Phải khẳng định được khách hàng có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Thẩm định tình hình tài chính và năng lực kinh doanh của khách hàng:
Thẩm định năng lực tài chính và năng lực kinh doanh của khách hàng trong cả hiện tại và dự báo trong tương lai. Việc thẩm định phải dựa vào các tài liệu: các báo cáo tài chính; các nguồn thông tin tài chính; các thông tin từ phía bạn hàng của khách hàng; thông tin từ các cơ quan quản lý; từ báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng. Qua đó:
Có cái nhìn tổng quan về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp tối thiểu là hai năm gần nhất và quý gần nhất.
Nắm bắt tình trạng của tài sản hiện có, khả năng vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh thông qua việc phân tích tình hình vốn tài sản của doanh nghiệp tối thiểu là hai năm gần nhất và quý gần nhất.
Nắm bắt được kế hoạch kinh doanh, bộ máy tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
Về tính khả thi của dự án (đối với bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh vay vốn):
Tập hợp đủ các hồ sơ của dự án và xem xét kỹ lưỡng, khẳng định được cơ sở pháp lý của dự án.
Phân tích tài chính dự án: Xác định tổng mức đầu tư (vốn cố định, vốn lưu động), nguồn vốn đầu tư (vốn tự có, vốn đi vay.) tính toán mức bảo lãnh, thời hạn bảo lãnh cho phù hợp.
Phân tích hiệu quả dự án: bao gồm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội (tạo công ăn việc làm, tận dụng tài nguyên, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải thiện kinh tế.).
Phân tích tính khả thi của dự án: thị trường tiêu thụ, thị trường vật liệu và các yếu tố đầu vào (nguồn và khả năng cung cấp, tính ổn định, khả năng thay thế.), công nghệ và tài sản cố định của dự án, tổ chức quản lý sản xuất và lao động, các tác động khách quan khác.
73 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1504 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y nhiên bảo lãnh dự thầu lại gồm rất nhiều món phát sinh. Điều này hoàn toàn phù hợp vì phần lớn khách hàng của Sở giao dịch I là những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Khi tham gia dự thầu, chủ đầu tư thường yêu cầu các nhà thầu phải có bảo lãnh của một Ngân hàng uy tín để đảm bảo rằng họ sẽ được bồi thường nếu các bên dự thầu vi phạm quy chế đấu thầu hay để chắc chắn việc tham gia đấu thầu của các nhà thầu là hoàn toàn nghiêm túc. Bảo lãnh dự thầu do SGDI - NH ĐT&PT VN cung cấp đã đáp ứng kịp thời nhu cầu bảo lãnh cho các khách hàng của mình.
Bảo lãnh dự thầu cũng là tiền đề phát sinh các nhu cầu bảo lãnh tiếp theo sau khi doanh nghiệp đã trúng thầu đặc biệt là trong các hợp đồng thi công xây lắp và đem lại một khoản phí đáng kể cho Ngân hàng.
Ä Với bảo lãnh thực hiện hợp đồng:
Là loại bảo lãnh chiểm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số dư bảo lãnh tại SGDI: 42,71% năm 2001; 41,68% năm 2002; 39,77% năm 2003. Loại bảo lãnh này có giá trị lớn, chiếm từ 10% đến 15% giá trị hợp đồng. Bảo lãnh này thường là giai đoạn tiếp theo bảo lãnh dự thầu sau khi các nhà thầu đã trúng thầu, nhằm đảm bảo với chủ đầu tư rằng nhà thầu sẽ thực hiện đúng cam kết đã ký. Do giá trị lớn nên loại bảo lãnh này đòi hỏi phải có các loại hình bảo đảm cho bảo lãnh khá chặt chẽ nhằm hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.
Ä Với bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước:
Loại bảo lãnh này cũng chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, chỉ sau bảo lãnh thực hiện hợp đồng: 23,85% năm 2001; 22,27% năm 2002; 27,67% năm 2003. Đối với các nhà thầu, trong khả năng vốn còn hạn hẹp, họ thường yêu cầu chủ đầu tư hỗ trợ một phần tiền ứng trước mặt khác để đảm bảo an toàn, chủ đầu tư cũng yêu cầu có một Bảo lãnh ngân hàng đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước nếu đối tác không thực hiện đúng hợp đồng. Giá trị bảo lãnh chiếm từ 5% đến 10% giá trị hợp đồng.
Ä Với bảo lãnh bảo hành:
Loại bảo lãnh này chiếm tỷ trọng không lớn: 1,92% năm 2001; 1,33% năm 2002; 1,45% năm 2003. Giá trị bảo lãnh chỉ chiếm từ 2-5% giá trị hợp đồng nhưng mức độ rủi ro cũng khá cao bởi nếu xảy ra hiện tượng gì với công trình sau khi thi công mà chủ thầu không khắc phục được thì Sở giao dịch I sẽ phải thanh toán cho chủ đầu tư nhưng Ngân hàng thường không yêu cầu khách hàng có bảo đảm chặt chẽ như các loại bảo lãnh khác.
Ä Với bảo lãnh vay vốn và bảo lãnh thanh toán:
Thường được doanh nghiệp sử dụng khi tham gia vào quan hệ tín dụng và thương mại quốc tế. Mặt khác theo quy định của NH ĐT&PT VN, tất cả các món bảo lãnh có giá trị vượt quá một giới hạn quy định thì chi nhánh phải chuyển lên Trung ương thực hiện. Mức phí vẫn chưa hấp dẫn, trình độ thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng liên quan đến phạm vi quốc tế chưa cao so với một số đối thủ cạnh tranh trên địa bàn như Ngân hàng Ngoại thương, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài... cũng là một nguyên nhân khiến cho hai loại bảo lãnh này chưa thực sự hấp dẫn khách hàng. Do đó, số dư hai loại bảo lãnh này chiếm tỷ trọng không cao trong tổng số dư bảo lãnh tại SGDI.
Bên cạnh các loại bảo lãnh trên, Sở giao dịch còn thực hiện nhiều loại hình bảo lãnh khác theo yêu cầu của khách hàng, chiếm một tỷ trọng không lớn, chưa đến 10% trong tổng số dư bảo lãnh.
Về đối tượng khách hàng:
Khách hàng của Sở giao dịch phần lớn là các Tổng công ty, các doanh nghiệp Nhà nước và các đơn vị thành viên hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Năm 2003, tỷ trọng số dư bảo lãnh cho các doanh nghiệp quốc doanh là 89%, còn lại bảo lãnh cho các thành phần kinh tế khác.
Biểu đồ 4. Tỷ trọng số dư bảo lãnh theo đối tượng khách hàng.
Về phí thu từ hoạt động bảo lãnh.
Đây là nguồn thu nhập của Ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh cho khách hàng. Khách hàng khi tham gia bảo lãnh thì bắt buộc phải nộp khoản phí bảo lãnh dựa trên cơ sở mức phí do Ngân hàng đưa ra và giá trị, thời gian của khoản bảo lãnh.
Công thức tính phí bảo lãnh tại Sở như sau:
Phí phải thu
=
Số tiền được BL * Mức phí BL * Số ngày BL thực tế
360
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các Ngân hàng trên địa bàn thì việc Ngân hàng đưa ra mức phí bảo lãnh như thế nào có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến việc thu hút khách hàng của Ngân hàng mình.
