Theo kinh nghiệm từ các nước có thị trường vốn phát triển cho thấy: hoạt động của thị này có tác động rất lớn đến việc huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, trong đó có công tác huy động nguồn tiền gửi của các Ngân hàng thương mại. Mặt khác, sự phát triển của thị trường vốn sẽ là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Khi đó với một thị trường chứng khoán phát triển sẽ xoá bỏ được hoàn toàn sự mâu thuẫn tồn tại lâu nay giữa nhu cầu vốn kinh doanh trung - dài hạn của các doanh nghiệp với sự thay đổi về hình thức đầu tư của các nhà đầu tư. Đồng thời góp phần huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi đang nằm rải rác trong dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp xúc được với những nguồn vốn có chi phí thấp, tính ổn định cao.
Thế nhưng ở nước ta hiện nay, thị trường vốn còn kém phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, phần lớn lượng vốn đầu tư vẫn phải dựa vào việc khai thác từ thị trường tiền tệ (thị trường tài chính ngắn hạn). Hơn nữa, thị trường chứng khoán mới trong giai đoạn đầu phát triển, hoạt động mang tính chất cầm chừng, hàng hoá trên thị trường còn đơn điệu, số lượng khách hàng tham gia giao dịch còn hạn chế và có thể nói tình hình hoạt động chung của thị trường chứng khoán nước ta xem ra chưa có dấu hiệu khả quan.
120 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại chi nhánh ngân hàng công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p tác kinh doanh cùng có lợi, phát huy thế mạnh phục vụ đầu tư phát triển, cùng đàm phán ký kết làm đối tác cho vay hợp vốn đối với các dự án có quy mô lớn vượt quá khả năng của mỗi Ngân hàng, góp phần thực hiện mục tiêu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước.
_ Với các Chi nhánh trong cùng hệ thống: Hợp tác chặt chẽ, phối hợp thực hiện các chủ chương chính sách như: chính sách khách hàng, chính sách lãi suất... tạo nên một thể thống nhất trong toàn hệ thống.
6. Tiếp tục bồi dưỡng và nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên.
Trước hết, cần nâng cao nhận thức cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh về vai trò và vị thế của hệ thống Ngân hàng Công thương Việt namnói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng nói riêng trong nền kinh tế, vè các cơ hội và thách thức trong tình hình mới nhằm thống nhất trong ý thức và hành động thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát triển.
Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh, đáp ứng yêu cầu không ngừng đổi mới của thị trường, đổi mới và hoàn thiện tác phong giao dịch nhằm tạo ra những nét riêng có của Chi nhánh: văn minh, lịch thiệp, nhanh nhẹn hoạt bát và đầy tính trách nhiệm.
Bên cạnh đó, cũng luôn phải làm tốt công tác tổ chức cán bộ, bố trí sắp xếp tổ chức cán bộ sao cho phù hợp với năng lực và trình độ chuyên môn của từng người, tránh tình trạng nơi thừa nơi thiếu, công việc không phù hợp với trình độ cán bộ. Hơn nữa, phải xây dựng chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý dựa trên cơ sở mức đóng góp vào kết quả hoạt động chung,
không phân phối theo kiểu bình quân nhằm đảm bảo phát huy một cách tối đa nội lực sẵn có, từng bước đưa hoạt động kinh doanh của Chi nhánh ngày càng đạt chất lượng hiệu quả cao....
Trên đây là một số phương hướng nhiệm vụ hoạt động chủ yếu của Chi nhánh trong thời gian tới. Những phương hướng nhiệm vụ này luôn luôn phải bám sát với chiến lược kinh doanh của Chi nhánh, do đó để chúng trở thành hiện thực và mang lại hiệu quả cao thì nhất thiết cần phải có những nhóm giải pháp đồng bộ khả thi.
II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại chi nhánh Chi nhánh Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng.
Qua việc nghiên cứu thực trạng hoạt động huy động vốn của Chi nhánh Ngân hàng Công Thương khu vực II- Hai Bà Trưng trong vài năm gần đây, chúng ta thấy rằng ngoài những thành tựu đạt được trong công tác huy động vốn, Chi nhánh vẫn còn có tồn tại những vướng mắc cần được giải quyết. Căn cứ vào mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước và phương hướng nhiệm vụ hoạt động trong thời gian tới của Chi nhánh, em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau:
A. Nhóm giải pháp vi mô:
Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ của một số nước trong khu vực những năm gần đây đã chỉ rõ: “Để phát triển kinh tế bền vững, ổn định và luôn giữ vững tốc độ tăng trưởng cao thì nhất thiết phải dựa vào nguồn vốn nội lực từ bên trong là chính, dù ít hay nhiều nó vẫn luôn giữ vai trò chủ yếu, quyết định. Vốn nước ngoài dù chiếm bao nhiêu cũng chỉ ở vị trí quan trọng” và “Nguồn vốn tiết kiệm và các khoản tích luỹ trong nước là gốc rễ bền vững, vô tận; nó vừa là điều kiện để huy động, sử dụng tại chỗ, vừa tạo khả năng tiếp nhận hấp thụ tốt mọi nguồn vốn khác từ ngoài vào...”. Hơn nữa, hiện nay nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển mới, nhu cầu vốn đầu tư là rất lớn và có thể tạo lập từ nhiều nguồn. Riêng nguồn vốn trong nước có tiềm năng rất lớn, hàng chục nghìn tỷ đồng, đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho nền kinh tế lại chưa được khai thác và đang nằm rải rác trong dân cư, trong các doanh nghiệp gây lãng phí lớn về vốn. Từ kinh nghiệm và thực tế trên, để góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của cả nền kinh tế cũng như khai thác triệt để lợi thế so sánh tạo điều kiện phát triển cho chính mình, Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng cần phải đẩy mạnh, khơi tăng khả năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư bằng mọi biện pháp có thể.
1. Tiếp tục thực hiện đa dạng các hình thức huy động vốn.
Những năm gần đây, Chi nhánh đã có nhiều đổi mới trong công tác huy động vốn, từng bước phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu của khách hàng đến gửi tiền. Tuy nhiên, để tạo sự hấp dẫn mới trong hoạt động huy động vốn thì Chi nhánh cần phải có sự quan tâm hơn nữa đối với các nguồn tiền gửi. Cụ thể :
1.1. Đối với tiền gửi doanh nghiệp.
Đây là loại tiền gửi mà phần đông khách hàng đến gửi tiền chủ yếu là các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội... gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, chi trả hoặc phát hành séc. Cho nên, Chi nhánh cần phải đặt việc huy động nguồn tiền gửi này lên hàng đầu, phải phấn đấu trở thành trung tâm thanh toán của dân cư bởi vì loại tiền gửi này có chi phí huy động không cao, không cần bảo hiểm do thời hạn ngắn, ít bị ảnh hưởng về giá trị tiền gửi và khối lượng tiền gửi lớn. Mặc dù, loại tiền gửi này tuy có nhược điểm là không ổn định, thường xuyên biến động do phụ thuộc vào nhu cầu chi tiêu thường xuyên của khách hàng song bù lại qua hoạt động giao dịch, Chi nhánh có thể tiếp xục với một số lượng lớn khách hàng đến gửi tiền - thanh toán và qua đó trực tiếp góp phần nâng cao uy tín của Ngân hàng....
