Rủi ro trong sản xuất kinh doanh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Rủi ro có thể do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây ra làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Bởi vậy, công ty phải tìm cách phòng ngừa hạn chế rủi ro.
Trước hết, cần lựa chọn phương án kinh doanh, tránh rủi ro do thị trường mang lại. Cần tổ chức công tác phân tích dự đoán những rủi ro có thể gặp, ví dụ như các khoản thu khó đòi để từ đó đề ra biện pháp phòng ngừa hoặc hạn chế thiệt hại. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cần chủ động phòng ngừa rủi ro mà cụ thể đó là trích lập các quỹ dự phòng tài chính nhằm trang trải những thiệt hại do rủi ro kinh doanh, tránh tình trạng gián đoạn sản xuất. Trích lập các quỹ này một cách linh hoạt phù hợp với tình hình hoạt động của công ty. Tiến hành kiểm tra thường xuyên các khâu như dự trữ vốn bằng tiền, nguyên vật liệu, có những phương án khi trường hợp bất thường xấu nhất có thể xảy ra.
Trên đây là những giải pháp chủ yếu rút ra từ thực trạng hoạt động của công ty Cổ phần Cân Hải Phòng. Có thể những giải pháp đó chưa tối ưu nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp được phần nào trong việc thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
79 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1488 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty cổ phần Cân Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tăng 0,258. Tuy nhiên, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty năm 2005 lại nhỏ hơn 2004 (1,263 so với 1,366), giảm 0,103 nhưng vẫn ở mức an toàn. Tốc độ tăng của tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn nhỏ hơn tốc độ tăng của nợ ngắn hạn là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm này.
* Khả năng thanh toán nhanh:
Theo số liệu ở biểu số 04, khả năng thanh toán nhanh của công ty trong 3 năm 2003, 2004, 2005 đều thấp hơn 1, không đồng đều giữa các năm nhưng chênh lệch không đáng kể. Điều này phản ánh khả năng thanh toán nhanh của công ty trong ngắn hạn là thấp. Công ty có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ, và do đó có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do công ty sử dụng vốn vay lớn và tỷ trọng của hàng tồn kho trong tài sản lưu động là cao làm cho việc chuyển đổi tài sản lưu động thành tiền để thanh toán nợ trở nên khó khăn hơn.
* Khả năng thanh toán tức thời:
Khả năng thanh toán tức thời của công ty trong 3 năm gần đây (2003, 2004, 2005) là tương đối thấp, nhỏ hơn 1 rất nhiều, và có xu hướng ngày càng giảm, năm 2003 là 0,144, năm 2004 giảm xuống còn 0,093 và tiếp tục giảm xuống mức thấp hơn (0,024) vào năm 2005. Qua số liệu cho thấy, lượng tiền và tương đương tiền của công ty không đủ khả năng thanh toán cho các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số này vào năm 2004 nhỏ hơn so với năm 2003, đó là do tốc độ tăng của vốn bằng và tương đương tiền giảm (32,84%), trong khi vốn bằng tiền có tốc độ tăng 103,86%, nên khả năng thanh toán tức thời còn giảm xuống rất nhiều so với năm 2004, chỉ còn 0,024. Chính vì vậy, công ty cần phải quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao khả năng thanh toán tức thời của mình.
Tóm lại, qua các hệ số khả năng thanh toán trên ta thấy khả năng thanh toán của công ty nhìn chung là còn thấp. Vì vậy, vấn đề đặt ra là công ty phải có biện pháp tích cực để thu hồi các khoản nợ từ đó cải thiện được tình hình thanh toán của công ty, tăng uy tín với bạn hàng kinh doanh.
2.2.3.2. Các chỉ tiêu về hoạt động
Biểu số 06: Vòng quay khoản phải thu và kỳ thu tiền
bình quân của công ty
Số TT
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
1
Doanh thu
Đồng
37.083.549.430
39.048.181.904
45.290.223.879
2
Các khoản phải thu bình quân
Đồng
2.976.810.326
3.488.990.923
4.058.971.532
3
Vòng quay các khoản phải thu (3)=(1)/(2)
Vòng
12,46
11,19
11,16
4
Kỳ thu tiền bình quân (4)=360/(3)
Ngày
28,89
32,17
32,26
Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Cân Hải Phòng 2003, 2004, 2005
Trong năm 2003, các khoản phải thu quay được 12,46 vòng, năm 2004 quay được 11,19 vòng và đến năm 2005 là 11,16 vòng. Như vậy, số vòng quay các khoản phải thu ngày càng giảm, năm sau luôn nhỏ hơn năm trước. So với năm 2003, thì trong năm 2004 số vòng quay các khoản phải thu giảm 1,27 vòng với tốc độ giảm tương ứng là ằ 10,2%. Năm 2005, vòng quay các khoản phải thu so với năm 2004 giảm rất ít (0,03 vòng tương ứng với tỷ lệ giảm là 2,5%). Vòng quay khoản phải thu luôn tỷ lệ nghịch với kỳ thu tiền bình quân, kỳ thu tiền bình quân ngày càng tăng, năm 2004 tăng 3,28 ngày và năm 2005 tăng không đáng kể, chỉ tăng 0,09 ngày. Nguyên nhân của sự thay đổi trên là do công ty chưa có biện pháp thu hồi công nợ hiệu quả cũng như chưa có chính sách hợp lý trong quá trình bán hàng như giảm giá đối với khách mua hàng trả tiền ngay hoặc mua với khối lượng lớn và thanh toán trước thời hạn. Đây là một biểu hiện hạn chế của công ty trong việc thu hồi các khoản phải thu. Việc các khoản phải thu tồn đọng nhiều làm cho công ty rơi vào tình trạng bị chiếm dụng vốn từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng, bảo toàn và phát triển nguồn vốn lưu động.
Để đánh giá được công tác quản lý hàng tồn kho,từ đó thấy được hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty cần phải xét đến các chỉ tiêu vòng quay hàng tồn kho và số ngày một vòng quay hàng tồn kho.