Thu phí từ hoạt động bảo lãnh qua các năm:
Năm
Dịch vụ
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Phí thu
được
(tỷ đ)
Tỷ trọng
(%)
Phí thu
được
(tỷ đ)
Tỷ trọng (%)
Phí thu
được
(tỷ đ)
Tỷ trọng (%)
1. Dịch vụ bảo lãnh
6.05
32,26
8,1
33,33
11,94
41,89
2. Dịch vụ khác
12,705
67,74
16,2
66,67
16,56
58,11
Tổng
18,755
100
24,3
100
28,5
100
Biểu đồ 5. Mức tăng trưởng thu nhập từ hoạt động bảo lãnh qua các năm:
Bảng số liệu và biểu đồ trên cho thấy rõ nguồn thu từ dịch vụ của Ngân hàng qua các năm đạt mức tăng trưởng rất cao: năm 2002 đạt 8,1 tỷ tăng 33,88% so với năm 2001; năm 2003 đạt 11,94 tỷ đồng tăng 47,71% so với năm 2002 và tăng gần gấp đôi so với năm 2001. Điều này cho thấy SGDI đã ngày càng quan tâm đến việc phát triển các hoạt động dịch vụ của mình. Đây cũng chính là xu hướng phát triển chung của các Ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên so vởi tổng thu nhập của Ngân hàng thì thu từ dịch vụ trong đó có thu về bảo lãnh còn chiếm một tỷ lệ quá khiêm tốn. Năm 2003, thu dịch vụ chỉ chiếm 13,9% trong tổng lợi nhuận trước thuế của Sở giao dịch I. Vì vậy trong thời gian tới Sở cần quan tâm nhiều hơn đến việc phát triển hoạt động bảo lãnh để tăng lợi nhuận nói chung và tăng thu từ hoạt động bảo lãnh nói riêng đồng thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng và cả nền kinh tế.
2.2.2. Một số đánh giá về công tác bảo lãnh tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
ú Những mặt đạt được:
Qua 9 năm thực hiện, hoạt động bảo lãnh tại SGDI - NH ĐT&PT VN đã đạt được những bước tiến không nhỏ. Hoạt động bảo lãnh càng ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu dịch vụ của Sở, đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng trong điều kiện hoạt động của cơ chế thị trường.
² Hoạt động bảo lãnh đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhận được một nguồn tài trợ rất lớn, không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, ký kết được hợp đồng khi chưa có được sự tin tưởng của đối tác, nâng cao chất lượng của các hoạt động sản xuất kinh doanh... từ đó tạo chỗ đứng và góp phần nâng cao uy tín doanh nghiệp trên thị trường;
² Hoạt động bảo lãnh đã làm phong phú các loại hình dịch vụ của Sở, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến vởi Sở. Số dư bảo lãnh và doanh số bảo lãnh tăng trưởng nhanh. Hoạt động bảo lãnh cũng đem lại một nguồn thu đáng kể từ phí bảo lãnh. Thông thường phí thu được từ hoạt động bảo lãnh chiếm trên dưới 40% tổng thu từ hoạt động dịch vụ của SGDI. Hoạt động bảo lãnh cũng tạo tiền đề cho hoạt động tín dụng, huy động vốn bởi thông qua việc phát hành bảo lãnh, SGDI đã tận dụng được một nguồn vốn rẻ từ tài khoản ký quỹ của khách hàng đồng thời khi doanh nghiệp có khó khăn về mặt tài chính và nảy sinh nhu cầu vay vốn thì tín dụng SGDI đã đáp ứng kịp thời. Càng ngày, lòng tin của khách hàng đối với SGDI càng tăng lên nhờ việc làm tốt vai trò của nhà tư vấn.
² Hoạt động bảo lãnh ở Sở tương đối an toàn. Cho đến nay, SGDI chưa phải thanh toán thay cho một khách hàng nào. Điều này đã giúp nâng cao uy tín của SGDI, ngày càng nhiều khách hàng tin tưởng và tham gia giao dịch với Sở.
Có được kết quả trên là do rất nhiều nguyên nhân:
Một là, Sở giao dịch I có địa bàn hoạt động rất thuận lợi là thủ đô Hà nội, nơi tập trung hầu hết các tổng công ty Nhà nước, các công ty, các công ty nước ngoài và liên doanh (61 tổng công ty, 914 doanh nghiệp Nhà nước, 4.000 doanh nghiệp tư nhân, 360 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trên 90.000 hộ sản xuất kinh doanh dịch vụ); cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật hiện đại vào loại bậc nhất trong các Ngân hàng hiện nay hỗ trợ cho hoạt động bảo lãnh.
Hai là, trong tổ chức hoạt động của Sở có sự phối kết hợp thường xuyên giữa các phòng nghiệp vụ do đó cán bộ thực hiện bảo lãnh có thể nắm được thông tin khá tổng hợp về khách hàng, giải quyết dễ dàng khi có vướng mắc khó khăn trong tìm hiểu khách hàng. Bên cạnh đó, hình thức quản lý theo tổ, mỗi cán bộ phụ trách một số doanh nghiệp đã giúp cho việc tìm hiểu về doanh nghiệp là khá sâu sát.
Ba là, Sở giao dịch có một đội ngũ cán bộ thực hiện bảo lãnh có trình độ, năng động nhiệt tình. SGDI cũng khá quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ, việc tuyển chọn bổ sung đội ngũ cán bộ mới cũng luôn được quan tâm.
Bốn là, là một đơn vị thành viên của Ngân hàng ĐT&PT VN, Sở được kế thừa kinh nghiệm, truyền thống của một Ngân hàng với bề dày thành tích, có uy tín cao, tiềm lực tài chính mạnh đặc biệt là các mối quan hệ tín nhiệm lâu bền với các doanh nghiệp Nhà nước, các tổng công ty mà điều này vốn rất quan trọng đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Mặt khác, Sở luôn được sự quan tâm chỉ đạo đúng đắn của NH ĐT&PT VN, được NH ĐT&PT VN tin tưởng và trao cho nhiều trọng trách quan trọng, luôn đi đầu trong việc triển khai các loại hình dịch vụ mới, ứng dụng công nghệ mới.
ú Những mặt hạn chế:
Về đối tượng khách hàng:
Khách hàng giao dịch bảo lãnh với SGDI chưa đa dạng. SGDI hiện nay phần lớn tập trung bảo lãnh cho khách hàng là các Tổng công ty, các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, còn lại bảo lãnh cho các đối tượng khác rất hạn chế.
Nguyên nhân khách quan của tình trạng này là do ở nước ta hiện nay tồn tại một thực tế là phần lớn các doanh nghiệp không đủ vốn để kinh doanh. Vốn vay Ngân hàng, vốn chiếm dụng, vốn đi vay khác hiện nay là nguồn vốn chủ yếu để sản xuất kinh doanh. Thậm chí với doanh nghiệp mới thành lập thì nguồn vốn này chiếm gần như 100%. Số doanh nghiệp muốn xin bảo lãnh thì lớn nhưng số doanh nghiệp thực sự sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì ít gây ra một áp lực lớn đối với Ngân hàng. Nếu tiến hành bảo lãnh, SGDI sẽ phải đối mặt với rủi ro cao còn nếu bỏ qua, SGDI đã mất đi một số lượng khách hàng, doanh nghiệp mất đi cơ hội kinh doanh.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có tỉ lệ vốn tự có thấp, hầu như không có điều kiện vay vốn và xin bảo lãnh. Các doanh nghiệp tư nhân không có vốn ký quỹ hoặc không có bảo đảm cho bảo lãnh. Điều này gây khó khăn cho Sở giao dịch trong việc mở rộng hoạt động bảo lãnh phục vụ các đối tượng khách hàng mới ngoài các doanh nghiệp Nhà nước, các tổng công ty và các đơn vị thành viên hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Về mặt chủ quan, sự thiếu đa dạng trong đối tượng khách hàng của Sở hiện nay bắt nguồn từ việc xét duyệt bảo lãnh còn khó khăn; quy trình bảo lãnh quá chặt chẽ và thiếu linh hoạt cũng là nguyên nhân khiến Sở mất đi một số lượng khách hàng đáng kể. Bên cạnh đó, trình độ của cán bộ thực hiện bảo lãnh cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến việc mở rộng đối tượng khách hàng khi những cán bộ này không đánh giá đúng năng lực của khách hàng xin bảo lãnh hay quá cẩn thận vì sợ phải chịu trách nhiệm.
