Trước sự lớn mạnh của nền kinh tế thị trường đã tạo ra bước phát triển mới trong đời sống vật chất của con người, nhu cầu về đời sống của người dân cũng được nâng dần theo tiến trình xã hội, nhiều loại hình doanh nghiệp mới lần lượt ra đời. gắn liền với nền kinh tế là sự hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam, qua hơn mười năm hình thành và phát triển cho đến nay TTCK đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, ứng dụng những công nghệ mới vào quá trình hoạt động, thay đổi cách thức quản lý sao cho phù hợp với tình hình mới.Với vai trò quan trọng của nó đối với nền kinh tế đất nước TTCK Việt Nam sẽ góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đạt được những thành công rực rỡ tiến đến các tầm cao mới. Cho dù hiện nay thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, nhưng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quản lý hợp lý của Nhà nước sẽ giúp thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển hiệu quả góp phần đảm bảo nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn thành các mục tiêu dài hạn của nhà nước đến năm 2020.
63 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1712 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không ngừng được cải tiến, độ an toàn cao ngày càng đáp ứng được quyền lợi và thị hiếu của nhà đầu tư, hơn thế nữa nhằm tăng tính cạnh tranh cho TTTP bộ tài chính đang đẩy nhanh quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý.
Nhưng bên cạnh đó thị trường trái phiếu vẫn còn một số hạn chế nhất định: tuy TTTP đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua nhưng quy mô của nó vẫn còn khá khiêm tốn so với tiềm năng, các nước trong khu vực thì quy mô thị trường tính theo tỷ lệ giữa số dư trái phiếu đang lưu hành trên GDP của VN mới chỉ ở mức khoảng 15%, trong khi tỷ lệ này ở các nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia tối thiểu là trên 30% và các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu thì đều trên dưới 100%.
Có thể thấy, khả năng cho TTTP VN phát triển còn rất lớn, bên cạnh đó tính lưu chuyển của các loại trái phiếu là rất hạn chế, vì vậy nó chưa phát huy hết những ưu điểm của một công cụ tài chính. Ngoài ra, tỷ lệ trái phiếu dài hạn còn thấp mà chủ yếu vẫn là trái phiếu ngắn và trung hạn. Trong năm nay mặt bằng lãi suất có chiều hướng tăng cao cũng gây khó khăn nhất định cho thị trường.
Ngày nay, thị trường vốn không còn bị giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà sự phát triển của nó đã vươn tới tầm vóc quốc tế đã mở ra triển vọng cho các chính phủ huy động vốn trên phương diện quốc tế. Một trong các hình thức huy động vốn quốc tế hiện nay là phát hành trái phiếu quốc tế. Đó là hình thức chính phủ phát hành các trái phiếu quốc tế ra thị trường quốc tế, đây là hình thức vay vốn trực tiếp qua các nhà đầu tư nước ngoài không phải qua các trung gian tài chính, vì vậy chi phí đi vay sẽ thấp hơn đồng thời tính độc lập về tài chính của chính phủ sẽ cũng lớn hơn do không bị ràng buộc vào các điều kiện sử dụng vốn khi vay.
Trên thế giới hiện nay có 2 loại TTTP:
- TTTP nước ngoài là thị trường mà chủ thể đi vay của một nước phát hành trái phiếu để huy động vốn trên thị trường vốn của một nước khác và được thanh toán bằng đồng tiền của nước nới nó được phát hành.
- TTTP châu Âu được bán ở các nước khác hơn là nước mà đồng tiền của nó được sử dụng là thước đo giá trị trái phiếu.
Trong những năm gần đây chính phủ nước ta cũng dùng trái phiếu quốc tế để huy động vốn cho nền kinh tế mà điển hình mà việc phát hành 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho tập đoàn vinashin.
Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc: Tín phiếu kho bạc ở Việt Nam là các chứng khoán nợ ngắn hạn với kỳ hạn 182, 273 hoặc 364 ngày trong khi trái phiếu chính phủ là 7, 10, hay 15 năm. Có gần 400 loại tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ khác nhau hiện đang được mua bán. Khoảng 60.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ được Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam phát hành hàng năm chủ yếu thông qua các kênh bảo lãnh và đấu giá. Hiện tại trái phiếu chính quyền địa phương được chính quyền địa phương phát hành dưới sự cho phép của chính phủ. Còn trái phiếu doanh nghiệp được phát hành thông qua kênh đấu giá, bảo lãnh và môi giới. Tuy nhiên, tính thanh khoản của chúng vẫn chưa cao.
2.3.4 Thị trường cổ phiếu
2.3.4.1 Thị trường cổ phiếu chưa niêm yết
TT Cổ phiếu chưa niêm yết hoạt động khá sôi nổi và hấp dẫn cùng với sự thay đổi phương thức giao dịch và thời gian giao dịch vào ngày 19/7/2010 của sàn chứng khoán UPCOM. Với sự hoạt động tương đối hiệu quả của sàn UPCOM đã góp phần làm giảm bớt áp lực cầu lên giá của các chứng khoán đã niêm yết, tạo ra một hướng đầu tư mới an toàn cho các nhà đầu tư so với việc đầu tư vào các cổ phiếu chưa niêm yết như trước kia. Cổ phiếu chưa niêm yết đã dần trở thành một mặt hàng phổ biến và được ưa chuộng.