Biểu số 07: Vòng quay hàng tồn kho và số ngày một
vòng quay hàng tồn kho của công ty
Số TT
Năm
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
1
Giá vốn hàng bán
Đồng
31.321.187.193
32.680.645.006
39.401.358.392
2
Hàng tồn kho bình quân
Đồng
4.414.792.114
6.462.481.179
8.791.732.887
3
Vòng quay hàng tồn kho [(3)=(1)/(2)]
Vòng
7,1
5,06
4,48
4
Số ngày 1 vòng quay hàng tồn kho
[(4)=360/(3)]
Ngày
50,7
71,15
80,36
Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty Cổ phần Cân Hải Phòng 2003, 2004, 2005
Qua biểu trên ta thấy, năm 2003 hàng tồn kho quay được 7,1 vòng, năm 2004 giảm xuống 5,06 vòng và tiếp tục giảm còn 4,48 vòng vào năm 2005. Tốc độ giảm của vòng quay không đáng kể, năm 2004 giảm 2,04 vòng so với năm 2003 tương ứng với 28,74%; năm 2005 giảm không đáng kể so với 2004 (0,58 vòng tương ứng với 11,5%). Từ đó làm cho ngày 1 vòng quay hàng tồn kho từ 50,7 ngày (năm 2003) tăng lên 71,15 ngày (năm 2004) tăng hơn 20 ngày và năm 2005 tiếp tục tăng lên 80,36 ngày. Việc tăng số ngày 1 vòng quay hàng tồn kho sẽ làm tăng chi phí lưu kho, chi phí bảo quản và bị ảnh hưởng bởi biến động giá cả trên thị trường. Ngoài ra, còn làm chậm tốc độ luân chuyển vốn lưu động, gây ra tình trạng vốn bị ứ đọng, không sinh lời làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
2.2.3.3. Các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động
Biểu số 08: Các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2003
Năm 2004
Năm 2005
So sánh năm 2004/2003
So sánh năm 2005/2004
Số tuyệt đối (±)
Tỷ lệ (±,%)
Số tuyệt đối (±)
Tỷ lệ (±,%)
1
Doanh thu thuần
Đồng
37.083.549.430
39.048.181.904
45.290.223.879
1.964.632.474
5,3
6.242.041.975
15,99
2
Lợi nhuận ròng
Đồng
1.663.646.503
2.100.888.631
1.002.158.907
437.242.128
26,28
-1.098.729.724
-52,3
3
Vốn lưu động bình quân
Đồng
8.533.540.677
11.041.804.796
13.678.402.076
2.508.264.119
29,39
2.636.597.280
23,88
4
Số vòng quay vốn lưu động [(4)=(1)/(3)]
Vòng
4,35
3,54
3,31
-0,81
-18,62
-0,23
-6,37
5
Kỳ luân chuyển vốn lưu động (5)=360/(4)
Ngày
82
101,8
108,73
18,96
28,88
6,93
6,81
6
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (6)=(3)/(1)
82,84
0,28
0,30
0,05
22,88
0,02
6,81
7
Doanh lợi vốn lưu động (7)=(2)/(3)
%
19,5
19,03
7,33
-0,0047
-2,4
-11,7
-61,49
Nguồn : Báo câo tài chính công ty Cân hải Phòng năm 2003,2004,2005.
* Số liệu tính toán ở biểu số 08 cho thấy, tốc độ luân chuyển vốn lưu động của công ty trong thời gian vừa qua có xu hướng giảm đi.
* Số vòng quay vốn lưu động giảm dần qua từng năm, năm 2003 là 4,35 vòng, năm 2004 giảm xuống còn 3,54 vòng, giảm 0,81 vòng tương ứng với tỷ lệ giảm 18,62%, làm cho kỳ luân chuyển vốn lưu động tăng từ 82,84 ngày (năm 2003) lên 101,8 ngày (năm 2004); tăng 28,88 ngày, tương ứng 6,93%. Năm 2005, số vòng quay vốn lưu động tiếp tục giảm xuống còn 3,31 vòng, giảm 0,23 vòng tương ứng với tỷ lệ là 6,37%, làm cho kỳ luân chuyển vốn lưu động tăng lên 108,73 ngày, tăng 6,81 ngày tương ứng với 6,81%. Nguyên nhân làm cho số vòng quay vốn lưu động giảm là do tốc độ tăng vốn lưu động bình quân nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu thuần. So sánh tốc độ tăng vốn lưu động bình quân năm 2004/ 2003 là 29,39%, năm 2005/ 2004 là 23,88% trong khi đó so sánh tốc độ tăng doanh thu thuần 2004/2003 và 2005/2004 lần lượt là 5,3% và 15,99%. Mặc dù số vòng quay trong năm chưa cao nhưng đây cũng được coi là biểu hiện tốt trong việc sử dụng vốn lưu động của công ty. Tăng được tốc độ luân chuyển của vốn lưu động sẽ tiết kiệm được vốn lưu động, hàng hoá sẽ luân chuyển nhanh hơn tiết kiệm được chi phí lưu thông và tăng tích luỹ cho công ty.
* Hệ số đảm bảo nhiệm vốn lưu động tăng, năm 2003 là 0,23, năm 2004 là 0,28 và tăng lên 0,30 vào năm 2005. Nghĩa là trong năm 2004, để tạo ra một đồng doanh thu cần 0,28 đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng cũng một đồng doanh thu đó trong năm 2005 phải cần tới 0,3 đồng vốn lưu động đảm nhiệm. Hệ số này tăng là do tốc độ tăng doanh thu chậm hơn tốc độ tăng của vốn lưu động bình quân.
* Mức doanh lợi của vốn lưu động trong 3 năm không đồng đều. Năm 2004 doanh lợi vốn lưu động giảm không đáng kể so với năm 2003 (19,03% so năm 2004, so với 19,5% năm 2005). Nhưng đến năm 2005 doanh lợi vốn lưu động giảm tới 61,49% (7,33% so với 19,03% (năm 2004). Tức là, cứ một đồng vốn lưu động tham gia vào sản xuất kinh doanh năm 2004 tạo ra 0,1903 đồng lợi nhuận sau thuế, đến năm 2005 chỉ đạt được 0,0733 đồng lợi nhuận sau thuế. Đó là vì lợi nhuận sau thuế của công ty giảm xuống 52,3% trong khi đó vốn lưu động bình quân lại tăng tới 23,88%. Lợi nhuận ròng của công ty giảm mạnh là do trong những năm gần đây có rất nhiều đối thủ cạnh tranh tham gia vào thị trường nên việc tiêu thụ sản phẩm của công ty gặp nhiều khó khăn mặc dù công ty đã có nhiều cố gắng trong việc đa dạng hoá mặt hàng, nâng cao chất lượng hàng hoá bán ra, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về mọi mặt: hàng hoá, thời hạn giao hàng, điều kiện giao hàng...
Vì vậy ta thấy, để tăng được doanh lợi vốn lưu động trước hết công ty cần tăng lợi nhuận ròng bằng cách giảm chi phí đầu vào, cải tiến đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh nhằm tăng lượng hàng hoá bán ra, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận. Đồng thời, công ty cần có biện pháp sử dụng vốn lưu động hợp lý, tiết kiệm để đồng vốn lưu động mang lại hiệu quả cao.
2.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty cổ phần cân Hải Phòng
2.3.1. Kết quả đạt được:
Ra đời và phát triển đã 47 năm, công ty cổ phần Cân Hải phòng đã không ngừng cố gắng, nỗ lực vươn lên trở thành một trong những đơn vị hàng đầu trong ngành sản xuất và chế tạo cân. Có thể nói, nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện cho công ty mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt hơn. Điều này đã đặt ra một thách thức lớn buộc công ty phải xây dựng cho mình một chiến lược phù hợp. Trên cơ sở đó, công ty đã xác định chiến lược kinh doanh của mình là đa dạng các mặt hàng, nâng cao chất lượng sản phẩm, không ngừng đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong những năm vừa qua, công ty đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ như tình hình quản lý và sử dụng vốn lưu động có nhiều chuyển biến tích cực. Điều đó cho thấy công ty đã có phương pháp quản lý tốt hơn. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty có nhiều chuyển biến tích cực. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động chưa thật tốt nhưng cũng coi đó là sự cố gắng vượt bậc của công ty trong những năm vừa qua. Nhìn vào kết quả kinh doanh của công ty, ta thấy lợi nhuận sau thuế tuy không đồng đều qua các năm, đó là do sự biến động giá cả của các nguyên vật liệu chính đã làm giá vốn hàng bán tăng dẫn đến giảm lãi ròng nhưng doanh thu của công ty năm sau luôn cao hơn năm trước chứng tỏ doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn, công ty làm ăn ngày càng có hiệu quả hơn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng.