Về sự đa dạng hoá các loại bảo lãnh:
Sở giao dịch I cung cấp nhiều loại bảo lãnh tuy nhiên trên thực tế chỉ có bốn loại bảo lãnh trong xây dựng: Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là phát triển mạnh mẽ. Bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh vay vốn nước ngoài đã xuất hiện từ năm 96 nhưng hầu như không có hoặc chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Bảo lãnh đối ứng cũng chưa có điều kiện phát triển.
Nguyên nhân xuất phát từ đối tượng khách hàng thực hiện giao dịch với Sở là những khách hàng hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản do đó nhu cầu bảo lãnh của các khách hàng này chủ yếu là các loại bảo lãnh trong xây dựng. Việc chưa chú trọng khuếch trương các sản phẩm dịch vụ, chưa làm cho khách hàng thấy được những ưu thế của bảo lãnh cũng là một nguyên nhân cho tình trạng các loại bảo lãnh cung cấp cho khách hàng thì nhiều nhưng những sản phẩm được khách hàng thực sự sử dụng vẫn còn rất khiêm tốn.
Khách hàng của Sở phần nhiều là các Tổng công ty và những Tổng công ty này thường tham gia vào các công trình trọng điểm cho nền kinh tế. Do ràng buộc về điều kiện pháp lý, một Ngân hàng không được bảo lãnh cho một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có do đó hạn chế Sở tham gia bảo lãnh cho các hợp đồng có quy mô lớn. Nếu chờ xin Chính phủ cho phép thì doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, Ngân hàng mất đi cơ hội bảo lãnh. Một biện pháp đặt ra là mời các Ngân hàng cùng tham gia đồng bảo lãnh nhưng tính phối hợp giữa các NHTM ở Việt Nam hiện nay còn rất yếu, do đó loại hình đồng bảo lãnh tại Sở vẫn chưa phát triển đúng mức.
Về doanh số/số món/số dư và thu nhập từ hoạt động bảo lãnh
Trong thời gian qua, doanh số bảo lãnh, số món bảo lãnh, số dư bảo lãnh và thu nhập từ hoạt động bảo lãnh đã tăng dần qua các năm tuy nhiên nó vẫn chiếm một tỷ trọng khá nhỏ trong hoạt động tín dụng, chưa đáp ứng được nhu cầu bảo lãnh của khách hàng và nhu cầu của việc phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Về sự an toàn trong hoạt động bảo lãnh:
Tuy Sở giao dịch hiện nay chưa phải thực hiện thanh toán thay cho một khách hàng nào nhưng rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt động bảo lãnh tại SGDI hiện nay là khá lớn.
Công tác thẩm định khách hàng đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo an toàn cho bảo lãnh. Tuy nhiên hiện nay thông tin cho công tác thẩm định khách hàng thiếu cả về lượng và chất, hầu hết đều do chính khách hàng cung cấp hoặc từ các phương tiện thông tin đại chúng. Việc mua thông tin, tổ chức theo dõi phân tích và dự báo theo mặt hàng, ngành hàng và lĩnh vực kinh tế hầu như chưa thực hiện. Do đó việc thẩm định hồ sơ bảo lãnh gặp nhiều khó khăn, chất lượng thẩm định phần nào bị hạn chế. Tại SGDI hiện nay tuy đã có bộ phận thông tin phòng ngừa rủi ro và bộ phận quản lỷ rủi ro tín dụng làm nhiệm vụ quản lý cả nghiệp vụ bảo lãnh nhưng chưa có bộ phận quản lý rủi ro chuyên biệt để quản lý rủi ro trong Ngân hàng. Các rủi ro khác có liên quan đến bảo lãnh như rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản... chưa được đo lường kịp thời chính xác.
Một biện pháp để phân tán rủi ro là tham gia đồng bảo lãnh giữa các NHTM cũng chưa được phát huy vai trò của mình. Cho đến nay vẫn chưa có quy chế hướng dẫn cụ thể đối với từng chi nhánh trong việc phát triển hình thức đồng bảo lãnh với các Ngân hàng nước ngoài nhằm đưa vốn vào nền kinh tế quốc dân và học tập kinh nghiệm của các Ngân hàng đó. Một số vấn đề vướng mắc thường gặp phải là vấn đề thế chấp tài sản đối với các dự án đồng bảo lãnh có sự tham gia của các Ngân hàng nước ngoài; vấn đề hạch toán bắt buộc trong đồng bảo lãnh; vấn đề phí bảo lãnh. Do vậy hoạt động đồng bảo lãnh với các Ngân hàng trong nước vẫn chưa phát triển, đồng bảo lãnh với Ngân hàng nước ngoài chưa được thực hiện.
Tài sản đảm bảo cho bảo lãnh cũng là cơ sở đảm bảo an toàn cho bảo lãnh, giúp Ngân hàng thu hồi lại vốn khi phát sinh nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng. Khách hàng của Ngân hàng phần lớn là các doanh nghiệp Nhà nước, khi tham gia giao dịch bảo lãnh họ không phải ký quỹ 100% mà chỉ ký quỹ một phần, ngoài ra đảm bảo bằng tài sản và đa số đảm bảo bằng tín chấp. Tài sản đủ điều kiện đảm bảo là rất ít, đa phần đã cũ kỹ và khấu hao gần hết, không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, về đăng ký tài sản do đó rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Khi phải thanh toán thay cho khách hàng, Ngân hàng có quyền phát mại tài sản thế chấp nhưng đây lại là tài sản của nhà nước, chưa có một cơ quan nào có thẩm quyền đứng ra hướng dẫn quy trình tổ chức phát mại tài sản thế chấp. Điều này gây khó khăn cho Ngân hàng khi phải tự mình nhờ đến các cơ quan pháp luật để tổ chức phát mại, đấu giá. Bên cạnh đó, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà cửa được triển khai chậm, thủ tục công chứng không rõ ràng và thống nhất. Điều này cũng là những vật cản làm chậm tốc độ phát triển bảo lãnh của SGDI trong thời gian vừa qua
Về quy trình nghiệp vụ bảo lãnh:
Quy trình bảo lãnh là trình tự các bước thực hiện một nghiệp vụ bảo lãnh.
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh tại SGDI - NH ĐT&PT VN bao gồm năm bước sau:
Bước 1. Tiếp nhận và hoàn chỉnh hồ sơ
Bước 2. Quyết định bảo lãnh
Bước 3. Phát hành bảo lãnh
Bước 4. Xử lý sau khi phát hành bảo lãnh
Bước 5. Kết thúc bảo lãnh
Quy trình bảo lãnh là yếu tố quan trọng thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát triển. Một quy trình nghiệp vụ đầy đủ, nhanh chóng, gọn nhẹ vừa giúp cán bộ thực hiện bảo lãnh thuận tiện trong công việc, vừa góp phần thu hút nhiều khách hàng đến với Ngân hàng. Thực hiện đúng quy trình bảo lãnh cũng là cơ sở để hoạt động bảo lãnh diễn ra an toàn.
Tuy nhiên, một vấn khó khăn hiện nay là tính minh bạch trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp rất hạn chế gây khó khăn cho Ngân hàng trong việc thẩm định, đánh giá năng lực tài chính của khách hàng. Thông tin về thị trường chưa được cập nhật thường xuyên, liên tục cũng gây khó khăn cho cán bộ thực hiện bảo lãnh trong khâu đánh giá doanh nghiệp.
Các khách hàng của SGDI phần lớn là các tổng công ty với rất nhiều các công ty thành viên cũng như các dự án thực hiện khắp mọi nơi trên mọi miền tổ quốc do đó ảnh hưởng đến công tác kiểm tra định kỳ và đột xuất của Ngân hàng. Công tác kiểm tra, theo dõi, đôn đốc khách hàng thực hiện đúng cam kết gặp nhiều khó khăn.
Về việc tính toán mức phí cho bảo lãnh: Phí bảo lãnh được Ngân hàng tính toán để vừa đảm bảo thu nhập từ việc huy động nguồn lực cho bảo lãnh, vừa đảm bảo bù đắp những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện bảo lãnh mà Ngân hàng phải gánh chịu. Tuy nhiên việc quy định mức phí tối đa là 2% tính trên giá trị bảo lãnh của NHNN khiến cho SGDI phải bỏ qua nhiều món bảo lãnh do lợi nhuận kỳ vọng thu được không đủ bù đắp mức rủi ro tiềm ẩn mà Sở tính toán được khi chấp nhận một số hợp đồng bảo lãnh cho khách hàng.
