Luận văn Giải pháp nâng cao khả năng thu hút lao động và tạo việc làm của kinh tế trang trại ở Việt Nam

Trước hết, cần giải quyết các vướng mắc về quan điểm, về nhận thức tư tưởng đối với một bộ phần cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, các địa phương về sử dụng lao động làm thuê trong trang trại. Cần coi sử dụng lao động làm thuê là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường, là yêu cầu để kinh tế trang trại phát triển. Không nên coi đó là nguyên nhân của hiện tượng mất đất của một số hộ gia đình và phân hoá giàu nghèo ở nông thôn và không nên coi sử dụng lao động làm thuê là trở về với quan hệ bóc lột. Vấn đề ở đây là phát huy vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa để buộc các bên thực hiện đầy đủ, đúng đắn luật pháp lao động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người làm thuê, đồng thời tạo điều kiện để người làm thuê bảo vệ được quyền lợi của mình. Nhà nước đã quy định "chủ trang trại được tuyển dụng lao động với số lượng không hạn chế và không phân biệt địa bàn sinh sống của người lao động". Tuy nhiên, cần phải xoá bỏ rào cản đối với việc thuê mướn lao động ở nông thôn cả trong quan điểm, nhận thức và quản lý hành chính làm cho thị trường lao động nông thôn được linh hoạt và thông thoáng. Hoàn chỉnh hệ thống thông tin thị trường lao động, phát huy vai trò của các trung tâm giới thiệu việc làm tại các địa bàn nông thôn. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các trang trại thu hút và sử dụng lao động có tay nghề.

doc74 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao khả năng thu hút lao động và tạo việc làm của kinh tế trang trại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội. Đánh giá khả năng thu hút lao động vào kinh tế trang trại trong thời gian tới có thể dựa vào những xu hướng chính sau đây: 1. Xu hướng chuyển từ kinh tế hộ gia đình sang kinh tế trang trại. Kinh tế hộ nông dân là một loại hình tổ chức sản xuất nông nghiệp đã và sẽ tồn tại lâu dài. Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân nước ta hiện nay chủ yếu vẫn là kinh tế hộ tiểu nông, sản xuất nhỏ theo kiểu tự túc, tự cấp. Để có thể sản xuất hàng hoá, tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh về chất lượng và giá cả thì các hộ gia đình phải tăng quy mô sản xuất lớn hơn, có như vậy mới áp dụng được công nghệ tiên tiến, tối ưu hoá được sản xuất và tổ chức sản xuất theo kiểu công nghiệp. Như vậy, tính tất yếu về kinh tế trong tổ chức sản xuất hàng hoá ở nông thôn là kinh tế hộ tiểu nông sẽ chuyển dần sang kinh tế hộ theo kiểu trang trại gia đình. Thực tế thời gian qua ở nước ta trang trại gia đình là hình thức tổ chức sản xuất phổ biến trong trang trại và có những lợi thế nhất định khẳng định sự tồn tại và phát triển của nó. -Thứ nhất, trong sản xuất nông nghiệp, cây trồng, vật nuôi là những sinh vật sống đòi hỏi có sự tác động thường xuyên tỷ mỉ và xử lý thích ứng với các biến đổi bất thường cả về thời tiết, khí hậu, dinh dưỡng, nguồn nước trong mỗi giai đoạn sinh trưởng phát triển thì mới có thể đạt năng suất và chất lượng cao được. Trong trang trại gia đình lợi ích của người lao động gắn chặt với kết quả sản xuất khiến họ luôn tự giác tham gia việc kiểm soát và thực hiện đầy đủ các tác động đó. - Thứ hai, sản xuất nông nghiệp hàng hoá dễ có những rủi ro khi gặp các yếu tố tự nhiên bất thuận và các biến động về giá cả thị trường. Trang trại gia đình chủ yếu sử dụng lao động của gia đình nên khi gặp trường hợp này thì có thể thích ứng được và tồn tại được, trong khi nếu một doanh nghiệp hoàn toàn thuê mướn lao động sẽ có thể bị vỡ nợ và phá sản. - Thứ ba, nước ta đang trong thời kỳ quá độ, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Rất có thể mô hình kinh tế trang trại gia đình sẽ là dạng hình kinh tế hài hoà nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp và nông thôn nước ta hiện nay. Đảm bảo người nông dân có ruộng, hạn chế được sự tích tụ ruộng đất, mất mát và phân hoá giàu nghèo. Bên cạnh trang trại gia đình, trang trại tư nhân trong nông nghiệp cũng đã được khuyến khích phát triển. Loại trang trại này được hình thành do một bộ phận nông dân có kiến thức, có vốn, có tài nguyên quản lý kinh doanh ở địa phương hoặc do những người có vốn ở nơi khác, các thành phố, thị xã muốn đầu tư vào nông nghiệp. Loại trang trại này trước mắt tập trung khai thác 10 triệu ha đất trống đồi trọc, vùng ven biển, cũng như sản xuất những sản phẩm có giá trị cao đòi hỏi nhiều vốn và chất xám. 2. Xu hướng hình thành và phát triển nhanh số lượng trang trại. Sau Nghị quyết 03/NQ-CP, Chính phủ đã có nhiều chính sách cụ thể thực sự khuyến khích trang trại phát triển. Kinh tế trang trại ở nước ta, sau một thời gian thử nghiệm và tìm tòi đã dần dần được thừa nhận và ủng hộ một cách rộng rãi trong các cấp chính quyền và nhân dân các địa phương. Người dân và các nhà đầu tư đã dần dần yên tâm đầu tư sức người, sức của để kinh doanh làm ăn bằng phát triển kinh tế trang trại. - Hình thành trang trại mới. Cũng giống xu thế chung của các nước trên thế giới, kinh tế trang trại nước ta đang ở thời kỳ đầu của sự phát triển nên quy mô trang trại còn nhỏ và đang tăng lên về số lượng. Các trang trại mới đang được hình thành nhằm khai thác các nguồn lợi tự nhiên của đất nước, bao gồm: + Các trang trại được hình thành trên cơ sở được giao sử dụng các vùng đất trống, đồi trọc, trên các vùng khai hoang tập trung,... Với khoảng 10 triệu ha đất trống, đồi núi trọc chưa được khai phá, nếu có chính sách đúng đắn thì một số lượng lớn trang trại sẽ được hình thành để khai thác nguồn tài nguyên này. Hiện nay, nhiều địa phương đã thực hiện việc giao đất, giao rừng cho các hộ gia đình, cũng như các cá nhân có đủ điều kiện để thành lập trang trại. ở các vùng này, các trang trại chủ yếu hướng vào trồng rừng, trồng cây công nghiệp, trồng cây ăn quả, phát triển chăn nuôi đại gia súc. Những trang trại này đang hoạt động rất tốt ở một số tỉnh như Yên Bái, Sơn La, Bắc Giang,... + Các trang trại được hình thành trên cơ sở nhận thầu diện tích mặt nước ở các bãi bồi ven biển, cửa sông, các hồ đầm lớn. Đây là tiềm năng lớn để phát triển các trang trại nuôi trồng thuỷ sản. Các tỉnh ven biển và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đang có tiềm năng rất lớn về các diện tích mặt nước thuộc loại này để phát triển trang trại. + Các trang trại được hình thành trên cơ sở giao đất, khoán vườn cây ổn định và lâu dài cho các hộ công nhân, công chức và các hộ nông dân sống trong vùng thuộc các nông lâm trường Nhà nước. Hiện một số nông lâm trường đã thực hiện việc khoán gọn có đầu tư hoặc khoán gọn không đầu tư với thời hạn 50 năm cho các hộ gia đình. Hiện đây