Để làm được như vậy thì trước hết cần phải nâng cao hiệu quả nhanh chóng, an toàn của các công cụ thanh toán để hấp dẫn việc thanh toán qua Chi nhánh đối với khách hàng. Và điều quan trọng hơn trong điều kiện nước ta hiện nay là phải tiến hành cải tiến công cụ thanh toán, trong đó cần hạn chế việc thanh toán bằng ngân phiếu, vì nếu thanh toán bằng ngân phiếu sẽ làm cho các Ngân hàng nói chung và Chi nhánh nói riêng không sử dụng được khoản tiền mà các doanh nghiệp, cá nhân nộp vào để mua ngân phiếu thanh toán trong thời gian họ chưa thanh toán... Mặt khác, Chi nhánh cũng tích cực vận động khách hàng chuyển qua hình thức thanh toán bằng séc cầm tay hoặc thẻ thanh toán ATM mới. Qua đó vừa tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng cầm séc nộp vào Ngân hàng có thể nhận được tiền mặt ra ngay hoặc chuyển tiền vào tài khoản của họ ở Ngân hàng vừa tạo điều kiện cho Chi nhánh thu hút thêm được vốn tiền gửi.
1.2. Đối với tiền gửi tiết kiệm.
Như đã trình bày, huy động vốn luôn đi đôi với sử dụng vốn và phải xuất phát từ những mục tiêu định trước thì hệ số sử dụng vốn mới cao. Hệ số sử vốn cao đồng nghĩa với việc hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đạt hiệu quả. Để chủ động trong khâu sử dụng vốn, Ngân hàng phải đưa ra các kỳ hạn huy động vốn sao cho phù hợp với kỳ hạn sử dụng vốn (kỳ hạn tín dụng) và ngược lại muốn mở rộng hay đa dạng tín dụng thì trước hết phải đa dạng hoá về loại hình cũng như thời hạn huy động vốn. Điều đó có nghĩa là ứng với vốn tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn thì phải có nguồn vốn huy động ngắn hạn, trung và dài hạn....
Do vậy, để đa dạng hoá nguồn tiền gửi, Chi nhánh cần phải tập trung đa dạng hoá tiền gửi tiết kiệm loại có kỳ hạn bằng việc định ra nhiều kỳ hạn như: 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm... thậm chí là 3 hay 5 năm nếu như khách hàng có nhu cầu và ứng với mỗi loại kỳ hạn Chi nhánh phải xác định được mức lãi suất huy động tương ứng vừa hấp dẫn khách hàng vừa đảm bảo nguyên tắc lãi suất trả cho tiền gửi có kỳ hạn dài cao hơn lãi suất trả cho kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, mức lãi suất cao nhất được trả cho tiền gửi có kỳ hạn tương ứng không được vượt quá mức lợi nhuận bình quân chung của các ngành vì nếu lãi suất đầu vào cao sẽ làm cho lãi suất đầu ra cao và gây ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng cũng như lợi nhuận của Chi nhánh.
Song song với việc đa dạng hoá các kỳ hạn gửi tiền, Chi nhánh cũng cần đa dạng hoá các hình thức hưởng lãi đối với các khoản tiền gửi nhằm làm giảm bớt thiệt thòi cho khách hàng gửi tiền khi phải rút toàn bộ hoặc rút một phần tiền gửi trước hạn, ví dụ Chi nhánh có thể áp dụng hình thức hưởng lãi:
_ Hưởng lãi cuối kỳ với lãi suất cao hơn hưởng lãi trước
_ Hưởng lãi cao nhất nếu tiền gửi một lần và rút một lần.
_ Hưởng lãi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn ngắn đối với các khoản rút
trước hạn một hay nhiều lần theo phương pháp số dư bình quân...
(Trong đó nếu tiền gửi có kỳ hạn vừa và dài nhưng có bảo hiểm thì quy định này chỉ nên áp dụng cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài từ 3 năm trở lên và chỉ số bảo hiểm của tièn gửi phải luôn được thông báo theo từng thời kỳ trên cơ sở khoa học của các cơ quan chuyên trách).
Hoặc để thu hút các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài Chi nhánh cũng nên phát hành các loại “thẻ tiết kiệm có thể chuyển nhượng” ra thị truờng nhằm tạo thuận lợi và an tâm cho những khách hàng khi muốn gửi tiền với kỳ hạn dài nhưng lại có nhu cầu chi tiêu trong tương lai.
Ngoài ra, đối với các khoản gửi tiền tiết kiệm được chủ nhân sử dụng với mục đích chính là mua nhà, mua các phương tiện sinh hoạt đắt tiền....Để huy động đựơc nguồn tiền gửi này thì Chi nhánh cần phải tạo ra được sự hấp dẫn đối với khách hàng bằng việc hứa hoặc trực tiếp đứng ra làm môi giới trung gian cho khách hàng gửi tiền với các tổ chức, doanh nghiệp (thường là bạn hàng quen thuộc của Chi nhánh) cung cấp những mặt hàng mà khách hàng đang có nhu cầu. Chi nhánh cũng cần phải thực hiện hộ khách hàng các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu và đảm bảo về chất lượng, giá cả với khách hàng. Nếu làm được như vậy chắc chắn số lượng tài khoản của khách hàng có tiền nhàn dỗi đang có nhu cầu mua bán sẽ tăng lên đáng kể.
1.3. Đối với công cụ nợ.
Bên cạnh hình thức huy động vốn bằng việc nhận tiền gửi tiết kiệm là hình thức phát hành công cụ nợ (bao gồm kỳ phiếu và trái phiếu Ngân hàng). Mặc dù trong những năm qua, đây là hình thức huy động vốn không thường xuyên, chỉ được dùng khi Chi nhánh có nhu cầu đầu tư khối lượng vốn lớn thời hạn dài nhưng trong thời gian tới để đảm bảo mục tiêu an toàn nguồn vốn huy động, mở rộng phạm vi và duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng, Chi nhánh cần tăng cường hơn nữa việc phát hành các công cụ nợ ra thị trường.
Các công cụ nợ mà Chi nhánh cần tăng cường phát hành trong thời gian tới chủ yếu vẫn là các loại kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích song với hình thức đa dạng hơn như: kỳ phiếu Ngân hàng có mục đích trả lãi trước, kỳ
phiếu Ngân hàng trả lãi sau... Lãi suất và kỳ hạn cũng phải được điều chỉnh linh hoạt hơn tuỳ thuộc vào môi trường cạnh tranh cũng như quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời Chi nhánh cần có chính sách khuyến khích, tạo mọi điều kiện cho công cụ nợ này có thể chuyển đổi dễ dàng hơn (hay có tính lỏng cao hơn) nhằm làm bước đệm để tiến tới phát hành nhiều loại kỳ phiếu, trái phiếu mới có thể là ghi danh hoặc không ghi danh với thời hạn dài từ 5 đến 10 năm.
Tóm lại, qua đây ta có thể thấy, lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư ở nước ta cho đến nay khó có thể xác định được số lượng chính xác là bao nhiêu, nhưng theo tính toán của các cơ quan chức năng thì lượng tiền đó không phải là nhỏ. Vấn đề là ở chỗ hệ thống Ngân hàng thương mại trong nước nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng nói riêng có đưa ra được những hình thức huy động đa dạng phong phú, có sức hấp dẫn đối với người dân hay không. Một khi Ngân hàng huy động được nguồn vốn nhàn dỗi này thì việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kích thích các doanh nghiệp phát triển và đảm bảo thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khai thác nội lực trong nước cũng như cung cấp khối lượng vốn lớn, khẩn trương cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá sẽ không quá khó đối với NHTM, và đó chỉ còn là vấn đề thời gian.
2. Thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt.
Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt qua hệ thống ngân hàng được xem là hình thức huy động vốn tiền gửi tốt nhất của các Ngân hàng thương mại. Nó tạo điều kiện cho Ngân hàng tập trung tăng cường nguồn vốn để đầu tư đúng chỗ có hiệu quả cho sự phát triển chung của nền kinh tế. Thông qua hình thức thanh toán không dùng tiền mặt Ngân hàng sẽ tập trung được khoản thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản ở các Ngân hàng, bởi vì muốn thanh toán được thì trên tài khoản thanh toán của khách hàng phải luôn có số dư tiền gửi, điều này đã tạo ra được một nguồn vốn nhàn rỗi và tập trung vào ngân hàng. Càng nhiều khách hàng tham gia vào hoạt động thanh toán này thì số vốn huy động của Ngân hàng càng lớn và bằng kênh tín dụng riêng của mình ngân hàng có thể đầu tư, cho vay thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Tuy nhiên, hiện nay tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II- Hai Bà Trưng, việc thanh toán qua Ngân hàng mới chỉ thích hợp với một số người ở các đô thị, các doanh nghiệp, còn đối với đại đa số dân cư thì hình thức này còn khó thực hiện do hai nguyên nhân: thứ nhất, do thu nhập của dân cư còn thấp; thứ hai, do sự phát triển của hệ thống thương nghiệp hiện nay chưa tạo điều kiện để hoạt động thanh toán qua Ngân hàng diễn ra mạnh. Vì vậy, trong thời gian tới, để tăng cường hơn nữa công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, thì trước hết Chi nhánh cần tạo thói quen thanh toán không dùng tiền mặt cho ngay bản thân cán bộ công nhân viên trong Chi nhánh thông qua việc thanh toán tiền lương dưới dạng thẻ thanh toán tín dụng cá nhân, thẻ rút tiền tự động, sau đó là mở rộng phạm vi ra xung quanh như: cung cấp cho khách hàng tài khoản chi phiếu dùng thanh toán các loại hoá đơn điện thoại, dịch vụ mua hàng...
Mặt khác, Chi nhánh cũng cần phải tích cực vận động các doanh nghiệp, các tổ chức hành chính sự nghiệp mở tài khoản thanh toán tại Chi nhánh thanh toán với nhau bằng các thể thức không dùng tiền mặt... Qua đó tạo điều kiện cho Chi nhánh sử dụng khối lượng tiền mặt tạm thời nhàn rỗi của các cơ quan hành chính sự nghiệp này vào tài trợ sản xuất kinh doanh.
3. Duy trì chính sách lãi suất huy động linh hoạt, hợp lý.
Lãi suất là yếu tố quan trọng giúp các Ngân hàng có thể hấp dẫn được khách hàng đến gửi tiền. Bởi vì theo quy luật, người có tiền muốn đem gửi Ngân hàng, trong điều kiện bình thường không có khủng hoảng và lạm phát tiền tệ xảy ra, trước tiên họ sẽ so sánh xem lãi suất tiền gửi huy động theo hình thức nào, nơi nào cao hơn, kế đến mới là vấn đề an toàn tiền gửi cũng như các dịch vụ tiện ích mà họ được hưởng do phía Ngân hàng cung cấp. Nếu khách hàng đánh giá được các Ngân hàng có hệ số an toàn và dịch vụ tiện ích như nhau thì lúc đó họ mới nghĩ đến việc lựa chọn ngân hàng quen dùng. Điều này không thật sự là quá khó đối với khách hàng vì các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng trở nên thông dụng và phổ biến.
Trong những năm qua, Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II-Hai Bà Trưng bước đã đầu sử dụng thành công chính sách lãi suất và đã thu hút được một số lượng vốn đáng kể. Tuy nhiên, do lãi suất đầu vào quá cao đã làm cho hoạt động tín dụng của Chi nhánh không đạt hiệu quả, Chi nhánh không thể cho vay hoặc cho vay rất khó vì các ngành sản xuất không chịu đựng nổi. Do đó, trong thời gian tới, để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều tiền gửi, vừa kích thích các đơn vị tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, Chi nhánh cần thiết phải duy trì thường xuyên một chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý theo hướng sau:
_ Lãi suất huy động và cho vay phải phù hợp với từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể. Quy chế trả lãi tiền gửi phải thống nhất xuyên suốt và tiện lợi cho phép khách hàng được lựa chọn nhiều hình thức khác nhau, ví dụ như: Chi nhánh trả lãi tiền gửi hàng tháng thấp hơn tiền gửi khi đáo hạn, các doanh nghiệp hoặc cá nhân khi gửi tiền với số lượng lớn và gửi với thời gian lâu sẽ được ưu đãi với mức lãi suất cao hơn...Việc này phục vụ tốt hơn đối với khách hàng mà bản thân Chi nhánh cũng tiết kiệm được thời gian và công sức trong việc theo dõi các món lãi suất ngắn hạn và các khoản vốn nhỏ.
_ Chỉ đạo lãi suất theo quy luật kinh tế thị trường và mối quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ. Theo đó, lãi suất đầu ra sẽ quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn (lãi suất cho vay bình quân cao hơn lãi suất huy động vốn bình quân), lãi suất cho vay bình quân phải dựa trên tỷ suất sinh lợi bình quân của nền kinh tế, lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn... Qua đó đảm bảo lượng vốn vào và lượng tín dụng ra liên tục tăng, Chi nhánh làm ăn luôn có lãi.
_ Chính sách lãi suất phải động viên khuyến khích dân cư, các tổ chức kinh tế gửi tiền vào ngân hàng. Xoá bỏ đi sự chênh lệch về lãi suất giữa tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của dân cư như hiện nay, đồng thời không phân biệt chủ thể tiến hành gửi tiền là ai mà chỉ quan tâm đến khối lượng và kỳ hạn tiền gửi và ứng với mỗi kỳ hạn đó có một mức lãi suất thích hợp theo nguyên tắc thời hạn càng dài - lãi suất càng cao...
Tóm lại, để lãi suất vẫn mãi là công cụ quan trọng giúp Chi nhánh huy
động vốn hiệu quả trong các tầng lớp dân cư, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội... đòi hỏi Chi nhánh cần phải tự xác định cho mình một chính sách lãi suất linh hoạt và hợp lý, từng bước phù hợp với quan hệ cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ. Đảm bảo mức lãi suất bình quân không tăng lên đối với toàn bộ nguồn vốn huy động, đồng thời khuyến khích khách hàng duy trì số dư tài khoản với thời gian dài hơn thời hạn gửi ban đầu. Lãi suất phải phù hợp với từng thời điểm, từng khu vực cụ thể nhưng cũng phù hợp với khung lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước quy định và phải có lợi cho người gửi tiền, người vay vốn và cho cả bản thân Chi nhánh.