Chương III
Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại sở giao dịch i - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
3.1. Chương trình, kế hoạch công tác của Sở giao dịch I trong năm 2004:
3.1.1. Các trọng tâm công tác:
² Xây dựng và phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh năm 2004:
Số dư huy động vốn đến 31/12/2004 đạt 10.500 tỷ đồng.
Dư nợ tín dụng: 7.277 tỷ đồng.
² Hoàn thiện công tác tổ chức theo đúng mô hình dự án cơ cấu lại Sở, tiếp tục ổn định, củng cố công tác tổ chức, bổ sung thêm cán bộ cho các bộ phận còn thiếu đáp ứng nhu cầu công tác; tăng cường công tác đào tạo cán bộ, phổ biến nghiệp vụ, rút kinh nghiệm từ thực tế hoạt động.
² Triển khai tiếp tục giai đoạn II của dự án hiện đại hoá Ngân hàng.
² Tìm kiếm, mở rộng thêm các địa điểm huy động dân cư, thành lập thêm phòng giao dịch mới.
² Chuẩn bị cơ sở vật chất cũng như các mặt hoạt động có liên quan để tiến hành tách và nâng cấp phòng giao dịch 2 - 14 Láng Hạ thành chi nhánh cấp I trực thuộc NH ĐT&PT VN.
3.1.2. Giải pháp triển khai thực hiện kế hoạch kinh doanh:
Ú Công tác nguồn vốn:
Xây dựng, nghiên cứu và đưa ra các chính sách mới khuyến khích các khách hàng gửi tiền lớn như các công ty bảo hiểm, các tổng công ty lớn. Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ Ngân hàng, phục vụ khách hàng tốt nhằm lôi kéo khách hàng chuyển các hoạt động thanh toán của mình về SGDI. Phát huy tối đa khả năng của từng cá nhân và tập thể đóng góp bằng nhiều hình thức cho công tác huy động vốn.
Ú Công tác tín dụng:
² Tiếp tục điều chỉnh cơ cấu tín dụng cả về loại tiền và kỳ hạn vay trên cơ sở cơ cấu nguồn vốn hiện có.
² Tiếp tục đẩy mạnh triển khai chương trình khách hàng, tập trung vào đối tượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn JBIC.
² Rà soát công tác quản lý tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng tại SGDI .
² Theo dõi thu nợ, thu lãi đúng hạn các dự án đã ký hợp đồng tín dụng, bám sát và triển khai giải ngân đối với các dự án đã tiếp cận và ký kết hợp đồng tín dụng.
² Tiếp tục bám sát và xử lý các khoản nợ khó đòi, có kế hoạch thu nợ và giải quyết dứt điểm.
² Phân loại, đánh giá, xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm và đề ra biện pháp, lộ trình xử lý kiên quyết, đảm bảo tận thu hồi nợ.
Ú Công tác khách hàng:
² Chăm sóc khách hàng chu đáo hơn, nắm bắt kịp thời diễn biến và nhu cầu của khách hàng cũ, tích cực tìm kiếm các thông tin khách hàng mới, dự án mới có hiệu quả, tinh thần và thái độ phục vụ cao.
² Tiếp tục thông tin đến khách hàng chương trình hiện đại hoá.
² Tuyên truyền tiếp thị các đơn vị sử dụng các dịch vụ mới như homebanking, ATM...
Ú Công tác kiểm tra nội bộ:
Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ mọi hoạt động của Ngân hàng nhất là công tác tín dụng nhằm giữ vững và nâng cao chất lượng tín dụng, nâng cao vai trò kiểm tra, kiểm soát và công tác điều hành theo hướng dẫn của NH ĐT&PT VN.
Ú Công tác triển khai công nghệ Ngân hàng : Tiếp tục triển khai dự án hiện đại hoá Ngân hàng
² Tiếp nhận hệ thống mới, duy trì sự ổn định của hệ thống SIBS hỗ trợ cho các phòng nghiệp vụ của SGD.
² Tiếp tục triển khai các quan hệ mới của dự án: quản lý chữ ký, quản lý nội bộ...
Ú Các mặt công tác khác như tăng cường công tác phát triển Đảng, nâng cao vai trò hoạt động của tỏ chức công đoàn, tăng cường công tác giáo dục chính trị...
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam:
3.2.1. Xây dựng kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh linh hoạt:
Thị trường các hoạt động dịch vụ cạnh tranh ngày càng gay gắt vì thế một kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh thực sự linh hoạt sẽ là định hướng cho sự phát triển của hoạt động bảo lãnh trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai. Kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh phải tập trung vào xác định mục tiêu chất lượng các sản phẩm dịch vụ bảo lãnh phù hợp với yêu cầu khách hàng, phù hợp với khả năng đáp ứng của doanh nghiệp nhưng lại không được xa rời với thực tế.
Hiện nay, Sở giao dịch I mới chỉ tập trung vào các loại bảo lãnh trong xây dựng với đối tượng khách hàng là các Tổng công ty, các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng cơ bản. Để trở thành một Ngân hàng hiện đại, tiến hành kinh doanh đa năng đồng thời dựa trên chương trình kế hoạch công tác tại Sở giao dịch I trong năm 2004, phát triển hoạt động bảo lãnh tại SGDI cần tập trung vào việc củng cố thị trường hiện có; tăng cường chặt chẽ quan hệ với các khách hàng truyền thống; ngoài ra cần chú trọng đến việc mở rộng đối tượng được bảo lãnh sang các lĩch vực khác ngoài đầu tư xây dựng cơ bản, các thành phần kinh tế khác như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng nhanh việc bảo lãnh cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Mở rộng hoạt động bảo lãnh không được tách rời với việc nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh nhằm tạo được lòng tin đối với khách hàng, đảm bảo hoạt động bảo lãnh diễn ra an toàn, hiệu quả, từ đó nâng cao uy tín của SGDI.
Hiện nay, các Ngân hàng trên thế giới đã và đang phát triển các hình thức marketing chủ động tìm hiểu nhu cầu khách hàng và tìm kiếm các khách hàng mới. Tuy nhiên, phần lớn các Ngân hàng Việt Nam trong đó có SGDI - NH ĐT&PT VN vẫn chưa coi trọng đúng mức công tác này. Đôi khi Ngân hàng vẫn cho rằng khách hàng cần Ngân hàng hơn chứ không phải Ngân hàng cần khách hàng và rằng khách hàng sẽ tự động tìm đến sử dụng các dịch vụ Ngân hàng. Đây là một tư duy cần phải thay đổi trong tiến trình hội nhập ngành Ngân hàng vì việc tìm kiếm và tìm hiểu nhu cầu khách hàng là vấn đề quan trọng trong việc phát triển các hoạt động Ngân hàng trong đó có Bảo lãnh ngân hàng. Vì vậy, trong thời gian tới, SGDI cần chú trọng công tác tìm kiếm, tìm hiểu nhu cầu khách hàng và hướng dẫn khách hàng trong việc tiếp nhận bảo lãnh của Ngân hàng.
