Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là phát triển bền vững nền kinh tế, tạo nhịp độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm. Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Tiến nhanh, tiến mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hướng tới quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Để thực hiện được các mục tiêu trên thì trong những năm tới nền kinh tế của chúng ta cần rất nhiều vốn, trong khi đó sự đáp ứng của nền kinh tế nước ta hiện nay còn hạn hẹp. Chính vì lẽ đó vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong điều kiện hiện nay và những năm tới là yêu cầu vừa cấp bách vừa mang tính lâu dài, thường xuyên.
83 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1509 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho dự án từ nguồn ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ương trình 135 đã thu hút sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội, phát huy vai trò của cộng đồng dân trong việc lựa chọn dự án, giám sát thực hiện và nâng cao năng lực cán bộ chính quyền cơ sở, góp phần củng cố và hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở, đẩy lùi tệ nạn xã hội củng cố lòng tin của nhân dân.
- Ngoài ra, việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước còn được thể hiện ở việc hạn chế được tình trạng dàn trải trong hoạt động đầu tư.
So với năm 2004 và các năm trước, năm 2005, các Bộ, ngành, các địa phương đã tích cực rà soát sắp xếp lại lĩnh vực đầu tư và xây dựng bằng vốn ngân sách nhà nước theo hướng tập trung hơn cho các công trình trọng điểm, tránh dàn đều, phân tán. Một số Bộ, ngành, tỉnh, thành phố đã hạn chế việc khởi công mới các công trình, dự án, tập trung vốn cho các dự án chuyển tiếp, các dự án hoàn thành trong năm 2005. Nhiều địa phương đã kiên quyết đình hoãn những công trình không đủ điều kiện và những công trình chưa thực sự cấp thiết để tập trung vốn cho các dự án đầu tư có hiệu quả, cấp thiết.
Năm 2005, tổng vốn đầu tư của khối địa phương tăng 32% so với năm 2004, nhưng số dự án bố trí chỉ tăng 8% hạn chế tối đa những công trình khởi công mới, đây là một cố gắng trong việc bố trí phân bổ vốn của các địa phương.
Quy mô vốn đầu tư bố trí cho một dự án cao hơn năm 2004, bình quân 1 dự án do Trung ương quản lý là 6,8 tỷ đồng so với năm 2004 là 6,04 tỷ đồng, trong đó các dự án nhóm A là 91,4 tỷ đồng/dự án; nhóm B là 7,25 tỷ đồng/dự án so với năm 2004 là 5,4 tỷ đồng; nhóm C là 1,27 tỷ đồng/dự án so với năm 2004 là 1,1 tỷ đồng. Ở các địa phương bố trí vốn bình quân 1 dự án cũng cao hơn năm 2004, bình quân chung là 3,15 tỷ đồng/dự án so với năm 2004 là 2,34 tỷ đồng, trong đó: dự án nhóm A là 88,9 tỷ đồng/dư án so với năm 2004 là 65,73 tỷ đồng; dự án nhóm B là 6,51 tỷ đồng/dự án so với năm 2004 là 5,65 tỷ đồng; dự án nhóm C là 1,86 tỷ đồng/dự án so với năm 2004 là 1,41 tỷ đồng.
- Chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư và xây dựng cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
Trong vài năm gần đây, thì thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng đã được hạn chế rất nhiều. Làm được điều này là do trong những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều Nghị quyết, chỉ thị và trực tiếp chỉ đạo các Bộ, các ngành, các cấp khẩn trương triển khai đồng bộ các giải pháp chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng. Đồng thời nghiên cứu, xây dựng các luật như: Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Chống tham nhũng,…và nội dung các luật này đều có các quy định rõ ràng, cụ thể liên quan đến vấn đề chống thất thoát, lãng phí, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
Ngoài ra, một số Bộ, ngành cũng đã rà soát, soạn thảo; bổ sung một số cơ chế phù hợp; ban hành một số Quyết định, Chỉ thị, Thông tư nhằm ngăn chặn tình trạng thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng. Như, Bộ Xây Dựng đã ban hành 19 quyết định, 6 chỉ thị, 10 thông tư tập trung vào những vấn đề bức xúc, cấp thiết như chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng; tăng cường kiểm tr chất lượng các công trình được đầu tư bằng nguồn ngân sách nhà nước; hướng dẫn việc lập và quản lý chi phí dự án đầu tư xây dựng công trình; biên soạn 7 quy chuẩn và 66 tiêu chuẩn xây dựng mới; ban hành định mức chi phí quy hoạch xây dựng, phương pháp xây dựng giá cả máy móc và thiết bị thi công và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
3.2. Những hạn chế trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư từ NSNN
3.2.1. Đầu tư chưa đúng mục tiêu phát triển ngành, lĩnh vực; đầu tư không đúng qui mô các loại công trình
Nhà nước bố trí nhiều vốn ngân sách Nhà nước vào các công trình công cộng, trụ sở các cơ quan từ trung ương đến địa phương mà hiệu quả kinh tế thấp. Nhiều trụ sở lớn được xây dựng, vốn đầu tư ngân sách chiếm tỷ trọng khá lớn, trong khi nên tập trung vốn đầu tư vào các trung tâm thương mại có tầm cỡ quốc tế để thu hút các nhà đầu tư, hoặc trung tâm hội nghị quốc tế, triển lãm mở cửa cho mọi người dân, công đồng doanh nghiệp vào tham quan, học hỏi.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần xem xét là có hay không nên tiếp tục đầu tư vốn vào những công trình không có khả năng cạnh tranh như các công trình đầu tư vào sản xuất thép, phân đạm mà giá thành sản phẩm vượt xa giá thành các sản phẩm nhập khẩu. Để từ đó có các kế hoạch đầu tư phát triển cho các nghành, lĩnh vực sản xuất khác có nhiều triển vọng hơn nhằm nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư bỏ ra.
3.2.2. Đầu tư quá phân tán, dàn trải, thời gian xây dựng kéo dài; số lượng các dự án nhóm B và C gia tăng quá nhanh trong những năm vừa qua và chưa có chiều hướng giảm
Một trong những nguyên nhân làm giảm hiệu quả đầu tư là đầu tư quá phân tán. Trong những năm qua, việc phân cấp quyền ra quyết định đầu tư các dự án và phân bổ vốn cho các dự án cũng đã được sửa đổi bổ sung theo hướng phân cấp cho các bộ, các ngành và các địa phương ngày càng nhiều. Theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng Nghị định số 52/CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 và Nghị định số 12/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/CP quy định như sau:
- Thẩm quyền quyết định đầu tư các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:
+ Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư hoặc uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án thuộc nhóm A;
+ Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, cơ quan quản lý tài chính của Trung ương Đảng, cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị -xã hội (xác định trong Luật Ngân sách Nhà nước), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đầu tư các dự án nhóm B và C;
+ Tổng cục trưởng, Cục trưởng thuộc Bộ tư lệnh các Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Bộ đội Biên phòng và tương đương trực thuộc Bộ Quốc Phòng có thể được Bộ trưởng uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm C; các Tổng cục trực thuộc Bộ có thể được Bộ trưởng uỷ quyền quyết định đầu tư các dự án nhóm C;
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được uỷ quyền cho Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư quyết định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 2 tỷ đồng. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố còn lại có thể uỷ quyền cho Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư quyết định đầu tư các dự án có mức vốn dưới 500 triệu đồng;
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã được quyết định đầu tư các dự án thuộc vốn ngân sách Nhà nước do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phân cấp.