4. Thường xuyên cọi trọng chất lượng phục vụ khách hàng.
Ngày nay, khách hàng giành sự quan tâm nhiều hơn đến chất lượng dịch vụ cũng như thái độ phục vụ khách hàng của nhân viên Ngân hàng. Có thể nói, tất cả những nỗ lực về lãi suất, về hình thức huy động... của Chi nhánh cũng sẽ chẳng đi đến đâu nếu như khách hàng phải tiếp xúc với một nhân viên cau có và thiếu lịch sự. Khách hàng luôn thích tiếp xúc với những nhân viên duyên dáng, luôn biết mỉm cười, tác phong nhanh nhẹn tháo vát, bàn làm việc luôn gọn gàng sạch sẽ... .Để khách hàng tin tưởng gửi tiền vào Chi nhánh, cảm thấy hứng thú khi giao dịch với Chi nhánh... thì ngoài việc đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng, Chi nhánh còn phải không ngừng cao chất lượng phục vụ khách hàng, phải luôn cố gắng làm vui lòng khách hàng theo phương châm “Vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Hơn nữa, Chi nhánh phải tạo ra một quy chuẩn về chất lượng phục vụ khách hàng sao cho khách hàng luôn có mong muốn được quay lại giao dịch với chính Chi nhánh chứ không phải một Ngân hàng hay một tổ chức tín dụng nào khác.
Mặt khác, do đặc điểm hoạt động riêng của ngành là khách hàng chỉ cảm nhận được chất lượng phục vụ, dịch vụ và sự quan tâm của Ngân hàng dành cho mình sau khi đã sử dụng dịch vụ của Ngân hàng hoặc qua những cán bộ cơ sở trực tiếp tiếp xúc với họ. Do vậy, mà việc nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân hàng không thể không gắn liền với việc biến mỗi cán bộ công nhân viên trở thành một lợi thế của Chi nhánh. Mỗi cán bộ công nhân viên của Chi nhánh phải luôn được khuyến khích và tạo mọi điều kiện để cố gắng phát huy hết khả năng, sức lực của mình không để xảy ra bất cứ một thiếu sót nào trong khi giao dịch. Vì nếu như mỗi người để sai sót dù chỉ là một khâu thì tổng số sai sót trong hoạt động Ngân hàng sẽ là rất lớn. Ngoài ra, việc cố gắng thực hiện nhanh, chính xác các hoạt động nghiệp vụ cũng cần được Chi nhánh coi là biện pháp thu hút khách hàng chính của Chi nhánh. Mọi cán bộ công nhân viên phải luôn thực hiện tốt nhất phần việc của mình, đảm bảo vừa nhanh vừa chính xác, thái độ phục vụ khách hàng nhiệt tình, chu đáo... tạo cảm giác thoải mái thân thiện cho khách hàng ngay từ lần đến giao dịch đầu tiên.
5. Tăng cường chiến lược Marketing Ngân hàng.
Việc mở rộng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thông qua hoạt động Marketing là việc làm rất thiết thực, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi mà sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày một gia tăng quyết liệt thì Marketing ngân hàng lại càng trở nên quan trọng. Với phương châm đặt ra là: “Mọi khách hàng đều là bạn đồng hành của Ngân hàng” và “Sự thành công của khách hàng chính là sự thành công của Ngân hàng”, Chi nhánh phải làm sao cho mọi người biết đến hoạt động của mình, cho người dân thấy được tiện ích khi giao dịch với mình. Một thực tế hiện nay là mặc dù Chi nhánh đã triển khai nhiều quỹ tiết kiệm, nhiều phòng giao dịch phân bổ rộng khắp trên địa bàn Quận, thế nhưng số lượng khách hàng trước khi đến Chi nhánh gửi tiền biết được lãi suất Chi nhánh trả cho mỗi kỳ hạn gửi tiền là bao nhiêu, thủ tục vay vốn, thủ tục gửi tiền... cũng như những lợi ích mà họ được hưởng vẫn còn rất hạn chế. Nhưng nếu như Chi nhánh có một chiến lược Marketing phù hợp thì tất cả những vấn đề nêu trên lại trở nên vô cùng đơn giản.
Thật vậy, một trong những hình thức điển hình nhất của hoạt động Marketing nói chung và Marketing ngân hàng nói riêng là quảng cáo. Quảng cáo đã thực sự truyền đạt được những thông tin tinh tuý nhất của Ngân hàng tới khách hàng, sự kết hợp giữa quảng cáo và uy tín của ngân hàng sẽ làm tăng thêm niềm tin nơi khách hàng khi giao dịch với Ngân hàng và kết quả là ngày càng có nhiều người biết đến Ngân hàng. Do vậy, việc tổ chức được một đội ngũ nhân viên quảng cáo, tuyên truyền mang tính chuyên nghiệp là
công việc quan trọng đối với Chi nhánh trong giai đoạn hiện nay.
Song song với hình thức quảng cáo là hình thức khuyến mãi, đây là hình thức bổ trợ cho quảng cáo, tạo ra sự hấp dẫn và phong phú cho quảng cáo. Một khi Chi nhánh đưa ra được các hình thức khuyến mãi đa dạng, hay vào những thời điểm thích hợp thì ngay lập tức nó sẽ tạo sự thích thú nơi khách hàng, khách hàng không những được hưởng mức lãi suất cao mà còn được hưởng những dịch vụ do khuyến mãi đem lại ví dụ như: Chi nhánh tặng quà và trả lãi suất ưu đãi cho những khách hàng giao dịch với khối lượng vốn lớn, thường xuyên... (ví dụ như những khách hàng truyền thống từ đó hình thành mối quan hệ vững chắc, gắn bó mật thiết giữa khách hàng với Ngân hàng. Và qua đội ngũ khách hàng truyền thống này vô hình đã trở thành những người quảng cáo, tuyên truyền hữu hiệu và tốt nhất cho Chi nhánh tới những khách hàng mới, bởi họ là những người đã hiểu rõ về Chi nhánh hơn ai hết.
Ngoài ra, Chi nhánh cũng cần giành sự quan tâm tới mạng lưới thông tin quảng cáo, phải tích cực tuyên truyền sâu rộng trên phạm vi địa bàn Quận và có thể là xa hơn nữa nhằm đưa thông tin kịp thời chính xác về các hoạt động của Chi nhánh tới từng người dân, đáp ứng mọi nhu cầu cũng như giải quyết mọi thắc mắc của người dân.
Tích cực tìm biện pháp giảm nợ quá hạn.
Mặc dù nợ quá hạn của Chi nhánh đã giảm rất nhiều trong ba năm qua và luôn có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhất so với các ngân hàng thương mại khác trên cùng địa bàn, nhưng không vì thế mà Chi nhánh lại sao nhãng việc thu hồi các khoản cho vay quá hạn cũ hay ngăn chặn hiện tượng gia tăng nợ quá hạn... mà trái lại Chi nhánh phải tích cực hơn nữa trong việc tìm biện pháp giải quyết triệt để những khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi hiện nay để từng bước nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, tăng uy tín và quan trọng hơn là tạo đà vững chắc cho hoạt động huy động vốn của Chi nhánh (vì chỉ khi nào khách hàng tin tưởng rằng đồng tiền họ gửi vào Ngân hàng thực sự được an toàn và sinh lãi thì họ mới gửi).
Để giảm nợ quá hạn, trước hết Chi nhánh phải hạn chế việc phát sinh
nợ quá hạn mới, điều này cũng đồng nghĩa với việc Chi nhánh có các biện pháp để phòng ngừa rủi ro tín dụng. Kế đến, Chi nhánh rà soát lại toàn bộ nợ quá hạn cũ và dựa trên những thông tin thu được về tình hình tài chính của khách hàng cũng như mối quan hệ vốn có lâu nay giữa Chi nhánh với khách
hàng để đề ra biện pháp xử lý thích hợp, ví dụ:
_ Tích cực đôn đốc khách hàng trả nợ quá hạn, có biện pháp khuyến khích khách hàng trả nợ theo phương pháp: trả gốc trước - trả lãi sau. Những khách hàng tích cực trả nợ gốc, có ý thức hoàn trả món nợ đó thì Chi nhánh xem xét miễn giảm từng phần hoặc toàn bộ lãi cho khách hàng.
