năng lực của cán bộ kiểm tra, giám sát
chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc hiện tại. Nội dung, phương pháp
thanh tra, giám sát còn xa với thực tế, chưa được đổi mới kịp thời. Vai trò
kiểm tra, kiểm soát chưa được phát huy hết. Thanh tra ngân hàng còn hoạt
động một cách thụ động theo kiểu chỉ xử lý những vụ việc đã phát sinh, ít có
khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và những vi phạm có khả năng sẽ xảy
ra.
¾ Hệ thống thông tin quản lý còn nhiều bất cập, đây là thách thức lớn không
những cho VietinBank mà còn cho cả hệ thống ngân hàng Việt Nam. Việc
mở rộng tín dụng và kiểm soát tốt tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện có
hệ thống thông tin tương xứng là điều hết sức khó khăn. Nếu các ngân hàng
cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường
thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân
hàng.
• Môi trường kinh tế không ổn định
63
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng luôn có những diễn biến phức tạp, làm cho HĐKD của khách hàng gặp nhiều
khó khăn và bị ảnh hưởng nặng nề, nhất là những khách hàng hoạt động trong lĩnh
vực bất động sản, vàng, xây dựng và vận tải. Thật vậy,
¾ Đối với lĩnh vực kinh doanh bất động sản, do một số khách hàng vay vốn để
đầu cơ vào quyền sử dụng đất (chủ yếu là mua đất lúa, đất rừng…) và chờ đợi
cơ hội có dự án để chuyển mục đích sử dụng thành đất SX-KD, đất ở, hoặc
chuyển nhượng lại cho người khác để thu lợi. Tuy nhiên, thực tế không diễn
ra theo đúng dự tính ban đầu nên việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất hoặc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất không thực hiện được, trong khi lãi suất
ngân hàng liên tục tăng dẫn đến tình trạng khách hàng mất khả năng trả nợ.
¾ Đối với lĩnh vực kinh doanh vàng, sự biến động liên tục của giá vàng trong
giai đoạn hiện nay đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh doanh của các
khách hàng hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh vàng, họ không lường trước
được sự biến động như vũ bảo của giá vàng (giá vàng thay đổi liên tục từng
giờ), để cắt giảm lỗ nên đã có nhiều nhà kinh doanh vàng phải tạm đóng cửa
không giao dịch, chờ giá vàng bình ổn mới dám kinh doanh trở lại, vì nếu
khách hàng kinh doanh mà không bám sát chặt chẽ diễn biến của giá vàng
trên thị trường, không có những biện pháp xử lý kịp thời thì việc kinh doanh
không có hiệu quả, làm cho khả năng trả nợ của khách hàng bị hạn chế, nợ
quá hạn tăng cao.
¾ Đối với lĩnh vực xây dựng và vận tải, có những giai đoạn giá cả nguyên vật
liệu (như tôn, sắt, xăng dầu, điện…) tăng rất cao cùng với sự gia tăng lãi suất
vay ngân hàng (có lúc lên đến 24,5%/năm)… đã dẫn đến kết quả HĐKD của
khách hàng bị thua lỗ, cho nên khách hàng không trả được nợ vay đúng hạn.
Như vậy, môi trường kinh tế không ổn định đã gây khó khăn trực tiếp cho khách
hàng, gián tiếp gây ra RRTD cho ngân hàng.
• Môi trường tự nhiên
Thực tế, những thay đổi bất thường về thời tiết, thiên tai cũng là một trong những
nguyên nhân gián tiếp gây ra RRTD cho ngân hàng. Chẳng hạn, đối với trường hợp
64
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các mặt hàng được làm bằng gỗ thì
nguyên liệu chính dùng để sản xuất là gỗ, và nguyên liệu này phải được phơi sấy khô
trước khi đưa vào chế biến (trường hợp này xảy ra đối với những doanh nghiệp có tài
chính hạn hẹp nên chưa trang bị được lò sấy và để tiết kiệm chi phí sản xuất như là chi
phí điện…). Khi thời tiết xấu, trời mưa bão kéo dài liên tục trong nhiều ngày thì gỗ
không phơi được, như vậy gỗ không khô thì quá trình sản xuất sẽ bị đình trệ, làm ảnh
hưởng đến sản lượng sản xuất của doanh nghiệp, dẫn đến thời gian giao hàng của
doanh nghiệp bị ảnh hưởng, dẫn đến việc làm uy tín của doanh nghiệp bị giảm, hiệu
quả HĐKD của doanh nghiệp giảm sút… Điều này làm cho khả năng trả nợ của khách
hàng bị hạn chế và nguy cơ xảy ra RRTD là có.
2.3.5.2. Nguyên nhân chủ quan
Từ phía khách hàng vay vốn
• Khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích
¾ Khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích: Trên cơ sở phương án sử
dụng vốn vay có hiệu quả, khách hàng được ngân hàng cấp tín dụng để thực
hiện phương án SX-KD. Tuy nhiên, khách hàng đã đem cho vay lại với lãi
suất cao hơn để hưởng chênh lệch hoặc đầu tư vào những lĩnh vực có nhiều
rủi ro mà Nhà nước đang có chủ trương thu hẹp cấp tín dụng như lĩnh vực bất
động sản, chứng khoán, vàng… vào thời điểm hiện nay. Khi khách hàng
không thu hồi được vốn đã đầu tư dẫn đến tình trạng chậm hoặc mất khả năng
chi trả cho ngân hàng, gây ra rủi ro lớn cho ngân hàng.
¾ Khách hàng giả lập phương án không có thật để vay vốn: Để tạo niềm tin
trước ngân hàng, một số khách hàng vay (những người có ý đồ lừa đảo)
thường thực hiện vay trả rất tốt ở các khoản vay nhỏ trong thời gian ngắn
(khoảng 6-12 tháng) để gây ấn tượng và tạo sự tín nhiệm với ngân hàng. Sau
đó, các khách hàng này sẽ lập phương án (không có thật) gửi đến ngân hàng
xin vay vốn với số tiền lớn để thực hiện phương án kinh doanh, thu mua nông
sản… Việc mua bán, kinh doanh hàng hóa được ngụy trang dưới các hợp
đồng kinh tế không có thật, các chứng từ kinh doanh khống và kho bãi kinh
doanh không thật (có thể mượn cơ sở kinh doanh của người khác làm cơ sở
kinh doanh của mình) nhằm che mắt ngân hàng cho vay. Sau khi nhận được
65
tiền vay, khách hàng vay bỏ trốn khỏi địa phương làm cho việc thu hồi nợ của
ngân hàng gặp nhiều khó khăn.
¾ Khách hàng vay lừa đảo bằng việc chiếm đoạt tài sản được hình thành từ vốn
vay: Trong các hợp đồng cấp tín dụng cho khách hàng mà TSĐB được hình
thành từ vốn vay (cho vay mua nhà trả góp, mua bất động sản, mua ô tô, mua
phương tiện vận tải…) thì ngân hàng là người nhận và giữ giấy tờ sở hữu các
tài sản này (đến khi khách hàng trả hết nợ, ngân hàng sẽ trả giấy tờ sở hữu
này lại cho khách hàng). Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp do có sự
quen biết giữa khách hàng, ngân hàng với các cơ quan cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu đối với tài sản được hình thành từ vốn vay nên các cơ quan này
giao trực tiếp giấy tờ sở hữu tài sản cho khách hàng. Lợi dụng được sơ hở
này, khách hàng vay mang giấy tờ sở hữu tài sản đi thế chấp hoặc cầm cố để
đảm bảo cho một nghĩa vụ nợ khác.