Đối với các dự án đầu tư ở cấp huyện dùng vốn ngân sách Nhà nước phải được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận và quản lý chặt chẽ về quy hoạch, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Đối với dự án ở cấp xã dùng vốn ngân sách Nhà ước đầu tư và xây dựng kênh mương, đường nông thôn, trường học, trạm xá, công trình văn hoá sau khi được Hội đồng nhân dân cấp xã thông qua phải được Uỷ ban nhân dân cấp huyện chấp thuận về mục tiêu đầu tư và quy hoạch;
3.2.3. Mất cân đối giữa nhu cầu đầu tư và nguồn vốn đầu tư
Chúng ta có khó khăn rất lớn về nhu cầu vốn đầu tư phát triển của đất nước, nhưng khả năng đáp ứng thì lại có hạn, không đủ để tạo ra sự chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế tăng thêm sức mạnh cạnh tranh, hạn chế khả năng phát triển của đất nước.
Mặc dù mấy năm qua đã có cố gắng lớn tạo ra cơ cấu ngày càng hợp lý, nhưng đến nay hàng năm vẫn phải chi 15%-17% cho trả nợ trong nước và một phần nợ nước ngoài, đồng thời lại phải đảm bảo những khoản chi thường xuyên. Vì vậy nguồn vốn đầu tư từ ngân sách còn rất eo hẹp, chỉ bằng 15%-20% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội mà trong 20% này, một nửa là vay mượn nước ngoài (ODA). Xu hướng giảm tỷ lệ nguồn vốn ngân sách trong vài năm gần đây đã gây không ít khó khăn trong việc hoàn thành các chương trình đầu tư của nhà nước.
Mặt khác nguồn vốn ngân sách dành cho đầu tư hạn hẹp mà gần một nửa lại là vốn vay nước ngoài nên có nhiều hạn chế trong việc bố trí cơ cấu đầu tư, bị co kéo bởi nhiều nhu cầu cấp bách. Trong khi đó, các Bộ, các địa phương chưa quan tâm đến việc tạo thêm các nguồn vốn khác để cải thiện cơ cấu đầu tư, còn trông chờ, ỷ lại nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Các chính sách và hình thức huy động vốn chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức làm cho các thành phần kinh tế do dự, chưa mạnh dạn bỏ vốn đầu tư.
3.2.4. Chưa có các quy định chặt chẽ về chế tài trong phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng
Chủ trương phân cấp trong quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với xu thế cải cách bộ máy hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay; tuy nhiên do đây là một chủ trương mới phát sinh và mới trong giai đoạn triển khai thực hiện bước đầu nên trong các văn bản pháp quy về vấn đề này còn chưa được chặt chẽ. Các Nghị định 52, 12 còn thiếu các quy định chi tiết, thiếu các chế tài để kiểm tra, kiểm soát; vì vậy, rất dễ phát sinh các vi phạm trong quản lý đầu tư và xây dựng. Hậu quả là hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước yếu kém, và nguồn vốn này chưa thực sự phát huy tác dụng định hướng, tạo sức lôi cuốn, thu hút các nguồn vốn khác để hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đạt hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cao.
Theo quy định, điều kiện để các dự án được bố trí kế hoạch đầu tư năm kế hoạch là phải có đủ thủ tục về đầu tư và xây dựng ở thời điểm tháng 10 trước năm kế hoạch. Thực tế, do nhiều nguyên nhân, nhiều chủ đầu tư chưa có dự án được phê duyệt như quy định, thậm chí vào năm kế hoạch vẫn chưa có dự án; do vậy xảy ra tình trạng sau khi có kế hoạch vốn được giao các đơn vị mới triển khai các thủ tục cần thiết, làm chậm quá trình thực hiện vốn. Có những dự án cuối năm vẫn chưa đủ điều kiện ra quyết định đầu tư, nên đành phải điều chuyển vốn sang các dự án khác. Gây nên tình trạng thừa vốn dự án này, thiếu vốn dự án chuyển tiếp khác. Ngoài ra còn có hiện tượng chủ đầu tư xin số quyết định ở thời điểm tháng 10 trước năm kế hoạch để hợp thức hoá về thủ tục đầu tư. Việc phê duyệt chính thức sau 1 vài tháng thậm chí có dự án không được phê duyệt đầu tư.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
VỐN TỪ NSNN ĐẦU TƯ CHO DỰ ÁN
1. ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TỪ NGUỒN VỐN NSNN TRONG 5 NĂM 2006-2010
1.1. Định hướng đầu tư phát triển các ngành, lĩnh vực
1.1.1. Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống nông dân
Tạo bước chuyển biến về chất trong sản xuất nông nghiệp và phát triển mạnh kinh tế nông thôn, đáp ứng nhu cầu trong nước và tăng kim ngạch xuất khẩu. Xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa sạch đa dạng, phát triển nhanh, bền vững có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tăng hiệu quả và tăng trình độ công nghệ thông qua ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, bảo quản và chế biến. Đẩy mạnh liên kết công nông nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất. Xây dựng nông thôn mới có hạ tầng phát triển theo hướng hiện đại, gắn với đô thị hoá. Phát triển đa dạng các ngành nghề, nhất là những ngành có giá trị gia tăng và giá trị xuất khẩu cao. Nâng cao mức sống cho nông dân. Đến năm 2010, không còn hộ đói, giảm mạnh tỷ lệ hộ nghèo. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng khoảng 3,0-3,2%/năm (giá trị sản xuất 4,5%).
1.1.2. Phát triển nhanh công nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hóa
Tiếp tục duy trì tốc độ phát triển cao đi đôi với nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất công nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp để giữ vững và mở rộng thị phần trong nước và quốc tế. Ưu tiên thoả đáng cho việc phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển công nghiệp phụ trợ.
Đảm bảo cân đối cung cầu của nền kinh tế về những sản phẩm công nghiệp chủ yếu như điện, than, thép xây dựng, xăng dầu, xi măng, phân bón trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất trong nước; đáp ứng yêu cầu trong nước các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng. Chú trọng nâng cao chất lượng, số lượng các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu.
Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15,2-15,5%/năm, giá trị gia tăng công nghiệp tăng 9,5-10,2%/năm. Đến năm 2010, công nghiệp khai khoáng chiếm tỷ trọng 8,4% giá trị sản xuất công nghiệp, công nghiệp chế biến chiếm 87,2%, công nghiệp điện nước ga chiếm 4,4%.
Định hướng phát triển một số ngành công nghiệp cụ thể như sau:
Ngành điện trong 5 năm tới phấn đấu bảo đảm đáp ứng ổn định điện cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Đầu tư xây dựng đồng bộ nguồn và lưới điện để đến năm 2010 điện sản xuất toàn quốc 96,1 tỷ Kwh, giảm tổn thất điện năng xuống mức 10%. Tiếp tục triển khai xây dựng thị trường điện cạnh tranh. Chủ động hợp tác quốc tế và khu vực để trao đổi điện năng với các nước thông qua việc liên kết lưới điện với Trung Quốc, Lào, Campuchia và Thái Lan, hợp tác đầu tư về nguồn điện với Lào và các nước. Trong kế hoạch 5 năm tới cần đầu tư phát triển nguồn và lưới điện đồng bộ với cơ cấu hợp lý giữa nhiệt điện than - nhiệt điện chạy khí - thuỷ điện. Đồng thời đặc biệt lưu ý đầu tư các dự án nguồn điện đảm bảo đúng tiến độ, tránh tình trạng thiếu điện do đầu tư chậm. Tập trung vào ưu tiên vốn đầu tư cho dự án thuỷ điện Sơn La, các dự án nhiệt điện than và nhiệt điện chạy khí. Phấn đấu tăng thêm công suất nguồn điện trong kế hoạch 5 năm khoảng 12.400 Mw, đưa tổng công suất nguồn đến năm 2010 khoảng 23.000-24.000 Mw, trong đó thuỷ điện 8.800 Mw, nhiệt điện chạy khí 7.000 Mw, nhiệt điện than 4.200 Mw, còn lại là các nguồn khác.
Riêng với vùng nông thôn, phấn đấu đến năm 2010 cung ứng điện với chất lượng cao, ổn định với giá điện theo quy định cho 90-95% số hộ, 100% số xã. Một số địa bàn thuộc vùng sâu, vùng xa, hải đảo sẽ được cấp điện từ các nguồn năng lượng mới như thuỷ điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời… Phấn đấu hạ giá thành sản xuất và đầu tư.
Ngành than: Với phương châm bố trí sản xuất than hợp lý để vừa đảm bảo cân đối cung và cầu hiện tại, vừa đảm bảo nguồn cung cấp lâu dài cho giai đoạn phát triển sau, trong đó ưu tiên đáp ứng nhu cầu than cho các hộ tiêu thụ lớn như điện, xi măng, phân bón, vật liệu xây dựng, chất đốt sinh hoạt cho các vùng nông thôn, miền núi. Mức tăng trưởng bình quân toàn ngành 5 năm khoảng 9,3%/năm, đến năm 2010 dự kiến sản xuất 42 triệu tấn than sạch; trong đó chủ yếu để đáp ứng nhu cầu trong nước, còn lại dành cho xuất khẩu khoảng 8-9 triệu tấn những năm đầu và giảm dần những năm sau.
Ngành dầu khí: Tiếp tục đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài trong tìm kiếm thăm dò dầu khí nhằm tăng nhanh trữ lượng xác minh hàng năm khoảng 30-35 triệu tấn dầu quy đổi. Năm 2010 đạt sản lượng khai thác dầu thô 21,6 triệu tấn (kể cả phần khai thác ở nước ngoài). Khai thác khí đạt 13,2 tỷ m3. Hoàn thành đầu tư dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất vào năm 2009, triển khai đầu tư các dự án hóa dầu, lọc dầu Nghi Sơn, lọc dầu phía Nam, đầu tư khai thác dầu khí ở nước ngoài. Đảm bảo cung cấp đủ khí cho sản xuất điện, phân bón và cho công nghiệp. Thực hiện triển khai hoạt động dịch vụ dầu khí ra nước ngoài.
Ngành thép: Dự báo nhu cầu thép nước ta đến năm 2010 khoảng 10,2 triệu tấn tăng bình quân 7,5-8%/năm. Để cân đối với nhu cầu, dự kiến đến năm 2010 sản lượng thép các loại sản xuất trong nước đạt 6,5 triệu tấn, phôi thép đạt 3 triệu tấn. Ngoài ra sẽ đẩy mạnh sản xuất thép tấm và thép lá để đáp ứng một phần nhu cầu trong nước. Tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài góp phần tăng năng lực sản xuất của ngành thép. Đồng thời triển khai các dự án khai thác quặng, sản phẩm và thép để đáp ứng nhu cầu trong nước.
Ngành khai khoáng và luyện kim màu: Tập trung hoàn thành Tổ hợp đồng Sin Quyền vào năm 2006; đầu tư Tổ hợp bôxit - alumina Lâm Đồng công suất 600 nghìn tấn/năm để xuất khẩu alumina, tiến tới luyện nhôm. Tiếp tục chuẩn bị đầu tư dự án sản xuất alumina công suất 1-2 triệu tấn/năm tại Đắc Nông để xuất khẩu.
Ngành xi măng: Phấn đấu đến cuối kỳ kế hoạch 2006-2010 thoả mãn nhu cầu ximăng trong nước và có xuất khẩu. Đến năm 2010 sản xuất đạt 50 triệu tấn ximăng. Để đạt mục tiêu trên cần tiếp tục đẩy nhanh tốc độ đầu tư các dự án xi măng đã triển khai trong năm 2004-2005 đồng thời thu xếp nguồn vốn để triển khai đầu tư các dự án mới đã được quy hoạch. Tiến hành nghiên cứu cải tạo, thay công nghệ lò đứng sang lò quay ở một số nhà máy xi măng lò đứng hiện nay nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng xi măng, tận dụng cơ sở hiện có. Đáp ứng đủ nhu cầu xi măng trong nước.
Ngành giấy: Tiếp tục quy hoạch đầu tư phát triển vùng nguyên liệu giấy ở những vùng, khu vực có tiềm năng, gần nơi tiêu thụ. Tập trung đầu tư các dự án sản xuất giấy và bột giấy nhằm từng bước thay thế bột giấy nhập khẩu. Phấn đấu tăng sản lượng để thoả mãn nhu cầu trong nước các loại giấy chất lượng trung bình, giấy thấp cấp. Năm 2010 sản xuất đạt 1,2 triệu tấn giấy bìa các loại.