cũng được coi là một hướng hình thành trang trại rất quan trọng. + ở các vùng đồng bằng đang có xu hướng hình thành các trang trại chuyên môn hoá cao, đòi hỏi ít diện tích, sản xuất các sản phẩm có giá trị cao và có tính cạnh tranh cao về chất lượng và giá cả. - Phát triển trang trại. Với các trang trại đã hình thành có thể thấy một số xu hướng phát triển trong thời gian tới như sau: + Tiếp tục tích tụ và tập trung các yếu tố sản xuất trong các trang trại. Các kết quả nghiên cứu cho thấy trong quá trình hoạt động các trang trại đã không ngừng đầu tư mở rộng sản xuất, mở mang diện tích, đầu tư chiều sâu, ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ vào sản xuất. Đây sẽ là xu hướng chính trong những năm tới. Nếu như khi khởi sự, các chủ trang trại chủ yếu dựa vào vốn tự có, thì việc đầu tư mở mang thêm chủ yếu dựa vào vốn vay. Lúc này các chính sách tài chính, tín dụng của Nhà nước phát huy hiệu quả. + Các trang trại dần dần đi vào chuyên môn hoá hình thành các vùng chuyên canh. Đây là hướng đi lên sản xuất hàng hoá lớn, là thường kết hợp sản xuất với công nghiệp chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Quá trình này gắn liền với công tác quy hoạch và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. + Các trang trại nâng cao trình độ thâm canh và tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất nhằm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Lúc này, vai trò của các chính sách và giải pháp về khuyến nông, khuyên lâm, thông tin thị trường, đào tạo nguồn nhân lực có ý nghĩa rất quan trọng. + Hợp tác và cạnh tranh giữa các trang trại chuyển sang một cấp độ hơn. Hơn thế nữa, cạnh tranh không chỉ diễn ra giữa các trang trại trong nước mà là với các trang trại, nhà sản xuất trong khu vực và thế giới. Đây là hệ quả tất yếu của quá trình toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại. 3. Dự đoán khả năng thu hút lao động vào kinh tế trang trại. Xu hướng tăng số lượng và mở rộng quy mô trang trại trong thời gian tới tất yếu sẽ thu hút nhiều lao động nữa vào làm việc trong kinh tế trang trại. Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy khả năng tạo việc làm của mỗi trang trại phụ thuộc vào hai yếu tố chính: qui mô và hướng kinh doanh. Quy mô càng lớn, các trang trại càng tạo ra nhiều việc làm. Tuy nhiên, khả năng tạo việc làm phụ thuộc vào quy mô giá trị hàng hoá nông sản nhiều hơn là vào quy mô đất đai. Quy mô diện tích bình quân một trang trại ở phía Bắc cao hơn phía Nam nhưng khả năng tạo việc làm thấp hơn rất nhiều. Trong khi đó, các trang trại ở phía Nam có quy mô giá trị hàng hoá nông sản cao hơn và thu hút lao động nhiều hơn. Theo nhiều kết quả nghiên cứu, các trang trại đi theo hướng sản xuất kinh doanh khác nhau cho thấy khả năng tạo việc làm rất khác nhau. Các trang trại trồng cây hàng năm, cây lâu năm, nuôi trồng thuỷ sản có khả năng tạo việc làm cao nhất. Nhóm trang trại có khả năng tạo việc làm cao tiếp theo là trồng cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc và trồng rừng. Các trang trại chăn nuôi gia cầm có khả năng tạo việc làm thấp nhất. Trang trại chăn nuôi lợn có khả năng thu hút lao động cao và tương đối ổn định, ít bị ảnh hưởng của tính thời vụ như loại trang trại trồng trọt. Năm 1999, các trang trại đã thu hút hơn 702 nghìn lao động trên địa bàn nông thôn vào làm việc. Bình quân một trang trại tạo việc làm cho 15,5 lao động (Nguồn Tổng cục Thống kê). Theo số liệu thống kê, khi thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT/BNN-TCTK ban hành quy định về tiêu chí xác định kinh tế trang trại, thì tính đến cuối năm 2000 số trang trại đáp ứng tiêu chí quy định tại Thông tư 69, bình quân 1070 trang trại/tỉnh. Và số trang trại không ngừng tăng lên. Số lao động làm việc trong trang trại có xu hướng tăng lên và chủ yếu là lao động thường xuyên. Theo số liệu điều tracủa Tổng cục thống kê, tốc độ tăng trưởng việc làm trong các trang trại giai đoạn 1996-2000 là 6,5%/năm. Căn cứ xu hướng tăng trưởng trang trại và việc làm thời gian qua và những giải pháp, chính sách khuyến khích phát triển trang trại trong thời gian tới sẽ phát huy hiệu quả hơn nữa, dự đoán số lượng trang trại sẽ tăng lên khoảng 15%/năm và lao động làm việc trong trang trại sẽ tăng khoảng 5%/năm (không tính khả năng điều chỉnh tiêu chí xác định trang trại) thì đến năm 2005 dự kiến có khoảng 2,3 triệu lao động làm việc trong kinh tế trang trại. Số lao động làm việc trong các trang trại trồng rừng, trồng cây lâu năm, cây ăn quả, cây công nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản sẽ tăng nhanh hơn so với số lao động trong các lĩnh vực khác. Do một số trang trại đi vào phát triển theo chiều sâu, thâm canh chuyên môn hoá, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nên yêu cầu lao động có tay nghề, có chuyên môn kỹ thuật sẽ tăng lên với tốc độ nhanh hơn thời gian qua. Chương III: Giải pháp thu hút lao động và tạo việc làm của kinh tế trang trại thời gian tới. Phát triển kinh tế trang trại nông, lâm, thuỷ sản ở nước ta là một xu hướng có tính qui luật của sản xuất hàng hoá, phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước hiện nay. Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội của kinh tế trang trại dù mới chỉ là bước đầu, nhưng khá rõ nét và khá toàn diện. Thực tiễn đã khẳng định trang trại tích tụ ruộng đất bằng khai phá đất hoang hoá tại vùng trung du, miền núi, ven biển là chính và không phải bằng hình thức tước đoạt ruộng đất của nông dân nghèo. Do vậy, phát triển kinh tế trang cả số lượng và qui mô ruộng đất không phải là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất đất và thiếu đất nông nghiệp của một số hộ nông dân. Ngược lại, trang trại là mô hình sản xuất nông nghiệp, hàng hoá phù hợp với các hộ nông dân trong nhiều vùng, giúp họ kinh nghiệm, kỹ thuật và cả vốn để thoát nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng. Một bộ phận nông dân nghèo, thiếu đất, thiếu kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp được các chủ trang trại thu hút vào làm việc, để tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Phát triển kinh tế trang là một hướng đi tạo nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động dư thừa ở nông thôn. Mô hình kinh tế trang trại là hướng đi mới, đúng đắn và có nhiều triển vọng mở đường đưa nông nghiệp, nông thôn nước ta bước vào thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Để nhân rộng mô hình này, nhất thiết phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, sự phối hợp đồng bộ của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương. I- Những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển kinh tế trang trại. 1. Thuận lợi Để kinh tế trang trại phát triển, cần phải có đủ các điều kiện cần thiết: - Về chủ quan, phải có điều kiện về đất đai, lao động, tiền vốn, công nghệ, trong đó đặc biệt là con người có đủ năng lực, kiến thức và quyết tâm trong sản xuất - kinh doanh trang trại. - Về khách quan, phải có được môi trường chính trị, xã hội, kinh tế, pháp lý thuận lợi. Cần có chính sách vĩ mô thích hợp để huy động các nguồn lực nội sinh trong nước (cả ở thành thị và nông thôn) và thu hút được nguồn lực từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trang trại. Sau những thăng trầm ban đầu, hiện tại kinh tế trang trại đã được chính thức thừa nhận và khuyến khích phát triển. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP đã khẳng định "Nhà nước khuyến khích phát triển và bảo hộ kinh tế trang trại". Chủ trương này đã được cụ thể hoá bằng nhiều chính sách cụ thể về đất đai, về tài chính, thuế, tín dụng, về lao động, về thị trường… Chính quyền địa phương các cấp cũng rất quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại như thực hiện giao khoán đất, xây dựng cơ sở hạ tầng (đường xá, các công trình thuỷ lợi, hệ thống điện, hệ thống thông tin, chợ…), giảm các rào cản về hành chính… Người dân nhiều địa phương rất hồ hởi bỏ vốn đầu tư phát triển kinh tế trang trại để làm giàu hợp pháp. 2. Khó khăn Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, những khởi sắc và tiến bộ, kinh tế trang trại hiện cũng đang gặp không ít khó khăn và thách thức, trong đó nổi cộm nhất là: 2.1. Về đất đai Quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, đặc biệt là đất vượt hạn điền chưa được xác định rõ ràng. Các chủ trang trại đều có quy mô ruộng đất vượt hạn điền theo quy định của luật đất đai. Một tỷ lệ lớn quỹ đất của trang trại là do khai hoang, phục hoá và nhận chuyển nhượng từ nguồn vốn lao động của gia đình họ, nhưng lại chưa được luật pháp thừa nhận (30% quỹ đất của trang trại đang sử dụng vẫn mang tính tạm thời). Đến nay nhà nước vẫn chưa có chính sách đối với đất đai vượt hạn điền của các trang trại nên họ còn rất băn khoăn và chưa yên tâm đầu tư. Hiện tượng phân tán ruộng đất của các trang trại thành nhiều chủ hoặc chuyển nhượng ngầm còn diễn ra phổ biến ở nhiều trang trại. Nhiều trang trại, đất đai còn manh mún, chưa liền khoảnh. 2.2. Về vốn Nhìn chung các trang trại rất thiếu vốn nhưng ngân hàng chưa có cơ chế cho vay thích hợp. Trong thực tế, kinh tế trang trại vẫn chỉ được vay vốn như một hộ nông dân bình thường. 2.3. Về trình độ sản xuất Kinh tế trang trại còn kém phát triển do thiếu kĩ thuật, máy móc, nông cụ, thiếu kĩ năng quản lý và thiếu lao động lành nghề. Nhiều trang trại còn lúng túng về phương hướng sản xuất. Phần lớn các trang trại chưa ổn định cơ cấu sản xuất. Tính tự phát trong sản xuất, kinh doanh còn phổ biến do thiếu định hướng quy hoạch và kế hoạch ở cấp vĩ mô. Sản phẩm sản xuất ra còn bất cập với yêu cầu thị trường dẫn đến nông sản hàng hoá khó tiêu thụ, hiệu quả kinh tế thấp và bấp bênh. 2.4. Về nguồn nhân lực Trình độ kĩ thuật và quản lý của chủ trang trại theo cơ chế thị trường còn yếu nhưng họ vẫn chưa được đào tạo và bồi dưỡng ở trình độ cấp thiết. Lao động làm việc trong trang trại xuất thân từ nông dân là chủ yếu, học vấn không cao và chưa được đào tạo. 2.5. Về tiêu thụ sản phẩm Sản phẩm làm ra nhiều đang mâu thuẫn với khả năng vận chuyển, chế biến và tiêu thụ. 90% sản phẩm đang được bán dưới dạng thô. Thị trường và giá cả nông sản chưa ổn định, nên nhiều chủ trang trại không muốn mở rộng quy mô sản xuất mặc dù khả năng đất đai, lao động vẫn còn. 2.6. Về cơ sở hạ tầng Nhìn chung cơ sở hạ tầng ở vùng nông thôn miền núi, nơi kinh tế trang trại phát triển còn rất yếu kém, gây khó khăn cho phát triển và mở rộng sản xuất của trang trại. Như vậy, có thể thấy rằng những khó khăn và thách thức đang đặt ra đối với kinh tế trang trại hiện nay và trong thời gian tới rất lớn. Theo kết quả điều tra xã hội học: 1255 chủ trang trại (do Tổng cục thống kê thực hiện) cho thấy, yêu cầu chung của họ là được Nhà nước quan tâm nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi về chính sách và hỗ trợ vốn vay để họ có thể mở rộng quy mô và sản xuất kinh doanh mạnh hơn, yên tâm hơn theo hướng sản xuất hàng hoá, làm giàu cho gia đình và cho đất nước. 80% số trang trại có nguyện vọng được vay vốn với lãi suất thấp, mức vay lớn hơn và thời gian dài hơn phù hợp với chu kỳ sản xuất cây lâu năm. 28% số trang trại có nhu cầu mở rộng diện tích đất và mong muốn được nhà nước cho thuê để sử dụng lâu dài. Tiềm năng về quỹ đất hoang hoá gần các trang trại vẫn còn, nếu có chính sách ruộng đất thông thoáng hơn thì nguyện vọng của các chủ trang trại có thể thực hiện được. Đối với lao động, yêu cầu của các trang trại là Nhà nước cần bổ sung chính sách đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế cho các chủ trang trại, đào tạo nâng cao tay nghề cho lao động làm trong các trang trại để họ có thể đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hàng hoá. Nguyện vọng của các trang trại là chính đáng và nguyện vọng đó phù hợp với yêu cầu hoàn thiện và nhân rộng mô hình này theo theo tinh thần Nghị quyết 6 (khoá VIII) của Bộ chính trị "Nhà nước nước có chính sách khuyến khích phát triển hình thức trang trại gia đình". Đã đến lúc không thể để cho các trang trại gia đình phát triển tự phát, thiếu định hướng mà phải gắn với các chương trình, mục tiêu, quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước. Cần có các chính sách kinh tế, tài chính thông thoáng để giải phóng mạnh mẽ hơn nữa mọi tiềm lực của chủ trang trại, khuyến khích họ đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, xây dựng các trung tâm kinh tế nông, lâm nghiệp lớn gắn với công nghiệp chế biến, đặc biệt là tại các vùng đất mới ở trung du, miền núi và ven biển để làm giàu cho họ và cho đất nước và tạo nhiều việc làm. Để có được các giải pháp cụ thể có hiệu quả nhằm thu hút được nhiều lao động và tạo việc làm, vấn đề trước tiên là cần thống nhất nhận thức về bản chất và vị trí của kinh tế trang trại ở nước ta trong thời gian tới, đó là: - Kinh tế trang trại (đặc biệt là trang trại hộ gia đình) là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn chủ yếu, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản. - Phát triển kinh tế trang trại là nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, vốn, kĩ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu, đi đôi với xoá đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. - Quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất hình thành các trang trại gắn liền với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang làm các ngành phi nông nghiệp, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá trong nông nghiệp và nông thôn. Từ đó, yêu cầu đặt ra là Nhà nước cần có chính sách phù hợp, ổn định lâu dài đối với kinh tế trang trại phát triển lành mạnh bền vững có hiệu quả. Thực hiện nhất quán chính sách phát huy kinh tế tự chủ của hộ nông dân, tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho kinh tế trang trại phát triển. II. Các giải pháp cụ thể 1. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế của trang trại 1.1. Tạo các môi trường thuận lợi cho trang trại phát triển và hoạt động có hiệu quả. + Phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn: Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ ở nông thôn có ý nghĩa to lớn đối với phát triển các trang trại sản xuất nông sản hàng hoá. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm nhiều yếu tố có những chức năng riêng về kinh tế - xã hội nông thôn, nhưng đối với việc phát triển trang trại thì các yếu tố hạ tầng kinh tế có vai trò lớn là hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thuỷ lợi, hệ thống điện và hệ thống chợ nông thôn. Đặc biệt, giao thông nông thôn phát triển sẽ gắn các trang trại với thị trường ở các đầu vào và đầu ra sản xuất hàng hoá của trang trại. Vai trò điều tiết vĩ mô trong chính sách phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn nói chung và kinh tế trang trại nói riêng là rất cần thiết. Thời gian tới Nhà nước cần xem xét một số vấn đề sau: - Về bố trí chiến lược đầu tư cho phát triển: Trong các chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng nông thôn trên phạm vi cả nước ghi trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm, cần xem xét ưu tiên các chương trình dự án có tác động trực tiếp đến sự phát triển các trang trại. Sự ưu tiên đối với các chương trình dự án này thể hiện chủ yếu ở hai mặt: ưu tiên về thời gian triển khai thực hiện sớm hơn và dành tỷ lệ hỗ trợ cao hơn từ ngân sách Nhà nước. - Tuỳ thuộc vào khả năng của nguồn vốn ngân sách, cần mạnh dạn tăng tỷ lệ hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn cho những vùng trọng điểm, những công trình trọng điểm có ý nghĩa tạo vốn châm ngòi để khuyến khích sự đóng góp của các trang trại và nhân dân trong việc sáng tạo nguồn vốn. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hơn cơ chế hoạt động của hệ thống quỹ đầu tư phát triển nông thôn từ trung ương tới cơ sở. Ưu tiên vốn đầu tư cho các hạng mục công trình, cho những nội dung then chốt, đó là các công trình nếu được giải quyết dứt điểm sẽ tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển như đường giao thông, thuỷ lợi, điện hoá, thông tin liên lạc, chợ… Các trung tâm công nghiệp (nhất là các xí nghiệp chế biến nông sản), các trung tâm cụm xã. - Để bảo đảm đầu tư tiết kiệm, có hiệu quả, tránh chồng chéo, cần rà soát, thống nhất được nội dung, mục tiêu, tiến độ đầu tư của các chương trình, dự án trên phạm vi trong vùng, từng tỉnh, từng huyện. Vốn đầu tư cần tập trung cho các vùng trọng điểm phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của từng địa phương và quy hoạch các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá. - Động viên các trang trại đóng góp cao hơn cho quĩ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Cần thực hiện tốt phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Đây là điều hoàn toàn có thể nhận được sự ủng hộ cao của các phía trang trại. Bởi vì nguyên tắc hoạt động của quỹ này là huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thực hiện đầu tư tại chỗ, vì vậy, về thực chất các trang trại có đóng góp cao hơn cho quỹ cũng là để phục vụ trực tiếp cho bản thân họ. Cần khuyến khích, động viên các trang trại, các hộ gia đình bỏ tiền, bỏ công sức, góp nguyên vật liệu để sớm hoàn thành dứt điểm các công trình xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Các công trình đầu tư lớn trên địa bàn xã như đường giao thông liên thôn, liên bản, cống đập nhỏ và thuỷ nông nội đồng,… phải do xã và dân đảm nhiệm, ngân sách chỉ hỗ trợ nếu thấy cần thiết. khuyến khích các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế ở địa bàn nông thôn. + Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại. Cần quy hoạch lại các trang trại gắn liền với quy hoạch sản xuất nông nghiệp của cả nước và của các vùng theo hướng kinh tế hàng hoá và gắn với thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Trên cơ sở quy hoạch đó, các ngành và các địa phương bổ sung điều chỉnh quy hoạch cây trồng, vật nuôi và định hướng kế hoạch trang trại phù hợp với quy hoạch phát triển vùng, khắc phục bằng được xu hướng phát triển tự phát của các chủ trang trại như những năm qua. Lấy quy hoạch sản xuất làm căn cứ, các ngành, các cấp hướng dẫn các chủ trang trại bổ sung, hoàn thiện quy hoạch về nguồn lao động và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho các trang trại. + Xây dựng hệ thống thông tin và thị trường. Giá cả vật tư "đầu vào", sản phẩm đầu ra "luôn là sự quan tâm lo lắng của các chủ trang trại. Do bị thiếu thông tin, bị thúc ép bởi mùa vụ sản xuất, và thời vụ thu hoạch, do phải cạnh tranh với hàng nhập lậu trốn thuế mà các chủ trang trại nhiều khi rơi vào tình thế bất lợi trên thương trường. Họ đành lòng cam chịu nhiều thua thiệt, bất công do phải mua đắt, bán rẻ. Bởi vậy, có năm thời tiết thuận hoà, mùa màng bội thu nhưng vẫn không bù đắp nổi chi phí sản xuất và những thiệt hại do bị mất giá đầu ra, tăng giá đầu vào. Hàng năm, hàng nghìn ha cà phê, cao su, mía, cây ăn quả, phải bị đốn chặt đề có nguyên nhân từ phía thị trường, đều có liên quan đến giá cả. Đây là phản ứng tiêu cực của nông dân trước tình thế "tiến thoái, lưỡng nan" hầu như hoàn toàn bế tắc hiện nay. Chính sách và giải pháp về thông tin và thị trường để giúp các chủ trang trại vượt qua những thời điểm khó khăn ngặt nghèo có thể được thực hiện theo các hướng sau: - Khuyến khích và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các lực lượng tham gia vào hoạt động dịch vụ thương mại, cung cấp vật tư, máy móc, nông cụ cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nông nghiệp. Đây là giải pháp quan trọng để hạn chế, thủ tiêu sự độc quyền lũng đoạn của tư thương lấy mọi thủ đoạn ép cấp, ép giá mà các chủ trang trại buộc phải chấp nhận khi không có nhiều cơ hội để lựa chọn khách hàng trong quan hệ mua bán. Đối với thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào như giống, vốn, kỹ thuật sản xuất, Nhà nước cần có vai trò quan trọng hơn thông qua tín dụng - ngân hàng, hệ thống doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu vật tư nông nghiệp và các doanh nghiệp buôn bán vật tư của Nhà nước. - Khôi phục và tăng cường hoạt động của hệ thống thương mại