Mặt khác, TTCP chưa niêm yết sẽ hứa hẹn tiếp tục tăng trưởng mạnh với sự tham gia tích cực của các công ty chứng khoán là tư vấn niêm yết đi kèm với đầu tư vào doanh nghiệp, hứa hẹn đem lại lợi nhuận hấp dẫn với độ an toàn cao.
2.3.4.2 Cổ phiếu đã niêm yết
TT cổ phiếu đã niêm yết ngày càng được tổ chức và vận hành một cách có hiệu quả đã tạo nên một TTCK sôi nổi, hấp dẫn cho công chúng đầu tư. Thị trường tài chính Việt Nam đã có diện mạo mới, hình ảnh và uy tín của các công ty niêm yết được cải thiện một cách đáng kể, cơ chế quản lý được từng bước hoàn thiện, sản xuất được mở rộng. Thông tin thường xuyên được cập nhật cung cấp trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp cho thông tin được minh bạch hóa góp phần tích cực phát triển bền vững cho thị trường.
Qua hơn 10 năm hoạt động cho đến nay TTCK đã trở nên phổ biến trong nhân dân. Cùng với việc tăng cường cơ chế quản lý, giám sát công bố thông tin trên thị trường đã tạo ra một thị trường minh bạch giúp các nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, hệ thống và chính xác, thì việc các tổ chức tài chính trung gian hoạt động hiệu quả cũng góp phần hỗ trợ mạnh cho thị trường.
2.3.5 Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.3.5.1 Về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.
Đối với Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập để quản lý và giám sát thúc đẩy cho thị trường phát triển theo định hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Đây là bước đi đúng phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng quốc tế.
2.3.5.2 Về sở giao dịch chứng khoán.
Hiện nay nước ta đã có hai sở giao dịch chứng khoán là SGDCK TP HCM và SGDCK Hà Nội. Sở giao dịch chứng khoán sẽ do Nhà nước sở hữu, để đảm bảo an toàn, công bằng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch chứng khoán do Thủ tướng chính phủ quyết định theo đề nghị của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là một tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Ngoài ra, để công khai hoá tất cả các hoạt động giao dịch, Nhà nước đang xem xét thành lập Sở giao dịch chứng khoán tập trung cho tất cả các chứng khoán (kể cả công ty và và nhỏ) có đủ điều kiện niêm yết, hay không đủ điều kiện niêm yết được mua bán tại Sở giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc giao dịch những chứng khoán của công ty lớn (đủ điều kiện niêm yết) tách biệt với khu vực giao dịch những chứng khoán của những công ty vừa và nhỏ không đủ điều kiện niêm yết.
2.3.5.3 Về lĩnh vực đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ chứng khoán.
Trung tâm lưu ký chứng khoán chính thức được đưa vào hoạt động vào ngày 3/5/2006 từ đó đến nay nó đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của TTCK thông qua việc củng cố và hoàn thiện cấu trúc hạ tầng của TTCK. Trung tâm lưu ký chứng khoán sử dụng mô hình lưu ký 2 cấp. Đảm nhiệm nghiệp vụ hỗ trợ sau giao dich là lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ, giúp cho các cơ quan giám sát nhà nước giám sát hiệu quả hơn giao dịch chứng khoán trên thị trường.
2.3.5.4 Về các tổ chức trung gian.
Các ngân hàng chỉ được phép kinh doanh chứng khoán dưới hình thức thành lập các công ty độc lập, hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cho phép cả các công ty chứng khoán độc lập hình thành từ các công ty tài chính, các tổng công ty lớn. Còn các công ty chứng khoán được phép thực hiện tất cả các hình thức như: bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, tư doanh chứng khoán, tư vấn chứng khoán và quản lý quỹ đầu tư. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu cầu phải hoạt động tách rời dưới hình thức một công ty độc lập nhằm bảo vệ lợi ích của những cổ đông của quỹ.
Ngoài ra hiện nay, Nhà nước còn cho phép hai loại doanh nghiệp tham gia kinh doanh chứng khoán là công ty cổ phần và doanh nghiệp liên doanh.
2.3.5.5 Về sự tham gia của bên nước ngoài.
Việt Nam cho phép bên nước ngoài được sở hữu một tỷ lệ phần trăm nhất định đối với các công ty đại chúng tỷ lệ này là 49 % và đối với ngành ngân hàng là 35 %. Bên cạnh đó nhà nước cũng cho phép công ty chứng khoán nước ngoài được liên doanh với công ty chứng khoán trong nước theo một tỷ lệ liên doanh nhất định.
Biểu đồ giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài
(NguồnPSI)
Biểu đồ tỷ trọng đầu tư của nhà ĐTNN
( Nguồn PSI)
Nguồn PSI
Qua biểu đồ trên ta thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu đầu tư vào 2 nghành bất động sản với giá trị khoảng 5.400 tỷ VND và nghành thực phẩm đồ uống khoảng 3.000 tỷ VND. Đây là điều hoàn toàn dễ hiểu bởi đó là 2 ngành mà phía nước ngoài có lợi thế và đem lại khoản sinh lời cao. Còn các nhóm nghành khác thì tỷ lệ đầu tư còn tương đối thấp, thấp nhất tập trung vào các lĩnh vực như tiện ích công cộng và chăm sóc sức khỏe.