Trong 3 năm qua, vốn lưu động của công ty không ngừng tăng lên, năm 2005 tăng 54,44% so với năm 2003. Quy mô vốn lưu động được mở rộng như vậy là để đáp ứng nhu cầu đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh và gia tăng khả năng cạnh tranh của công ty.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Mặc dù, công ty đã đạt được một số thành tích đáng khích lệ như trên nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động.
Trong cơ cấu nguồn vốn lưu động của công ty, khoản nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng khá lớn, luôn chiếm trên 40%, năm 2005 tăng so với năm 2004 là 24,92%, cho thấy công ty đang sử dụng nguồn vốn lưu động được hình thành từ nợ phải trả là khá lớn. Điều này gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng thanh toán của công ty. Vì vậy, công ty cần phải thường xuyên theo dõi tình hình công nợ để dễ dàng kiểm soát tình hình tài chính.
Lượng vốn lưu động công ty sử dụng vào kinh doanh không phải là nhỏ song lượng vốn tồn đọng khá nhiều, biểu hiện ở khoản phải thu và hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn, tăng nhanh qua các năm. Mặc dù, đã có nhiều cố gắng tích cực trong việc thu hồi các khoản phải thu, nhưng khoản này vẫn chiếm tỷ trọng 28,56% trong tổng vốn lưu động của công ty.
Năm 2005, hàng tồn kho tăng 95,82% so với năm 2003, làm gia tăng các chi phí kèm theo như chi phí lưu kho, chi phí bảo quản, bên cạnh đó, còn phải tính đến rủi ro về giá cả...làm giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Lượng tiền mặt tồn quỹ và tiền gửi ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn lưu động, giảm dần qua các năm, năm 2005 chỉ chiếm 1,88%. Với tỷ trọng vốn bằng tiền ít, công ty không đảm bảo khả năng thanh toán.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, chúng ta phải đi sâu tìm hiểu nguyên nhân của từng hạn chế, từ đó mới có thể đưa ra biện pháp khắc phục hiệu quả nhất.
2.3.2.2. Nguyên nhân
a) Nguyên nhân chủ quan:
* Công ty chưa xây dựng được cho mình kế hoạch huy động và sử dụng vốn hợp lý.
Công ty còn thiếu về vốn do đó, hàng năm luôn phải đi vay một lượng vốn lớn làm tăng chi phí sử dụng vốn của công ty (do phải trả nhiều lãi vay) cũng như không chủ động trong sản xuất kinh doanh, do các khoản vay chủ yếu là ngắn hạn.
* Công ty chưa làm tốt công tác thanh toán và thu hồi nợ, tình hình quản lý các khoản phải thu chưa tốt, khoản phải thu còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn lưu động của công ty (28,56%). Với mục đích là mở rộng thị phần nên công ty muốn có nhiều bạn hàng mới, chính sách tín dụng thương mại nới lỏng hơn cả về thời gian, số lượng và phạm vi. Chưa có các biện pháp cứng rắn trong việc thu hồi nợ, do đó các khách hàng vẫn thanh toán nợ chậm, dây dưa chiếm dụng vốn của công ty làm tăng lãi trả ngân hàng, ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh cũng như giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Bên cạnh đó, còn do công ty chưa có sự quan tâm đúng mức đối với công tác thẩm định tài chính, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực này.
* Lượng hàng tồn kho của công ty quá lớn gây ra những ảnh hưởng không tốt đối với hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do khâu bán hàng và tiêu thụ sản phẩm bị trì trệ. Công tác nghiên cứu thị trường còn nhiều hạn chế, việc thu thập và sử lý thông tin còn chậm, chưa đầy đủ, thiếu chính xác nên rất dễ bỏ qua các cơ hội làm ăn. Đại diện của công ty hoạt động ở nước ngoài kém hiệu quả, chưa ký kết được các hợp đồng dài hạn. Khâu marketing, quảng cáo, xúc tiến thương mại chưa thật tốt, đặc biệt là ở thị trường nước ngoài.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên, chúng ta không thể không kể đến một số yếu tố khách quan gây ra những hạn chế về việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
b) Nguyên nhân khách quan:
* Chính sách vĩ mô có tác động không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn lưu động nói riêng. Cụ thể, từ cơ chế giao vốn, tỷ lệ khấu hao, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng...
Trong khi công ty chịu sự cạnh tranh gay gắt ở thị trường thế giới do những rào cản thương mại thì chính sách khuyến khích xuất nhập khẩu của Nhà nước chưa thực sự giúp ích cho doanh nghiệp. Các chính sách này có tác động đến kế hoạch mua sắm, nhập khẩu thiết bị, lựa chọn mặt hàng phương thức thanh toán, vì vậy ảnh hưởng đến tình hình tiêu thụ và vòng quay của vốn.
* Lạm phát và tỷ giá hối đoái: công ty cổ phần Cân Hải phòng sản xuất kinh doanh các sản phẩm không những chỉ phục vụ cho thị trường trong nước mà còn xuất khẩu sang thị trường nước ngoài nên hoạt động kinh doanh của công ty chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ giá hối đoái. Các nhân tố này tác động đến công tác thanh toán, đến giá vốn hàng bán... Là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn.
* Sự biến động của thị trường: đối với bất kỳ công ty nào, nhất là những công ty sản xuất như công ty cổ phần Cân Hải phòng thì thị trường tiêu thụ là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn thông qua mức doanh thu và lợi nhuận.
* Hệ thống ngân hàng và thị trường tiền tệ kém phát triển, không đáp ứng được nhu cầu vốn cho hoạt động của công ty. Với nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu là sản xuất kinh doanh các loại cân, giấy vàng mã để phục vụ thị trường nội địa cũng như để xuất khẩu, để tiến hành các hoạt động kinh doanh như đã đề ra, với tỷ trọng vốn ngân sách cấp chỉ có 10% tổng vốn kinh doanh, công ty đã phải vay vốn với khối lượng lớn vì vậy chi phí vốn cao dẫn đến lợi nhuận sau thuế giảm, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn.
* Các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp của nhà nước ít nhiều cũng làm gia tăng chi phí, ảnh hưởng gián tiếp đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Trên đây là một số vấn đề đặt ra trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động ở công ty cổ phần Cân Hải phòng.
Từ thực tế này, công ty cần nhìn nhận và đánh giá lại tình hình hoạt động kinh doanh nói chung và tình hình tổ chức, quản lý, sử dụng vốn lưu động nói riêng để tìm ra những giải pháp hữu hiệu và cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty trong thời gian tới. Đây luôn là mục tiêu mà công ty cần làm thường xuyên, hợp lý và có hiệu quả, làm được như vậy mới giúp cho công ty không ngừng phát triển lớn mạnh toàn diện cả về chiều rộng và chiều sâu.
Chương III
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn lưu động tại công ty cổ phần Cân Hải Phòng
3.1. Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới
3.1.1. Phát triển theo chiều rộng
Trong những năm vừa qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, nhưng công ty đã đạt được một số thành tựu đáng kể, tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế nhất định, công ty đã có kế hoạch, phương hướng, mục tiêu hoạt động kinh doanh trong những năm tới như sau:
- Luôn lấy mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước làm phương hướng kinh doanh xuất nhập khẩu, tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm của mình nhằm phục vụ tốt hơn nữa mọi nhu cầu của khách hàng trong và ngoài nước.