• Trình độ và khả năng quản lý của khách hàng còn yếu kém
¾ Khách hàng đầu tư kinh doanh dàn trải, chiến lược kinh doanh không chuẩn
xác: Thực tế, một số khách hàng do năng lực tài chính thấp, nguồn HĐKD
chủ yếu từ vốn vay, nhưng lại mở rộng quy mô hoạt động quá lớn, chiến lược
kinh doanh không được vạch ra cụ thể, rõ ràng và chuẩn xác… dẫn đến việc
khách hàng gặp nhiều trở ngại trong HĐKD như họ không đủ sức điều hành
HĐKD, không có khả năng ứng phó với những biến động của thị trường, nhất
là trong giai đoạn các chi phí đầu vào phục vụ hoạt động SXKD đều tăng cao
như hiện nay, kể cả chi phí lãi vay cũng tăng quá cao… làm cho việc đầu tư
kinh doanh không có hiệu quả, tình trạng thua lỗ kéo dài sẽ dẫn đến việc
khách hàng bị phá sản và ngân hàng không thu hồi được vốn cho vay.
¾ Khách hàng đầu tư không khoa học: Việc khách hàng xây dựng và triển khai
các phương án SXKD không khoa học, việc tính toán các khoản chi phí đầu
tư chưa phù hợp với tình hình thực tế của thị trường. Bên cạnh đó, trình độ
quản lý kinh doanh của khách hàng còn yếu sẽ làm cho khả năng thích ứng
với những biến động của thị trường trở nên khó khăn, phương án kinh doanh
không đem lại hiệu quả, gây thiệt hại cho khách hàng. Đây là nguyên nhân
dẫn đến sự thất bại và làm mất dần vốn của các phương án kinh doanh lẽ ra là
sẽ rất khả thi trên thực tế.
66
• Khách hàng không có thiện chí trả nợ
Khi đã kết thúc chu kỳ kinh doanh, mặc dù kết quả kinh doanh tốt, đạt lợi nhuận
cao nhưng khách hàng cố tình không trả nợ theo đúng cam kết trong hợp đồng cấp tín
dụng mà vẫn cứ muốn giữ lại khoản tiền vay đó để sử dụng cho các nhu cầu khác.
• Khách hàng cố tình cung cấp thông tin không chính xác
Trên thực tế, có một số doanh nghiệp muốn lừa đảo nên đã cung cấp số liệu
không trung thực. Điều đó làm cho kết quả đánh giá của ngân hàng về tình hình tài
chính cũng như tình hình hoạt động của khách hàng không còn chính xác, gây ra rủi ro
cho ngân hàng khi quyết định cho vay các doanh nghiệp này.
Từ phía ngân hàng
• Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số nhân viên ngân hàng còn hạn
chế
Nghiệp vụ tín dụng là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của hoạt động
ngân hàng và lợi nhuận đem lại từ nghiệp vụ này là cao nhất so với các nghiệp vụ
khác nhưng nguy cơ xảy ra RRTD cũng rất cao, vì vậy đòi hỏi cán bộ làm công tác tín
dụng phải có đầy đủ năng lực, trình độ chuyên môn cao, có nhiều kinh nghiệm…
Thực tế tại các chi nhánh, có một số CBTD chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác
tín dụng như chưa có kinh nghiệm nhiều trong việc thẩm định hồ sơ tín dụng, trình độ
chuyên môn còn hạn chế, chưa có khả năng phân tích đánh giá những hiệu quả của
phương án mang lại, cũng như mức độ rủi ro có thể xảy ra khi thực hiện phương án
kinh doanh. Ngoài ra, một số CBTD chưa nghiên cứu kỹ các quy trình, quy chế cho
vay hiện hành của VietinBank nên đã giải quyết hồ sơ khi chưa hội đủ điều kiện cho
vay theo quy định, sai quy chế cho vay hiện hành. Chẳng hạn như:
¾ CBTD đã bỏ qua một số nguyên tắc tín dụng hiện hành, không quản lý giám
sát chặc chẽ việc sử dụng vốn vay của khách hàng, quyết định cấp GHTD và
thực hiện giải ngân cho khách hàng khi chỉ chú trọng vào TSTC, chứ không
chú trọng đến hiệu quả và tính khả thi mà phương án vay đem lại.
¾ Giải quyết cho vay đối với khách hàng là doanh nghiệp có kết quả kinh doanh
lỗ (không thực hiện trình NHCTVN, khách hàng không có kế hoạch bù lỗ
67
theo quy định), không có căn cứ để xác định tính khả thi của phương án vay,
giải ngân khi thiếu hồ sơ, chứng từ chứng minh mục đích sử dụng vốn vay…
¾ Hoặc CBTD không có nhận ra những gian lận của khách hàng khi thực hiện
giải ngân như: Khách hàng nhận nợ vay để chuyển thanh toán tiền hàng
nhưng thực chất người nhận tiền thanh toán và người vay đã có sự thông
đồng, giải ngân sai đối tượng cho vay được quy định trong hợp đồng tín
dụng…
Như vậy, những điều này là những nguyên nhân gây ra RRTD, làm cho nguy cơ
mất vốn của ngân hàng tăng cao.
• Đạo đức nghề nghiệp của một số nhân viên ngân hàng chưa được xem trọng
Ngoài việc đòi hỏi trình độ chuyên môn phải cao, đạo đức nghề nghiệp của nhân
viên ngân hàng cũng cần phải được xem trọng. Nhưng thực tế vì lợi ích cá nhân, một
số nhân viên ngân hàng đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, cố ý làm trái quy định...
Chẳng hạn, CBTD đã:
¾ Định giá TSĐB quá cao so với giá trị thực của tài sản trên thị trường nhằm
mục đích là rút tiền vay nhiều;
¾ Thực hiện giải ngân nhiều lần trong ngày để đảo nợ cho các khoản vay đến
hạn (áp dụng đối với cho vay theo phương thức hạn mức);
Như vậy, những vi phạm này là nguyên nhân làm cho ngân hàng gặp nhiều rủi
ro trong quá trình thu hồi nợ vay, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 2 đã phân tích sơ qua thực trạng tình hình hoạt động và đi sâu phân tích
thực trạng QTRRTD tại các chi nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Trong quá trình phân tích, việc nêu ra những kết quả đạt được, những tồn tại và
đưa ra được những nguyên nhân dẫn đến tồn tại trong công tác QTRRTD tại các chi
nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã giúp đưa ra cái nhìn tổng quát về
68
thực hiện công tác QTRRTD của các chi nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai trong thời gian qua cũng như xu hướng sắp tới.
Đối với những tồn tại thuộc về nội tại, các chi nhánh VietinBank trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai phải nhanh chóng khắc phục; đối với những RRTD do biến động của
nền kinh tế gây ra, các chi nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh Đồng Nai phải có giải
pháp phòng ngừa; còn những vấn đề thuộc về cơ chế, chính sách thì các cơ quan chức
năng, cơ quan quản lý nhà nước cần sớm điều chỉnh kịp thời để chất lượng tín dụng
ngày càng được nâng cao và công tác QTRRTD tại các chi nhánh VietinBank trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai ngày càng có hiệu quả theo thông lệ quốc tế.
69
CHƯƠNG 3- GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI CÁC CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Định hướng phát triển của ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam từ năm
2010-2015
3.1.1 Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh
- Tiếp tục mở rộng phạm vi và qui mô hoạt động thông qua việc phát triển mạng
lưới, thành lập và liên kết thành lập các công ty con kinh doanh trên lĩnh vực tài chính
tiền tệ.