2.3.5.6 Hệ thống thông tin của TTCK.
Hệ thống thông tin đảm bảo nguyên tắc công khai và công bằng trên TT vì vậy cần phải xây dựng nó một cách hiệu quả và minh bạch, góp phần hỗ trợ đắc lực cho sự vận hành thông suốt của TT và củng cố niềm tin của các nhà đầu tư. Xã hội và công nghệ số ngày càng phát triển thì thông tin nhanh đầy đủ và chính xác càng trở lên quan trọng vì nó là những chỉ tiêu, tư liệu phản ánh bức tranh của TTCK và tình hình kinh tế chính trị xã hội liên quan tại những thời điểm hoặc thời kỳ khác nhau. Hệ thống thông tin được mọi đối tượng sử dụng vì vậy việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc công bố thông tin của các công ty niêm yết và nâng cao chất lượng nội dung, đa dạng hóa các phương tiện công bố thông tin theo phương châm: đầy đủ kịp thời chính xác và dễ tiếp cận là vô cùng quan trọng.
Minh bạch thông tin là một trong những nhân tố quan trọng nhất giúp thị trường chứng khoán phát triển. Với tư cách là một người chủ sở hữu của doanh nghiệp, cổ đông của công ty hoàn toàn có thể được quyền biết rõ tình trạng doanh nghiệp của mình, thậm chí khi các doanh nghiệp này đã được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thì câu chuyện không chỉ dừng lại ở những người chủ sở hữu mà còn là những nhà đầu tư. Doanh nghiệp niêm yết phải có trách nhiệm công bố thông tin một cách rõ ràng minh bạch theo đúng pháp luật để cho các nhà đầu tư có những quyết định đúng đắn. TTCK Việt Nam đã có những sự phát triển vượt bậc không dừng lại ở con số các công ty niêm yết, mà quy mô vốn hóa của Thị trường vì vậy, điều kiện minh bạch hóa thông tin và các báo cáo tài chính càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển bền vững của thị trường.
2.3.5.7 Hệ thống thanh tra giám sát
Thị trường ngày càng phát triển với vai trò quan trọng cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy nó cần phải được bảo vệ để duy trì và phát triển một cách bền vững, hệ thống thanh tra giám sát là một định chế hết sức cần thiết để hạn chế những rủi ro do hành vi vi phạm pháp luật gây ra làm ảnh hưởng đến TT góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng, công khai, có hiệu quả và bảo vệ nhà đầu tư.
Hệ thống thanh tra giám sát có 3 mục tiêu chính:
+ Bảo vệ quyền lợi của những nhà đầu tư.
+ Góp phần đảm bảo cho thị trường hoạt động công bằng hiệu quả và minh bạch
+ Giảm thiểu rủi ro và ngăn chặn những rủi ro dẫn đến rủi ro hệ thống.
Với các lĩnh vực thanh tra sau:
+ Thanh tra việc phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp
+ Thanh tra giao dịch chứng khoán trên thị trường thứ cấp.
+ Thanh tra các hoạt động trên thị trường tập trung.
Công tác thanh tra giám sát tại sở giao dịch chứng khoán TP HCM:
Đối với công tác giám sát tuân thủ theo pháp luật, sở GDCK TP HCM chủ yếu tập trung vào việc phát hiện và ngăn chặn các nhà đầu tư mở nhiều tài khoản giao dịch, vi phạm chế độ công bố thông tin, các giao dịch thao túng thị trường, giao dich nội gián qua việc phân tích những CK có biến động lớn. Cùng với việc sử dụng các phần mềm giám sát đã hỗ trợ tích cực cho công tác thanh tra giám sát, cho đến nay nhìn chung sở GDCK TP HCM đã làm tốt công tác của mình góp phần phát triển TTCK.
2.4 Tác động tích cực của thị trường chứng khoán.
TTCK Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực cho nền kinh tế
- Bên cạnh kênh huy động vốn truyền thống là thông qua hệ thống các ngân hàng thương mại, TTCK đã tạo cho các doanh nghiệp có thêm một kênh huy động vốn mới hiệu quả bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh. Trong điều kiện kinh tế phát triển cao, nhu cầu vốn cho đầu tư rất lớn, đòi hỏi phải phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế đất nước.
- TTCK cung cấp cho chính phủ một phương thức mới để huy động vốn phục vụ hiệu quả cho nền kinh tế thông qua việc phát hành trái phiếu, bên cạnh đó TTCK cũng giúp cho chính phủ và các nhà hoạch định chính sách vĩ mô có cái nhìn tổng thể khái quát về nền kinh tế thông qua các chỉ số của TTCK để đạt được mục tiêu tiếp tục kích thích tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội với mức tăng GDP mục tiêu cho năm 2010 là 6.5%, tạo công ăn việc làm cho khoảng 1.6 triệu lao động, xuất khẩu tăng 6%, dự toán bội chi ngân sách ở mức 6.2% GDP, CPI bình quân tăng không quá 7%. Mục tiêu được xây dựng trên giả định kinh tế thế giới sẽ phục hồi rõ ràng hơn với mức độ từ từ so với đáy và các chính sách kích thích chọn lọc hơn của Chính phủ sẽ giúp cho kinh tế Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng.
- TTCK cung cấp cho các nhà đầu tư một kênh đầu tư hấp dẫn thông qua sự kết hợp tối ưu giữa rủi ro và lợi nhuận, bằng cách tự mình lựa chọn các mức lợi tức khác nhau.