1.1.3. Phát triển các ngành dịch vụ
Tiếp tục ưu tiên phát triển mạnh thương mại và dịch vụ đúng với tiềm năng của từng vùng; nâng cao năng lực và chất lượng, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hoá dịch vụ với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Thực hiện cạnh tranh bình đẳng, nâng cao hơn nữa vai trò, hiệu quả quản lý nhà nước về thương mại, dịch vụ đáp ứng nhu cầu đa dạng trong sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, mở rộng thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
Tiếp tục tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có tiềm năng để phát huy ưu thế và khả năng cạnh tranh như du lịch, hàng không, vận tải biển, tài chính, ngân hàng, đồng thời phát triển mạnh dịch vụ du lịch, chất lượng cao, góp phần tạo nhiều việc làm. Đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu và quan hệ kinh tế đối ngoại.
Nâng cao chất lượng hoạt động thương mại trong nước theo hướng hiện đại, văn minh và mở rộng đến mọi vùng trong cả nước, thoả mãn mọi nhu cầu sản xuất và tiêu dùng xã hội với giá cả phù hợp, ổn định, hỗ trợ sản xuất trong nước phát triển, đảm bảo huy động nguồn hàng xuất khẩu lớn và thích ứng với tiến trình hội nhập, cạnh tranh quốc tế. Bảo đảm hàng hóa lưu thông thông suốt trong thị trường nội địa và giao lưu buôn bán với nước ngoài. Mở rộng mạnh mẽ tất cả các loại thị trường, cả thị trường thành thị, thị trường nông thôn, thị trường miền núi.
Hoàn thiện các cơ chế, chính sách hài hoà với tiêu chuẩn của Tổ chức Thương mại thế giới và Hiệp định chung về thương mại - dịch vụ để tạo thuận lợi cho các đàm phán và giải quyết tranh chấp. Chuẩn bị các điều kiện để thực hiện tốt các cam kết dịch vụ sau khi gia nhập WTO và thực hiện các cam kết tự do hoá dịch vụ trong khuôn khổ ASEAN đến năm 2010 và giai đoạn tiếp theo.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP ngành dịch vụ giai đoạn 2006 - 2010 là 7,7-8,2%/năm. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu, tăng tỷ trọng dịch vụ trong GDP lên trên 40-41% vào năm 2010.
Định hướng phát triển các ngành dịch vụ chính:
Dịch vụ du lịch: Phát triển du lịch Việt Nam trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Phát triển nhanh dịch vụ du lịch chất lượng cao. Đảm bảo quan hệ hài hoà giữa phát triển du lịch và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, môi trường và văn hoá.
Phấn đấu tốc độ tăng trưởng doanh thu của ngành du lịch bình quân thời kỳ 2006-2010 đạt 11-11,5%/năm, với các chỉ tiêu cụ thể sau: Đến năm 2010, thu hút được lượng khách quốc tế vào Việt Nam du lịch 6 triệu lượt người và 23 triệu lượt người khách nội địa.
Dịch vụ vận tải: Đáp ứng tốt nhu cầu vận chuyển hàng hóa, hành khách trong cả nước, đảm bảo một phần nhu cầu vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu với chất lượng dịch vụ vận tải ngày càng cao. Nâng cao chất lượng phương tiện vận tải, tăng cường giải pháp nhằm giảm tối đa tai nạn giao thông. Thiết lập mạng lưới vận tải đa phương thức, chuyển dịch cơ cấu vận tải theo hướng tăng khối lượng luân chuyển bằng đường biển, đường sắt, giảm tỷ lệ vận tải đường bộ.
Phấn đấu đến năm 2010, khối lượng vận tải hàng hoá tăng bình quân hàng năm khoảng 9,4%; khối lượng luân chuyển hàng hoá tăng bình quân hàng năm 10,7%; khối lượng vận chuyển hành khách tăng bình quân hàng năm khoảng 9,8%; khối lượng luân chuyển hành khách tăng bình quân hàng năm 11,5%. Phấn đấu đạt thị phần vận tải trên các tuyến bay quốc tế của Việt Nam từ 40 đến 45%. Mở rộng sân bay để có thể tiếp nhận được 13 triệu lượt hành khách năm 2005 lên 20,8 triệu vào năm 2010. Hệ thống cảng biển đạt năng lực bốc xếp thông qua cảng 208 triệu tấn vào năm 2010.
Hướng phát triển chung là tập trung nâng cao năng lực, cơ sở vật chất của ngành và năng lực của đội ngũ cán bộ để nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước mở cửa thị trường dịch vụ vận tải, qua đó tăng cường thu hút các nguồn vốn nước ngoài và tiếp cận công nghệ hiện đại để phát triển vận tải.
Dịch vụ bưu chính viễn thông: Tiếp tục nâng cao chất lượng, giảm chi phí, bảo đảm giá cước hợp lý nhằm nâng cao sức cạnh tranh để đáp ứng xu hướng hội nhập. Đa dạng hoá các dịch vụ và chính sách chăm sóc khách hàng. Phát triển mạnh dịch vụ bưu chính viễn thông và các dịch vụ mới như Internet tốc độ cao, điện thoại di động trong nước và quốc tế, các dịch vụ băng rộng..., tiếp tục phát triển các điểm bưu điện - văn hoá xã, phổ cập các dịch vụ bưu chính viễn thông cơ bản; đẩy mạnh các hình thức dịch vụ có khả năng xuất khẩu thu ngoại tệ.
Đến năm 2010, đạt trình độ khu vực về mật độ điện thoại, công nghệ và các loại hình dịch vụ bưu chính-viễn thông.
Phấn đấu tốc độ tăng số điện thoại trên mạng bình quân hàng năm là 17%/năm; tổng số máy điện thoại đạt 31 triệu máy; mật độ điện thoại đạt 35 máy/100 dân.
1.1.4. Giáo dục, đào tạo, dạy nghề phát triển nguồn nhân lực
Tiếp tục đổi mới giáo dục và đào tạo một cách có hệ thống và đồng bộ, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiếp cận trình độ giáo dục tiên tiến của khu vực và thế giới.
Đẩy mạnh phát triển giáo dục mầm non trên mọi địa bàn dân cư, đặc biệt ở nông thôn và vùng khó khăn; củng cố và nâng cao thành quả phổ cập giáo dục tiểu học, thực hiện phổ cập đúng độ tuổi và đảm bảo chất lượng toàn diện; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước vào năm 2010, thực hiện phổ cập trung học phổ thông ở những nơi có điều kiện.
Mở rộng quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp: Tuyển sinh đại học, cao đẳng tăng trung bình 10%/năm để đến năm 2010 đạt chỉ tiêu 200 sinh viên/10.000 dân; tuyển mới trung học chuyên nghiệp tăng 15%/năm; dạy nghề cho khoảng 7,5-8 triệu lao động, trong đó 25% dài hạn, bảo đảm tuyển mới dạy nghề dài hạn tăng 15-17%/năm. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40% tổng lao động xã hội.