- Mở văn phòng đại diện tại một số nước
- Phấn đấu trở thành một Tập đoàn tài chính ngân hàng mạnh trong khu vực vào
năm 2015.
- Bám sát chỉ đạo của Chính phủ và NHNN, tích cực thực thi chính sách tiền tệ,
góp phần làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, đồng thời thực hiện có kết quả
các mục tiêu nhiệm vụ, định hướng chiến lược hoạt động của VietinBank năm 2010 -
2015 là:
• Tổng tài sản tăng trung bình 20%;
• Nguồn vốn tăng 20%;
• Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE): từ 18% - 19%;
• Tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản ( ROA): 1,53%;
• Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) > 10%.
• Tỷ lệ nợ xấu < 3%.
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng
- Tín dụng là HĐKD chủ lực, cạnh tranh theo nguyên tắc thị trường.
- Điều chỉnh cơ cấu tín dụng hợp lý, phù hợp với thế mạnh của VietinBank.
- Tăng cường QTRRTD, bảo đảm nợ xấu chiếm tỷ lệ dưới 3%.
- Đa dạng hoá các hoạt động đầu tư tín dụng trên thị trường tài chính, giữ vai trò
70
định hướng trong thị trường, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và quản lý thanh khoản
của ngân hàng.
Giai đoạn 2010 - 2015 là giai đoạn đối mặt với không ít khó khăn, trong đó trọng
tâm là kiềm chế lạm phát duy trì sự tăng trưởng bền vững đảm bảo an sinh xã hội.
Tăng cường năng lực QTRRTD là xu hướng chủ chốt trong hệ thống ngân hàng.
Đồng thời xu hướng tập trung đầu tư phát triển hệ thống thông tin quản lý và chuyển
đổi mô hình quản lý của các ngân hàng cũng ngày càng rõ rệt. Các ngân hàng Việt
Nam cũng ngày càng xác định rõ hơn chiến lược phát triển kinh doanh của mình đồng
thời hướng triển khai áp dụng mô hình quản lý theo đối tượng khách hàng và nâng cao
hệ thống thông tin quản lý của mình.
3.2. Định hướng phát triển của các chi nhánh ngân hàng TMCP Công thương
Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đến năm 2015
3.2.1. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh
Là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới, Viêt Nam đang dần
hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam có sự
gia tăng mạnh mẽ hoạt động của các NHTM, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đa
quốc gia. Vì vậy, để hội nhập và cạnh tranh với các NHTM trên cơ sở kế hoạch kinh
doanh của VietinBank, các chi nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã xây
dựng kế hoạch kinh doanh với các mục tiêu trọng tâm như:
- Phát triển hiệu quả - an toàn - bền vững.
- Giữ vị trí quan trọng so với các ngân hàng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và cả
nước.
- Tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bảo đảm yêu câu phát triển kinh
doanh trong giai đoạn hội nhập.
- Ứng dụng công nghệ thông tin vào mọi hoạt động nghiệp vụ nhằm nâng cao
chất lượng phục vụ khách hàng, đáp ứng nhu cầu khách hàng.
- Nâng cao chất lượng quản trị điều hành, chất lượng QTRR trong mọi hoạt động
ngân hàng.
71
- Thực hiện chính sách khách hàng, giữ vững khách hàng hiện có, thu hút thêm
khách hàng mới, đồng thời nâng tầm sự hợp tác khách hàng có hiệu quả hơn.
- Thực hiện tốt chính sách cán bộ, giữ và thu hút cán bộ giỏi, sử dụng và phát
huy tốt nguồn nhân lực.
3.2.2. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển khách hàng thông qua việc tiếp thị các sản phẩm
hiện có nhằm mở rộng thị trường hoạt động tín dụng tới mọi lĩnh vực, mọi đối tượng
khách hàng mà pháp luật cho phép. Đẩy mạnh cho vay đối với các DNNQD, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh bán lẻ đối với tư nhân cá thể, hộ gia đình, các
KCN, khu chế xuất, khu đô thị, khu chung cư và khu dân cư. Đồng thời điều chỉnh cơ
cấu tín dụng hợp lý, nâng cao chất lượng tín dụng, đo lường và quản lý được rủi ro
trong hoạt động tín dụng nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ và không vượt quy
định của NHNN nhưng đồng thời vẫn đảm bảo được các nguyên tắc sau:
• Tuân thủ pháp luật: tất cả cán bộ, nhân viên có trách nhiệm tuân thủ các quy
định của pháp luật trong hoạt động tín dụng và các quy định liên quan. Việc
cấp tín dụng cho khách hàng dựa trên cơ sở lợi ích chính đáng và hợp pháp.
• Phù hợp với chiến lược HĐKD của VietinBank trong từng thời kỳ, mở rộng
và phát triển tín dụng phải dựa trên cơ sở chiến lược, định hướng kinh doanh
tại từng thời kỳ.
- Hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ và quy trình cung cấp các sản phẩm dịch vụ hiện
có thông qua việc tăng cường ứng dụng và khai thác công nghệ thông tin nhằm đơn
giản hóa thủ tục xử lý công việc, từ đó đáp ứng một cách nhanh nhất yêu cầu của
khách hàng.
- Đa dạng hóa sản phẩm tín dụng để phù hợp với từng đối tượng khách hàng
nhằm thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu hoạt động tín dụng.
- Theo thông lệ quốc tế, một số điểm cần chú ý đối với vấn đề RRTD như sau:
• Không tập trung cấp tín dụng quá cao cho một khách hàng, một ngành nghề,
một lĩnh vực; các nhóm khách hàng, ngành nghề hay lĩnh vực có liên quan
với nhau.
72
• Khi quyết định cấp tín dụng cho một dự án lớn phải được thực hiện theo chế
độ tập thể (nhiều thành viên cùng tham gia quyết định cho vay thông qua
nhiều mức xét duyệt và biểu quyết của Hội đồng tín dụng), bảo đảm tính
khách quan.
• Giảm thiểu RRTD trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng nhưng đảm bảo
tăng trưởng theo chính sách và định hướng tín dụng đã đề ra. Mục tiêu về
chất lượng tín dụng là tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, tăng trưởng tín dụng đạt mức 15
- 20%/năm.
• Phân tán rủi ro trong danh mục đầu tư tín dụng theo định hướng lựa chọn
những ngành nghề, lĩnh vực và nhóm khách hàng có khả năng phát triển và
đạt hiệu quả; không đầu tư quá mạnh vào một nhóm ngành hàng, khách hàng
cho dù ngành nghề, khách hàng đó đang có sự tăng trưởng và phát triển mạnh
mẽ nhưng có khả năng bão hòa hoặc cung vượt cầu trong tương lai.
• Tăng khả năng phòng ngừa RRTD trong hoạt động tín dụng thông qua việc
nâng cao chất lượng thẩm định và tăng cường kiểm soát, giám sát liên tục,
toàn diện và kịp thời trong quá trình cấp tín dụng.
• Nâng cao hiệu quả HĐKD và hướng đến các chuẩn mực quốc tế trong
QTRRTD.
- Tăng cường đào tạo CBTD và các cá nhân khác cùng tham gia trong hoạt động
cung cấp dịch vụ để bồi dưỡng kỹ năng tiếp thị, bán hàng, các kiến thức liên quan đến
các sản phẩm dịch vụ hiện có và các sản phẩm dịch vụ mới. Tăng cường đào tạo đội
ngũ nhân viên quản lý nhằm nâng cấp các kỹ năng lập kế hoạch phát triển kinh doanh,
đánh giá và phân tích cạnh tranh, QTRR và quản trị nhân sự.