quốc doanh trên địa bàn nông thôn. Củng cố hệ thống các doanh nghiệp thương mại làm nhiệm vụ xuất khẩu cho các trang trại ở vùng chuyên canh lớn. Cần khuyến khích, hướng dẫn các chủ trang trại tham gia các tổ chức hợp tác, tổ chức thống nhất hành động, trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chống lại sự thao túng của tư thương. - Tập trung sức phát triển các doanh nghiệp công nghiệp chế biến ở những vùng chuyên canh lớn. Đẩy mạnh hình thức tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng kinh tế giữa nông dân với các cơ sở công nghiệp chế biến. - Trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, khẩn cấp do sự biến động của thị trường gia cả trong nước và thế giới, Nhà nước cần phải kịp thời can thiệp một cách có hiệu quả để giữ giá ổn định, bảo vệ sản xuất, không để người sản xuất rơi vào tình trạng bị thiệt hại quá nặng nề, có thể dẫn đến những hành động phản ứng tiêu cực như chặt phá cây trồng khi giá bán sản phẩm hạ xuống quá thấp, đến khi giá thị trường thế giới đột ngột tăng cao thì chúng ta bất lực, nuối tiếc vì không có sản phẩm để xuất khẩu. Muốn tránh tổn thất lớn lao này, Nhà nước phải dùng biện pháp kinh tế kết hợp với giáo dục, tuyên truyền. Bằng mọi cách phải tổ chức thu mua để giữ bình ổn giá cả hoặc cho vay, ứng tiền trước cho nông dân để các hộ gia đình, các trang trại đảm bảo đời sống, tiếp tục sản xuất. Nhà nước có thể phải đứng ra gánh chịu tổn thất cho nông dân trong những thời điểm, những trường hợp thật cần thiết nhằm bảo vệ sản xuất ổn định, bền vững. - Nhà nước cần sớm hình thành hệ thống tổ chức dự báo thị trường. Thông tin thị trường cần được cập nhật và phổ biến kịp thời cho các chủ trang trại để họ kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất. Thông qua các trung tâm khuyến nông, các cơ quan chức năng, các phương tiện thông tin đại chúng, cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác tình hình t trong và ngoài nước cho nông dân một cách công khai, rộng rãi. Không để thông tin bị bóp méo, bị cất giấu để trở thành vũ khí cạnh tranh làm giàu cho một số ít đối tượng. 1.2. Đào tạo nâng cao trình độ cho chủ trang trại. Cùng với quy mô kinh tế ngày càng tăng, công việc quản lý trang trại đòi hỏi các chủ trang trại phải có trình độ quản lý cao hơn, phải có các kiến thức cơ bản về khoa học kỹ thuật công nghệ và kinh tế thị trường. Theo số liệu điều tra năm 1999, trình độ của các chủ trang trại rất thấp. Số chủ trang trại có bằng sơ cấp đến đại học mới chiếm 31%. Số chủ trang trại dự các lớp bồi dưỡng về khuyến nông, khuyến lâm mới đạt 13,53%. Số chủ trang trại có theo dõi ti vi, báo, đài mới chiếm 30,32%... Do đó, yêu cầu đặt ra là các chủ trang trại cần được bồi dưỡng về kiến thức quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật. Họ cần được tạo cơ hội giao lưu học hỏi tiếp xúc với các cơ quan quản lý khoa học trong và ngoài nước. Việc đào tạo nâng cao trình độ cho chủ trang trại có thể thực hiện theo những con đường khác nhau: - Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của chủ trang trại thông qua hệ thống khuyến nông, khuyến lâm. Hiện nay hệ thống này có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng kiến thức cho các chủ trang trại và nông dân. Đặc biệt, đối với các vùng miền núi là nơi nhiều dân tộc thiểu số còn quen nếp làm ăn truyền thống, việc đào tạo họ thành các chủ trang trại biết làm ăn là việc khó, cần có sự kiên trì và đầu tư thích đáng cho khu vực này. - Đi đôi với hoạt động khuyến nông, Nhà nước và các địa phương cần có chính sách, chiến lược đào tạo cơ bản cho chủ trang trại, đặc biệt là cho các chủ trang trại trẻ. Hiện nay cả nước đã có các trường trung học và dạy nghề, các trường quản lý nông nghiệp và một số trường đại học gắn liền với quá trình đào tạo cho cán bộ nông nghiệp và nông thôn. Tuy vậy vẫn còn phân tán, chưa có sự thống nhất một chương trình, nội dung đao tạo cho các chủ trang trại, vì vậy cần có sự thống nhất một chương trình, và đòi hỏi phải có sự đầu tư ngân sách và tập trung trí tuệ để có một hệ thống giáo trình và bài giảng thích hợp. Kiến thức trang trại cần phải bao gồm cả quản trị doanh nghiệp, kĩ thuật thực hành sản xuất, giới thiệu các kinh nghiệm và xu hướng phát triển trang trại trong và ngoài nước. - Việc nâng cao kiến thức làm ăn và cung cấp thông tin cho chủ trang trại có thể được thực hiện qua tổ chức các hiệp hội, các tổ chức của nông dân như hội nông dân, hội phụ nữ, các hợp tác xã,... thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, truyền hình,... - Thông qua hệ thống quản lý Nhà nước, các Bộ, ngành cần có các hướng dẫn cụ thể đối với kinh tế trang trại; UBND các địa phương tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế trang trại; chú ý tổ chức tổng kết đúc rút kinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến, tuyên truyền phổ biến, tổ chức tham quan lẫn nhau học tập lẫn nhau về nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. khen thưởng kịp thời những trang trại sản xuất, kinh doanh giỏi, áp dụng các tiến bộ về khoa học - công nghệ mới, tạo được nhiều việc làm, hỗ trợ nhiều hộ nghèo đói khó khăn vươn lên sản xuất, ổn định cuộc sống. 2. Giải pháp về chính sách vĩ mô đối với trang trại 2.1. Các chính sách chung + Về chính sách ruộng đất Điều kiện cơ bản của phát triển kinh tế trang trại là đất nông, lâm nghiệp và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Vì vậy, nếu luật và chính sách đất đai thông thoáng hơn sẽ là động lực khuyến khích các hộ nông dân đầu tư vốn và lao động để mở rộng sản xuất. Đó cũng là điều kiện để thu hút lao động, tạo việc làm mới cho lao động dư thừa ở nông thôn. Trong những năm tới cần tập trung vào một số vấn đề sau đây: - Trong chính sách, biện pháp về đất đai phải có sự khai thông về nhận thức, quan điểm tư tưởng và tâm lý, tập quán. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giải thích để mọi cấp, mọi ngành, mọi người hiểu rằng trong kinh tế thị trường, đất đai là hàng hoá, cũng cần được khuyến khích chuyển nhượng hợp pháp và công khai để sớm đến tay người tiêu dùng. Đó là những nông gia giỏi đang thực sự cần thêm đất đai để sản xuất. Có như vậy giá trị sử dụng đất đai mới được phát huy tối đa và trở nên hữu ích đối với toàn xã hội. Có lẽ không cần hạn chế quy mô diện tích cho thuê. Tổ chức, cá nhân có khả năng khai hoang sản xuất bao nhiêu nên mạnh dạn cho họ thuê đất bấy nhiêu. Vấn đề quan trọng là phải quản lý họ theo quy hoạch đất đai, tránh hiện tượng cho thuê đất cho có chủ nhưng đất không sử dụng vào sản xuất mà là đầu cơ, chờ cơ hội có dịp kiếm lời hoặc bóc lột đất, tàn phá rừng làm tổn hại cảnh quan, môi trường sinh thái để thu lợi nhuận trước mắt. Nhà nước cần có cơ chế quản lý các giao dịch đất đai ở các địa phương. Có như vậy một mặt Nhà nước thu được thuế, mặt khác Nhà nước quản lý được thị trường chuyển nhượng đất đai vốn sôi động hiện nay. Ngoài ra, việc này sẽ khuyến khích nông dân chuyển đổi, chuyển nhượng đất canh tác giúp đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung đất đai liền khoảnh, phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH. - Cần có các chính sách khuyến khích các trang trại phá các vùng đất trống, đồi trọc để có quy mô diện tích lơn hơn. Sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Đối với diện tích của các chủ trang trại đang thuê của nông, lâm trường cần chuyển sang thuê của Nhà nước. Đối với các trang trại thuê đất vượt hạn điền ở những vùng khó khăn, Nhà nước nên miễn giảm toàn bộ tiền thuê đất, còn ở những vùng khác, Nhà nước nên miễn toàn bộ tiền thuê đất, còn ở những vùng khác, Nhà nước cần giảm tiền thuê đất trong những năm đầu. Cân sớm có chính sách thu hồi lại diện tích đất không sử dụng của các nông trường, lâm trường, các tổ chức kinh tế xã hội khác, các đơn vị quân đội cũng như quỹ đất công ích của địa phương để giao hoặc cho thuê đối với trang trại, các hộ gia đình có nguyện vọng và khả năng mở rộng quy mô sản xuất. Nhà nước cũng cần biện pháp xử phạt về tội để lãng phí tài nguyên đất đai đối với những chủ nhân chiếm giữ đất đai để hoang hoá và khuyến khích các trang trại, các tổ chức, cá nhân khai thác các diện tích này. - Nhà nước cần hợp pháp hoá quỹ đất của các trang trại hiện đang sử dụng có nguồn gốc rõ ràng, được tích tụ dưới nhiều hình thức để họ yên tâm đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất lâu dài. - Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản sống tại địa phương nếu có nhu cầu, có khả năng về vốn, về lao động, về kinh nghiệm để mở rộng sản xuất thì ngoài phần đất được giao theo luật đất đai, cần cho phép khai hoang, phục hoá, nhận chuyển nhượng của các hộ khác để mở rộng quy mô sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại, không hạn chế về quy mô ruộng đất. + Về chính sách tín dụng: Việc bổ sung chính sách tín dụng ưu đãi đối với kinh tế trang trại là rất cần thiết vì kinh tế trang trại có qui mô vượt trội so với kinh tế hộ. Trong chính sách tín dụng cần tập trung vào những nội dung chính sau đây: - Mức cho vay và thời gian cho vay đối với các trang trại cần lớn hơn (3-5 lần) so với hộ nông dân bình thường vì qui mô sản xuất, chu kỳ sản xuất cây lâu năm và hiệu quả tạo việc làm của kinh tế trang trại hơn hẳn kinh tế hộ nông dân. - Do đại bộ phận các trang trại ở nước ta hiện có quy mô nhỏ, tín dụng ngân hàng cần tập trung vào số lượng lớn các trang trại có quy mô vừa và nhỏ mới phát huy thúc đẩy sản xuất của toàn ngành nông nghiệp. - Đối với địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cần có các chính sách ưu tiên cho các chủ trang trại được vay vốn từ các chương trình mục tiêu như: giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, trồng rừng,... để tạo việc làm cho lao động tại chỗ. - Các tổ chức khuyến nông, hội nông dân, các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước ở địa phương,... cần bám sát tình hình thực tế của các trang trại, giúp các trang trại lập phương án sản xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư, thủ tục xin vay vốn. Ngành ngân hàng cũng phải trực tiếp tham dự vào công việc tư vấn cho các chủ trang trại, có như vậy mới đảm bảo đầu tư chắc chắn có hiệu quả và thu hồi đúng thời hạn. - Nghiên cứu để có thể dân dần xoá bỏ qui định về lãi suất trần và chuyển sang áp dụng cơ chế lãi suất thị trường đối với các khoản vay. Có thể cho phép các ngân hàng tư nhân, ngân hàng nước ngoài cũng được hoạt động rộng rãi ở thị trường nông thôn, khách hàng dễ dàng tiếp cận với các nguồn tín dụng chính thức thì đó là biện pháp hữu hiệu nhất để hạn chế, xoá bỏ tệ nạn cho vay nặng lãi của tư nhân, góp phần làm cho đời sống xã hội ở nông thôn trở nên lành mạnh hơn. - Các ngân hàng cần mở thêm các chi nhánh ở vùng cao, vùng sâu, trung tâm các cụm xã, cụm bản để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng khi gửi tiền, vay tiền. - Nghiên cứu để có thể xoá bỏ dần trợ cấp qua tín dụng bởi trên thực tế phạm vi, đối tượng được hưởng các chương trình tín dụng này rất hạn chế và dễ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực cho những trang trại nhỏ, những hộ gia đình nghèo dễ bị gạt ra khỏi chương trình. + Về chính sách thuế. Chính sách thuế đối với lĩnh vực nông nghiệp nói chung, kinh tế trang trại nói riêng nếu được quy định hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển và kích thích các trang trại phát triển sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. Việc áp dụng luật thuế thu nhập nói chung và đối với các trang trại và hộ gia đình nông dân có thu nhập cao nói riêng, về nguyên tắc là hoàn toàn đúng đắn và hợp lý bởi nó góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách và điều tiết thu nhập của các thành viên trong xã hội, thu hẹp bớt khoảng cách giàu nghèo trong dân chúng. Tuy nhiên, xét theo điều kiện thực tế các trang trại ở nước ta hiện nay mới được định hình sản xuất và phát triển, tích luỹ hàng năm chưa nhiều, điều kiện sản xuất kinh doanh chưa ổn định, công tác kế toán chưa đi vào nề nếp, việc xác định chi phí doanh thu chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác. Với tình hình thực tế trên, nếu sớm áp dụng luật thuế thu nhập đối với các trang trại có thể sẽ gây khó khăn cho họ. Bởi vậy, cần tiếp tục nghiên cứu tạm miễn thuế thu nhập cho các chủ trang trại và hộ gia đình nông dân đến thời gian thích hợp sẽ tổ chức thực hiện. Trước mắt, cần có quy định các trang trại chỉ có nghĩa vụ đóng thuế sử dụng đất nông nghiệp theo luật thuế sử dụng đất và chỉ theo hạng đất, ổn định trong một số năm để người dân yên tâm đầu tư, ngoài ra không phải đóng các khoản thuế khác, nếu họ chỉ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Đối với một số trường hợp ưu tiên cần áp dụng chính sách riêng, cụ thể: - Miễn tiền thuê đất trong thời gian 5-10 năm đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở, các xí nghiệp công nghiệp chế biến sản phẩm nông lâm, sản xuất các máy móc công cụ, vật tư nông nghiệp ở các địa phương miền núi,vùng cao. Miễn giảm thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp này. - Miễn tiền thuê đất và miễn thuế sử dụng đất đối với các trang trại, các doanh nghiệp trong và ngoài nước thuê đất trống và vùng đồi núi trọc ở vùng điều kiện sản xuất khó khăn vào mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp trong thời kỳ kiến thiết cơ bản. - Miễn thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các trang trại, các hộ gia đình nếu đất chuyển nhượng dùng để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và mục đích chuyển nhượng để tập trung, chuyển đổi cho liền vùng, liền khoảnh, thuận tiện hơn cho sản xuất. - Miễn tiền thuê đất cho các chủ trang trại, hộ gia đình đối với đất vượt hạn điền mà họ đang sử dụng hợp pháp cho mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp, ngư nghiệp. 