Thực hiện đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục mầm non và phổ thông. Chú trọng hình thức giáo dục tiền học đường. Thực hiện điều chỉnh phương án phân ban trung học phổ thông góp phần tích cực hướng nghiệp cho học sinh và phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Lồng ghép vấn đề giới, sức khoẻ sinh sản... vào chương trình học các cấp.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, bao gồm chuẩn về kiến thức, kỹ năng đối với từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo; các yêu cầu cơ bản về đạo đức, tác phong và trách nhiệm của người học; chuẩn về điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và công nhân viên; sách giáo khoa, giáo trình và tài liệu tham khảo; trường sở, thiết bị, phòng thí nghiệm, thư viện, sân chơi, bãi tập…).
Hoàn thiện hệ thống đào tạo theo hướng liên thông, mở ra nhiều khả năng và cơ hội học tập khác nhau cho mọi người. Phát huy ưu điểm của các chương trình đào tạo hiện có, tiếp nhận có chọn lọc những chương trình tốt trên thế giới để xây dựng một hệ thống chương trình đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt, tiên tiến và hiện đại, liên thông giữa các trình độ đào tạo.
Tăng cường hiệu quả giáo dục lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đưa nội dụng giáo dục về giới giảng dạy trong các bậc học, chú ý coi trọng dạy người (cùng với dạy chữ và dạy nghề) để hình thành nhân cách con người mới Việt Nam. Xóa bỏ định kiến về giới và đưa nội dung về giới để giảng dạy trong các bậc học.
Tập trung đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý ở nhà trường.
Thực hiện tốt hơn công bằng xã hội và bình đẳng giới, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn, đặc biệt là tình trạng tái mù chữ của đồng bào dân tộc thiểu số và giáo dục cho trẻ em bị thiệt thòi và phụ nữ mù chữ.
1.2. Định hướng đầu tư phát triển các vùng lãnh thổ
1.2.1. Vùng Trung du miền núi Bắc bộ
Phát triển kinh tế - xã hội vùng trung du miền núi Bắc Bộ với nhịp độ nhanh hơn nhằm thực hiện xóa đói, giảm nghèo, rút ngắn sự chênh lệch về điều kiện sống và tiến bộ xã hội với các vùng khác trong cả nước; khai thác thế mạnh của vùng về đất đai, khí hậu, rừng, các loại tài nguyên khoáng sản, tiềm năng thuỷ điện, lợi thế về cửa khẩu để phát triển các ngành kinh tế. Cải thiện rõ rệt hệ thống hạ tầng kinh tế, xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển của vùng; hoàn thành việc đưa dân trở lại biên giới; bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa các dân tộc ít người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng.
Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng. Phấn đấu đến năm 2010 GDP bình quân đầu người đạt từ 460-530 USD. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 30%, công nghiệp - xây dựng khoảng 29,8% và ngành dịch vụ khoảng 40,2%. Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 25-30%. Tỷ lệ hộ nghèo của vùng Tây bắc giảm từ 44% năm 2005 xuống còn 24%, vùng Đông bắc từ 33% năm 2005 xuống 18% vào năm 2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
1.2.2. Vùng Đồng bằng sông Hồng
Xây dựng vùng Đồng bằng sông Hồng trở thành vùng kinh tế - xã hội - văn hóa phát triển mạnh, thể hiện rõ vai trò đầu mối về giao thương hợp tác quốc tế và khu vực, lôi kéo, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng miền núi và trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ cùng phát triển..
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Đảm bảo kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh và có chất lượng trong thời kỳ 2006-2010. Phấn đấu đến năm 2010 GDP bình quân đầu người đạt từ 1.110-1.360 USD. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, theo hướng tăng nhanh công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là chuyển một số diện tích đất sang dịch vụ để tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến nông, lâm, ngư nghiệp chiếm khoảng 11,8%; công nghiệp và xây dựng khoảng 44,9%; dịch vụ khoảng 43,3%. Xuất khẩu tăng bình quân 15%/năm (riêng vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc tăng khoảng 25%), phấn đấu kim ngạch xuất khẩu của các tỉnh trong vùng chiếm 20-25% giá trị xuất khẩu của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 14,4% năm 2005 xuống còn 6-7% vào năm 2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
1.2.3. Vùng Tây Nguyên
Phát huy tiềm năng lợi thế về đất đai, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, xây dựng Tây Nguyên phát triển toàn diện, bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, mạnh về quốc phòng, an ninh và từng bước trở thành vùng động lực. Coi phát triển lâm nghiệp và cây công nghiệp kết hợp với công nghiệp chế biến toàn diện và có hiệu quả là hướng đột phá quan trọng trong phát triển Tây Nguyên tăng cường xây dựng các khu kinh tế quốc phòng; chú trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tạo thêm nhiều việc làm. Từng bước cải thiện và bảo vệ môi trường thông qua quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo động lực tăng trưởng cao để có điều kiện xóa đói giảm nghèo.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Phấn đấu đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế. Dự kiến GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt từ 510-580 USD. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 41,3%, công nghiệp - xây dựng khoảng 21,7% và ngành dịch vụ khoảng 37%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2010 gấp 4,5 lần so với năm 2000. Mỗi năm, giải quyết thêm việc làm mới cho 12-13 vạn lao động trong độ tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 40% năm 2005 xuống còn 20% vào năm 2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
1.2.4. Vùng Đông Nam Bộ
Huy động cao nhất các nguồn lực, để khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng, nhanh chóng đưa Đông Nam Bộ trở thành một vùng trọng điểm phát triển nhanh, bền vững, đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ và du lịch, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các mặt văn hóa, xã hội phát triển; bảo vệ môi trường, bảo đảm ổn định chính trị và an ninh quốc phòng, thực sự trở thành vùng động lực kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, là cầu nối giao thương, hợp tác kinh tế có hiệu quả với các nước trong khu vực, phát huy sức lan tỏa với Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Trung bộ.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao và bền vững. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt từ 3.030-3.720 USD. Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến nông - lâm - ngư nghiệp khoảng 3,6%, công nghiệp - xây dựng khoảng 64% và ngành dịch vụ khoảng 32,4%. Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 18%/năm. Phấn đấu mỗi năm giải quyết việc làm mới cho khoảng 45-50 vạn lao động trong độ tuổi. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,2% năm 2005 xuống 4-5% vào năm 2010 (theo chuẩn mới).
1.2.5. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
Huy động cao nhất các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong vùng, tạo ra những vùng sản xuất giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao; sản xuất hàng hóa lớn, tập trung; vùng chế biến nông sản, thuỷ sản xuất khẩu lớn của cả nước; xây dựng chiến lược phát triển tổng thể kinh tế biển vùng đồng bằng Sông Cửu Long trở thành một vùng trọng điểm phát triển kinh tế của cả nước với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả, bền vững; phát triển các mặt văn hóa, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là với đồng bào Khơ-me và nhân dân vùng ngập lũ; phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc phòng.