3.3. Giải pháp quản trị rủi ro tín dụng tại các chi nhánh ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
3.3.1. Hoàn thiện việc chuyển đổi mô hình quản trị rủi ro tín dụng
Thực tế, việc thẩm định RRTD giữa phòng QLRRTD và phòng khách hàng đôi
khi vẫn còn thực hiện một cách hình thức, có một số kết quả thẩm định chưa thực sự
độc lập. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân gây ra RRTD cho ngân hàng.
Vì vậy, đề xuất VietinBank sớm hoàn thiện việc chuyển đổi mô hình QTRRTD mới
theo hướng tách bộ phận quan hệ khách hàng ra khỏi bộ phận thẩm định tín dụng,
73
nhằm đảm bảo tính độc lập giữa khâu tiếp thị và khâu thẩm định xét duyệt hồ sơ cho
vay theo thông lệ quốc tế, giúp cho các quyết định cho vay mang tính khách quan hơn,
cũng như nhờ sự chuyên môn hóa sâu hơn theo chức năng mà việc thực hiện phân tích
và phản biện tín dụng sâu sắc và chính xác hơn, giúp nhận dạng các rủi ro tiềm năng
và có các biện pháp phòng ngừa thích hợp… Thêm vào đó, chính sự giám sát của bộ
phận QLRRTD đối với quan hệ khách hàng trong quá trình thực hiện các quyết định
cấp tín dụng đã tạo nên cơ chế kiểm tra và giám sát liên tục.
Mô hình QTRRTD mới gồm các phòng ban với chức năng và nhiệm vụ như sau:
- Phòng khách hàng: Có chức năng và nhiệm vụ là trực tiếp tư vấn và bán các
sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng; đi tìm kiếm, tiếp thị và chăm sóc khách hàng; thực
hiện giải ngân, theo dõi, quản lý nợ, đôn đốc thu hồi nợ… Nghĩa là khi cán bộ phòng
khách hàng đã khởi tạo được mối quan hệ tín dụng với khách hàng thì tiếp nhận hồ sơ
đầy đủ theo quy định hiện hành, sau đó sẽ chuyển giao toàn bộ hồ sơ của khách hàng
sang phòng QLRRTD để tiến hành thẩm định khách hàng.
- Phòng QLRRTD: Bao gồm 2 bộ phận đó là bộ phận thẩm định tín dụng và bộ
phận QLRRTD. Cụ thể:
• Bộ phận thẩm định tín dụng: Có chức năng và nhiệm vụ thẩm định tư cách
khách hàng, thẩm định tình hình tài chính, thẩm định hiệu quả của phương án
vay, thẩm định TSĐB và đề xuất cấp tín dụng cho khách hàng.
• Bộ phận QLRRTD: Có chức năng và nhiệm vụ thẩm định tín dụng độc lập;
quản lý giám sát thực hiện danh mục cho vay, TSĐB; đề xuất tăng trưởng/hạn
chế tín dụng theo nhóm khách hàng liên quan, ngành nghề, khu vực kinh tế;
rà soát chấm điểm xếp hạng tín dụng; kiểm tra việc hoàn thiện hồ sơ tín dụng
và việc nhập dữ liệu vào hệ thống…
- Phòng Kiểm tra kiểm soát nội bộ: Có chức năng và nhiệm vụ kiểm tra giám sát
mọi HĐKD của ngân hàng; giám sát sự tuân thủ chế độ, quy trình, quy định cho vay
hiện hành… để từ đó có những biện pháp ngăn ngừa RRTD xảy ra.
3.3.2. Nâng cao chất lượng thẩm định và thực hiện quy trình cho vay chặt chẽ
RRTD bắt đầu từ những kết quả phân tích, thẩm định tín dụng không cẩn trọng,
thiếu chính xác của các cán bộ thẩm định và không tuân thủ các quy định cho vay nên
74
đã dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm. Vì vậy, để hạn chế được RRTD với
hiệu quả cao nhất, ít tổn thất nhất thì đòi hỏi cán bộ thẩm định thực hiện công tác phân
tích và thẩm định khách hàng thật tốt, phản ánh đúng bản chất về tình hình tài chính
cũng như hoạt động của khách hàng, tuân thủ các quy định cho vay.
Để giải quyết các đòi hỏi này thì ngân hàng cần phải thực hiện phân tích và thẩm
định chính xác rủi ro tổng thể của khách hàng thông qua việc xác định GHTD theo
định kỳ 6 tháng hoặc 1 năm. Công việc này sẽ giúp cho ngân hàng có cái nhìn tổng thể
về tình hình tài chính, chất lượng kinh doanh và đánh giá triển vọng phát triển của
khách hàng, để từ đó nhận thấy được những rủi ro của khách hàng, định ra một GHTD
hợp lý, nằm trong giới hạn chịu nợ của khách hàng đối với hệ thống VietinBank.
Để thực hiện tốt yêu cầu này, cần chú trọng đến phân tích định lượng, lượng hóa
mức độ rủi ro của khách hàng qua đánh giá các số liệu, đồng thời kết hợp với phân
tích định tính (phân tích môi trường vĩ mô, vi mô, môi trường nội bộ của doanh
nghiệp, lịch sử quan hệ tín dụng với ngân hàng…) để nhận ra những rủi ro tiềm tàng
và khả năng kiểm soát, hạn chế những rủi ro cho ngân hàng. Hệ thống này cần được
thường xuyên điều chỉnh cho phù hợp với thực tế và điều kiện kinh tế Việt Nam,
không nên cứng nhắc theo những tính toán của các nước có điều kiện không tương
đồng. Thông qua việc sử dụng các mô hình định lượng, mức độ rủi ro sẽ được lượng
hóa hợp lý, phản ánh một cách rõ ràng hơn mức độ rủi ro của các khoản vay dự kiến
và xây dựng những biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trước khi cấp tín dụng với
khách hàng.
Cần phối kết hợp chặt chẽ các điều kiện tín dụng trong hợp đồng tín dụng như lãi
suất, tỷ lệ vốn tự có tham gia phương án, các TSĐB… để đảm bảo lợi ích thu được
phải tương xứng với mức độ rủi ro. Các khách hàng có mức độ xếp hạng tín dụng
càng thấp thì cần nâng tỷ lệ tham gia của vốn tự có, cần lựa chọn những TSĐB có tính
thanh khoản cao… Các điều kiện pháp lý trong hợp đồng tín dụng càng chặt chẽ, càng
đảm bảo các quyền lợi của VietinBank khi có rủi ro xảy ra, đồng thời nâng cao trách
nhiệm của khách hàng trong sử dụng vốn vay và hạn chế rủi ro xảy ra.
Mặt khác, trên cơ sở quy trình cho vay đã có, đòi hỏi tất cả cán bộ làm công tác
tín dụng phải thực hiện chặt chẽ khi giải quyết hồ sơ tín dụng cho khách hàng. Nhưng
thực tế, để giải quyết hồ sơ nhanh và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, một số
75
CBTD đã thực hiện thẩm định qua loa, giải quyết cho vay trước rồi hoàn chỉnh hồ sơ
tín dụng sau. Điều này dẫn đến việc CBTD sẽ không nhìn thấy được những rủi ro tiềm
ẩn của khoản vay và có nguy cơ giải quyết sai lầm làm ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng. Và trong quá trình hoàn chỉnh hồ sơ tín dụng, CBTD mới phát hiện những chỗ
không phù hợp hoặc không đủ điều kiện để cấp tín dụng thì khả năng thu hồi lại số
tiền cho vay là rất khó, nguy cơ gây ra tổn thất về đồng vốn của ngân hàng là rất cao.