2.2. Chính sách thuê mướn và sử dụng lao động. Trước hết, cần giải quyết các vướng mắc về quan điểm, về nhận thức tư tưởng đối với một bộ phần cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, các địa phương về sử dụng lao động làm thuê trong trang trại. Cần coi sử dụng lao động làm thuê là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường, là yêu cầu để kinh tế trang trại phát triển. Không nên coi đó là nguyên nhân của hiện tượng mất đất của một số hộ gia đình và phân hoá giàu nghèo ở nông thôn và không nên coi sử dụng lao động làm thuê là trở về với quan hệ bóc lột. Vấn đề ở đây là phát huy vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa để buộc các bên thực hiện đầy đủ, đúng đắn luật pháp lao động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người làm thuê, đồng thời tạo điều kiện để người làm thuê bảo vệ được quyền lợi của mình. Nhà nước đã quy định "chủ trang trại được tuyển dụng lao động với số lượng không hạn chế và không phân biệt địa bàn sinh sống của người lao động". Tuy nhiên, cần phải xoá bỏ rào cản đối với việc thuê mướn lao động ở nông thôn cả trong quan điểm, nhận thức và quản lý hành chính làm cho thị trường lao động nông thôn được linh hoạt và thông thoáng. Hoàn chỉnh hệ thống thông tin thị trường lao động, phát huy vai trò của các trung tâm giới thiệu việc làm tại các địa bàn nông thôn. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các trang trại thu hút và sử dụng lao động có tay nghề. Để hạn chế ảnh hưởng của tính thời vụ trong nhu cầu của các trang trại cần hướng dẫn, khuyến cáo và tạo điều kiện cho các trang trại phát triển sản xuất hàng hoá nông sản theo hướng kinh doanh tổng hợp, đa dạng hoá sản phẩm. Kết hợp cả trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản để tận dụng mọi điều kiện tự nhiên sẵn có. Trong trồng trọt có cả cây dài ngày và các cây ngắn ngày có thời vụ xê dịch nhau. Trong sản xuất chăn nuôi kết hợp vài loại con gia súc, xen kẽ các lứa tuổi... Phát triển ngành nghề chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp trên cơ sở ngành nghề truyền thống, tận dụng nguyên liệu từ sản xuất nông nghiệp. Thực tế, các trang trại có nhu cầu lao động ổn định trong các tháng sẽ tăng số lao động thuê thường xuyên. Người lao động làm thuê thường xuyên và ổn định sẽ gắn bó với sản xuất của trang trại và có ý thức chủ động đi học tập nâng cao tay nghề, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn và khi đó các chủ trang trại cũng sẽ có trách nhiệm hỗ trợ và tạo điều kiện cho lao động được đi đào tạo nghề. Nhà nước cần tăng cường công tác quản lý, giám sát việc đăng ký hợp đồng lao động và thực hiện trách nhiệm của các bên, giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động về giờ công, tiền công, chế độ bảo hiểm, bảo hộ sức khoẻ và an toàn lao động. Đồng thời cũng đảm bảo quyền lợi của các chủ trang trại về chất lượng công việc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người làm thuê cố ý vi phạm hợp đồng lao động gây ra. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP và Thông tư 23/2000/TT-BLĐTBXH đã qui định rất cụ thể các điều khoản về tuyển dụng, về sử dụng, trả công và thực hiện các chính sách lao động khác. Tuy nhiên, vấn đề lại nổi lên ở khâu thực hiện. Điều này có nguyên nhân từ công tác tuyên truyền và phổ biến chính sách, từ quản lý Nhà nước và giám sát thực hiện pháp luật, từ sự hiểu biết về luật pháp, cũng như ý thức chấp hành luật pháp của cả người sử dụng lao động và người lao động. Cần có nghiên cứu đánh giá việc triển khai thực hiện pháp luật lao động trong thực tế, đánh giá sự phù hợp và tính thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật lao động trong thực tế, đánh giá sự phù hợp và tính thực tiễn của các chính sách để có các bổ sung sửa đổi cho phù hợp, nhất là những kinh nghiệm tốt về quản lý và sử dụng lao động thời vụ. Cần đặc biệt chú ý đến yếu tố trình độ học vấn và nhân thức của nông dân, yếu tố văn hoá, tập quán địa phương ở các vùng nông thôn, đặc biệt là ở các vùng trung du và miền núi. 3. Giải pháp chính sách đối với người lao động làm việc trong trang trại. Theo Nghị quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại số 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 đã thể hiện rất rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước là khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại tạo được nhiều việc làm. Nghị quyết cũng yêu cầu chủ trang trại phải trang bị đồ dùng bảo hộ lao động theo từng loại nghề cho người lao động và có trách nhiệm với người lao động khi gặp rủi ro, tai nạn, ốm đau trong thời gian làm việc theo hợp đồng lao động. Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm trong trang trại bằng nhiều hình thức như tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn. Thông tư 23/ 2000/ TT - BLĐTBXH ngày 28/9/2000 đã hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các điều khoản về hợp đồng lao động, tiền công, bảo hiểm xã hội, thời giờ làm việc, thời giời nghỉ ngơi, bảo hiểm lao động và các nội dung khác. Như vậy có thể nói, Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách rất cụ thể đối với người lao động làm việc trong trang trại. Tuy nhiên, như phần trên đã phân tích, hầu hết các chính sách về lao động (hợp đồng lao động, đóng Bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động ...) chưa thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần. Có 2 lý do cơ bản dẫn đến tình trạng này là: thứ nhất, nhận thức và ý thức chấp hành luật pháp của cả người sử dụng lao động và người lao động chưa cao và thứ hai là do công tác quản lý Nhà nước về lao động đối với các trang trại còn bị buông lỏng. Để triển khai thực hiện các chính sách này vào thực tiển có hiệu quả cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Các giải pháp trong thời gian tới cần tập trung vào các lĩnh vực sau. 3.1. Về thực hiện các chính sách đối với người lao động Do hầu hêt các chính sách và quy định của Nhà nước về lao động chưa được thực hiện một cách nghiêm túc nên vấn đề cần quan tâm hiện nay chính là công tác tổ chức thực hiện tại các địa phương. Nếu không có các giải pháp khả thi thì về lâu dài lao động, việc làm của các trang trại vẫn tồn tại xu hướng tự phát, nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước và trên từng mốc nhất định, tác động tiêu cực đến sự phát triển hiệu quả của mô hình kinh tế này. Những vấn đề cần quan tâm trước hết là thực hiện nghiêm chỉnh việc kí kết hợp đồng lao động, trang bị bảo hộ lao động và thực hiện trách nhiệm đối với người lao động khi gặp rủi ro, ốm đau trong thời gian làm việc theo hợp đồng lao động cũng như sau khi kết thúc hợp đồng. Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật pháp lao động tại các trang trại. Việc này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của chính quyền cấp huyện và cấp xã. Ngoài ra, chính quyền địa phương cần tăng cường công tác quản lý đối với số lao động tự do kiếm việc làm kể cả làm thuê theo mùa vụ và thường xuyên, để kịp thời phát hiện và giải quyết những vi phạm luật pháp lao động và các tranh chấp lao động. Hầu hết chủ trang trại là nông dân nên ngay bản thân họ cũng chưa được thực hiện bất kỳ một chế độ gì về đóng và ảnh hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Nhà nước cần sớm ban hành chế độ bảo hiểm tự nguyện đối với người lao động. Xây dựng hệ thống bảo hiểm với cơ chế linh hoạt phù hợp với điều kiện của nông thôn và nông dân. Do đó những khác biệt khá lớn giữa người lao động làm việc trong nông nghiệp với các khu vực khác, Nhà nước cần nghiên cứu quy định mức tiền lương tối thiểu trong nông nghiệp (áp dụng trong kinh tế trang trại) thấp hơn so với các khu vực khác. 3.2. Về đào tạo nghề Như trên đã phân tích, hiện nay hầu hết người lao động làm việc trong trang trại, đặc biệt là lao động làm thuê chưa được đào tạo, huấn luyện nghề nghiệp. Vì vậy, để tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế trang trại thì ngoài việc đào tạo chủ trang trại, cần tổ chức bồi dưỡng, huấn luận kỹ thuật, tay nghề cho người lao động. Để tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội được học tập, đào tạo nâng cao tay nghề, trước hết chính quyền địa phương phải tổ chức hệ thống cơ sở trường, trung tâm dạy nghề... khuyến khích mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện cùng tham gia đào tạo nghề, trên cơ sở Nhà nước quản lý và giám sát chặt chẽ nội dung và chất lượng đào tạo. Tổ chức nhiều hình thức dạy nghề khác nhau như đào tạo tập trung, vừa học vừa làm, học ban ngày, học buổi tối... để mọi người có cơ hội tham gia học nghề. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách, biện pháp khuyến khích ưu đãi đối với con em nông dân về học nghề như miễn giảm học phí, cấp phát tài liệu, hỗ trợ kinh phí ăn ở, đi lại... Trước mắt, Nhà nước cần sớm triển khai kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm các trang trại bằng các chương trình, dự án cụ thể. Sử dụng tối đa năng lực hiện có của hệ thống đào tạo, hệ thống khuyến nông, cũng như tranh thủ các chương trình, dự án khác trên các địa bàn nông thôn: - Tại các trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề cấp huyện tổ chức đào tạo các nghề dịch vụ, nghề chế biến nông lâm hải sản. - Thông qua hệ thống các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư và trung tâm chuyển giao kỹ thuật của Trung ương Hội VACVINA thực hiện các hình thức đào tạo lưu động đến tận bản làng, thôn, xã. - Thông qua các chương trình dự án phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm,... mời chuyên gia đến tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, chuyển giao các qui trình sản xuất mới, phổ biến kinh nghiệm làm ăn cho nông dân. Lựa chọn trong nông dân những người có trình độ văn hoá, kỹ thuật khá để giúp họ trở thành hướng dẫn viên tại cơ sở. 3.3. Về nâng cao nhận thức và ý thức về luật pháp lao động. Đa số các chủ trang trại và hầu hết người lao động làm thuê trong trang trại không không biết hoặc biết rất ít về luật pháp lao động. Nhiều người còn coi đó là điều không quan trọng và chưa quan tâm đúng mức. Trong nhiều trường hợp người ta còn lẫn lộn "quan hệ lao động" với quan hệ xã hội, tình làng nghĩa xóm. Do đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động cho cả chủ trang trại và lao động làm thuê. Ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn, cần sử dụng nhiều hơn các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, truyền hình. Trong công tác tuyên truyền cần huy động sự tham gia tích cực của các tổ chức có liên hệ nhiều với trang trại và nông dân như Hội nông dân, Hội phụ nữ, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở dạy nghề,... Đặc biệt, các văn bản pháp luật về lao động cần được biên soạn lại với ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu phù hợp với trình độ học vấn và nhận thức về luật pháp còn thấp của đa số lao động trong trang trại. Kết luận Sau vài năm thực hiện đã phản ánh tính hơn hẳn của kinh tế trang trại so với kinh tế hộ nông dân về nhiều mặt. Trong đó rõ nét hơn cả là khai thác tiềm năng đất đai; khả năng áp dụng khoa học công nghệ, khả năng thu hút nguồn vốn và vốn tiền tệ còn dư thừa trong dân; khả năng thu hút lao động có tính thường xuyên và lao động mang tính thời vụ, làm tăng thu nhập và nâng cao đời sống nông thôn, có khả năng tạo ra sản phẩm hàng hoá và phát triển theo kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hiện nay kinh tế trang trại ở nước ta cũng có nhiều hạn chế; qui mô trang trại còn nhỏ (bình quân 6,2 lao động/ trang trại), tiềm lực kinh tế chưa lớn, quan hệ tín dụng chậm phát triển, làm cản trở không ít đến việc đầu tư trang thiết bị, áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh nhất là với các trang trại nuôi trồng thuỷ sản. Hạn chế nữa là trình độ quản lý, trình độ tổ chức và trình độ kỹ thuật của nhiều chủ trang trại còn thấp, đa số lao động trong các trang trại là lao động giản đơn - lao động phổ thông. Đây cũng là một trong những điểm mấu chốt làm cho năng suất lao động ở khu vực kinh tế trang trại thấp và hạn chế việc áp dụng khoa học kỹ thuật. Để khắc phục được vấn đề này, Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích cho các trang trại vay vốn cũng như hỗ trợ về đào tạo nghề, đào tạo kỹ thuật cho chủ trang trại và lao động trong các lao động trang trại. Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2001. 2. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại. 3. Thông tư 23/2000/TT-BLĐTBXH ngày 28/9/2000 hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với người lao động làm việc trong các trang trại 4. Bùi Văn Quán, Kinh tế trang trại và vấn đề giải quyết lao động - việc làm ở khu vực nông thôn hiện nay, trong tạp chí thông tin thị trường lao động số 6/2001. 5. Báo cáo kết quả hoạt động của kinh tế trang trại sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 03/2000/NQ- CP của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37121.doc
Tài liệu liên quan