Một số chỉ tiêu chủ yếu:
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP kinh tế. Đến năm 2010, phấn đấu tăng GDP bình quân đầu người lên khoảng từ 850-990 USD. Trong cơ cấu GDP, nông, lâm, ngư nghiệp chiếm dưới 37,5%, công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 23,3%, dịch vụ chiếm trên 39,2% GDP. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 20%/năm. Trong 5 năm 2006-2010, giải quyết việc làm cho khoảng 2,5-3 triệu lao động. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 17,6% năm 2005 xuống còn 10-11% vào năm 2010 (theo Chuẩn nghèo mới).
2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ CHO DỰ ÁN TỪ NSNN
Để có thể thực hiện được những định hướng trong giai đoạn 2006-2010, ngoài những biện pháp nhằm huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư đáp ứng cho đầu tư phát triển toàn xã hội thì việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho các dự án cũng cần được quan tâm và thực hiện một cách chặt chẽ, đặc biệt là các dự án được đầu tư từ nguồn vốn NSNN.
Đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn NSNN tuy chỉ chiếm khoảng 20% trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, nhưng nó có vị trí rất quan trọng để thu hút các nguồn vốn khác hình thành cơ cấu đầu tư mang tính thúc đẩy cao trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việc sử dụng có hiêu quả nguồn vốn NSNN trong đầu tư và xây dựng là yêu cầu cấp bách hiện nay, nhất là trong khi nguồn vốn còn eo hẹp, nhu cầu đầu tư lớn. Những tồn tại cố hữu trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng trong nhiều năm qua có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó là do công tác quản lý đầu tư và xây dựng, nhất là đầu tư từ nguồn vốn nhà nước còn nhiều bất cập, thiếu sót; cơ chế chính sách, hệ thống các văn bản pháp quy trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng không đầy đủ, chưa đồng bộ và còn nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, mà ta có thể kiến nghị các giải pháp nhằm khắc phục và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ NSNN như sau:
2.1. Hoàn thiện các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng đã được Quốc hội ban hành và khẩn trương xây dựng Luật Đầu tư
Để phù hợp với nền kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách và pháp luật để điều chỉnh các hành vi trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, quá trình đổi mới diễn ra nhanh chóng và sâu rộng làm cho hệ thống luật pháp và chính sách không theo kịp. Khi áp dụng vào thực tế quản lý đầu tư xây dựng, chúng bộc lộ các nhược điểm vừa chồng chéo lại vừa sơ hở nên dễ bị lợi dụng, làm thất thoát vốn đầu tư. Vì vậy, ta cần đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về đầu tư xây dựng như:
Thư nhất, nên giao chức năng quản lý nhà nước về công tác đấu thầu cho Bộ Xây dựng quản lý. Vì mục tiêu đầu thầu là lựa chọn các nhà tư vấn, nhà thầu có đủ năng lực về tài chính, công nghệ và nhân lực để thực hiện dự án đầu tư một cách hiệu quả nhất. Chỉ có Bộ Xây dựng mới đủ khả năng xem xét toàn diện các năng lực này, trước hết là về công nghệ và nhân lực, sau đó là kỹ thuật xây dựng cũng như chất lượng công trình trong suốt quá trình đầu tư xây dựng.
Thứ hai, nên giao cho Bộ Xây dựng chức năng quản lý nhà nước (gồm cả chức năng của UBXDCBNN trước đây) một cách toàn diện trong lĩnh vực xây dựng cơ bản và giảm bớt chức năng quản lý các doangh nghiệp nhà nước trực thuộc như hiện nay. Làm như vậy sẽ khắc phục được những bất hợp lý trong việc ban hành và quản lý các tiêu chuẩn, quy phạm và định mức kinh tế kỹ thuật trong xây dựng, góp phần hạn chế lãng phí và thất thoát vốn đầu tư.
Thứ ba, giao Bộ Xây dựng và các Sở Xây dựng (trừ các địa phương có Sở Giao thông công chính) quản lý thống nhất các công trình xây dựng trong đô thị, đặc biệt là hệ thống hạ tầng kỹ thuật, để tránh tình trạng đầu tư không đồng bộ, nhằm hạn chế những lãng phí và thất thoát vốn đầu tư.
Thứ tư, trên cơ sở phân định rõ chức năng của các Bộ, ngành trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, từng bước thể chế hoá các văn bản pháp luật, trước hết ban hành: Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng, Luật nhà ở…Đồng thời tổ chức lại bộ máy của ngành Xây dựng, tạo điều kiện cho ngành quản lý tốt các lĩnh vực theo luật định.
Ngoài ra, Chính phủ xây dựng Luật Đầu tư nhằm điều chỉnh toàn bộ các hoạt động đầu tư trong nền kinh tế, bao gồm mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế; đồng thời Chính phủ sẽ ban hành các văn bản pháp quy, hướng dẫn việc thực hiện các quy định về quản lý các nguồn vốn đầu tư theo hướng tạo điều kiện để huy động ở mức cao nhất các nguồn vốn đầu tư trong phạm vi toàn xã hội. Đồng thời, khắc phục được những yếu kém, tồn tại trong cơ chế quản lý đầu tư hiện nay, nhằm sử dụng các nguồn vốn đầu tư tập trung, đúng quy hoạch, kế hoạch, có hiệu quả, chống được thất thoát, lãng phí trong đầu tư.
Chính phủ ban hành cơ chế quản lý đầu tư nhằm tiếp tục việc phân cấp triệt để trong quản lý đầu tư, phù hợp với yêu cầu về cải cách hành chính, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, đơn giản hoá về thủ tục đầu tư. Đi đôi với việc phân cấp trong quản lý đầu tư, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia vào quá trình đầu tư.
Quy định rõ tiêu chuẩn hoá các tổ chức tư vấn, nhà thầu, đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt động tư vấn, xoá bỏ tình trạng “khép kín” trong đầu tư, xây dựng như hiện nay.
Chính phủ quản lý toàn diện bằng cách tạo ra khung khổ pháp lý, định ra các tiêu chuẩn tiêu chí đầu tư và tổ chức hướng dẫn thực hiện, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu thực hiện quy hoạch, kế hoạch theo các quy định của pháp luật nhằm ngăn chặn, phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật; chi phí thất thoát, lãng phí và tiêu cực trong đầu tư, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực.
2.2. Tăng cường quản lý vốn đầu tư
Tổ chức rà soát, sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh các quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, vùng kinh tế, vùng kinh tế trọng điểm, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội củă tỉnh, thành phố; quy hoạch phát triển một số ngành quan trọng, một số sản phẩm chủ yếu.
Thực hiện tốt Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu; rà soát xoá bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết; đơn giản và công khai hoá các quy trình, thủ tục hành chính. Rút ngắn thời gian thẩm định, cấp phép đầu tư đối với các dự án đầu tư có điều kiện.