_ Trong trường hợp xấu nhất là không thu hồi được nợ vay thì Chi nhánh có thể dựa vào khối tài sản đã nhận thế chấp, cầm cố của khách hàng làm giảm bớt thiệt hại cho mình bằng việc:
+ Phát mại tài sản thế chấp, cầm cố để thu hồi nợ.
+ Trực tiếp sử dụng những tài sản thế chấp, cầm cố có giá trị sử dụng cao đối với Chi nhánh như: toà nhà có địa bàn giao dịch tốt, máy vi tính hiện đại... để mở rộng mạng lưới hoạt động và hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.
+ Buộc các cán bộ tín dụng phải bồi thường bồi thường đối với những khoản nợ quá hạn do lỗi thiếu trách nhiệm của họ gây ra...
Đi đôi với việc tìm ra những giải pháp xử lý nợ quá hạn hữu hiệu thì Chi nhánh cũng phải cần tổ chức thường xuyên một bộ phận chuyên xử lý các khoản nợ quá hạn, khó đòi tại Chi nhánh. Bộ phận này bao gồm những cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm về xử lý nợ... nhằm tạo điều kiện thu hồi nhanh chóng các khoản nợ cho Chi nhánh.
7. Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng không đơn thuần chỉ là những máy móc chuyên dụng, trang thiết bị, nhà cửa đơn thuần mà nó còn bao gồm cả một cơ chế thanh toán, một hệ thống thông tin tư liệu, thủ tục giấy tờ đang được áp dụng
và trực tiếp phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Do phải hoàn toàn độc lập tự chủ trong kinh doanh nên lượng vốn dùng cho đổi mới công nghệ của Chi nhánh còn hạn hẹp, hơn nữa nếu việc đổi mới không đem lại hiệu quả thì nó sẽ trở thành nhân tố gây khó khăn cho Chi nhánh. Vì vậy, việc lựa chọn một công nghệ phù hợp với điều kiện, khả năng của Chi nhánh trong giai đoạn hiện nay là hết sức quan trọng. Theo em, trước mắt Chi nhánh cần ưu tiên tập trung vốn đầu tư vào hiện đại hoá công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng để làm tăng lượng vốn tiền mặt trong Ngân hàng.
Hiện đại hoá công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng có nghĩa là Chi nhánh phải từng bước đưa các hình thức thanh toán thẻ vào áp dụng, phải đảm bảo cho khách hàng có thể gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi và công việc thanh toán được thực hiện trên một mạng máy vi tính thông suốt trong toàn hệ thống, cung cấp thông tin cập nhật và chính xác. Mỗi thẻ tiết kiệm và tài khoản cá nhân của khách hàng đều được sử dụng như một tài khoản tiền gửi thanh toán, theo đó người gửi tiền tại Chi nhánh có thể phát hàng séc, sử dụng thẻ điện tử hay áp dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác để chi trả thanh toán cho người thụ hưởng mà không nhất thiết phải có mặt tại Chi nhánh hoặc quỹ huy động vốn cơ sở...
Bên cạnh việc hiện đại hoá công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, Chi nhánh cũng cần phải xây dựng cho mình một hệ thống thông tin tư liệu hoàn chỉnh, chứa đầy đủ những thông tin cần thiết về khách hàng vì chỉ khi nắm bắt được đầy đủ thông tin về khách hàng thì Chi nhánh mới có thể nắm bắt được những nhu cầu của khách hàng một cách kịp thời, từ đó mới đề ra được những biện pháp phù hợp trong hoạt động huy động và sử dụng vốn. Mặt khác nó còn giúp Chi nhánh giảm thiểu được chi phí trong khi vẫn không để lỡ cơ hội kinh doanh.
8. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên.
Yếu tố “con người” luôn đóng vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động xã hội nói chung và hoạt động kinh tế nói riêng vì con người là một chủ thể không thể thay thế. Trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ ngân hàng thì yếu tố con người còn cần thiết và quan trọng hơn rất nhiều. Đối với Ngân hàng, để tạo ra được kết quả trong kinh doanh không những cần có những cán bộ có trình độ chuyên môn sâu sắc mà còn phải có đạo đức, có lòng yêu nghề để làm chủ bản thân trong quá trình xử lý nghiệp vụ và họ sẽ không làm nghèo đi tư cách của mình trong từng tình huống kinh doanh mà có thể gây phương hại đến quyền lợi chung. Do vậy ngay từ bây giờ Chi nhánh phải không ngừng xây dựng cho mình một chiến lược phát triển nhân sự lâu dài và hợp lý, gắn liền với chiến lược phát triển chung của Chi nhánh.
Muốn vậy Chi nhánh phải thường xuyên tiến hành tổ chức đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên trong toàn Chi nhánh, kết hợp với việc đề ra các chính sách khuyến khích bằng vật chất và tinh thần cho những nhân viên trực tiếp tham gia các khoá học hay tự học nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Hơn nữa, để giúp cán bộ công nhân viên nắm bắt nhanh nhạy những phương pháp làm việc mới, tiên tiến, khoa học, Chi nhánh có thể tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cán bộ công nhân viên của mình được tìm hiểu nghiên cứu và thậm chí là đi thăm quan học tập tại một số nước có ngành Ngân hàng phát triển.
Bên cạnh việc khuyến khích, hỗ trợ cũng như tạo mọi điều kiện cho cán bộ công nhân viên nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn thì Chi nhánh cũng cần phải có những hình thức thưởng phạt nghiêm minh nhằm một mặt động viên kịp thời đối với những cán bộ công nhân viên có thành tích tốt trong công việc thu hút khách hàng và phục vụ tốt khách hàng, một mặt xử lý triệt để những cán bộ công nhân viên có thái độ và tác phong chưa đúng trong khi làm việc. Đồng thời Chi nhánh cũng cần tăng cường bồi dưỡng và giáo dục cán bộ công nhân viên có thái độ ân cần niềm nở hơn, thao tác nghiệp vụ nhanh, chính xác hơn cũng như giải thích mọi thắc mắc của khách hàng một cách lễ độ và dễ hiểu... Từ đó Chi nhánh tạo cho mình một đội ngũ cán bộ công nhân viên theo đúng tiêu chuẩn, hiểu biết pháp luật - làm đúng pháp luật, có trình độ chuyên môn giỏi và năng động, hiệu quả làm việc cao, đem đến cho Chi nhánh nhiều khách hàng chân chính làm ăn thực thụ và như vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng chắc chắn sẽ tăng lên.
B. Nhóm giải pháp vĩ mô:
1. Đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam.
Trong thời gian tới, để tạo điều kiện thuận lợi cũng như khuyến khích công tác huy động vốn của Chi nhánh đạt hiệu quả hơn nữa, Ngân hàng Công thương Việt nam cần đưa ra những biện pháp chiến lược sau:
1.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý dựa trên điều kiện cụ thể của Chi nhánh.