Vì vậy, đòi hỏi CBTD khi giải quyết cho vay cần phải thực hiện chặt chẽ quy trình
cho vay hiện hành của VietinBank để hạn chế tối đa những RRTD có thể xảy ra.
3.3.3. Thực hiện tốt việc cập nhật và quản lý thông tin khoản vay trên hệ thống dữ
liệu
Hiện tại, việc cập nhật và quản lý thông tin trên hệ thống dữ liệu đã được thực
hiện theo quy định hiện hành. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại trường hợp một số nhân viên
ngân hàng vì chỉ tiêu kinh doanh, chỉ tiêu thi đua nên đã vào hệ thống dữ liệu điều
chỉnh ngày trả nợ lãi, nợ gốc của khoản vay thêm một thời gian ngắn, điều này làm
ảnh hưởng đến việc phân loại nợ và phản ánh không đúng tính chất nợ của khoản vay.
Vì vậy, đề nghị các ngân hàng phải thực hiện nghiêm các quy định hiện hành, kiên
quyết chuyển nợ quá hạn đối với các trường hợp vi phạm hợp đồng tín dụng, có nguy
cơ gây ra RRTD và thực hiện trích lập dự phòng theo quy định nhằm bù đắp tổn thất
khi RRTD xảy ra.
3.3.4. Hoàn thiện quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Hiện nay, các chi nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đang thực hiện
việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo Quyết định số 493 và các văn bản
sửa đổi bổ sung Quyết định số 493.
Tuy nhiên, qua kết quả rà soát danh mục tín dụng của Công ty kiểm toán quốc tế
E&Y đã cho thấy tỷ lệ nợ nhóm 2 và nợ xấu theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế
cao hơn nhiều so với tỷ lệ nợ nhóm 2 và nợ xấu theo quy định hiện hành của NHNN,
nhiều khoản nợ được phân loại vào nhóm 1, nhóm 2 theo NHNN nhưng theo Công ty
tài chính quốc tế thì lại bị phân loại vào nợ xấu, vì vậy nếu thực hiện phân loại theo
chuẩn quốc tế thì tỷ lệ nợ xấu tăng lên, đồng nghĩa với việc ngân hàng phải trích lập
dự phòng tăng, ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng.
76
Mặt khác, do không có quy định cũng như hướng dẫn cụ thể của NHNN về cách
xếp hạng tín dụng nội bộ, các ngân hàng đã tự xây dựng hệ thống này theo cách riêng
của mình. Điều này tạo sự không thống nhất trong quản lý chất lượng tín dụng giữa
các ngân hàng, khiến NHNN gặp khó khăn trong quản lý.
Vì vậy, đề xuất NHNN sớm ban hành thông tư mới về việc Phân loại nợ và trích
dự phòng rủi ro theo chuẩn quốc tế để thay thế cho Quyết định số 493 và các văn bản
sửa đổi bổ sung Quyết định 493, nhằm kiểm soát chất lượng hoạt động tín dụng, quy
định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng, quy định về thông tin tín
dụng. Đồng thời, giúp cho các ngân hàng đưa các khoản nợ xấu ra ánh sáng đúng với
bản chất thực của khoản nợ, trên thực tế những khoản nợ xấu được định dạng lại, bộc
lộ rõ hơn thì tỷ lệ nợ xấu tăng, nhưng không có nghĩa là ngân hàng hoạt động yếu đi,
mà là ngân hàng đang tự giúp mình khoẻ mạnh hơn trong tương lai.
3.3.5. Hạn chế việc quan trọng hóa tài sản đảm bảo, quan tâm hơn nữa việc sử
dụng công cụ bảo hiểm
Khi giải quyết hồ sơ vay vốn, TSTC là điều kiện cần phải có (ngoại trừ trường
hợp cho vay tín chấp), nhưng thực tế đã có trường hợp do quan điểm sai lầm của một
số cán bộ ngân hàng là đã xem TSĐB là nguồn thu nợ chính yếu khi có RRTD xảy ra,
nên đã định giá TSĐB quá cao so với giá trị thực trên thị trường, vì vậy khi có RRTD
xảy ra, thời gian chờ xử lý TSĐB để thu hồi nợ kéo dài và giá trị TSĐB sau khi xử lý
vẫn không hồi thu đủ nợ của ngân hàng. Vì vậy, để hạn chế những tổn thất khi RRTD
xảy ra, đề xuất VietinBank sớm có những quy định cụ thể về việc xử phạt đối với
trường hợp định giá TSĐB quá cao so với giá thị trường (không có cơ sở định giá) của
các ngân hàng.
Bên cạnh đó, đề xuất ngân hàng phải quan tâm hơn nữa việc sử dụng công cụ
bảo hiểm. Cụ thể, ngân hàng cần phải yêu cầu khách hàng vay mua bảo hiểm trong
quá trình xây dựng và bảo hiểm công trình (đối với các dự án đầu tư), bảo hiểm đối
với TSĐB, bảo hiểm hàng hóa và cả việc mua bảo hiểm cho đối tượng vay vốn… Bởi
lẽ, khi có RRTD xảy ra, chẳng hạn do nguyên nhân cháy nổ, thiên tai… gây ra thì
ngân hàng vẫn còn có nguồn bồi thường thiệt hại từ công ty bảo hiểm để thu hồi nợ lãi
vay và nợ gốc nhằm hạn chế tối đa những tổn thất có thể xảy ra.
77
3.3.6. Nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát khoản vay
Trên thực tế, nguyên nhân để RRTD xảy ra không phải tất cả đều do phương án
vay vốn kém hiệu quả hay do khách hàng vay sử dụng vốn sai mục đích mà còn do
CBTD không thực hiện việc kiểm tra giám sát khoản vay chặt chẽ và thường xuyên,
dẫn đến việc ngân hàng không kiểm soát được dòng tiền sau khi khách hàng kết thúc
phương án kinh doanh, cũng như không phát hiện kịp thời việc khách hàng có thể
dùng nguồn tiền này để đầu tư vào các mục đích khác kém hiệu quả hay không minh
bạch... Vì vậy, để phòng ngừa RRTD xảy ra, đề nghị các CBTD phải thực hiện công
việc kiểm tra giám sát khoản vay một cách chặt chẽ và thường xuyên. Cụ thể:
• Khi thực hiện giải ngân, CBTD cần phải xem xét tính hợp lý giữa mục đích vay
vốn, yêu cầu giải ngân và cơ cấu các khoản chi phí trong nhu cầu vốn của khách
hàng; đảm bảo việc giải ngân phải có đầy đủ chứng từ chứng minh và hợp lệ.
Hạn chế giải ngân bằng tiền mặt trừ những trường hợp kinh doanh đặc thù như
chi trả lương công nhân viên, thanh toán tiền hàng cho người dân hay thanh toán
cho những cơ sở kinh doanh nhỏ lẻ… khuyến khích khách hàng nhận nợ vay
bằng hình thức chuyển khoản để việc kiểm soát mục đích sử dụng tiền vay của
khách hàng được dễ dàng hơn.