- TTCK góp phần huy động các nguồn vốn từ nước ngoài từ các nhà đầu tư nước ngoài cho nền kinh tế. Với khoảng 13.000 tài khoản giao dịch của NĐTNN (chiếm 1.5% số tài khoản NĐT trong nước), trong đó có trên 1.200 tài khoản là của tổ chức và các quỹ nước ngoài nhưng khối lượng giao dịch lại chiếm tới 20-25% với giá trị danh mục chứng khoán tại thời điểm hiện tại khoảng trên 6 tỷ USD. TTCK đã dần trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho ngân sách nhà nước thông qua các cuộc đấu thầu trái phiếu chính phủ. Tính từ khi có thị trường cho đến nay, TTCK là kênh huy động tới 42% tổng giá trị các đợt phát hành trái phiếu chính phủ hoặc được Chính phủ bảo lãnh phát hành.
- TTCK là kênh giám sát tính hiệu quả nền kinh tế, qua 10 năm hoạt động, có thể thấy rõ TTCK đã trở thành một kênh dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Từ 2 công ty niêm yết ban đầu tăng lên trên 550 công ty trong đó sàn HOSE là 229 và HASTC là 290 còn lại là sàn UPCOM. Thị trường chứng khoán ngày càng trở nên quan trọng khi Việt Nam đang hội nhập, phát triển trong các mối quan hệ quốc tế. Xác định vị thế thị trường chứng khoán chính là kênh giám sát, kiểm tra tính hiệu quả của nền kinh tế và là thước đo nhanh nhạy nhất đối với các hoạt động đầu tư của đất nước...
2.5 Những mặt hạn chế của thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Tuy TTCK Việt Nam đã đem lại rất nhiều hiệu quả cho nền kinh tế nhưng bên cạnh đó nó vẫn còn nhiều điểm còn tồn tại cần được sớm khắc phục. Mỗi giao dịch trong thị trường chứng khoán TTCK là một quyết định đầu tư, nhiều khi phải đối mặt với nhiều rủi ro. Các giao dịch thường diễn ra và kết thúc cực kỳ nhanh, có thể chỉ tốn vài giây để có một hợp đồng bạc tỷ. Ở các thị trường lớn, hàng triệu giao dịch phát sinh mỗi ngày, trị giá hàng tỷ đô la... Sự sôi động của loại thị trường nhạy cảm này vừa thách thức vừa đặt tiền đề cho các nhà quản lý về khả năng duy trì một nề nếp trật tự và đạo đức kinh doanh.
Để đảm bảo một thị trường lành mạnh, TTCK được xây dựng trên nền tảng trung thực và công bằng, bảo vệ nhà đầu tư tối đa. Sự an toàn chính là nhân tố thuyết phục cho thị trường tồn tại và được duy trì bởi: một hành lang pháp luật, một hệ thống quy chuẩn và nghiệp vụ được chuẩn hoá có tính nguyên tắc. Tuy vậy, mặc dù hệ thống pháp luật đã được xây dựng chặt chẽ nhưng nó vẫn có những kẽ hở gây thiệt hại cho nhà đầu tư, hiện tượng các công ty móc nối với công ty kiểm toán làm sai lệch báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh như trường hợp của công ty bông Bạch Tuyết đã không được giải quyết một cách triệt để gây nên tâm lý không tốt, ai dám đảm bảo rằng không có trường hợp Bạch Tuyết thứ hai khi ai sẽ là người giám sát các công ty kiểm toán.
TTCK mặc dù đã trở nên phổ biến trong xã hội nhưng dường như nó vẫn chỉ là sân chơi của các đại gia những người có tiền và có thế lực, diễn biến của thị trường còn mang tâm lý đám đông không theo qui luật vận hành của thị trường. Giá CK trong nhiều trường hợp chưa phản ánh hết những biến động thị trường, không tuân theo qui luật cung cầu mà là của tập hợp tâm lý của nhiều nhà đầu tư trên thị trường. Trong rất nhiều thời điểm khác nhau khi các chỉ số phân tích cơ bản của một mã cổ phiếu nào đó là rất tốt, phân tích kỹ thuật chỉ ra rằng nó sẽ tăng trong những phiên giao dịch kế tiếp nhưng thực tế thị trường thì nó lại giảm và ngược lại. Điều đó cho chúng ta thấy rằng tuy thị trường đã hoạt động 10 năm nhưng dường như chúng ta chưa chú ý phát triển đúng mức, chúng ta chỉ lo phát triển bề nổi mà chưa thật sự chú trọng phát triển chiều sâu, một thị trường phát triển bền vững phải dựa vào sức khỏe nội tại của doanh nghiệp mà ở đó các phân tích cơ bản thể hiện rõ nét nhất.
Ngoài ra phần đông những nhà đầu tư, nhà đầu tư cá nhân trong nước hiện chiếm khoảng 80% tổng giao dịch hàng ngày, chưa được trang bị những kiến thức cơ bản về đầu tư chứng khoán, chỉ đầu tư theo phong trào, theo tin đồn mà không nhận biết được giá trị đích thực của chứng khoán…Và họ vẫn không quan tâm đến các chỉ số cơ bản thậm chí họ còn không biết đến nó, điều đó là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý đám đông gây thiệt hại cho chính các nhà đầu tư.