- Trong 2006, trước bối cảnh hội nhập toàn cầu, tận dụng cơ hội Việt Nam hội nhập AFTA (tổ chức thương mại Đông Nam á) và có thể cũng trong năm nay sẽ gia nhập WTO (tổ chức thương mại thế giới), từ đó mở cửa hội nhập, mở rộng giao lưu văn hoá, kinh tế với tất cả các nước trên thế giới, công ty sẽ mở rộng xuất khẩu sản phẩm của mình vào thị trường nhiều nước mà trước đây công ty chưa có cơ hội tiếp cận.
- Không chỉ dừng lại ở xuất khẩu, công ty cũng đã xác định thị trường nội địa là một thị trường tiềm năng vô cùng to lớn và sẽ quyết định sự thành bại trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, song song với các hoạt động xuất nhập khẩu công ty đã hoạch định một chương trình chiếm lĩnh thị trường nội địa bằng việc phát triển, mở rộng hệ thống các cửa hàng, đại lý ở khắp ba miền Bắc, Trung, Nam.
Theo dự kiến, công ty sẽ mở thêm nhiều đại lý lớn ở Vinh, Đà Nẵng, Phú Thọ, Đồng Nai... trước là để quảng bá sản phẩm sau đó là mở rộng được thị trường tiêu thụ từ đó tăng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ của công ty, cũng như tăng thu nhập bình quân hàng năm của cán bộ công nhân viên, đồng thời tăng đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Định hướng kinh doanh trên thị trường nội địa hàng năm mang lại doanh thu chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng mức doanh thu của công ty. Bên canh đó, tạo ra công ăn việc làm cho hàng trăm lao động mới, mang lại hiệu quả thiết thực, tạo điều kiện cải thiện đời sống cán bộ công viên.
3.1.2. Đầu tư theo chiều sâu
Một hướng khác trong định hướng của công ty thời gian tới là phát triển các dự án đầu tư theo chiều sâu vào các lĩnh vực trọng điểm:
- Khu vực sản xuất
- Gia công các loại giấy vàng mã
- Phát triển hệ thống các cửa hàng bán buôn, bán lẻ.
* Trrong lĩnh vực sản xuất, công ty chú trọng đầu tư, đổi mới, cải tiến máy móc kỹ thuật, loại bỏ các máy móc thiết bị đã cũ kỹ lạc hậu được mua từ những năm 80 nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm của công ty để chủ động nguồn hàng hoá phục vụ nhu cầu nội địa và xuất khẩu ổn định cả về lượng và chất.
Công ty chú trọng sản xuất các loại cân điện tử, cân bàn lớn để phục vụ cho xuất khẩu như cân bàn 500kg quả đẩy, cân bàn 70-80 tấn điện tử, cân TANITA 2 cân, cân RW, cân điện tử 30-200 kg, cân treo mạ trắng...
Bên cạnh đó, công ty tăng cường gia công các loại giấy đế để xuất khẩu sang thị trường các nước trong khu vực như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia...
Công ty đã mở rộng quan hệ bạn hàng nhiều nước trên thế giới và cũng đã tạo dựng được uy tín với khách hàng ở các nước trong khu vực. Tuy nhiên, thị trường trong nước vẫn là thị trường quan trọng nhất của công ty. Để phát triển thị trường trong nước, công ty sẽ mở thêm một số đại lý ở một số tỉnh thành mà hiện tại nhu cầu sản phẩm cao.
Bên cạnh đó, ở tầm vi mô, công ty coi trọng việc đẩy nhanh công tác thanh toán và thu hồi nợ để rút ngắn kỳ thu tiền trung bình, tăng vòng quay các khoản phải thu cũng như vòng quay vốn lưu động nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Hiện nay, công ty đang khẩn trương hoàn thiện và triển khai các dự án để sớm đưa vào khai thác kinh doanh. Công ty tiếp tục thực hiện chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có để phát triển sản xuất và kinh doanh nhằm đảm bảo nguồn hàng cho xuất khẩu. Đồng thời, công ty cũng chú trọng phát triển thị trường nội địa, tăng tỷ trọng doanh thu nội địa trong cơ cấu kinh doanh.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại công ty cổ phần Cân Hải Phòng
Qua những phân tích trên, có thể thấy bên cạnh những kết quả đã đạt được trong thời gian vừa qua, công ty còn một số hạn chế trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong việc quản lý, sử dụng vốn lưu động. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động được xem là một mục tiêu quan trọng của công ty trong quá trình hoạt động kinh doanh. Nhưng làm thế nào để tổ chức quản lý, sử dụng vốn lưu động một cách có hiệu quả nhất thì đây lại là một vấn đề lớn đòi hỏi các nhà quản lý cũng như toàn thể đội ngũ cán bộ công nhân viên công ty cổ phần Cân Hải phòng không ngừng phấn đấu, nâng cao trình độ chuyên môn để nhận biết và đánh giá tình hình thực tế một cách sát thực nhất để công tác trên đạt được hiệu quả tối ưu.
Bằng kiến thức đã được trang bị ở nhà trường và sự tìm hiểu đánh giá của bản thân qua thực tế thực tập tại công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác tổ chức quản lý và sử dụng vốn lưu động cũng như khắc phục phần nào những hạn chế của công ty cổ phần Cân Hải phòng.
3.2.1. Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động
Xác định chính xác nhu cầu vốn lưu động cần thiết trong kỳ có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường, liên tục, tiết kiệm và có hiệu quả kinh tế cao.
Hàng năm, trên cơ sở số liệu thực hiện của năm trước, cùng với kết quả kiểm tra, phân tích, dự đoán thị trường, phòng kế toán tổng hợp cùng các phòng ban khác xây dựng kế hoạch luân chuyển vốn. Dựa trên kế hoạch này, để xác định nhu cầu vốn cần thiết cho kinh doanh, từ đó lập kế hoạch vốn, đề ra định mức hợp lý cho từng khâu trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Công ty cần phải dự tính nhu cầu vốn lưu động trong kỳ một cách hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế và chiến lược kinh doanh từng thời kỳ. Nếu công ty dự tính nhu cầu quá thấp sẽ dẫn đến tình trạng phải ngừng sản xuất do thiếu nguyên vật liệu, gây ảnh hưởng không tốt đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nếu dự tính quá cao thì sẽ làm ứ đọng nguyên vật liệu, vốn luân chuyển chậm và phát sinh các chi phí không cần thiết. Vì vậy, công ty cần phải có những điều chỉnh đúng đắn khi thực tế khác quá xa kế hoạch và gây ảnh hưởng xấu kế hoạch là căn cứ để đánh giá mức độ đạt được trong việc phát triển vốn và hiệu quả sử dụng vốn.