• Phải có kế hoạch định kỳ đi kiểm tra tình hình hoạt động thực tế đối với từng
khách hàng vay (tùy thuộc vào kết quả xếp hạng nội bộ, uy tín của khách hàng
trong quan hệ tín dụng…).
• Thực hiện kiểm tra việc sử dụng vốn vay của khách hàng phải dựa trên số liệu
thực tế và các chứng từ gốc chứng minh hợp lệ.
• Biên bản kiểm tra sử dụng vốn vay phải thể hiện đầy đủ các thông tin về tình
hình tài chính, tình hình HĐKD, hàng tồn kho, công nợ của khách hàng, hiện
trạng và giá trị TSĐB tại thời điểm kiểm tra… Để có thể đánh giá chính xác hiệu
quả của việc sử dụng vốn vay. Đồng thời phát hiện kịp thời những rủi ro có thể
xảy ra, từ đó có những biện pháp phòng ngừa và xử lý kịp thời, tránh tình trạng
thực hiện kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay mang tính đối phó, qua loa.
• Cần có sự phân tích và đánh giá kịp thời những dấu hiệu của RRTD như khi
khách hàng vay thường xuyên chậm trả lãi, trả gốc, sự thay đổi của môi trường
78
kinh doanh, tình hình thị trường ảnh hưởng xấu đến phương án kinh doanh… để
có những biện pháp xử lý chủ động và kịp thời khi RRTD có nguy cơ xảy ra.
• Cần vấn tin CIC thường xuyên để nắm bắt kịp thời tình hình quan hệ tín dụng
của khách hàng, từ đó có những biện pháp ngăn ngừa và xử lý kịp thời khi
RRTD phát sinh.
3.3.7. Nâng cao năng lực và chất lượng kiểm tra của bộ phận kiểm tra kiểm soát
nội bộ
Thực tế, để nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế những RRTD có thể xảy ra
thì phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ đóng vai trò rất quan trọng, chất lượng kiểm tra
của bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ được đánh giá rất cao.
Vì vậy, đề xuất các ngân hàng cần phải quan tâm hơn nữa việc đào tạo chuyên
môn cũng như bố trí cán bộ làm công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ, để các cán bộ này
có đủ khả năng và trình độ nhận biết, phát hiện ra những sai phạm cũng như những
thiếu sót trong hồ sơ tín dụng của phòng khách hàng, từ đó có những biện pháp phòng
ngừa và xử lý kịp thời nhằm hạn chế tối đa sự thiệt hại về vốn cho ngân hàng.
Để công việc kiểm tra kiểm soát nội bộ có hiệu quả, đòi hỏi các cán bộ làm công
tác kiểm tra kiểm soát nội bộ phải thỏa các yêu cầu sau:
• Phải có sự hiểu biết thông suốt về pháp luật, quy trình, quy định của ngành cũng
như của hệ thống;
• Phải có trình độ năng lực chuyên môn cao;
• Phải có khả năng nhận định và phân tích tình hình tài chính tốt;
Ngoài việc cán bộ kiểm tra kiểm soát nội bộ phải thỏa những yêu cầu trên. Trên
thực tế, trong quá trình kiểm tra giám sát còn đòi hỏi cán bộ kiểm tra kiểm soát nội bộ
phải:
• Phát huy vai trò trong việc kiểm soát hồ sơ tín dụng;
• Đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật, các quy định quy chế cho vay của
hệ thống;
• Công việc kiểm tra giám sát phải được phản ánh một cách trung thực và kịp thời,
khi phát hiện hồ sơ có sai sót thì phải có biện pháp chỉnh sửa và khắc phục ngay.
Trường hợp không khắc phục được thì phải báo cáo về cấp trên để có biện pháp
79
chấn chỉnh và xử lý kịp thời, tránh trường hợp các cán bộ làm công tác kiểm tra
giám sát vì cả nể, e dè, sợ va chạm mà bỏ qua những RRTD có thể xảy ra.
Bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ thực hiện tốt những điều này thì chắc chắn
chất lượng QTRRTD sẽ có hiệu quả và ngày càng được nâng cao.
3.3.8. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong nền kinh tế thị trường, yếu tố con người luôn được xem là yếu tố quan
trọng, vì con người là nền tảng của sự phát triển, con người sẽ quyết định đến sự thành
bại của bất kỳ hoạt động nào xảy ra. Đối với hoạt động tín dụng, yếu tố con người lại
càng đóng một vai trò quan trọng, đã quyết định đến chất lượng tín dụng, chất lượng
dịch vụ và hình ảnh của ngân hàng, để từ đó quyết định đến hiệu quả hoạt động tín
dụng của ngân hàng. Vì vậy, đề xuất chất lượng nguồn nhân lực cần phải được nâng
cao hơn nữa và được tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
• Về công tác đào tạo: Phải có kế hoạch và thực hiện triển khai liên tục các chương
trình đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ ở các cấp để đáp ứng kịp thời nhu cầu nhân
sự khi thực hiện mở rộng mạng lưới hoạt động, tránh trường hợp thiếu nguồn
nhân lực sẽ dẫn đến việc sử dụng cán bộ không phù hợp với trình độ chuyên
môn, vị trí công tác cũng như dồn việc quá nhiều vào một số cán bộ, điều này
dẫn đến việc cán bộ không có thời gian để kiểm tra và quản lý tốt hồ sơ khoản
vay. Công tác đào tạo nhân sự được quan tâm đúng mực thì sẽ góp phần cho việc
hạn chế RRTD có thể xảy ra.
• Về năng lực công tác: Đòi hỏi những cán bộ làm công tác tín dụng phải thường
xuyên nghiên cứu, học tập, nắm vững, thực hiện đúng các quy định hiện hành và
phải không ngừng nâng cao năng lực công tác, nhất là khả năng phát hiện, ngăn
chặn những thủ đoạn lợi dụng khách hàng.
• Về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm: Yêu cầu mỗi cán bộ ngân hàng phải
luôn tự giác tu dưỡng phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của mình, phải có ý thức
trách nhiệm trong công việc, nhất là những cán bộ trực tiếp làm công tác tín dụng
bởi lĩnh vực công tác này rất nhạy cảm và dễ bị sa ngã nhất vì sự cám dỗ của
đồng tiền và vật chất có được trước mắt. Vì vậy đòi hỏi ngân hàng phải đặc biệt
chú trọng đến phẩm chất đạo đức của người cán bộ ngân hàng, đây là một yếu tố
khá quan trọng để có thể hạn chế RRTD xảy ra.
80
Ngoài ra, ngân hàng cần phải xây dựng chính sách đãi ngộ nhân sự thật hợp lý,
thực hiện cơ chế tài chính thông thoáng nhằm thu hút được nhân tài và duy trì đủ nhân
lực chất lượng có thể đảm trách các hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì việc tăng
trưởng tín dụng hàng ngày không đồng bộ với số lượng và chất lượng của nhân viên
tín dụng phụ trách nên dễ dẫn đến có nhiều rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động tín dụng. Số
lượng nhân viên tín dụng có kinh nghiệm hiện nay tại các chi nhánh, phòng giao dịch
của VietinBank còn thiếu, trong khi đó các ngân hàng mới thành lập lại thu hút nhân
sự với chính sách đãi ngộ tốt hơn đã dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám nhất là
trong tình hình khan hiếm nhân lực trong ngành tài chính ngân hàng như hiện nay.
3.4. Một số kiến nghị khác
3.4.1. Đối với Chính phủ
- Trong hoạch định chính sách, không những cân đối giữa các mục tiêu phát
triển kinh tế và ổn định tiền tệ mà còn phải quan tâm đến sự phát triển bền vững của
các ngân hàng, tránh tình trạng thắt chặt hoặc nới lỏng quá mức, thay đổi định hướng
đột ngột sẽ gây ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của các ngân hàng.