Thực hiện tốt luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt tập trung làm tốt công tác quy hoạch, chuyển mục đích sử dụng đất, đẩy mạnh giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng dùng chung trong các khu công nghiệp, dịch vụ, chủ động đáp ứng mặt bằng đất đai cho các nhà đầu tư, khắc phục cơ bản tình trạng dự án chờ đất, giải quyết nhanh chóng, thuận lợi các thủ tục về giao đất, cho thuê đất và các giao dịch về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Nâng cao trách nhiệm của người ra quyết định và thẩm định các dự án đầu tư; chỉ ra quyết định đầu tư khi xác định rõ nguồn vốn và trong phạm vi nguồn vốn được phân cấp, tránh việc phê duyệt vốn đầu tư dự án vượt quá khả năng cân đối vốn. Phải cân nhắc thận trọng khi quyết định một dự án đầu tư về các mặt mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư và lựa chọn công nghệ, thời gian và địa điểm đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả dự án đầu tư, tránh sai sót ngay từ chủ trương đầu tư.
Thực hiện nghiêm công tác giám sát cộng đồng đối với đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước.
Rà soát lại chủ trương đầu tư và hiệu quả đầu tư đối với những dự án lớn đang có nhiều ý kiến khác nhau để có biện pháp xử lý.
Kiên quyết không bố trí vốn đầu tư cho các dự án không chấp hành đầy đủ các thủ tục về đầu tư xây dựng theo quy định. Đình hoãn các dự án không rõ phương án huy động nguồn vốn, phương án tài chính các dự án vừa thi công vừa tìm nguồn vốn.
Tăng cường công tác giám sát và đánh giá đầu tư; các Bộ, ngành, địa phương thực hiện giám sát ngay từ khâu quy hoạch, lập dự án, thẩm định, bố trí vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt. Thực hiện thường xuyên công tác thanh tra đầu tư. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao vai trò các Bộ chủ quản và địa phương trong công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư.
2.3. Tăng cường quản lý chất lượng xây dựng các công trình, dự án
Nâng cao chất lượng công tác quản lý, xây dựng ở tất cả các khâu trong quá trình xây dựng của các công trình, dự án từ lập và phê duyệt quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, quyết định đầu tư, thực hiện đầu tư, trong đó đặc biệt chú trọng khâu khảo sát, thiết kế (chất lượng thiết kế, phương án thiết kế hợp lý, sự phù hợp của vật liệu lựa chọn, tiêu chuẩn thiết kế áp dụng).
Bổ sung các chế tài nhằm tăng cường khâu giám sát thi công, nghiệm thu, thanh quyết toán công trình; nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời việc thi công không đúng thiết kế, không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật, không đảm bảo khối lượng xây lắp theo thiết kế được duyệt, lập quyết toán không đúng thực tế thi công để “rút ruột công trình” làm ảnh hưởng tới chất lượng công trình.
Quy định rõ trách nhiệm cá nhân, đơn vị liên quan đến chất lượng công trình (bao gồm chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, đơn vị khảo sát, thiết kế và đơn vị thi công trong từng khâu công việc từ khảo sát, thiết kế, thi công, thực hiện các quy chế đấu thầu đến kiểm tra và giám sát công tác thi công công trình).
Chống khép kín trong đầu tư xây dựng trong các Bộ, ngành, địa phương theo lộ trình cụ thể. Trước mắt, tập trung khâu tư vấn giám sát dự án, đơn vị thi công và đơn vị giám sát không cùng một Bộ. Từng bước tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý kinh doanh trong xây dựng ở từng Bộ, từng tỉnh, thành phố ở tát cả các khâu.
2.4. Đổi mới cách cân đối nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước của các địa phương
Để giảm dần và tiến tới không còn những bất hợp lý trong cân đối và sử dụng nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước. Khắc phục tối đa cơ chế xin cho, tuỳ tiện, tiêu chí không rõ ràng, minh bạch trong phân bổ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, thì ta phải dựa vào những căn cứ để phân bổ nguồn vốn ngân sách như sau:
- Dân số thường trú trong từng tỉnh, thành phố là yếu tố quan trọng để xác định tổng mức đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trong kế hoạch hàng năm, cũng như đối với các khoản chi thường xuyên của ngân sách nhà nước. Vì vậy, dân số là một trong những căn cứ tốt để xem xét phân bổ nguồn vốn này.
- Nguồn thu, mức độ thu ngân sách hàng năm của các tỉnh, thành phố là một trong các yếu tố cần được xem xét. Đối với những tỉnh, thành phố có nguồn thu ngân sách lớn, có đóng góp cho ngân sách Trung ương, phải được ưu tiên cân đối vốn đầu tư cao hơn; tuy nhiên, phải chú ý đến các tỉnh có điều kiện khó khăn do nhiều nguyên nhân thì cần phải có mức tăng chi đầu tư cao để có điều kiện vươn lên
- Chỉ tiêu về số hộ nghèo đói, tỷ lệ hộ nghèo là yếu tố cần được quan tâm nhiều trong quá trình cân đối nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo, cần có hệ thống chính sách, giải pháp cụ thể, trong đó việc hỗ trợ người nghèo để họ từng bước vươn lên là cách làm đúng.
- Mức độ khó khăn về kết cấu hạ tầng của các tỉnh, thành phố là rất khác nhau. Các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, miền Trung, các tỉnh vùng đồng bằng Sông Cửu Long kinh tế chưa phát triển, điều kiện tự nhiên khó khăn, kết cấu hạ tầng thiếu, nhiều tỉnh phải đảm nhận các nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước, thì phải có chính sách hỗ trợ cao hơn các thành phố và các tỉnh vùng đồng bằng.
2.5. Phân cấp trong quản lý nguồn vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước
Thực hiện phân cấp tối đa cho các cấp địa phương trong tất cả các khâu của quá trình đầu tư. Cấp quyết định kế hoạch thì quyết định chủ trương đầu tư đối với các công trình, dự án do cấp mình quản lý, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân và tập thể về quyết định của mình. Người có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư nếu sai phải chịu trách nhiệm cả về chuyên môn và tài chính đối với dự án; cơ quan trình phải chịu trách nhiệm về nội dung trình.
Các dự án đầu tư trước khi phê duyệt quyết định đầu tư phải tính toán khả năng tài chính, khả năng cân đối vốn để đảm bảo dự án được triển khai thực hiện theo đúng thời gian quy định. Các dự án được phê duyệt phải phù hợp với quy hoạch được duyệt, trường hợp dự án chưa có trong quy hoạch được duyết phải có ý kiến của người có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch.
Giao cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh phê duyệt tất cả các dự án do tỉnh quản lý, bao gồm từ các dự án thuộc nhóm A, đến các dự án thuộc nhóm B và nhóm C. Căn cứ vào tình hình thực tế của các cấp chính quyền, của các sở ban ngành trực thuộc, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể phân cấp cho giám đốc sở ban ngành, cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các huyện, quận, thị phê duyệt các dự án thuộc nhóm B hoặc nhóm C; Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có thể phân cấp cho các cấp xã phê duyệt các dự án thuộc nhóm C.