3.2.2. Mở rộng đối tượng được bảo lãnh:
Khách hàng của Sở giao dịch phần lớn là các Tổng công ty lớn thuộc thành phần kinh tế quốc doanh như Tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam, Tổng công ty điện lực Việt Nam, Tổng công ty xuất nhập khẩu máy Hà nội, Tổng công ty than Việt Nam... nên đôi khi để giữ mối quan hệ lâu dài với các khách hàng này SGDI dễ bị sức ép từ phía khách hàng về mức phí hay bắt buộc phải bảo lãnh. Mặt khác đa dạng hoá khách hàng cả về loại hình doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh là cách để Ngân hàng phân tán rủi ro đồng thời mở rộng phạm vi hoạt động, khai thác có hiệu quả từ mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế, đạt mục tiêu phát triển bền vững. Vì vậy trong thời gian tới, bên cạnh việc củng cố mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, SGDI cần chú trọng mở rộng đối tượng khách hàng sang các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sao cho phù hợp với chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì các doanh nghiệp này ngày thể hiện vai trò quan trọng hơn. Để làm được điều này, trong thời gian tới SGDI cần:
² Củng cố và tăng cường mối quan hệ với nhóm khách hàng lớn, khách hàng truyền thống. Muốn vậy, Sở cần có chính sách ưu đãi về mức phí bảo lãnh; thường xuyên thăm hỏi, tổ chức các buổi toạ đàm, hội nghị khách hàng nhằm thảo luận trực tiếp các vấn đề còn vướng mắc như ưu nhược điểm của các dịch vụ, những vướng mắc trong thủ tục, điều kiện bảo lãnh, mức phí, thái độ phục vụ của cán bộ Ngân hàng; tìm hiểu nhu cầu hiện tại cũng như tương lai để có biện pháp thoả mãn tối đa nhu cầu của nhóm khách hàng này nhằm giữ chân khách hàng lâu dài.
² Mở rộng quan hệ giao dịch với các khách hàng mới là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh... có đủ điều kiện bảo lãnh.
Vấn đề trước tiên đặt ra là làm thế nào để các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiểu rõ những ưu thế của bảo lãnh. Muốn vậy, Ngân hàng có thể tổ chức cử cán bộ mở những buổi nói chuyện cho một hay một nhóm doanh nghiệp, mời các cán bộ đảm nhiệm vị trí liên quan đến bảo lãnh của các doanh nghiệp này đến dự. Nội dung của hội thảo, buổi nói chuyện có thể là tính ưu việt của bảo lãnh tại Sở nếu khách hàng chưa từng được bảo lãnh hay giới thiệu các loại bảo lãnh mới phù hợp hơn nếu khách hàng đã từng được SGDI bảo lãnh ở một số loại. Có thể cử một vài cán bộ trực tiếp đến nói chuyện với các cán bộ có thẩm quyền của doanh nghiệp về bảo lãnh để xây dựng và phát triển mối quan hệ. Có thể họ chưa có nhu cầu bảo lãnh ngay nhưng đến khi có nhu cầu thì đây lại là một cơ hội lớn cho Ngân hàng.
Một vấn đề nữa cần quan tâm đối với nhóm khách hàng mới này là cần áp dụng một cách linh hoạt các các thủ tục, các quy định nhằm tháo gỡ khó khăn cho từng đối tượng khách hàng.
² Thực hiện tốt hơn nữa vai trò nhà tư vấn. Tư vấn cho khách hàng không chỉ dừng lại ở mức độ hướng dẫn các quy chế, thể lệ, chế độ cho khách hàng mà phải đạt đến mức đưa ra những lời khuyên bổ ích cho khách hàng, giúp họ đạt mục tiêu an toàn và thắng lợi trong kinh doanh.
Ngân hàng có thể tư vấn về tài chính cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ các nguồn thông tin và kinh nghiệm mà Ngân hàng có được. Ngân hàng có khá nhiều nguồn thông tin từ việc thực hiện các dịch vụ khác, từ việc giao dịch với nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, thông tin về nền kinh tế, về các lĩnh vực phát triển hấp dẫn hay về một số dự án cụ thể. Bên cạnh chia sẻ nguồn thông tin một cách thường xuyên , Ngân hàng cũng có thể giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ lập các kế hoạch tài chính, các hồ sơ dự thầu... và khi thắng thầu họ sẽ sử dụng dịch vụ bảo lãnh của Ngân hàng.
Thực hiện tốt những điều trên là cơ sở cho việc thu hút khách hàng tham gia giao dịch bảo lãnh với SGDI và nâng cao uy tín của SGDI trên thị trường tuy nhiên thực hiện được nó không phải là một vấn đề đơn giản. Điều này đòi hỏi mỗi cán bộ phải nắm vững lý luận, biết kết hợp sáng tạo giữa lý luận với tình hình thực tiễn; phải có sự nhạy bén cùng những kinh nghiệm được tích luỹ trong nghề nghiệp của mình đồng thời phải có tinh thần ham học hỏi trau dồi kiến thức.
Việc mở rộng đối tượng khách hàng cũng có tác dụng tích cực đến việc đa dạng hoá phát triển sản phẩm bảo lãnh bởi khi đối tượng khách hàng đa dạng, khách hàng hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau thì nhiều loại hình bảo lãnh khác của Ngân hàng cũng có điều kiện phát triển, không chỉ là các loại bảo lãnh trong xây dựng.
3.2.3. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng:
"Hướng vào khách hàng" là một trong tám nguyên tắc trong tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000 mà Sở đang triển khai thực hiện, điều này cho thấy chất lượng phục vụ khách hàng là một vấn đề lớn mà Sở luôn trăn trở và quan tâm. Chất lượng phục vụ khách hàng là một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh, là cơ sở duy trì nền khách hàng hiện có và cũng là tiền đề cho việc mở rộng đối tượng khách hàng của Ngân hàng. Do đó phát triển hoạt động bảo lãnh cần quan tâm đến việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng.
Để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, trong thời gian tới, SGDI cần nghiêm chỉnh thực hiện các vấn đề sau:
² Cán bộ Ngân hàng đặc biệt là cán bộ thực hiện bảo lãnh cần có thái độ phục vụ văn minh lịch sự, niềm nở, ân cần. Mỗi sự phàn nàn của khách hàng là một bài học cho Ngân hàng. Mỗi cán bộ bị khách hàn phàn nàn đều phải bị xem xét kiểm điểm và thông báo lại với khách hàng.
² Hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng cần được thực hiện thuận tiện và nhanh chóng hơn đối với khách hàng. Vì vậy, cán bộ Ngân hàng cần rút ngắn thời hoàn tất nghiệp vụ, giảm thiểu các thủ tục giấy tờ không cần thiết. Hiện nay, khi có nhu cầu bảo lãnh, khách hàng phải đến SGDI để lấy mẫu hồ sơ và đơn xin bảo lãnh. Để rút ngắn thời gian Ngân hàng có thể gửi cho khách hàng mầu hồ hơ theo yêu cầu qua mạng hay đưa các mẫu đơn xin bảo lãnh lên mạng để khi cần khách hàng có thể sử dụng ngay mà không cần phải trực tiếp đến Ngân hàng.
² Ngân hàng cần tiến hành phân nhóm khách hàng hợp lý để có chính sách khách hàng phù hợp với yêu cầu của từng nhóm khách hàng. Ví dụ, đối với các khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, khách hàng lớn, truyền thống cần cung cấp các điều kiện ưu đãi như tính tỷ lệ phí thấp, yêu cầu thế chấp, cầm cố, ký quỹ với một mức độ phù hợp. Đây là một công việc cần thiết vì với nhóm khách hàng truyền thống, Sở không mất nhiều thời gian cho việc tìm hiểu giám sát giúp tiết kiệm chi phí tìm hiểu khách hàng. Mặt khác điều đó cũng khuyến khích các khách hàng này tự giác trong việc thực hiện các quy định nhằm giữ tín nhiệm với Ngân hàng.
² Thu thập thông tin phản hồi từ khách hàng. Việc này có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ với những người đã thiết lập quan hệ với Sở mà còn từ những người không có giao dịch nào với Sở bởi ý kiến của những người này thường rất khách quan. Bên cạnh việc theo dõi phản ứng của khách hàng từ các cán bộ thực hiện bảo lãnh, Sở còn có thể thu thập thông tin từ các kênh thu thập khác như sổ góp ý, một số điện thoại miễn phí, một địa chỉ trên mạng máy tính... Biện pháp này đã được nhiều Ngân hàng áp dụng nhưng việc áp dụng này có hiệu quả hay không phụ thuộc vào việc Ngân hàng có thái độ nghiêm túc, có đánh giá, sửa đổi theo những góp ý của khách hàng hay không. Muốn chủ động hơn, SGDI cần phải tự liên lạc với khách hàng, phát những tờ phiếu góp ý cho họ rồi thu lại vì ít khách hàng muốn ghi vào sổ hoặc tự gọi điện thoại.