Công ty xác định nhu cầu vốn lưu động cần thiết trong kỳ theo phương pháp gián tiếp căn cứ vào tổng mức luân chuyển vốn và số vòng quay vốn lưu động năm kế hoạch:
Trong đó: Vnc : Nhu cầu vốn năm kế hoạch
M1 : Tổng mức luân chuyển vốn năm kế hoạch
L1 : Số vòng quay vốn lưu động năm kế hoạch
Như đã phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty, ta thấy tổng doanh thu của công ty năm 2005 tăng 15,98% so với năm 2004. Công ty dự tính sẽ mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu và phát triển mạng lưới các cửa hàng giới thiệu, đại lý bán buôn bán lẻ. Năm 2006, công ty phấn đấu tăng tổng doanh thu lên 25%, và dự kiến sẽ tăng số vòng quay vốn lưu động thêm 0,5 vòng tức đạt 3,81 vòng/năm.
Như vậy tổng doanh thu của công ty năm 2006 dự tính sẽ là:
45.290.223.879 + 45.290.223.879 x 25% = 56.612.779.849 đồng
Khi đó, nhu cầu vốn lưu động bình quân năm 2006 là:
đồng
Trên cơ sở nhu cầu vốn lưu động dự kiến công ty cần phải xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn hợp lý sao cho chi phí bỏ ra là nhỏ nhất nhưng lại đạt hiệu quả cao nhất.
3.2.2. Xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động hợp lý
Căn cứ vào vốn lưu động theo dự tính, công ty cần xây dựng kế hoạch huy động vốn. Để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động của mình, công ty có thể huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Trước tiên, công ty cần khai thác triệt để nguồn vốn nội bộ doanh nghiệp, tăng cường huy động vốn, ngắn hạn để tài trợ cho nhu cầu vốn trước mắt. Tận dụng các khoản vốn có thể chiếm dụng thường xuyên như các khoản phải trả cho người bán, phải trả công nhân viên, phải nộp ngân sách Nhà nước... mà chưa đến hạn thanh toán. Tuy nhiên, để khai thác tốt nguồn này công ty phải hoạt động có hiệu quả và tình hình tài chính của công ty phải khả quan.
Vốn lưu động của công ty được hình thành từ các nguồn sau:
+ Nguồn vốn điều lệ: là số vốn lưu động được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập hoặc nguồn vốn điều lệ bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh của công ty.
+ Nguồn vốn tự bổ sung: là nguồn vốn do công ty tự bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh từ lợi nhuận của công ty được tái đầu tư.
+ Nguồn vốn liên doanh, liên kết: là số vốn lưu động được hình thành từ vốn góp liên doanh của các bên tham gia liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư hàng hoá theo thoả thuận của các bên liên doanh.
+ Nguồn vốn đi vay: là vốn vay các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng vốn vay người lao động trong công ty, vay các doanh nghiệp khác.
Công ty cần khai thác tối đa từng nguồn vốn đặc biệt là nguồn tạm thời chiếm dụng vì sử dụng nguồn này không làm tăng chi phí sử dụng vốn, càng tạo điều kiện cho công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Công ty có thể sử dụng nguồn các khoản phải trả khách hàng nhưng chưa đến hạn thanh toán như một nguồn vốn bổ sung để tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động ngắn hạn của công ty. Điều này cũng có ý nghĩa như công ty được tài trợ thêm vốn. Với 47 năm hoạt động, uy tín của công ty không ngừng được nâng cao nên các nhà cung cấp sẵn sàng bán chịu. Mặt khác, với những mặt hàng có giá trị cao, công ty thường được khách hàng ứng tiền trước, tạo ra một khoản vốn tạm thời cho công ty. Vì những ưu điểm trên, công ty cần tìm cách khai thác hiệu quả nguồn vốn này để trang trải chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc sử dụng tín dụng thương mại cũng tiềm ẩn những rủi ro đối với công ty. Việc mua bán chịu sẽ làm tăng hệ số nợ của công ty, điều này cũng làm tăng nguy cơ phá sản của công ty. Vì thế, công ty phải tính toán, cân nhắc, thận trọng, vừa phải biết sử dụng việc mua bán chịu như một nguồn tài trợ ngắn hạn, đồng thời phải giảm đến mức tối thiểu các khoản phải thu của mình đang bị khách hàng chiếm dụng trong quá trình thanh toán. Việc lạm dụng nguồn vốn tín dụng thương mại có thể gây ra những hậu quả như làm giảm uy tín của công ty hoặc trong những giao dịch sau công ty sẽ phải chịu các chi phí tín dụng cao hơn, bởi vì các nhà cung cấp sẽ thắt chặt hơn các điều kiện trong thực hiện hợp đồng như tiền phạt hoặc thanh toán lãi chậm.
Trong thời gian tới, mục tiêu của công ty là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, chủ động tìm kiếm mở rộng thị trường. Công ty tích cực tăng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm và giàu tiềm năng như Mỹ, Nhật, EU. Để thực hiên được mục tiêu của mình, công ty cần một lượng vốn lưu động lớn khi nhu cầu vốn lưu động gia tăng. Công ty có thể sử dụng vốn tín dụng ngân hàng như một nguồn tài trợ thêm vốn của mình. Việc sử dụng nguồn này để tài trợ nhu cầu vốn lưu động trong phạm vi hệ số nợ cho phép không chỉ giúp công ty khắc phục những khó khăn về vốn mà còn có tác dụng phân tán rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên, để sử dụng nguồn này hiệu quả, công ty cần phân tích, đánh giá nhiều mặt khi quyết định sử dụng vốn vay, đặc biệt là việc lựa chọn ngân hàng cho vay cũng như khả năng trả nợ và chi phí sử dụng vốn vay từ các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng.
Việc xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn có vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Mỗi nguồn vốn huy động được đều có những ưu và nhược điểm nhất định, tác động đến chi phí sử dụng vốn và những rủi ro về tài chính. Vì vậy, khi xây dựng kế hoạch cần phải xem xét kỹ lưỡng tình hình tài chính của công ty trên cơ sở đánh giá, phân tích tình hình kinh tế tài chính của kỳ trước cùng với những kế hoạch của công ty trong kỳ này.
3.2.3. Tăng cường quản lý và thu hồi các khoản phải thu:
Như đã phân tích ở trên, trong năm 2005 các khoản phải thu của công ty cổ phần Cân Hải phòng là 4.271.586.157 đồng chiếm 28,56% TSLĐ và đầu tư ngắn hạn. Đây là một con số khá lớn, nó phản ánh tình hình thực tế của công ty trong việc quản lý các khoản phải thu là chưa tốt. Công ty cần nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu của khách hàng để tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn lâu dài, ứ đọng vốn và có thể hao hụt vốn. Biện pháp ở đây là công ty phải quản lý chặt chẽ hơn nữa các khoản phải thu, áp dụng các biện pháp cần thiết để phòng ngừa rủi ro không được thanh toán.
Đối với hợp đồng bán hàng, cần phải có một sự ràng buộc chặt chẽ. Nếu vượt quá thời hạn thanh toán theo hợp đồng thì công ty được thu lãi suất tương ứng như lãi suất quá hạn của ngân hàng.
Đối với phương thức thanh toán, cần phải quy định rõ ràng thời hạn, phương thức thanh toán trong hợp đồng và luôn giám sát chặt chẽ việc khách hàng thực hiện những điều khoản trong hợp đồng. Đây là việc làm rất cần thiết vì hoạt động kinh doanh của công ty liên quan đến việc xuất khẩu hàng hoá nên dùng ngoại tệ để thanh toán, sự dao động thay đổi tỷ giá ở mỗi thời điểm là khác nhau. Nếu thanh toán không đúng những điều khoản trong hợp đồng thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm một cách đầy đủ, nghiêm túc trong các hợp đồng đã ký kết, phù hợp với chính sách, chế độ hiện hành đã quy định.