Cấp có thẩm quyền phê duyệt dự án đầu tư chỉ phê duyệt các dự án sử dụng nguồn ngân sách do cấp mình quản lý. Đối với các dự án kết cấu hạ tầng có tổng mức đầu tư lớn, vượt khả năng ngân sách do cấp mình quản lý, cần có sự hỗ trợ của ngân sách cấp trên, trước khi phê duyệt quyết định đầu tư phải có ý kiến của cấp hỗ trợ ngân sách.
Chủ đầu tư phải tính toán đầy đủ các điều kiện để dự án có thể vận hành được sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng; đồng thời tính toán để tiết kiệm nguồn vốn đầu tư, phù hợp với định mức về suất đầu tư, tránh lãng phí không cần thiết. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm toàn diện về triển khai thực hiện dự án.
Các tổ chức tư vấn chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư, trước cơ quan cấp trên của chủ đầu tư, trước pháp luật về nội dung tư vấn của mình, phù hợp với luật pháp, phù hợp với những qui định chung về quản lý đầu tư và xây dựng, phù hợp với hợp đồng ký kết giữa chủ đầu tư và tổ chức tư vấn.
Cấp có thẩm quyền phê duyệt quyết định đầu tư thì có thẩm quyền phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư, chịu trách nhiệm về việc huy động các nguồn vốn cho dự án.
Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng phải tiến hành quyết toán vốn đầu tư. Trong thời hạn 9 tháng kể từ ngày hoàn thành dự án, các dự án thuộc nhóm A phải hoàn thành quyết toán công trình, dự án; các dự án nhóm B và C phải hoàn thành quyết toán trong vòng 6 tháng. Trong năm kế hoạch nếu các đơn vị cấp địa phương còn nhiều các công trình, dư án chưa hoàn thành quyết toán, cơ quan cấp trên phải có biện pháp phù hợp để xử lý, hoặc trình hội đồng nhân dân cấp trên những giải pháp khắc phục.
2.6. Đẩy mạnh chủ trương khoán chi hành chính, khoán biên chế, mở rộng thực hiện cho tất cả các đơn vị hành chính các cấp. Giảm dần, tiến tới loại bỏ hoàn toàn các hình thức bao cấp gián tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước như miễn giảm thuế, khoanh nợ, xoá nợ, cho vay ưu đãi…
Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và thực hiện cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp theo hướng tăng quyền tự chủ về tài chính, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, về quản lý tổ chức, biên chế,…để áp dụng cho tất cả các đơn vị sự nghiệp có thu, tạo động lực đẩy mạnh phát triển các hoạt động dịch vụ công. Sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở sự nghiệp ngoài công lập theo chủ trương đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá các hoat động: y tế, giáo dục, văn hoá, thể dục thể thao… ở những địa bàn, khu vực có điều kiện.
Các Bộ, cơ quan trung ương, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương điều hành quản lý ngân sách chặt chẽ tiết kiệm, hiệu quả theo đúng dự toán ngân sách đã được giao; đúng tiêu chuẩn, chế độ, định mức chi tiêu đã quy đinh. Các địa phương chủ động sử dụng dự phòng ngân sách để phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai; thực hiện các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách mới phát sinh; thực hiện đúng chế độ công khai ngân sách; tổ chức công tác kiểm tra thường xuyên việc quản lý sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước ở các đơn vị sử dụng ngân sách; ban hành và thực hiện chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu đơn vị nếu để xảy ra những vi phạm, thất thoát, lãng phí ngân sách, tài sản công.
Tăng cường tính công khai minh bạch của ngân sách nhà nước trong tất cả các khâu từ xây dựng chính sách, lập dự toán, thẩm định, phê duyệt, tổ chức thực hiện và quyết toán ngân sách của tất cả các cấp.
KẾT LUẬN
Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội là phát triển bền vững nền kinh tế, tạo nhịp độ tăng trưởng kinh tế 7,5%/năm. Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh thần cho nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Tiến nhanh, tiến mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hướng tới quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Để thực hiện được các mục tiêu trên thì trong những năm tới nền kinh tế của chúng ta cần rất nhiều vốn, trong khi đó sự đáp ứng của nền kinh tế nước ta hiện nay còn hạn hẹp. Chính vì lẽ đó vấn đề sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trong điều kiện hiện nay và những năm tới là yêu cầu vừa cấp bách vừa mang tính lâu dài, thường xuyên.
Nhà nước cần tăng cường hơn nữa và chuẩn hoá công tác quản lý nhà nước về đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Đồng thời tăng cường tính chủ động cho các cấp chính quyền địa phương trong việc bố trí kế hoạch đầu tư hàng năm; nâng cao trách nhiệm của các cấp quản lý trong quá trình đầu tư từ khâu quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đần tư các dự án cụ thể, triển khai thực hiện dự án, thanh quyết toán công trình.
Thực hiện một cách công bằng trong việc sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước giữa các tỉnh, thành phố, giữa các ngành, các vùng có những điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau.
Khắc phục sự lãng phí trong đầu tư do chưa quản lý chặt chẽ đầu tư theo quy hoạch được duyệt. Hạn chế tối đa tình trạng thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Đẩy nhanh việc xây dựng nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đối với các địa phương trong kế hoạch hàng năm.
Thực hiện chủ trương phân cấp mạnh hơn, toàn diện hơn cho cơ sở theo hướng gắn quyền hạn với trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong từng khâu của quá trình đầu tư, tăng cường kiểm tra, thanh tra, chống thất thoát, lãng phí.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho dự án từ nguồn ngân sách nhà nước hiện nay đang là vấn đề cấp thiết cần đươc quan tâm nghiên cứu. Chính vì vậy, em mong rằng những giải pháp đưa ra trên đây sẽ đóng góp một phần nhỏ bé trong việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Do còn là một sinh viên, nên phương pháp và quá trình nghiên cứu còn hạn chế, vì thế mà luận văn vẫn còn nhiều thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp bổ sung của các thầy cô giáo và các bạn để luận văn có thể hoàn chỉnh hơn. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn cô giáo PGS. TS. Nguyễn Thị Bất đã giúp đỡ em hoàn thành giai đoạn thực tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, tháng 6 năm 2006
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế Đầu tư _ Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Báo cáo về thực hiện quy hoạch, kế hoạch đầu tư theo ngành và vùng lãnh thổ trong cả nước, kết quả khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, tình trạng nợ đọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, hiệu quả thấp và chống thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 10/2005.
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010_ Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm 2005 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2006.
Báo cáo tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 36/2004/QH11 của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước.
chương trình đầu tư công cộng thời kỳ 2001 - 2005.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32659.doc