3.2.4. Khai thác hiệu quả những ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động bảo lãnh:
Ngày nay công nghệ thông tin đã trở thành phương tiện không thể thiếu trong quá trình đổi mới các hoạt động Ngân hàng, là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu của các Ngân hàng trên thị trường. Nhận thức điều này, trong những năm gần đây, toàn hệ thống NH ĐT&PT VN nói chung, SGDI nói riêng đã có nhiều bước tiến đáng kể trong việc ứng dụng những thành tựu công nghệ mới để cải tiến các giao dịch nhất là từ khi ký kết và triển khai tiểu dự án hiện đại hoá Ngân hàng năm 2002. Tác động của dự án đối với các mặt hoạt động của Sở ngày càng phát huy rõ nét và được Ngân hàng thế giới, NHNN đánh giá là một dự án có chất lượng tốt. Các hoạt động của Sở trong đó có hoạt động bảo lãnh được hỗ trợ rất nhiều từ việc rút ngắn thời gian tác nghiệp của cán bộ, theo dõi các giao dịch đến việc tìm hiểu các văn bản pháp quy... Tuy nhiên trong quá trình phát triển không trách khỏi đâu đó còn những sự lãng phí, chưa khai thác hết hiệu quả của công nghệ. Một thực tế khác đặt ra là "tuổi thọ" của thiết bị rất thấp, chỉ sau vài năm đã lạc hậu hoặc không tương thích với những phần mềm mới do đó làm thế nào để khai thác nhanh nhất hiệu quả của thiết bị luôn là vấn đề phải được đặt lên hàng đầu.
Công nghệ thông tin là con dao hai lưỡi. Bên cạnh những tiện ích mà nó mang lại thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống bảo mật, an toàn hệ thống, tăng cường các biện pháp an ninh là điều mà Sở cần đặc biệt chú ý để đảm bảo an toàn cho các giao dịch của khách hàng và nâng cao uy tín của Ngân hàng.
Để chủ động ứng dụng những thành tựu công nghệ mới và khai thác có hiệu quả những ứng dụng của công nghệ thông tin, SGDI cần phải có chính sách quan tâm thích đáng về nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Đội ngũ này phải dồi dào về số lượng, mạnh mẽ về năng lực, đủ sức đảm đương công việc. Muốn vậy, Sở cần làm tốt công tác tuyển dụng những cán bộ giỏi, có đầu vào cao, tiến hành đào tạo nhất là đào tạo ở nước ngoài, tạo điều kiện cho họ trở thành những cán bộ chủ chốt có năng lực. Sau đó các cán bộ này lại có trách nhiệm truyền thụ lại kiến thức, kinh nghiệm mình đã tích luỹ được cho các cán bộ khác trong Sở. Bên cạnh đó, Sở cũng cần xây dựng mối quan hệ thường xuyên với các Công ty tin học để được tư vấn, hỗ trợ trong quá trình phát triển việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động Ngân hàng.
3.2.5. Hoàn thiện công tác đảm bảo cho bảo lãnh:
Đánh giá, theo dõi các loại hình đảm bảo là một nội dung xuyên suốt từ khi Ngân hàng thẩm định hồ sơ bảo lãnh, phát hành bảo lãnh cho đến khi kết thúc giao dịch bảo lãnh. Giá trị các khoản đảm bảo cho bảo lãnh là nguồn thu dự phòng của Ngân hàng khi khách hàng không thực hiện cam kết với bên thứ ba buộc Ngân hàng phải trả thay trong giao dịch bảo lãnh. Do đó đảm bảo cho bảo lãnh là cơ sở để hoạt động bảo lãnh diễn ra an toàn. Để thực hiện tốt vấn đề bảo đảm cho bảo lãnh, Sở giao dịch cần lựa chọn để áp dụng các hình thức bảo đảm thích hợp đối với từng loại bảo lãnh, từng loại khách hàng và phù hợp với điều kiện kinh doanh của mình tuy nhiên vẫn đảm bảo quy định của Ngân hàng cấp trên.
Phân loại kỹ khách hàng và loại tài sản đảm bảo cho bảo lãnh để quy định được mức bảo đảm vừa thuận lợi cho hoạt động bảo lãnh, vừa đảm bảo độ an toàn. Chỉ đối với những khách hàng có tình hình kinh doanh tốt, tín nhiệm với Ngân hàng mới có thể xem xét đảm bảo bằng tín chấp. Đối với bảo đảm bằng tài sản cần xem xét khả năng phát mại, mức độ rủi ro để quyết định giá trị món bảo lãnh.
Khi thực hiện các hình thức đảm bảo cho bảo lãnh, cần đặc biệt chú ý về điều kiện của tài sản đảm bảo, định giá tài sản phải hợp lý, xác định rõ phạm vi bảo đảm, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm chuyển giao tài sản, giấy tờ, quản lý tài sản đảm bảo; năng lực tài chính, năng lực pháp lý, mức trách nhiệm của người bảo lãnh, tài sản đảm bảo của người bảo lãnh nếu là bảo đảm bằng bảo lãnh của bên thứ ba; tính pháp lý và trách nhiệm của doanh nghiệp được bảo lãnh nếu là bảo lãnh bằng tín chấp.
Về thủ tục bảo đảm: Lập hợp đồng rõ ràng, đầy đủ các nội dung đồng thời phải xác định rõ về việc xử lý tài sản. Ngoài ra cần lưu ý việc xác nhận, đăng ký các hợp đồng bảo đảm theo quy định. Trong điều kiện nước ta hiện nay, khi ký kết hợp đồng bảo đảm cần có sự tham gia đầy đủ chính xác của chủ sở hữu tài sản, những người thừa kế, đồng sở hữu tài sản tránh gây ra những tranh chấp sau này khi Ngân hàng tiến hành phát mại tài sản.
Tài sản thế chấp thường bị hao mòn sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh đòi hỏi Sở phải làm tốt công tác định kỳ định giá lại tài sản thế chấp. Việc định giá này có thể căn cứ vào mức trích khấu hao trong sổ sách của doanh nghiệp đồng thời cán bộ thực hiện bảo lãnh định kỳ kiểm tra tình hình thực tế tại doanh nghiệp để đảm bảo tính trung thực. Khi giá trị tài sản thế chấp ở dưới mức quy định, Sở cần yêu cầu khách hàng cấp thêm để đảm bảo an toàn cho hoạt động Bảo lãnh ngân hàng.
3.2.6. Tiếp tục hoàn thiện quy trình bảo lãnh cho phù hợp:
Để thực hiện tốt việc thẩm định khách hàng và hồ sơ bảo lãnh, cán bộ thực hiện bảo lãnh cần phải tuân thủ đúng và đầy đủ quy trình bảo lãnh. Mục đích của việc thẩm định là trên cơ sở kết hợp thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, Ngân hàng có được những đánh giá cụ thể, chính xác về khách hàng và dự án mà họ đang thực hiện.
Tìm hiểu và thu thập thông tin về khách hàng
Thông tin có thể do khách hàng cung cấp, có thể do cán bộ Ngân hàng tự điều tra từ các nguồn thông tin ở các cơ quan có liên quan hay từ thị trường. Ngoài việc buộc khách hàng phải cung cấp hồ sơ pháp lý về khách hàng, về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính, hồ sơ về đảm bảo cho bảo lãnh, các tài liệu liên quan đến giao dịch được bảo lãnh... Ngân hàng có thể sử dụng một số phương thức thu thập thông tin sau:
² Phỏng vấn trực tiếp khách hàng để phát hiện những mâu thuẫn và các vấn đề không trung thực giữa hồ sơ xin bảo lãnh với nội dung trả lời phỏng vấn thông qua nội dung trả lời và thái độ của khách hàng. Từ đó, cán bộ thực hiện bảo lãnh có được nhận xét khái quát về tư cách, năng lực, phẩm chất, đạo đức, kinh nghiệm và uy tín của khách hàng. Muốn vậy, cán bộ thực hiện bảo lãnh phải nghiên cứu, chuẩn bị trước nội dung phỏng vấn càng chi tiết càng tốt. Cuộc nói chuyện cần diễn ra trong bầu không khí thoải mái, tự nhiên, khuyến khích khách hàng nói chuyện để khai thác được nhiều thông tin cần thiết.