Ngân hàng Công thương Việt nam cần căn cứ vào tình hình và yêu cầu của thị trường, điều kiện cụ thể của Chi nhánh về năng lực tài chính, về địa bàn hoạt động, về nhân tố con người... để xác định, xây dựng và hoàn thiện một chiến lược phát triển kinh doanh hợp lý, đứng đắn trên tất cả các mặt hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đồng thời cũng đề ra các biện pháp thích hợp, năng động, hiệu quả phục vụ cho chiến lược kinh doanh đó. Việc xác định, xây dựng, có biện pháp thực hiện và điều chỉnh chiến lược phát triển kinh doanh là cụ thể hoá chiến lược thành các hoạt động cụ thể phù hợp với điều kiện thị trường, điều kiện và năng lực hoạt động của Chi nhánh trong từng giai đoạn nhất định.
Chiến lược phát triển kinh doanh của Ngân hàng Công thương phải là một chiến lược kinh doanh hỗn hợp, nó là một thể thống nhất gồm các chiến lược của từng lĩnh vực kinh doanh riêng biệt. Các chiến lược này được cấu thành và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động bổ trợ lẫn nhau trong thể thống nhất phù hợp với chiến lược phát triển chung. Chiến lược phát triển của Ngân hàng phải mang tính thực tiễn và khả thi qua việc tổ chức, xây dựng; muốn điều chỉnh nó thì phải căn cứ vào các yếu tố thực tế liên quan của thị trường. Hơn nữa, chiến lược đó cũng phải có khả năng dự đoán trước được tương lai của thị trường, sự phát triển của yêu cầu và mục đích thực hiện cũng như trình độ năng lực thực hiện của Ngân hàng Công thương nói chung và từng đơn vị cơ sở nói riêng, qua đó đảm bảo sự phát triển chung của toàn hệ thống.
Đối với chiến lược huy động vốn, được xem là một trong những chiến lược quan trọng cấu thành nên chiến lược nguồn vốn của Ngân hàng. Cho
nên khi xây dựng, điều chỉnh chiến lược này, ngoài việc xác định những chỉ tiêu cụ thể, khoa học, đòi hỏi Ngân hàng phải đề ra các biện pháp thực hiện chặt chẽ, hữu hiệu, năng động và đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc trên, tức là phải luôn bám sát vào tình hình của Ngân hàng, của từng Chi nhánh, vào các yếu tố thị trường... Mặt khác, chiến lược huy động vốn phải là thể thống nhất giữa các chiến lược cấu thành lên nó, trong sự liên quan hệ thống với các chiến lược phát triển của Ngân hàng trên tất cả các mặt, chịu sự quy định của chiến lược phát triển chung. Có như vậy hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy dộng vốn nói riêng của Ngân hàng Công thương cùng các đơn vị thành viên mới đạt được hiệu quả cao.
1.2. Phát triển và mở rộng mạng lưới Ngân hàng Công thương.
Đi đôi với việc xây dựng một chiến lược kinh doanh hợp lý mang tính lâu dài dựa trên cơ sở nền tảng về khả năng tài chính, năng lực cán bộ công nhân viên... trong thời gian tới, Ngân hàng Công Thương cần thiết phải có những biện pháp đẩy mạnh và phát triển mạng lưới các Chi nhánh, các đơn vị thành viên của mình nhằm tạo ra một cơ cấu hợp lý trên toàn hệ thống. Trong đó, đặc biệt chú ý đến các khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm mới mở, các khu vực đông dân cư, các vùng nông thôn.
Tuy nhiên, khi đẩy mạnh việc mở rộng và phát triển mạng lưới các Chi nhánh Ngân hàng Công Thương, đặc biệt là tới các vùng nông thôn, vùng xâu vùng xa, sẽ làm cho công tác quản lý có phần vất vả và phức tạp hơn trước nhiều thế nhưng điều đó không phải là không thực hiện được. Cho đến nay đã có không ít Ngân hàng tích cực triển khai mở rộng mạng lưới Chi nhánh và bước đầu cũng gặt hái được một số thành công nhất định, điển hình trong số đó là Ngân hàng NNo&PTNT Việt nam – một Ngân hàng luôn đi đầu trong việc mở rộng mạng lưới, phạm vi kinh doanh.
Một vấn đề nữa Ngân hàng cũng cần quan tâm khi mở rộng mạng lưới đó là phải tính đến yếu tố “chi phí” mà Ngân hàng phải bỏ ra để mở rộng mạng lưới kinh doanh. Vì nếu việc mở rộng mạng lưới làm cho chi phí của Ngân hàng tăng lên quá nhiều dẫn đến việc Ngân hàng phải ấn định mức lãi
suất đầu ra cao hoặc cắt giảm mức lãi suất đầu vào để bù đắp cho khoản chi phí phát sinh thêm thì khi đó việc mở rộng mạng lưới chưa hẳn đã đem lại hiệu quả như mong muốn cho Ngân hàng mà trái lại nó có thể trở thành nhân tố trực tiếp làm giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của chính Ngân hàng.
Cùng với việc mở rộng mạng lưới Chi nhánh, Ngân hàng Công Thương cũng cần củng cố, nâng cao chất lượng và đổi mới hoạt động của các quỹ tiết kiệm, các phòng giao dịch hiện có. Ngân hàng cần tích cực hơn nữa, mạnh dạn hơn nữa trong việc mở rộng, đa dạng hoá lĩnh vực kinh doanh, thực hiện nhiều loại hình dịch vụ như vừa nhận tiền gửi, vừa cho vay, vừa mua bán các loại ngoại tệ và vàng bạc, đá quý… đảm bảo đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng khi đến với Ngân hàng, qua đó Ngân hàng sẽ tạo được niềm tin trong khách hàng và thu hút ngày càng được nhiều nguồn vốn nhàn dỗi từ khách hàng.
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý và điều hành hệ thống Ngân hàng, được xem là Ngân hàng của các Ngân hàng, có vị trí rất lớn trong công cuộc huy động vốn phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Với một chính sách đúng đắn cộng với cách thức điều hành hợp lý, Ngân hàng nhà nước sẽ là tiền đề quan trọng và có tác động tích cực đến việc khơi tăng khả năng huy động nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân của các NHTM nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng nói riêng.
Kinh nghiệm thực tế ở nước ta trong các năm qua cho thấy, bằng các biện pháp thích hợp như : ổn định giá trị đồng nội tệ, kiềm chế lạm phát, tạo lập hệ thống Ngân hàng ngày càng vững mạnh... đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động huy động vốn của các NHTM. Tuy nhiên, trong thời gian tới để các NHTM phát huy hơn nữa công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư thì các chính sách điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước cần phải tiếp tục được hoàn thiện và đổi mới, cụ thể như sau:
2.1. Về lãi suất:
Trước hết, để công cụ lãi suất tiếp tục phát huy được vai trò tác dụng
của mình trong tình hình mới, Ngân hàng Nhà nước cần thiết ban hành một hệ thống lãi suất cơ bản hợp lý, có tính ổn định lâu dài và phù hợp với từng thời kỳ nhất định nhưng vẫn bảo đảm mức lãi suất thực dương có lợi cho người gửi tiền, người vay tiền và Ngân hàng.
Việc Ngân hàng Nhà nước chuyển từ cơ chế lãi suất trần và lãi suất sàn sang điều hành theo lãi suất cơ bản là một bước tiến lớn. Theo cơ chế đó, mỗi tháng, Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất cơ bản một lần để các tổ chức tín dụng dựa vào đó mà tự ấn định tỷ lệ lãi suất kinh doanh sao cho thích hợp. Hơn nữa, vừa qua Ngân hàng Nhà nước cũng đã ra quyết định xoá bỏ việc áp đặt tỷ lệ lãi suất ngoại tệ để các tổ chức tín dụng tự quyết định lãi suất ngoại tệ trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Việc làm này giúp các Ngân hàng thương mại chủ động hơn trong kinh doanh ngoại tệ và phản ánh đúng nhu cầu thực sự về ngoại tệ trên thị trường.