Sử dụng hình thức chiết khấu, giảm giá hợp lý đối với khách hàng mua với số lượng lớn và thanh toán sớm tiền hàng để khuyến khích khách hàng thanh toán đúng hạn. Phải căn cứ vào lãi suất ngân hàng cũng như những biến động của thị trường để xác định tỷ lệ chiết khấu, giảm giá phù hợp vừa đảm bảo việc khuyến khích khách hàng vừa đảm bảo không làm giảm lợi nhuận của công ty.
Công ty cần có các biện pháp phòng ngừa rủi ro không được thanh toán như lựa chọn khách hàng, giới hạn giá trị tín dụng, yêu cầu đặt cọc, tạm ứng hay trả trước một phần giá trị đơn hàng... Công ty chỉ nên bán chậm hay trả góp tiền hàng đối với những khách hàng có uy tín hoặc có quan hệ lâu dài với công ty. Khi bán chịu cho khách hàng, công ty phải xem xét kỹ khả năng thanh toán trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã ký kết. Đối với những khách hàng mới giao dịch chưa có sự hiểu biết rõ ràng cần phải có hình thức đảm bảo thanh toán thích hợp như thế chấp, trả trước tiền hàng.
Để quản lý chặt chẽ các khoản phải thu, công ty phải mở sổ theo dõi chi tiết và thường xuyên đôn đốc, để thu hồi đúng hạn. Công ty theo dõi tuổi của các khoản phải thu để thấy được khoản nào đến hạn, khoản nào đã quá hạn và tiến hành xử lý các khoản nợ quá hạn. Phân loại các khoản nợ quá hạn, tìm nguyên nhân khách quan và chủ quan của từng khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp như hạn nợ, thoả ước xử lý nợ, xoá một phần nợ cho khách hàng hoặc yêu cầu toà án kinh tế giải quyết.
3.2.4. Quản lý tốt dự trữ, tồn kho
Hàng tồn kho dự trữ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Lượng hàng dự trữ tồn kho hợp lý sẽ đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty được diễn ra một cách bình thường, liên tục. Công ty sẽ không bị gián đoạn sản xuất, không bị thiếu sản phẩm hàng hoá để bán, đồng thời lại sử dụng tiết kiệm và hợp lý vốn lưu động.
Trong điều kiện hội nhập nền kinh tế, công ty đã xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng và phương thức kinh doanh. Công ty cổ phần Cân Hải phòng ngày càng mở rộng thị trường xuất khẩu vượt ra các thị trường truyền thống Trung Quốc và Malaysia, Nhật Bản - ba thị trường khổng lồ là bạn hàng chủ yếu của công ty. Do đó, lượng hàng tồn kho của công ty ngày một lớn hơn. Để tránh tình trạng hàng hoá tồn kho nhiều gây ứ đọng vốn và làm chậm vòng quay của vốn lưu động, công ty cần đẩy mạnh khâu bán hàng và tiêu thụ sản phẩm. Trong những năm tới, công ty nên phát triển hệ thống các cửa hàng, đại lý với quy mô và diện tích khác nhau, với những đối tượng phục vụ khác nhau.
3.2.5. Rút ngắn thời gian vận động của vốn trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh
* Trong khâu tổ chức thu mua nguyên vật liệu:
Qua những đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, ta có thể thấy được phần nào về đặc điểm sử dụng vốn của công ty. Vốn của công ty phần lớn được dùng để mua nguyên vật liệu để sản xuất. Do đó, rút ngắn thời gian thu mua nguyên vật liệu, công ty có thể đẩy nhanh việc sản xuất tạo ra các sản phẩm, cũng là một biện pháp đẩy nhanh quay vòng vốn lưu động. Để thực hiện được điều này, công ty phải quan tâm một số vấn đề sau:
- Phải có đội ngũ nhân viên trong lĩnh vực này với nhiều kinh nghiệm và năng lực thị trường để có thể tiếp cận với các nhà cung cấp một cách có lợi nhất.
- Nên thiết lập và duy trì các mối quan hệ theo hợp đồng với các nhà cung cấp để thuận tiện và chủ động trong hoạt động kinh doanh.
* Trong khâu sản xuất:
Thời gian sản xuất là thời gian vốn lưu động tồn tại dưới hình thức chi phí sản xuất dở dang. ở đây, chúng ta không đề cập đến quy mô của vốn lưu động mà quan tâm đến thời gian vận động của vốn lưu động. Trong khâu này, công ty cần chú ý đến một số vấn đề sau:
- Bố trí hợp lý các phân xưởng sản xuất trong dây chuyền sản xuất để giảm tối đa thời gian vận hành sản phẩm dở dang giữa các bộ phận.
- Không ngừng tiếp thu những phát minh mới về khoa học kỹ thuật vào sản xuất để rút ngắn thời gian tiến triển tự nhiên của nguyên vật liệu và sản phẩm dở dang.
- Khi có đơn đặt hàng, nên có sự phối hợp tập trung của toàn bộ các bộ phận trong công ty để đảm bảo hoàn thành với thời gian nhanh nhất có thể.
* Trong khâu vận chuyển, xuất khẩu:
Thực tế, rát có khả năng xảy ra trường hợp hàng đã chuẩn bị xuất, song vì thủ tục chưa hoàn thành nên hàng vẫn bị tồn đọng tại các bến cảng. Điều này sẽ trở nên quan trọng hơn nếu đó là những lô sản phẩm có giá trị lớn, nó làm ứ đọng vốn lưu động và gia tăng các chi phí như trả lãi vay, chi phí bến bãi... Vì vậy, thực hiện tốt các thủ tục hành chính trong kinh doanh thương mại quốc tế là một vấn đề hết sức quan trọng.
Thời gian vận chuyển bốc dỡ tại cảng tưởng chừng như không đáng kể nhưng thực tế nó cũng là một vấn đề cần phải quan tâm. Chừng nào hàng hoá còn chưa được đưa vào lưu thông thì công ty vẫn chưa thu hồi được vốn. Vậy nên, công tác bốc dỡ cũng như việc lựa chọn phương tiện vận chuyển đều đóng vai trò quan trọng trong việc rút ngắn thời gian vận động của vốn lưu động.
3.2.6. Mở rộng thị trường
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế, công ty cần nỗ lực hơn nữa trong việc duy trì thị trường hiện tại, mở rộng và tiếp cận thị trường mới. Nên tạo dựng mối quan hệ rộng rãi với tất cả các nước để xâm nhập vào thị trường thế giới. Cần phải vươn ra các thị trường lớn, giàu tiềm năng như thị trường Mỹ, EU. Đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ nhằm tăng doanh số bán hàng. Doanh số bán hàng là yếu tố quyết định tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả sử dụng vốn của công ty. Doanh số bán hàng phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố như khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ, kết cấu mặt hàng tiêu thụ là điều quan tâm đầu tiên của các nhà quản lý doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Có thị trường tiêu thụ rộng lớn, tiêu thụ được nhiều sản phẩm, thu hồi vốn nhanh. Có doanh thu, công ty thực hiện tốt việc chi trả công nhân viên, nộp ngân sách Nhà nước, trang trải công nợ, công ty đỡ căng thẳng về tài chính. Vì thế, công ty cần tìm hiểu nhu cầu thị trường thật kỹ, phát huy thế mạnh ở những thị trường quen thuộc đồng thời mở rộng tìm kiếm thị trường tiềm năng, tích cực tìm kiếm những đối tác nước ngoài mới để nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, công ty cần quan tâm hơn nữa đến khâu marketing để có thể tiếp cận thị trường nước ngoài vốn rất khó tính và khắt khe đối với hàng nhập khẩu.