² Thu thập thông tin từ các Ngân hàng có quan hệ thanh toán, tín dụng, tiền gửi với khách hàng. Các thông tin này lấy từ các loại sổ sách, tài khoản kế toán của khách hàng đối chiếu với các nghiệp vụ phát sinh qua tài khoản của Ngân hàng bạn hoặc từ số liệu thống kê, các nhận xét, đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính, quan hệ vay trả, mức độ tín nhiệm của các Ngân hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán, tiền gửi với khách hàng.
² Thu thập thông tin từ các tổ chức có liên quan và thông tin từ thị trường. Các thông tin này có thể lấy từ trung tâm thông tin rủi ro của NHNN, các cơ quan kiểm toán, cơ quan quản lý thị trường, công an kinh tế, sở nhà đất, địa chính... Bên cạnh đó, Sở có thể trực tiếp điều tra thu thập thông tin từ dư luận cán bộ công nhân viên, dư luận xã hội, báo chí, ý kiến của bạn hàng, đối tác có quan hệ với khách hàng...
² Tiến hành điều tra thực tế tại địa điểm nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng thông qua việc kiểm tra, khảo sát, tham quan thực tế tại nhà máy, phân xưởng, văn phòng và gặp gỡ nhân viên ở đó để trực tiếp đánh giá khả năng, hiệu quả quản lý, trình độ kỹ thuật, các hình thái hiện vật và chất lượng của tài sản cố định, tài sản lưu động... Việc thăm quan phải được tiến hành một cách bất ngờ tránh trường hợp bị khách hàng bố trí sắp đặt trước.
Về vấn đề thẩm định hồ sơ bảo lãnh:
Có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó ảnh hưởng đến quyết định của SGDI có bảo lãnh cho khách hàng hay không?
Ä Thẩm định tư cách pháp lý của khách hàng:
Phải khẳng định được khách hàng có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
Ä Thẩm định tình hình tài chính và năng lực kinh doanh của khách hàng:
Thẩm định năng lực tài chính và năng lực kinh doanh của khách hàng trong cả hiện tại và dự báo trong tương lai. Việc thẩm định phải dựa vào các tài liệu: các báo cáo tài chính; các nguồn thông tin tài chính; các thông tin từ phía bạn hàng của khách hàng; thông tin từ các cơ quan quản lý; từ báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng... Qua đó:
² Có cái nhìn tổng quan về tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp tối thiểu là hai năm gần nhất và quý gần nhất.
² Nắm bắt tình trạng của tài sản hiện có, khả năng vốn đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh thông qua việc phân tích tình hình vốn tài sản của doanh nghiệp tối thiểu là hai năm gần nhất và quý gần nhất.
² Nắm bắt được kế hoạch kinh doanh, bộ máy tổ chức, quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường...
Ä Về tính khả thi của dự án (đối với bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh vay vốn):
Tập hợp đủ các hồ sơ của dự án và xem xét kỹ lưỡng, khẳng định được cơ sở pháp lý của dự án.
Phân tích tài chính dự án: Xác định tổng mức đầu tư (vốn cố định, vốn lưu động), nguồn vốn đầu tư (vốn tự có, vốn đi vay...) tính toán mức bảo lãnh, thời hạn bảo lãnh cho phù hợp.
Phân tích hiệu quả dự án: bao gồm hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội (tạo công ăn việc làm, tận dụng tài nguyên, ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải thiện kinh tế...).
Phân tích tính khả thi của dự án: thị trường tiêu thụ, thị trường vật liệu và các yếu tố đầu vào (nguồn và khả năng cung cấp, tính ổn định, khả năng thay thế...), công nghệ và tài sản cố định của dự án, tổ chức quản lý sản xuất và lao động, các tác động khách quan khác...
Về vấn đề xác định mức phí cho bảo lãnh:
SGDI cần nghiên cứu để xây dựng một biểu phí hợp lý, hấp dẫn khách hàng; hợp lý để Ngân hàng không bị thiệt, đủ bù đắp chi phí và mức độ rủi ro mà Ngân hàng phải chấp nhận nhưng nó vẫn phải đảm bảo tính cạnh tranh với các Ngân hàng trong cùng địa bàn. Ngân hàng có thể có các biện pháp giảm chi phí bằng cách nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ, cải tiến trang thiết bị để rút ngắn thời gian tác nghiệp.
Về vấn đề kiểm tra tình hình thực tế doanh nghiệp:
Thông thường các dự án mà khách hàng của Ngân hàng đang thực hiện thường ở những địa bàn xa Hà Nội do đó việc kiểm tra tình hình thực tế của dự án gặp không ít khó khăn. Do đó bên cạnh việc cử cán bộ đến tận nơi nắm bắt tình hình, Sở giao dịch cần có biện pháp phối hợp chặt chẽ với các chi nhánh trong cùng hệ thống NH ĐT&PT VN nơi mà dự án đang được thực hiện để giám sát tình hình thực hiện dự án một cách thường xuyên. Muốn vậy khi ký kết hợp đồng bảo lãnh, Sở giao dịch cần đưa vào hợp đồng điều khoản quy định có uỷ quyền cho một Ngân hàng trong cùng hệ thống có quyền kiểm tra doanh nghiệp khi cần thiết.
3.2.7. Nâng cao trình độ cán bộ thực hiện bảo lãnh:
Nguồn nhân lực luôn là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trên bất cứ lĩnh vực nào. Tác phong làm việc, năng lực nghiệp vụ, trình độ hiểu biết và thái độ phục vụ của cán bộ Ngân hàng là một yếu tố quyết định đến uy tín của Ngân hàng và việc lựa chọn Ngân hàng của khách hàng. Đặc biệt trong hoạt động bảo lãnh, với điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên địa bàn Hà nội hiện nay thì chất lượng phục vụ của cán bộ Ngân hàng sẽ có tác động rất lớn trong việc thu hút khách hàng đến với Ngân hàng. Tuy nhiên tại Sở giao dịch hiện nay đa số là các cán bộ trẻ, họ tuy năng động nhiệt tình nhưng rất thiếu kinh nghiệm thực tế. Để có được một đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ, tiến tới đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngành Ngân hàng trong tương lai, SGDI cần chú trọng nhiều hơn đến công tác sắp xếp cán bộ, tiến hành đào tạo và đào tạo lại. Cán bộ Sở cũng cần được thường xuyên cập nhật các kiến thức mới Việc nắm vững các văn bản chế độ, quán triệt các đường lối chính sách chỉ đạo để từ đó tạo lập tư tưởng ổn định, vững vàng xây dựng con người hiện đại vừa có đạo đức tốt, vừa giỏi về chuyên môn.