Về các công cụ phân tích chứng khoán: Gần đây rất nhiều trang wed chứng khoán đã đưa ra các công cụ phân tích kỹ thuật giúp các nhà đầu tư ra quyết định nhưng thực sự nó chưa phát huy hết tác dụng của mình vì các nhà đầu tư cũng không hiểu rõ bản chất các công cụ phân tích, rất ít nhà đầu tư được học về các phân tích kỹ thuật mà họ chỉ sử dụng kết quả của các công ty chứng khoán điều đó dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Bên cạnh đó cần có sự quan tâm tới tiêu chuẩn niêm yết của các chứng khoán. Những qui định về niêm yết chứng khoán được qui định trong bộ luật chứng khoán 2006 và những nghị định sau đó như qui định tiêu chuẩn niêm yết tại Nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/1/2007 của Chính phủ V/v hướng dẫn chi tiết thi hành một số Điều của Luật Chứng khoán đã không còn theo kịp tốc độ phát triển của TTCK, vì nghị định này ra đời trong bối cảnh TTCK lúc đó là phù hợp và đã khuyến khích được hàng trăm doanh nghiệp tích cực tham gia TTCK, làm phong phú hàng hóa cho TTCK: Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa có chính sách quản trị doanh nghiệp tốt đã trở thành những doanh nghiệp vừa và lớn nhờ huy động được vốn từ TTCK, Cho đến thời điểm hiện tại, đã có hơn 551 doanh nghiệp tham gia niêm yết. Những doanh nghiệp tiêu biểu của nước ta đã gần như hội đủ tại TTCK ( xét về phương diện quản trị doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng). Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực còn có những mặt hạn chế về cổ phiếu niêm yết tại 2 sàn giao dịch chứng khoán:
Về phía doanh nghiệp: Một số doanh nghiệp niêm yết không có nhiều tiến bộ trong quản trị doanh nghiệp dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém, thậm chí thua lỗ liên tục. Những tiêu chuẩn niêm yết thấp và không còn thật phù hợp trong thời điểm hiện nay đã dẫn tới tình trạng có 1 bộ phận doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả được tham gia niêm yết, cho nên sẽ rất dễ gây ra những rủi ro trong đầu tư chứng khoán cho các nhà đầu tư mà còn làm xấu đi môi trường đầu tư. Giai đoạn hiện nay, xét về qui mô hàng hóa của TTCK đã tạm đủ, để làm cho TTCK ngày càng hấp dẫn, đồng thời cần phải tạo sân chơi an toàn cho những nhà đầu tư mới, những nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm thì phải nâng cấp tiêu chuẩn hàng hóa niêm yết tại các sàn giao dịch, nhằm loại bỏ những loại hàng hóa kém chất lượng hay nói chính xác hơn là nâng cao chất lượng hàng hóa của từng sàn GDCK để nhà đầu tư dễ phân biệt và từng bước xây dựng sàn HOSE và HASTC theo tiêu chuẩn quốc tế. TTCK nước ta đang phát triển đúng hướng và đã đến lúc không thể tiếp tục dễ dàng chấp nhận những hàng hóa kém chất lượng tham gia niêm yết, việc nâng cao tiêu chuẩn niêm yết để cho các doanh nghiệp thấy đuợc niêm yết là một niềm vinh dự và tự hào, đồng thời cũng là phần thưởng cho các nhà quản trị doanh nghiệp. Đồng thời cũng để cho một bộ phận doanh nghiệp phải luôn luôn cố gắng, loại bỏ những nhà quản lý yếu kém hay những nhà quản lý ít quan tâm đến quyền lợi của nhà đầu tư, ít quan tâm đến hiệu quả hoạt động của đồng vốn kinh doanh. Góp phần làm giảm thiểu những rủi ro đáng kể cho các nhà đầu tư, đồng thời làm cho môi trường đầu tư chứng khoán được tốt hơn.
Trong TTCK hiện nay các công ty chứng khoán vừa có nghiệp vụ tư vấn đầu tư vừa tự doanh chứng khoán, điều này có thể gây hại đến các nhà đầu tư vì danh mục đầu tư của các công ty chứng khoán thường không được công khai một cách rõ ràng. Khi khách hàng tìm đến nhà tư vấn hoặc quan hệ với công ty chứng khoán nơi mà họ mặc nhiên phó thác niềm tin. Mỗi khách hàng có những nhu cầu đầu tư riêng, các điều kiện tài chính, nhân thân, thể trạng tâm lý, mức chịu đựng rủi ro của họ khác nhau. Họ cần được điều tra đầy đủ, được giải thích cặn kẽ, gồm cả các phân tích rủi ro đúng mực và báo họ biết trước. Bất cứ sự thiếu tận tụy, qua loa lấy lệ nào gây hậu quả xấu cho khách hàng đều được xem là vi phạm nguyên tắc hành xử trong TTCK. Thế nhưng, vẫn có một số công ty chứng khoán sử dụng niềm tin này để kiếm lời. Bên cạnh đó việc các công ty chứng khoán ưu tiên cho các khách hàng quen và khách hàng lớn là không hiếm nhưng vẫn chưa có biện pháp khắc phục vẫn đang là vấn đề nan giải.
Một trong những hạn chế mà có thể chỉ có ở TTCK Việt Nam là thói quen mua cổ phiếu giá rẻ của những nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ có ít vốn, và cuối cùng không đem lại hiệu quả như mong đợi. Những loại cổ phiếu giá thấp thông thường hấp dẫn mọi người với một lý do duy nhất rẻ. Nhưng trong khi nó đang quyến rũ mọi người mua chúng với giá rẻ thì hoạt động tài chính của chúng lại rất kém và chậm chạp so với những loại cổ phiếu khác trong ngành. Nhiều nhà đầu tư bỏ tiền đầu tư vào các loại cổ phiếu rẻ tiền với mong muốn tìm lợi nhuận lớn và nghĩ rằng các loại cổ phiếu ăn khách đã đạt tới ngưỡng, điều này không phản ánh đúng bản chất giá cổ phiếu và sẽ không mang lại lợi nhuận như kỳ vọng do biến động của thị trường. Và chúng ta cũng nên biết những tổ chức đầu tư lớn những quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, các ngân hàng thực hiện phần lớn các giao dịch trên thị trường và thực sự có thể tác động vào giá cả.