Đồng thời, nghiên cứu thị trường trong nước sát sao để ngày càng đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa.
3.2.7. Tăng cường khả năng cạnh tranh
Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty. Khi chất lượng sản phẩm được nâng cao và mẫu mã được cải tiến thì hàng hóa có khả năng sẽ tiêu thụ được nhiều hơn, từ đó, doanh thu của công ty sẽ tăng lên, và lợi nhuận của công ty cũng sẽ tăng. Như vậy, có thể nói nâng cao chất lượng và cải tiến mẫu mã sản phẩm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
Để giải quyết vấn đề này, công ty cần tăng cường áp dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ vào sản xuất, hiện đại hoá hệ thống máy móc thiết bị. Hiện nay, một số máy móc thiết bị của công ty đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với nhu cầu thị trường ngày càng cao. Việc đầu tư, mua sắm, đối mới máy móc thiết bị là điều cần thiết và có ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp nói chung và đối với công ty cổ phần Cân Hải phòng nói riêng.
3.2.8. Nâng cao trình độ cán bộ quản lý tổ chức và quản lý kinh doanh của công ty
Nhân tố chủ quan mang ý nghĩa quyết định nhất và có ảnh hưởng quan trọng nhất đến hiệu quả sử dụng vốn chính là con người. Đội ngũ cán bộ của công ty được đánh giá là có trình độ cao và có nhiều kinh nghiệm. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, kiến thức cần được liên tục cập nhập trong đó bao gồm các kỹ năng quản lý, xúc tiến thương mại. Chính vì vậy, công ty cần phải chú trọng và quan tâm đến việc nâng cao trình độ chuyên môn và tay nghề cho người lao động, nâng cao năng lực của người lãnh đạo, cán bộ quản lý.
Ngoài việc nâng cao trình độ nguồn nhân lực, công ty cần phải có chính sách tuyển dụng khách quan, công bằng, có tính đãi ngộ để lựa chọn được người tài làm việc và gắn bó với công ty. Có chính sách tiền lương và chế độ thưởng phạt thoả đáng nhằm động viên, khuyến khích người lao động hăng hái, sáng tạo trong công việc, tăng năng suất lao động, tăng ý thức trách nhiệm nghề nghiệp.
Bố trí và phân công lao động hợp lý, đúng người, đúng việc để phát huy tối đa khả năng của từng người và tạo cơ hội cho họ phát triển đúng năng lực của mình. Để bố trí và phân công đội ngũ cán bộ hợp lý, công ty cần phải xây dựng quy trình đánh giá các cán bộ có chức vụ hàng năm như sau:
- Đánh giá cán bộ: nhằm xác định một cách hệ thống các mặt ưu khuyết điểm, mối quan hệ với khách hàng và đồng nghiệp để tạo điều kiện giúp cán bộ trong việc hoàn thành nhiệm vụ đồng thời cũng là cơ sở để sắp xếp cán bộ cho phù hợp với năng lực và sở trường.
- Quy hoạch cán bộ: nhằm xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ bổ sung các kiến thức chuyên môn và kỹ năng cần thiết cho các cán bộ được dự kiến sẽ bố trí vào các vị trí cao hơn trong bộ máy quản lý khi công ty có yêu cầu.
- Luân chuyển cán bộ: là bố trí cán bộ quản lý từ đơn vị này sang giữ vị trí tương đương ở đơn vị khác trong hệ thống tổ chức của công ty. Nhằm thông qua hoạt động thực tiễn trên lĩnh vực công tác khác, cán bộ quản lý được rèn luyện các kiến thức và kỹ năng mới, tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ quản lý có hiểu biết về nhiều lĩnh vực để đáp ứng được công việc trong tương lai.
- Tập sự cán bộ: là việc bố trí cán bộ tạm thời giữ chức vụ quản lý cao hơn và tổ chức điều hành công việc trên cương vị đó, dưới sự giám sát trực tiếp của cán bộ đương nhiệm trong một thời gian xác định. Việc làm này nhằm mục đích giúp cho cán bộ tập sự rèn luyện các kỹ năng tổ chức quản lý cần thiết để có thể chuẩn bị bổ nhiệm đảm đương các vị trí cao hơn trong hệ thống quản lý của công ty khi có nhu cầu.
3.2.9. phòng ngừa rủi ro kinh doanh
Rủi ro trong sản xuất kinh doanh có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Rủi ro có thể do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây ra làm ảnh hưởng đến hoạt động của công ty. Bởi vậy, công ty phải tìm cách phòng ngừa hạn chế rủi ro.
Trước hết, cần lựa chọn phương án kinh doanh, tránh rủi ro do thị trường mang lại. Cần tổ chức công tác phân tích dự đoán những rủi ro có thể gặp, ví dụ như các khoản thu khó đòi để từ đó đề ra biện pháp phòng ngừa hoặc hạn chế thiệt hại. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cần chủ động phòng ngừa rủi ro mà cụ thể đó là trích lập các quỹ dự phòng tài chính nhằm trang trải những thiệt hại do rủi ro kinh doanh, tránh tình trạng gián đoạn sản xuất. Trích lập các quỹ này một cách linh hoạt phù hợp với tình hình hoạt động của công ty. Tiến hành kiểm tra thường xuyên các khâu như dự trữ vốn bằng tiền, nguyên vật liệu, có những phương án khi trường hợp bất thường xấu nhất có thể xảy ra.
Trên đây là những giải pháp chủ yếu rút ra từ thực trạng hoạt động của công ty Cổ phần Cân Hải Phòng. Có thể những giải pháp đó chưa tối ưu nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp được phần nào trong việc thực hiện mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước
3.3.1.1. Xây dựng hệ thống pháp lý đồng bộ
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một xu thế phát triển tất yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại với sự tham gia của hầu hết các nền kinh tế trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, để thu hút được đầu tư của nước ngoài, Việt Nam cần phải xây dựng cho mình một hệ thống pháp lý đồng bộ. Hệ thống pháp lý đồng bộ không những loại bỏ được tâm lý e ngại khi đầu tư vào Việt Nam của các nhà đầu tư quốc tế mà còn giúp các doanh nghiệp trong nước yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh .
Nhà nước ta đã ban hành các bộ luật như Luật đầu tư nước ngoài, Luật doanh nghiệp, Luật phá sản... Nhưng trong quá trình hội nhập, để theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thế giới, chúng ta phải sửa đổi những luật cũ không còn phù hợp, xây dựng và hoàn thiện những luật mới phù hợp hơn.