Tuy nhiên, về lâu dài, Ngân hàng Nhà nước cần có những biện pháp hạ thấp dần mức lãi suất trong nền kinh tế để từng bước hoà nhập với mặt bằng lãi suất chung của các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì trong tương lai tiến tới xu hướng tự do hoá lãi suất giữa các nước, các khu vực trên phạm vi toàn thế giới, mức lãi suất sẽ là như nhau ở tất cả các nước, thì việc duy trì một mức lãi suất quá cao sẽ trực tiếp gây cản cho các doanh nghiệp khi tiếp cận nguồn vốn Ngân hàng hoặc nếu có tiếp cận được thì chi phí trả lãi cho Ngân hàng cũng là quá cao, kết quả là làm giảm sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, và như vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng như hoạt động thu hút vốn của các NHTM sẽ giảm đi rõ rệt.
Bên cạnh đó, hiện nay khi mà nước ta tham gia ngày càng nhièu vào tổ chức kinh tế, các khu vực mậu dịch tự do...thì Ngân hàng Nhà nước cũng phải cởi mở chính sách lãi suất hơn. Theo đó, việc điều hoà lãi suất phải vừa thận trọng và linh hoạt đảm bảo nhu cầu về vốn cho các thành phần trong nền kinh tế vừa thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào thị trường trong nước...
2.2. Về tỷ giá.
Qua quá trình điều hành tỷ giá và thực tế nền kinh tế nước ta trong những năm qua cho thấy: Cơ chế điều hành tỷ giá giao dịch của Ngân hàng Nhà nước là hoàn toàn phù hợp với quá trình vận động và phát triển của nền kinh tế, phù hợp với nền kinh tế Việt nam. Thật vậy, sở dĩ cho đến nay Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn là do: Cơ chế này chỉ thật sự mang lại hiệu quả cao khi đi liền với nó phải là một thị trưòng hối đoái phát triển ở trình độ cao, có đầy đủ các công cụ gián tiếp giúp Ngân hàng có thể linh hoạt trong điều hành, can thiệp và trung hoà các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Hơn nữa, bản thân nền kinh tế trong nước cũng phải phát triển mạnh, giá trị đồng nội tệ ổn định và có lượng dự trữ ngoại tệ lớn, khả năng chuyển đổi nhanh.
Do vậy, để hạn chế sự biến động về tỷ giá, tạo sự an tâm cho người gửi tiền, cho các nhà đầu tư nước ngoài đang hoặc sẽ đầu tư vào trong nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM huy động được nguồn vốn ngoại tệ đang nằm trong dân, trong thời gian tới, chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện trên cơ sở tập chung vào các vấn đề sau:
_ Tích cực hoàn thiện thị trường hối đoái và thị trường nội tệ thông qua việc sử dụng có hiệu quả hai công cụ thị trường này, trên cơ sở đó hoàn thiện, thống nhất, tập trung cơ chế quản lý, điều hành và can thiệp của Ngân hàng Nhà nước.
_ Hình thành các quỹ ngoại tệ tập trung do Ngân hàng Nhà nước trực tiếp đứng ra điều hành và quản lý nhằm mục đích dự trữ một lượng ngoại tệ mạnh đủ lớn để can thiệp vào thị trường khi cần thiết.
_ Không ngừng cải tiến và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về quản lý ngoại hối, đảm bảo luôn đi sâu, đi sát với tình hình thực tế.
_ Tiếp tục vận hành cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng nới rộng phạm vi kiểm soát, cho phép tỷ giá được hình thành khách quan hơn, sát thực hơn với quan hệ cung - cầu về ngoại tệ trên thị trường vào những thời điểm nhất định...
2.3. Tổ chức triển khai tốt thị trường vốn.
Thị trường vốn là thị trường tài chính trong đó diễn ra các hoạt động vay mượn, mua bán các công cụ nợ trung - dài hạn (kỳ hạn thanh toán trên 1 năm) như: các loại chứng khoán nợ, cổ phiếu... và các Ngân hàng thương mại có thể huy động nguồn vốn trung và dài hạn qua thị trường này. Đây có thể được xem như là công nghệ để Ngân hàng Nhà nước điều hoà khả năng thanh toán giữa các NHTM thiếu vốn và là thị trường đầu ra của các NHTM thừa vốn.
Theo kinh nghiệm từ các nước có thị trường vốn phát triển cho thấy: hoạt động của thị này có tác động rất lớn đến việc huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, trong đó có công tác huy động nguồn tiền gửi của các Ngân hàng thương mại. Mặt khác, sự phát triển của thị trường vốn sẽ là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán. Khi đó với một thị trường chứng khoán phát triển sẽ xoá bỏ được hoàn toàn sự mâu thuẫn tồn tại lâu nay giữa nhu cầu vốn kinh doanh trung - dài hạn của các doanh nghiệp với sự thay đổi về hình thức đầu tư của các nhà đầu tư. Đồng thời góp phần huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi đang nằm rải rác trong dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp xúc được với những nguồn vốn có chi phí thấp, tính ổn định cao...
Thế nhưng ở nước ta hiện nay, thị trường vốn còn kém phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, phần lớn lượng vốn đầu tư vẫn phải dựa vào việc khai thác từ thị trường tiền tệ (thị trường tài chính ngắn hạn)... Hơn nữa, thị trường chứng khoán mới trong giai đoạn đầu phát triển, hoạt động mang tính chất cầm chừng, hàng hoá trên thị trường còn đơn điệu, số lượng khách hàng tham gia giao dịch còn hạn chế và có thể nói tình hình hoạt động chung của thị trường chứng khoán nước ta xem ra chưa có dấu hiệu khả quan.
Chính vì vậy, việc phát triển thị trường vốn là vấn đề không chỉ riêng của ngành nào cấp nào mà nó đòi hỏi sự hợp tác kết hợp chặt chẽ của tất cả các ngành cùng đứng ra thực hiện theo sự chỉ đạo nhất quán của Chính Phủ nói chung và của Bộ Tài Chính nói riêng.
Đối với Ngân hàng Nhà nước, trong thời gian tới, với khả năng và tiềm lực của mình nên mạnh dạn thực hiện một số biện pháp góp phần phát triển thị trường vốn ở nước ta như:
_ Tái cấp vốn trung và dài hạn cho các Ngân hàng thương mại bằng việc nới lỏng điều kiện vay và mức lãi suất cho vay cũng phải hợp lý hơn.
_ Xem xét lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM và có biện pháp điều chỉnh thích hợp mỗi khi có sự biến động từ thị trường, không nên quy định tỷ lệ này quá cao vì sẽ làm ảnh hưởng đến nguồn vốn cho vay cũng như lợi nhuận của NHTM.
_ Tổ chức xây dựng các “quỹ vốn huy động” và “quỹ bảo hiểm tiền gửi” để tạo lập lòng tin của người dân vào hệ thống Ngân hàng và đảm bảo cho các Ngân hàng không bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, qua đó giúp NHTM tự chủ hơn trong quá trình phát hành các công cụ nợ trung và dài hạn.
_ Cần có những biện pháp cụ thể khuyến khích các NHTM thành lập các công ty kinh doanh chứng khoán và tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán trên thị trường nhằm từng bước tạo cho thị trường này thêm sôi động và hiệu quả.
Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng. Tất cả các giải pháp này dù ở tầm vi mô hay vĩ mô đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động bổ trợ lẫn nhau và phải được kết hợp một cách đồng bộ và nhất quán thì mới đảm bảo mang lại thành công thực sự cho hoạt động huy động vốn của Chi nhánh.
Để hỗ trợ và tạo điều kiện cho các giải pháp kể trên đạt hiệu quả cao hơn, thì ngoài sự cố gắng nỗ lực của Chi nhánh còn cần có sự phối hợp và giúp đỡ từ phía các cơ quan chức năng có thẩm quyền Nhà nước trong việc ban hành và thực thi các chính sách liên quan đến lĩnh vực tài chính ngân hàng. Cụ thể trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần thực hiện các
công việc sau:
1. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, các Doanh nghiệp, các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, nhất là đối với tư nhân đã giải toả được nhiều mặc cảm, không yên tâm đối với sự thiếu nhất quán của các chính sách và các biện pháp trong thời gian qua. Tuy nhiên nguyện vọng chung của người bỏ vốn đầu tư là mong đợi có hệ thống pháp lý rõ ràng, đầy đủ và bình đẳng.
Hệ thống Luật kinh tế của Việt nam hiện còn nhiều thiếu sót. Ngoài Hiến pháp là đạo luật cơ bản, những Bộ luật căn bản cần thiết trong quan hệ kinh tế, đặc biệt trong cơ chế kinh tế hiện nay như: Luật thương mại, Luật Toà án kinh tế, Luật Kế toán và Kiểm toán độc lập... cũng chưa được hoàn thiện.
Do đó để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người đầu tư (đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp thông qua các tổ chức Tài chính- Ngân hàng) và người sử dụng vốn đầu tư, kiến nghị cần phải có một hệ thống pháp lý đồng bộ như: Luật Bảo hộ quyền tài sản tư nhân, Luật Thương mại, Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật thương phiếu...
Việc ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ và rõ ràng, không chỉ là tạo niềm tin cho dân chúng trong khuôn khổ của pháp luật, mà với những qui định khuyến khích của Nhà nước sẽ tác động trực tiếp tới điều chỉnh quan hệ giưã tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển một bộ phận tiêu dùng chư cấp thiết sang đầu tư, chuyển dần tài sản cất giữ dưới dạng vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi vốn vào Ngân hàng.
2. Tạo lập môi trường tâm lý xã hội thuận lợi.
Nhà nước, các tổ chức xã hội, đoàn thể, nhà trường... phải tạo ra một môi trường tâm lý xã hội coi trọng tích luỹ trong toàn xã hội. Trong mối quan hệ tích luỹ - tiêu dũng xã hội, tiêu dùng xã hội không tạo ra lợi nhuận cần hài hoà với mức tích luỹ. Giải quyết hài hoà mối quan hệ tích luỹ - tiêu dùng trở thành tâm lý chung, lợi ích chung, việc làm chung trong toàn xã hội
đối với các thành viên xã hội cũng như các cá nhân và các tổ chức.
Đó chính là nguyên nhân để Nhà nước cần xây dựng các biện pháp để tâm lý ấy được thực hiện trong toàn xã hội, kết hợp với việc xây dựng một khuynh hướng kinh doanh tiết kiệm vốn, tăng cường tích luỹ, tạo năng lực tài chính, mở rộng đầu tư khi đủ điều kiện của các doanh nghiệp kinh tế tư nhân cũng như doanh nghiệp nhà nước.
Đưa nền kinh tế đi vào thế ổn định và phát triển.
Ngân hàng thương mại luôn được xem là trung tâm của nền kinh tế, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, hoạt dộng của nó có tác động đến sự phát triển cũng như sự suy tồn của các thành phần trong nền kinh tế. Song như một quan hệ hai chiều, sự phát triển bền vững của nền kinh tế lại là tiền đề quan trọng cho các Ngân hàng thương mại nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn. Sự phát triển bền vững, ổn định và với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế sẽ tạo điều kiện cho người dân có thu nhập ổn định hơn và qua đó có thể tăng khả năng tiết kiệm. Mặt khác, chỉ khi nền kinh tế phát triển ổn định bền vững thì lạm phát mới được đẩy lùi, người dân tin tưởng vào Ngân hàng và cảm thấy yên tâm khi gửi tiền vào Ngân hàng. Ngược lại, nếu nền kinh tế phát triển thiếu sự ổn định, nguy cơ phá giá hay mất giá đồng tiền cao thì người dân sễ cảm thấy không yên tâm khi gửi tiền của mình vào Ngân hàng vì họ sợ sẽ bị thua thiệt nếu đem gửi vào Ngân hàng thay vì mua vàng hay ngoại tệ mạnh và cất giữ luôn tại nhà. Hơn nữa, khi nền kinh tế phát triển ổn định bền vững, tỷ giá đồng bản tệ và tỷ lệ lạm phát được giữ được ở mức tối ưu thì các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mới tích cực vay vốn Ngân hàng để đầu tư sản xuất kinh doanh, từ đó khơi thông được vốn đầu ra cho Ngân hàng.
Kết luận
Sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước là bước đi tất yếu của mọi quốc gia trên thế giới, đặc biệt là đối với nước ta – một nước nông nghiệp lạc hậu đang trong thời kỳ đổi mới. Quá trình này nhằm đưa nước ta dần vươn lên thoát khỏi tình trạng tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thực hiện thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là nhiệm vụ đặt ra cho tất cả các cấp và các ngành.
Là một Chi nhánh lớn trong hệ thống Ngân hàng Công thương, giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực tài trợ công thương, trong những năm qua Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng đã từng bước làm tốt công tác huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế địa phương, góp phần đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Thành công đó bước đầu khẳng định sự đúng đắn trong các chính sách chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Công thương Việt nam và của Ban giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II - Hai Bà Trưng.
Trong thời gian tới, để tiếp tục đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng của các doanh nghiệp trên địa bàn Quân Hai Bà Trưng nói riêng và nền kinh tế nói chung, ngoài những nỗ lực tìm tòi và phát triển các hình thức huy động mới có hiệu quả, Chi nhánh cũng rất cần sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng trong việc tạo lập môi trường vĩ mô thuận lợi để Chi nhánh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cung ứng vốn cho đầu tư sản xuất kinh doanh phát triển.
Mặc dù đã có thời gian tìm hiểu nghiên cứu, song do năng lực và kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế nên trong cuốn luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót hạn chế nhất định. Do vậy, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ các thầy cô giáo cùng toàn thể các cô chú, anh chị tại Chi nhánh để cuốn luận văn này có thể phát huy được hiệu quả thiết thực.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Kim Quý và các cô, các chị phòng Nguồn vốn – Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng đã giúp đỡ em trong quá trình thu thập số liệu và viết cuốn luận văn này.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường Tài chính – frederic s.mishkin
Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại hiện đại – davidcox
Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – Tác giả Lê Văn Tư
Lý thuyết tài chính tiền tệ – NXB Thống kê 1997.
Quản lý và kinh doanh tiền tệ – NXB Tài chính 1997.
Tài liệu tham khảo dành cho khoá học Quản trị Ngân hàng thương mại
(Ngân hàng Công thương Việt nam – 2000)
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 1999, 2000, 2001 của Chi nhánh Ngân hàng Công thương khu vực II – Hai Bà Trưng.
Tạp chí Ngân hàng các năm 1999, 2000, 2001, 2002.
Các sách báo và tạp chí khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28737.doc