2.6 Dự đoán về thị trường trong năm 2010.
Trong những tháng cuối năm theo nhận định của tôi TTCK Việt Nam sẽ tiếp tục đà tăng trưởng đã đạt được trong những tháng đầu năm 2010, tuy TT sẽ có những điều chỉnh nhưng sẽ khó có những biến động lớn vì ưu tiên của Nhà nước trong những tháng cuối năm là giữ ổn định kinh tế- chính trị - xã hội, kiềm chế lạm phát phục vụ đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội.
Với việc sử dụng fibonacci zone và fibonacci retracement tôi dự báo Vn-index sẽ đảo chiều tăng ở điểm giao cắt của 2 fibonacci vào ngày 17/8 hoặc có thể là sớm hơn. Khối lượng giao dịch vẫn còn tương đối lớn càng củng cố cho khả năng Vn-index sẽ đổi chiều. Theo tôi nhiều khả năng từ giờ đến cuối năm thị trường sẽ đạt mức 520-560 điểm.
Ta tiếp tục quan sát biểu đồ VN-Index trong những tháng cuối năm 2009 và những tháng đầu năm 2010 ta thấy Vn-index vẫn đang nằm trong một kênh xu thế dài, nhiều khả năng khi chạm tới mức hỗ trợ ở mức 444 điểm cũng có thể đây sẽ là đáy của thị trường thì VN-Index sẽ tăng điểm trở lại.
CHƯƠNG 3 CÁC KIẾN NGHỊ THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
3.1 Mục tiêu chiến lược của việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Để hình thành xây dựng và phát triển một doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh thích hợp là công cụ không thể thiếu và đóng vai trò vô cùng quan trọng, nếu có chiến lược kinh doanh tốt và biết kết hợp hợp lý các nguồn lực trong cũng như ngoài doanh nghiệp thì sẽ tạo tiền đề tốt cho doanh nghiệp phát triển. Tương tự, để hình thành và phát triển được thị trường chứng khoán nước ta đủ mạnh và pháp triển vững chắc thì phải hoạch định trước các mục tiêu chiến lược.
3.1.1 Một số quan điểm định hướng
Xây dựng thị trường chứng khoán phát triển là một nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tiến trình xây dựng và phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Kinh nghiệm của nhiều nước đã chứng minh rằng hình thành thị trường đã khó nhưng duy trì hoạt động thị trường, bảo đảm thị trường hoạt động ổn định, có hiệu quả sau khi hình thành là nhiệm vụ không hề đơn giản. Bài học của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ với hiệu ứng lan truyền của nó cho thấy rằng tất cả sự chần chừ hay nóng vội đều có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, khó lường nên nền kinh tế. Vì vậy, cần xây dựng các chiến lược mang tính định hướng cho việc phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta trong hiện tại cũng như trong tương lai khi đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển, khi đó TTCK sẽ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế:
- Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá các thị trường tài chính ngày càng sâu rộng, chúng ta phải tiếp tục xây dựng và phát triển mô hình HOSE và HASTC hiện có cùng với việc chủ động thúc đẩy việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết như hệ thống kỹ thuật, nhân sự,…để xây dựng hoàn thiện hơn nữa các Sở giao dịch chứng khoán để đáp ứng được yêu cầu và xu hướng phát triển của nền kinh tế trong điều kiện kinh tế mới.
- Cơ sở hạ tầng tài chính của Việt Nam chưa thật sự hoàn chỉnh nên Chính phủ phải nắm vai trò chủ đạo trong việc hình thành thị trường chứng khoán. Thế nhưng sau hơn mười năm phát triển, cần phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức tự quản, hạn chế thấp nhất sự can thiệp trực tiếp của các cơ quan quản lý. Các cơ quan nhà nước chỉ nên đóng vai trò định hướng và hoạch định chiến lược cho TTCK phát triển.
- Cần nghiên cứu và xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, duy trì trật tự và công bằng trên thị trường chứng khoán trên nguyên tắc “quản nhưng không can thiệp quá mức, làm sống động nhưng không gây lộn xộn, bình ổn nhưng không gây bất ổn” nên tránh trường hợp khi luật và khung pháp lý chạy sau sự phát triển của TT như vậy sẽ gây kìm hãm sự phát triển của TT do không phù hợp với các mối quan hệ pháp lý hiện tại.
- Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, cần chú trọng nâng cấp và hoàn thiện thị trường sơ cấp cả về quy chế cũng như chất lượng, đa dạng hóa hàng hóa cho thị trường thứ cấp .
- Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật hoạt động đầu tư chứng khoán không còn bị giới hạn bởi ranh giới địa lý của một vùng quốc gia, lãnh thổ nữa mà cạnh tranh trong giao dịch chứng khoán xuyên quốc gia giữa các Sở giao dịch chứng khoán ở các Châu lục đang diễn ra gây gắt. Trong những cảnh ấy, nhiều Sở giao dịch chứng khoán ở Châu Âu đang có khuynh hướng sát nhập liên kết trên cơ sở xây dựng một hệ thống giao dịch và thanh toán bù trừ thống nhất, sự gia tăng sức cạnh tranh, thu hút các dòng vốn đầu tư vào tiết kiệm. Để tồn tại và phát triển, các thị trường chứng khoán ở Châu Á cũng không thể đứng ngoài xu hướng. Vì vậy, trong khi trang bị lại các hệ thống giao dịch, đăng ký, lưu ký, thanh toán, công bố thông tin hiện đại cho Thị trường chứng khoán Việt Nam, hoạch định chiến lược, chuẩn bị các nguồn lực để cạnh tranh cần được chú trọng đúng mức.