- Cần có những quy định cụ thể liên quan đến công bố thông tin tài chính doanh
nghiệp có xác minh của kiểm toán, quy định chặt chẽ hơn về những điều kiện của
công ty kiểm toán khi họ thực hiện các báo cáo kiểm toán sơ sài, hoặc thiếu trung
thực. Vì thực tế hiện nay cho thấy chất lượng của rất nhiều công ty kiểm toán là chưa
đảm bảo.
- Xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật đảm bảo quyền chủ nợ của
ngân hàng trong xử lý TSĐB, chỉ đạo các bộ ngành có liên quan quy định về thủ tục,
trình tự xử lý TSĐB nhanh chóng, hiệu quả; các quy định pháp lý liên quan đến giao
dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, quy định về cấp giấy tờ sở hữu tài sản, quy
định về các ngành kinh doanh…
- Cơ cấu lại dư nợ và xử lý các khoản nợ xấu là việc làm đã khó, quá trình cải
thiện và hạn chế phát sinh thêm các khoản nợ xấu ở giai đoạn hiện nay là càng khó
khăn hơn. Để giải quyết vấn đề này, tất nhiên bản thân các ngân hàng phải ý thức và
tự gánh lấy trách nhiệm. Trên thực tế, các Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của
các NHTM đã ra đời nhưng nó chỉ là nơi chứa đựng các khoản nợ khó đòi từ ngân
81
hàng mẹ chuyển sang, chức năng chỉ mới dừng lại ở khâu thẩm định giá trị TSTC
cũng như quản chấp hàng hóa cầm cố cho đến khi tài sản đó được bán, thanh lý; còn
để xử lý các món nợ này thì các Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản không có thị
trường giao dịch. Để hỗ trợ thêm nữa cho các NHTM nói chung cũng như các ngân
hàng TMCP nói riêng, Chính phủ cần xây dựng một cơ chế để phát triển thị trường
thứ cấp cho các hoạt động mua, bán các khoản nợ xấu của các NHTM. Trước mắt,
Chính phủ sử dụng nguồn lực của mình để xử lý các khoản nợ này từ các NHTM Nhà
nước; các Công ty giao dịch tài sản có, tài sản nợ của Chính phủ phải tiếp cận trực tiếp
các NHTM Nhà nước trong quá trình tiếp nhận và xử lý các món nợ này; vấn đề là
thực hiện việc mua bán các khoản nợ của các NHTM Nhà nước chứ không phải của
các DNNN. Khi thị trường này được khởi động và giao dịch có hiệu quả, quá trình
tham gia của các ngân hàng TMCP để giải quyết nợ tồn đọng sẽ gặp nhiều thuận lợi
hơn.
3.4.2. Đối với Ngân hàng nhà nước
- Nâng cao vai trò định hướng trong quản lý và tư vấn cho các NHTM: Thông
qua việc thường xuyên tổng hợp, phân tích thông tin thị trường, đưa ra các nhận định
và dự báo khách quan, mang tính khoa học, đặc biệt là liên quan đến hoạt động tín
dụng để các NHTM có cơ sở tham khảo, định hướng trong việc hoạch định chính sách
tín dụng của mình sao cho vừa đảm bảo phát triển hợp lý, vừa phòng ngừa được rủi ro.
Tiếp tục hoàn thiện quy chế cho vay, đảm bảo tiền vay trên cơ sở bảo đảm an toàn cho
hoạt động tín dụng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các NHTM, quy định chặt chẽ về
trách nhiệm của các NHTM về việc tuân thủ quy chế cho vay và bảo đảm tiền vay,
hạn chế bớt các thủ tục pháp lý phức tạp, gây khó khăn cho các NHTM. NHNN cần
phối hợp với các bộ ngành có liên quan trong quá trình xử lý nợ xấu, tập trung tháo gở
những khó khăn vướng mắc trong thủ tục phát mãi tài sản. Nên có những hướng dẫn
cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của TCTD, của cơ quan Công an, của Chính
quyền cơ sở, của Sở Tài nguyên Môi trường làm cơ sở pháp lý để đi đến ban hành
thông tư liên ngành hướng dẫn thêm nhằm nâng cao hiệu quả công tác phối hợp đẩy
nhanh tiến độ, cụ thể hóa từng công việc trong thi hành án.
- Chống sự cạnh tranh kém lành mạnh: Với sự mở rộng tính tự chủ và tự chịu
trách nhiệm của các NHTM, NHNN đã giải phóng tính sáng tạo và chủ động của các
82
ngân hàng trong HĐKD. Tuy nhiên, đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh kém lành
mạnh, tranh giành khách hàng vay vốn giữa các ngân hàng như cho vay để hoàn trả
các khoản vay của các ngân hàng khác, hạ thấp các tiêu chuẩn, điều kiện vay vốn dẫn
đến nguy cơ RRTD tăng cao. Do đó NHNN cần có sự kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả
những HĐKD của các NHTM, đảm bảo sự phát triển bền vững và an toàn.
- Ứng dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu: Trong thực
thi chức năng của một cơ quan quản lý nhà nước và giám sát thị trường, hoàn thiện
phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các TCTD và hướng tới các chuẩn
mực quốc tế. Hệ thống giám sát ngân hàng được hoàn thiện theo hướng nâng cao chất
lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm những tiềm ẩn
trong HĐKD nói chung và cấp tín dụng nói riêng, thực hiện các cảnh báo sớm cho các
NHTM, đảm bảo thị trường phát triển bền vững.
- Ban hành Thông tư mới về Phân loại nợ và trích lập dự phòng: Quyết định số
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày
25/04/2007 của Thống đốc NHNN quy định về phân loại nợ có một số điểm chưa phù
hợp cần xem xét điều chỉnh theo hướng đối với nợ gia hạn cần căn cứ vào thời gian
gia hạn và số lần gia hạn để phân loại nợ (hiện nay chỉ căn cứ vào số lần gia hạn, mà
không căn cứ vào thời gian gia hạn nên đã đánh đồng và xếp tất cả các khoản nợ gia
hạn vào nhóm nợ xấu). Bên cạnh đó, qua kiểm tra đối chiếu kết quả phân loại nợ thử
nghiệm theo chuẩn quốc tế IFRS của hệ thống VietinBank và kết quả phân loại nợ
theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 đã cho thấy hai kết quả
chênh lệch nhau. Vì vậy, để thuận tiện cho việc quản lý chất lượng tín dụng cũng như
việc phân loại nợ của các chi nhánh, đề xuất NHNN sớm ban hành thông tư mới để
thay thế cho Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005.
- Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng của Trung tâm CIC NHNN: Một trong
những bộ phận được NHTM sử dụng là Trung tâm thông tin tín dụng CIC. Và một
trong những điều kiện cần thiết để thực hiện QTRRTD tốt là hệ thống thông tin phải
đầy đủ, cập nhật, chính xác. Chất lượng thông tin càng cao thì rủi ro trong kinh doanh
tín dụng của các TCTD càng giảm. Vì vậy, việc hoàn thiện hoạt động của CIC là rất
cần thiết chẳng hạn như là: thông tin tín dụng phải bao hàm tất cả các thông tin về tình
hình vay vốn của khách hàng tại các TCTD, phải có sự phân tích thông tin tổng hợp
83
về khách hàng để lưu ý các NHTM. Bên cạnh đó, cần chú trọng đổi mới và hiện đại
hóa các trang thiết bị, thiết lập hệ thống sao cho việc thu thập cũng như cung cấp
thông tin tín dụng được thông suốt, kịp thời. Ngoài ra, NHNN cần phải có chính sách
tuyển chọn và đào tạo nhân viên làm công tác quản lý mạng CIC không chỉ am hiểu
về công nghệ thông tin như khai thác thông tin qua mạng và các công cụ hỗ trợ khác
mà còn phải có khả năng thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp và đưa ra những nhận
định, cảnh báo thích hợp thay vì những con số báo cáo thống kê khô khan cho các
NHTM tham khảo. Hiện nay, các ngân hàng chưa có sự hợp tác tích cực với CIC chủ
yếu là do muốn giữ bí mật thông tin về khách hàng để cạnh tranh. Vì vậy, đề xuất
NHNN nên có những biện pháp thích hợp để các ngân hàng nhận thức đúng đắn về
quyền lợi và nghĩa vụ trong việc báo cáo và khai thác thông tin tín dụng từ CIC nhằm
góp phần ngăn ngừa và hạn chế RRTD. NHNN cần phải có biện pháp khuyến khích
và đi dần đến quy định bắt buộc các NHTM hợp tác, cung cấp thông tin một cách đầy
đủ cho trung tâm. Thanh tra NHNN nên kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của
các ngân hàng, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những ngân
hàng vi phạm.
- Điều chỉnh GHTD đối với khách hàng theo Basel: Nếu theo Thông tư
13/2010/TT–NHNN của NHNN (thay thế cho quyết định số 457 và một số văn bản
liên quan của Nhà nước về việc Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt
động của TCTD” thì GHTD của TCTD đối với một nhóm khách hàng có liên quan
không được vượt quá 60% vốn tự có của TCTD, thì theo Basel, tỷ lệ này chỉ còn ở
mức 25%. Mục đích của quy định này là để giảm thiểu RRTD. Do đó, một số đề xuất
theo hướng:
• NHNN từng bước thay đổi tỷ lệ này theo mức tiếp cận với Basel bằng cách quy
định thêm những ràng buộc về ngành nghề đầu tư, đối tượng cho vay. Ở những
ngành nghề ít rủi ro hoặc nhóm khách hàng có lịch sử tín dụng tốt, trước mắt có
thể vẫn giữ tỷ lệ 60% và điều chỉnh giảm dần để tránh ảnh hưởng đến tốc độ tăng
trưởng tín dụng của các NHTM. Ở những ngành nghề đầu tư hoặc những mặt
hàng là đối tượng cho vay có nhiều rủi ro, NHNN nên cương quyết điều chỉnh
giới hạn cho vay của các ngân hàng về mức tiệm cận với tỷ lệ quy định của
Basel.
84
• Để tăng mức độ an toàn trong việc cấp tín dụng, NHNN phải thiết lập được hệ
thống thông tin tín dụng đầy đủ, kịp thời và phổ biến. Yêu cầu đầy đủ được hiểu
theo nghĩa đủ về lịch sử tín dụng đối với một khách hàng, đủ về đối tượng khách
hàng và nhóm khách hàng có liên quan, đủ về loại hình cho vay cũng như quy
mô vốn vay. Yêu cầu phổ biến đòi hỏi rằng các NHTM đều có quyền và dễ dàng
truy cập hệ thống để tra cứu thông tin. Muốn vậy, các NHTM phải có trách
nhiệm báo cáo kịp thời những diễn biến tín dụng của ngân hàng mình để NHNN
cập nhật vào kho dữ liệu chung, làm cơ sở cung cấp cho toàn hệ thống.
3.4.3. Đối với ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam
Hiện nay, công tác kiểm tra, giám sát trong nội bộ ngân hàng của VietinBank đã
được nâng cao. VietinBank đang dần hoàn thiện mô hình quản trị ngân hàng để tiếp
cận với thông lệ quốc tế, để đạt được kết quả tốt đòi hỏi Ban kiểm tra kiểm toán nội
bộ, HĐQT phải nâng tầm chức năng của Ban này theo hướng không chỉ giới hạn ở
phạm vi kiểm tra, giám sát tính tuân thủ trong quá trình hoạt động mà tiến tới việc
phải đánh giá được mức độ cũng như khả năng có thể xảy ra rủi ro tại từng bộ phận
hoạt động, kinh doanh của ngân hàng.
Thực tế, có một số cán bộ kiểm tra kiểm soát nội bộ tại các chi nhánh còn yếu về
nghiệp vụ. Nguyên nhân là do thiếu nhân sự nên phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ tại
các chi nhánh đã để cho cán bộ chuyên kiểm tra kiểm soát về nghiệp vụ kế toán thực
hiện kiểm tra kiểm soát nghiệp vụ tín dụng, tài trợ thương mại… (vừa thực hiện kiểm
tra vừa nghiên cứu chế độ). Như vậy, rõ ràng là những cán bộ này chưa nắm rõ quy
trình, quy định về nghiệp vụ tín dụng, tài trợ thương mại… thì khó có thể phát hiện ra
những sai phạm của hồ sơ cấp tín dụng. Cho nên, đề xuất ngân hàng TMCP Công
thương Việt Nam khi tuyển dụng nhân sự cũng như khi bố trí nhân sự cho phòng kiểm
tra kiểm soát nội bộ, cần phải chọn người được đào tạo đúng chuyên ngành, nắm vững
quy chế, quy trình tác nghiệp để tiến tới chuyên nghiệp hóa trong kiểm tra, giám sát.
Bên cạnh đó, đề xuất ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam sớm hoàn thành việc
thành lập phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ tại tất cả các chi nhánh trong hệ thống để
công việc kiểm tra kiểm soát tại chi nhánh được thuận lợi và tình hình kiểm tra giám
sát ngày càng chặt chẽ hơn.
85
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Ở phần đầu, đề tài đã nêu lên được sự cần thiết của công tác QTRRTD cũng
như nhiệm vụ của công tác QTRRTD. Sau khi phân tích hoạt động tín dụng của các
chi nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn (2006-30/06/2011)
theo những chỉ tiêu cơ bản (tình hình huy động vốn, tốc độ tăng trưởng tín dụng, cơ
cấu nợ theo thời gian, theo ngành kinh tế, theo loại hình kinh tế… cho thấy hầu hết
các chi nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã thực hiện khá tốt.
Kết hợp với phân tích thực trạng QTRRTD tại các chi nhánh VietinBank trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai trong giai đoạn (2006-30/06/2011), đề tài đã nêu lên được
những tồn tại làm ảnh hưởng không tốt đến chất lượng tín dụng cũng như công tác
QTRRTD. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác QTRRTD trong
toàn hệ thống VietinBank nói chung và các chi nhánh VietinBank trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai nói riêng. Đồng thời, cũng kiến nghị với Chính phủ và NHNN một số vấn
đề để tạo lập một môi trường kinh doanh và QTRRTD có hiệu quả, phát triển một hệ
thống tài chính ổn định và bền vững. Sự nỗ lực của VietinBank cùng với sự hỗ trợ có
hiệu quả của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, công tác QTRRTD sẽ đáp ứng các
yêu cầu về tăng trưởng tín dụng an toàn và hiệu quả góp phần cho sự phát triển nhanh
và bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_tri_rui_ro_tin_dung_tai_cac_chi_nhanh_nh_tmcp_cong_thuong_viet_nam_o_dong_nai.pdf