3.3.1.2. Có chính sách tài chính - tiền tệ hợp lý:
Chính sách tài chính - tiền tệ được coi là chính sách công cụ của Nhà nước trong lĩnh vực thương mại và hội nhập kinh tế. Để thúc đẩy và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước cần ban hành những chính sách ưu đãi tài chính đối với doanh nghiệp như tăng vốn cho vay, giảm lãi vay, kéo dài thời hạn trả nợ...
Việc hội nhập nền kinh tế quốc tế và khu vực đã mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích như tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, tăng đầu tư nước ngoài... Xuất khẩu sẽ mang lại nguồn ngoại tệ mạnh cho quốc gia, còn nhập khẩu làm giảm dự trữ ngoại tệ của quốc gia. Vì vậy, Chính phủ cần có những chính sách hợp lý để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ và những mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Chính sách thuế xuất, nhập khẩu được coi là một công cụ hữu hiệu nhất, nó quản lý vĩ mô toàn bộ hoạt động xuất nhập khẩu trong phạm vi cả nước.
- Thực hiện chính sách bảo hộ hộ ở mức độ hợp lý đối với sản xuất trong nước. Việc đánh thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng trong nước đã sản xuất được sẽ hạn chế nhập khẩu những mặt hàng đó và tạo điều kiện phát triển nền sản xuất trong nước.
- Trong điều kiện lợi thế so sánh còn hạn hẹp, nhà nước cần trợ giá cho những hàng hoá xuất khẩu chưa có lãi cao.
- áp dụng thuế suất bổ sung để chống bán phá giá, trợ giá, phân biệt đối xử.
- Tăng cường công tác hải quan, phối hợp với các nước có chung biên giới để chống buôn lậu, truy thu thuế đối với hàng ngoại nhập lậu chốn thuế.
- Để khuyến khích phát triển xuất khẩu, Chính phủ đã có chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng đối với những mặt hàng là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Bên cạnh chính sách thuế suất nhập khẩu, chính sách tỷ giá cũng là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nó có tác dụng tích cực đến việc phát triển kinh tế của đất nước mà trước hết là tới việc đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu. Thực tế đã chứng minh, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây tăng lên khá nhanh. Tuy nhiên gần đây, nhất là thời điểm hiện nay, do chính sách đồng USD yếu của Mỹ, VNĐ đang bị đánh giá cao so với USD, làm cho giá VNĐ trong quan hệ tỷ giá với USD đắt lên đáng kể. Đây là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng nhập siêu trong những năm qua, riêng năm 2003, Việt Nam đã nhập siêu lên tới 5 tỷ USD, con số lớn nhất trong cả giai đoạn từ năm 1990 đến nay.Vì vậy để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, Nhà nước cần thực hiện chính sách VNĐ rẻ ở mức hợp lý.
3.3.1.3. Cải cách thủ tục hành chính:
Hiện nay, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đều gặp khó khăn trong kinh doanh do sự phức tạp của thủ tục hành chính. Cần đơn giản hoá các thủ tục này nhằm giảm bớt những chi phí không cần thiết và rút ngắn thời gian thu hồi vốn.
Đối với những doanh nghiệp xuất nhập khẩu, Nhà nước cần đơn giản các thủ tục kê khai và nộp tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu cho cơ quan hải quan nơi có cửa khẩu xuất, nhập hàng hoá. Cần quy định cụ thể về thời hạn thông báo thuế, thời hạn nộp thuế.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính, kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Lãi suất của ngân hàng có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, ngân hàng cần đưa ra mức lãi suất hợp lý nhất dựa vào lãi suất trên thị trường tiền tệ. Đối với những khách hàng có uy tín, có tình hình hoạt động kinh doanh tốt, có tài sản đảm bảo, ngân hàng nên có những chính sách hấp dẫn như đưa ra mức lãi suất ưu đãi, gia hạn nợ, giảm chi phí dịch vụ, cung cấp miễn phí các dịch vụ tư vấn... Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường, mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng không ngừng gia tăng, chính vì vậy, ngân hàng phải đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, hiện đại hoá công nghệ và nâng cao chất lượng phục vụ của mình.
Kết luận
Tổ chức và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh đang là vấn đề mang tính cấp bách có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Trong những năm vừa qua, mặc dù phải đối mặt với không ít khó khăn và thách thức, công ty cổ phần Cân Hải phòng vẫn có những chuyển biến tốt đẹp. Nền kinh tế thị trường tạo điều kiện cho công ty có thể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh song, đồng thời công ty phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hướng vào thị trường với đầu vào và đầu ra hợp lý phù hợp với thế và lực của công ty. Trên cơ sở đó, công ty cổ phần Cân Hải phòng đã nhận được chiến lược kinh doanh của mình là đa dạng hoá các mặt hàng, các phương thức kinh doanh, không ngừng tận dụng cơ hội và tìm kiếm thời cơ. Trải qua những thăng trầm và phát triển trong 47 năm hoạt động, công ty đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Nhà nước giao phó trở thành lá cờ đầu của ngành sản xuất và chế tạo cân.
Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và nhất là trong năm 2006 này Việt Nam hội nhập AFTA và có thể cũng gia nhập WTO, điều đó mở ra rất nhiều cơ hội nhưng những khó khăn và thách thức do sự tự do thông thương buôn bán giữa các nước trong khu vực và trên thế giới mang lại là không nhỏ. Muốn giành thế chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, công ty cần không ngừng giảm chi phí hoạt động nhưng vẫn đảm bảo chất lượng sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình không chỉ ở thị trường trong nước mà còn cả trên thị trường thế giới. Để làm được điều đó, ngoài các biện pháp tích cực thì nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một biện pháp quan trọng.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần Cân Hải phòng, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ công nhân viên của công ty, cung vơI sự hương dẫn của thầy giáo – TS. Đàm văn Huệ và sự nỗ lực của bản thân, kết hợp lý luận đã học với tình hình thực tế của công ty, em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty. Hy vọng rằng những giải pháp này sẽ đóng góp phần nào cho công tác tổ chức và sử dụng vốn lưu động của công ty.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo TS. Đoàn Văn Huệ cùng toàn thể Ban lãnh đạo công ty đã giúp em trong quá trình thực tập cũng như trong việc hoàn thành báo cáo này.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình “Quản trị tài chính doanh nghiệp” - TS Vũ Duy Hào
TS. Đàm Văn Huệ chủ biên - NXB Thống kê.
Sách chuyên khảo “Hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp vừa và nhỏ” TS Đàm Văn Huệ - Chủ biên - NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.
Giáo trình “Tài chính doanh nghiệp” – TS. Lưu Thị Hương – Chủ biên – NXB Giáo dục.
Giáo trình “Quản trị tài chính doanh nghiệp” – NXB Tài chính
Giáo trình “Kế toán Quản trị” - NXB Tài chính 2001.
Giáo trình “Phân tích tài chính doanh nghiệp” – NXB Thống kê
Giáo trình “Phân tích báo cáo tài chính và hoạt động tín dụng”
NXB Thống Kê.
Giáo trình “Phân tích hoạt động kinh doanh” – NXB Thống kê
Giáo trình “Quản trị sản xuất” – NXB Tài chính
10- Tạp chí Tài chính doanh nghiệp 2003, 2004, 2005.
11- Thời báo Kinh tế các năm 2003, 2004, 2005.
12- Báo cáo tài chính và một số tài liệu tham khảo của Công ty Cổ phần Cân
Hải Phòng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28173.doc