- Do hoạt động của thị trường chứng khoán trong thời gian tới sẽ bị chi phối hoàn toàn bởi cung cầu thay vì còn có tâm lý đám đông như hiện nay nên cần phải có những chính sách ưu tiên để điều chỉnh tránh mất cân đối giữa cung và cầu chứng khoán trên thị trường nhằm tạo ra những điều kiện thị trường thật sự và bảo vệ lợi ích chính đáng của công chúng. Bất cứ những hành vi nào xảy ra trên thị trường để trục lợi bất hợp pháp đề phải được giám sát, quản lý chặt chẽ và xử lý nghiêm minh.
3.1.2 Hoạch định mục tiêu dài hạn phát triển thị trường.
Học tập kinh nghiệm của các thị trường tài chính phát triển, đúc kết các kinh nghiệm thành công và thất bại từ các thị trường chứng khoán mới nổi, có thể xác định tầm nhìn của thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2020 như sau: Đến năm 2020, thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những thị trường tốt, có đầy đủ các khu vực thị trường khác nhau và các giao dịch, mua bán trên các thị trường này được thực hiện một cách công bằng, công khai và trật tự những công cụ kiểm soát rủi ro có hiệu quả. Đó là một thị trường có đặc trưng chủ yếu sau đây:
- Thị trường có sức lưu chuyển cao. Trong thị trường có sức lưu chuyển cao, một số lượng lớn các chứng khoán có thể được mua bán dễ dàng với sự biến động bất thường về giá. Sức lưu chuyển của thị trường chứng khoán khác nhau được đo bằng độ sâu, tầm rộng và tính co dãn của các giao dịch xảy ra trên thị trường. Một giao dịch được gọi là có độ sâu nếu tồn tại đủ các lệnh mua, bán tại các lệnh đặt mua và bán tại các mức giá cao thấp hơn mức giá hiện hành, giao dịch được gọi là tầm rộng. Và thị trường được xem có tính co dãn nếu có các lệnh giao dịch mới được rót vào thị trường ngay để phản ứng lại sự thay đổi về giá do mất cân đối tạm thời giữa cung và cầu.
- TT có các thông tin đầy đủ và sẵn có để xác định các điều kiện cung cầu. Những thông tin này sẵn có đối với tất cả các tác nhân tham gia thị trường và ở các thời điểm như nhau, nghĩa là tất cả các giao dịch đều được xảy ra với sự xem xét đầy đủ các thành viên tham gia thị trường.
- Đó là thị trường có sự liên tục về giá tức là giả định rằng nếu không có thông tin mới đi vào thị trường thì người mua và người bán có thể mua hoặc bán ở các giá với mức giá của các giao dịch cùng loại diễn ra ở thời điểm gần nhất.
- Chi phí giao dịch (chi phí mua và bán chứng khoán) trên thị trường thấp, kể cả các thành viên tham gia giao dịch đều có cơ hội mua, bán ở các mức phí hợp lý.
- Tất cả các thành viên tham gia giao dịch đều có cơ hội tiếp cận thị trường như nhau. Thị trường không cho phép bất cứ một cá nhân nào có đặc quyền thực hiện lệnh mua hoặc bán nhanh hơn các nhà đầu tư khác.
- Giá cả được điều chỉnh một cách nhanh chóng theo các nguồn thông tin mới, được công bố công khai và những nguồn thông tin này được tiết lộ ở cùng một thời điểm cho tất cả các thành viên tham gia giao dịch.
- Hoạt động của thị trường chứng khoán đáp ứng mục tiêu bổ sung và nâng cao năng lục huy động vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
- Thị trường được trang bị đủ các nền tảng pháp lý và các phương tiện kỹ thuật hiện đại để bảo vệ các nhà đầu tư một cách có hiệu quả, được tổ chức vận hành một cách thông suốt, công bằng, trong sáng và có hiệu quả để loại trừ tận gốc các yếu tố gây khủng hoảng, tạo ra được các nền tảng phát triển ổn định, vững chắc, tạo dựng được hình ảnh, uy tín đối tác các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
3.2. Các kiến nghị phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
3.2.1 Hoàn thiện khung pháp lý.
Thị trường chứng khoán để có thể tồn tại thì cần phải có hệ thống giao dịch, hệ thống thanh toán, hệ thống công bố thông tin,... ngoài ra các văn bản pháp quy và các quy định pháp lý cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng để các nhà phát hành, các nhà đầu tư, Uỷ ban chứng khoán, Hiệp hội các nhà môi giới có thể điều chỉnh các hoạt động, các mối quan hệ đan xen, phức tạp diễn ra hàng ngày hàng giờ trên thị trường.