Các hoạt động mà Sở có thể tiến hành là:
² Để đảm bảo hoạt động bảo lãnh được an toàn và hiệu quả, vấn đề cần làm đầu tiên ở SGDI hiện nay là việc cử những cán bộ có kinh nghiệm hơn kèm cặp những cán bộ trẻ mới vào nghề. Thực hiện đào tạo chuyên sâu nghiệp vụ cho các cán bộ trẻ có triển vọng được tuyển chọn từ các phòng nhất là việc cử đi đào tạo ở nước ngoài từ các nguồn kinh phí của Sở, theo các chương trình của NH ĐT&PT VN, NHNN hay của các tổ chức như WB, ADB... Đây sẽ là cơ sở để SGDI có được những cán bộ vùa giỏi về chuyên môn, vừa nắm vững thông lệ quốc tế. Thông qua việc thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề, các cán bộ này lại có thể truyền đạt cho các cán bộ khác để phục vụ cho công việc. Việc có được các cán bộ chuyên sâu cũng là cơ sở để Sở có được những sản phẩm chất lượng cao đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
² Tổ chức tập huấn, trao đổi kinh nghiệm trong Sở và với các chi nhánh khác trong hệ thống hoặc với các NHTM khác để học hỏi chia sẻ kinh nghiệm. Cập nhật tin tức qua email cho các cán bộ để các cán bộ có thể biết thông tin và trao đổi lẫn nhau tốt hơn, cùng hỗ trợ lẫn nhau trong việc phát triển nghiệp vụ.
² Trong xu thế nhập kinh tế rộng rãi với khu vực và thế giới như hiện nay, việc nâng cao trình độ ngoại ngữ và nắm vững những nguyên tắc, thông lệ kinh doanh quốc tế cho cán bộ Ngân hàng là một nhu cầu cấp thiết. Thực hiện tốt điều này sẽ giúp Ngân hàng mở rộng bảo lãnh cho những khách hàng có giao dịch với đối tác nước ngoài đồng thời giúp cho khách hàng giảm thiểu được những rủi ro khôn lường từ phía đối tác nước ngoài.
² Bên cạnh việc chú trọng đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, Ngân hàng cũng phải lưu tâm đến bồi dưỡng và nâng cao ý thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm cho cán bộ Ngân hàng. Cán bộ Ngân hàng phải luôn có thái độ niềm nở, tận tình, chu đáo khi phục vụ khách hàng vì chỉ có như vậy mới để lại được ấn tượng tốt trong khách hàng về Ngân hàng.
² Định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm tuyên dương khen thưởng kịp thời những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công việc, có sáng kiến, có đề tài khoa học khả thi. Đồng thời kiên quyết xử lý nghiêm minh những cá nhân vi phạm dưới bất kỳ hình thức nào gây tổn hại và ảnh hưởng xấu tới uy tín, chất lượng và kết quả kinh doanh của Ngân hàng.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Với Chính phủ:
Tạo môi trường kinh doanh đồng bộ, ổn định cho các đơn vị kinh tế hoạt động, đây cũng là điều kiện quan trọng để hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động Bảo lãnh ngân hàng nói riêng phát triển mạnh mẽ bởi hoạt động Ngân hàng có liên quan đến tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. Điều này còn đặc biệt quan trọng cho một nền kinh tế thị trường mở cửa có sự đan xen của nhiều các quan hệ kinh tế phức tạp và chịu ảnh hưởng của các mối quan hệ kinh tế quốc tế như hiện nay. Nếu không có một hệ thống pháp luật đầy đủ, phù hợp với thông lệ quốc tế thì chúng ta sẽ bị thiệt thòi trong quan hệ đối ngoại, các doanh nghiệp bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, Ngân hàng bị mất đi cơ hội bảo lãnh.
Cần có quy định rõ ràng các doanh nghiệp Nhà nước được dùng tài sản nào để thế chấp, khi doanh nghiệp không trả được nợ thì phát mại tài sản như thế nào, thủ tục ra sao, ai có quyền xử lý phát mại tài sản... Có như vậy mới bảo vệ được Ngân hàng, tạo tâm lý yên tâm cho Ngân hàng khi tham gia bảo lãnh từ đó thúc đẩy hoạt động bảo lãnh phát triển.
Thực hiện công khai hoá thông tin kinh doanh, đưa vào luật việc bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện kiểm toán và công bố rộng rãi các thông tin cần thiết, điều này làm lành mạnh hoá các hoạt động kinh doanh nói riêng và công tác đánh giá năng lực kinh doanh của Ngân hàng, từ đó thúc đẩy hoạt động Bảo lãnh ngân hàng phát triển.
Hiện nay việc ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông tin trong hoạt động Ngân hàng nói chung, hoạt động Bảo lãnh ngân hàng nói riêng đang diễn ra mạnh mẽ. Do đó chính phủ cần xem xét đưa ra những chuẩn mực cần thiết, những cơ sở pháp lý tin cậy trong quá trình thực hiện triển khai công nghệ mới.
3.3.2. Với Ngân hàng Nhà nước:
Hiện nay mức phí tối đa tính trên giá trị món bảo lãnh mà NHNN quy định là 2%. Tuy nhiên việc quy định mức phí tối đa này khiến cho Ngân hàng bỏ qua nhiều món bảo lãnh do mức phí thu được không đủ bù đắp những chi phí và mức độ rủi ro mà Ngân hàng phải chấp nhận khi bảo lãnh cho khách hàng. Do đó, NHNN nên huỷ bỏ quy định này trong quy chế bảo lãnh để cho các NHTM có sự chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. NHNN chỉ nên tập trung vào quản lý vĩ mô, vào việc kiểm tra, giám sát, phòng ngừa rủi ro thông qua những quy định về quỹ bảo lãnh và mức ký quỹ bảo lãnh.
NHNN cần phải tiếp tục hoàn thiện quy chế về Bảo lãnh ngân hàng. Trong thời gian tới, NHNN cần ban bố các quy chế cụ thể về hình thức đồng bảo lãnh với các Ngân hàng nước ngoài nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho các Ngân hàng Việt Nam có thể tham gia đồng bảo lãnh với các Ngân hàng trong khu vực và thế giới. Từ đó các Ngân hàng Việt Nam có thể tham gia bảo lãnh được các hợp đồng lớn trong khi khả năng tài chính có hạn đồng thời học hỏi thêm kinh nghiệm, phân tán rủi ro.
3.3.3. Với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam :
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam cần xem xét xu hướng chung trong nhu cầu bảo lãnh để đưa ra các chính sánh phát triển nghiệp vụ bảo lãnh một cách thích hợp, hướng dẫn Sở triển khai thực hiện một cách hợp lý, phù hợp với mục tiêu phát triển chung.
Chú trọng công tác đào tạo nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn cho các cán bộ thực hiện bảo lãnh nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có đạo đức, trình độ chuyên môn giỏi, nắm chắc kiến thức luật pháp, thành thạo ngoại ngữ, tin học. Muốn vậy, Ngân hàng cần tổ chức từ các lớp tập huấn ngắn hạn đến các khoá đào tạo dài hạn, không những đào tạo trong nước mà còn cử cán bộ học tập ở nước ngoài, tổ chức các buổi toạ đàm, mời các chuyên gia nước ngoài để trao đổi học hỏi kinh nghiệm, phát động phong trào nghiên cứu khoa học trong toàn đội ngũ cán bộ nhân viên. Cần có chính sách tiền lương, đãi ngộ hợp lý tránh tình trạng chảy máu chất xám.
Kết luận
Phát triển hoạt động Bảo lãnh ngân hàng là một vấn đề đã và đang thu hút được nhiều sự quan tâm bởi đây là một đòi hỏi cấp thiết đối với các Ngân hàng trong quá trình đổi mới hoạt động theo hướng kinh doanh đa năng. Nhận thức được vấn đề này, trong những năm qua Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam đã luôn chú trọng đến công tác phát triển hoạt động bảo lãnh, bước đầu đã thu được nhiều thành tựu. Tuy nhiên hoạt động bảo lãnh của SGDI vẫn chưa được đa dạng về đối tượng khách hàng, chưa được mở rộng sang nhiều lĩnh vực kinh doanh và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro... Chưa thể nói rằng hoạt động bảo lãnh tại Sở đã phát triển tương xứng với tiềm năng của Ngân hàng, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
Qua quá trình thực tập và tìm hiểu về thực trạng hoạt động bảo lãnh tại SGDI, em đã đề xuất một số giải pháp và em cũng hy vọng những giải pháp này sẽ có ích trong việc phát triển hoạt động bảo lãnh trong thời gian tới.
Hà nội, tháng 6 năm 2004
Sinh viên
Trịnh Thị Thu Phương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28696.doc