Hành lang pháp lý là rào chắn bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động nhịp nhàng, có hiệu quả. Nếu một hoạt động nào đó trong thị trường chứng khoán không được pháp lý điều chỉnh thì thị trường sẽ trở nên hỗn loạn. Vì vậy, chỉ có bằng luật pháp và bằng các quy chế mang tính pháp lý chặt chẽ thì thị trường chứng khoán mới thực sự trở thành nơi đầu tư lành mạnh, mới khuyến khích người dân đầu tư mạnh mẽ vào các chứng khoán và do đó mới huy động tối đa lượng tiền nhàn rỗi trong dân để phát triển sản xuất. Do đó, cần tiếp tục xây dựng hoàn thiện để tạo hành lang pháp lý an toàn cho thị trường chứng khoán, khắc phục các khiếm khuyết đã và đang bộc lộ trong hệ thống các văn bản pháp quy hiện hành. Đi cùng với việc chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản điều chỉnh hoạt động của thị trường chứng khoán. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết quả quá trình thực hiện bộ luật chứng khoán năm 2006 tiến hành chỉnh sửa những điểm bất hợp lý, những điểm chồng chéo hoặc không phù hợp với những quy định tại các văn bản pháp quy khác. Bổ sung, hoàn thiện (về phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh) để chuẩn bị các tiền đề cần thiết cho việc hình thành bộ Luật chứng khoán mới phù hợp hơn với hiện tại và định hướng thị trường đến năm 2020. Tổ chức nghiên cứu, xây dựng và ban hành các bộ Luật có liên quan khác như Luật khuyến khích phát triển thị trường vốn, Luật kinh doanh tư vấn đầu tư, Luật lưu ký và thanh toán chứng khoán, Luật bảo vệ các nhà đầu tư chứng khoán,...
3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia thị trường chứng khoán.
Nguồn nhân tố giữ vai trò quyết định trong mọi hoàn cảnh, tình huống không phải là ở máy móc thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật mà là ở nhân tố con người. Là thị trường cao cấp, thị trường chứng khoán cũng cần rất nhiều đội ngũ chuyên viên có trình độ cao trong nhiều lĩnh vực để tồn tại và phát triển. Rõ ràng, để có thể giúp người dân hiểu rõ về bản chất các loại chứng khoán và lựa chọn một tổ hợp các chứng khoán tối ưu, ngoài việc am hiểu các luật lệ mua bán, nhân viên làm việc tại các công ty chứng khoán phải thật sự là các chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực quản trị tài chính, quản trị đầu tư, phân tích đầu tư, tiếp thị,...việc sát hạch và tuyển chọn các chuyên viên chứng khoán được thực hiện theo một quy trình nghiêm ngặt và những tiêu chuẩn hết sức khắt khe. Muốn hành nghề trên thị trường chứng khoán, ngoài tiêu chuẩn phải có là có óc phân tích nhạy bén kinh doanh, khả năng phán đoán và biết đưa ra quyết định đúng lúc, người tham dự tuyển phải được đào tạo và huấn luyện theo một chương trình đặc biệt. Tổ chức liên tục các chương trình phổ cập những kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho nhân dân trên các phương tiện thông tin đại chúng (radio, tivi,…) đồng thời có kế hoạch đưa môn học thị trường tài chính, thị trường chứng khoán vào các trường trung học phổ thông, trung học dạy nghề, các trường đại học như một môn học bắt buộc. Cập nhật và chuẩn hoá chương trình đào tạo chứng khoán theo đúng các chuẩn mục quốc tế trước hết cho cán bộ giảng dạy về chứng khoán, cho đội ngũ cán bộ làm việc tại các công ty chứng khoán, cho các cán bộ quản lý tài chính tại các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo chất lượng tư vấn của các nhà tư vấn cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản trị vốn, quản trị tài chính tại các công ty. Khai thác có hiệu quả sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế trong việc đào tạo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán.
Mạnh dạn tuyển chọn những sinh viên giỏi, có năng khiếu kinh doanh, có trình độ ngoại ngữ vững ở các trường đại học để gửi đi đào tạo và thực tập ở các sở giao dịch chứng khoán của các nước tiên tiến nhằm hình thành nguồn cán bộ nòng cốt cho thị trường chứng khoán trong những năm tiếp theo.
3.2.3 Tăng nguồn cung chứng khoán.
Giống như sự vận hành của các loại thị trường khác, dĩ nhiên, sự vận hành của thị trường chứng khoán cũng chịu sự chi phối của cơ chế “bàn tay vô hình” thông qua tác động của lực cung và sức cầu chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Do vậy, bàn về hình thành và phát triển thị trường không đề cập đến yếu tố cung chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Cung chứng khoán trên thị trường chứng khoán chịu tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan: ý muốn, khả năng phát hành và bán chứng khoán của các tác nhân kinh tế để gây vốn hoặc để cân bằng thu chi ngân sách. Các yếu tố này, đến lượt chúng, lại chịu sự chi phối trực tiếp bởi những lợi ích, các thuận lợi có được khi phát hành và bán chứng khoán so với kênh vay mượn truyền thống. Đáng tiếc là cho đến nay vẫn còn khá nhiều yếu tố chủ quan làm hạn chế nguồn cung trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay.
Yếu tố đầu tiên là, mặc dù Chính phủ đã có chủ trương đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đến năm 2010 cơ bản cổ phần hóa xong, nhưng đến nay vẫn còn nhiều tập đoàn nhà nước chưa cổ phần hóa xong. Nguyên nhân mà nguyên nhân chủ yếu là hiện vẫn còn có sự xung đột về lợi ích chung với lợi ích cục bộ của một số Bộ, ngành, cấp chủ quản cũng như lợi ích của giới lãnh đạo hiện tại của doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi hình thức sở hữu. Hơn nữa hiện nay phương thức tài trợ gián tiếp qua hệ thống tín dụng ngân hàng vẫn còn giữ vai trò quan trọng trên thị trường tài chính ở nước ta.
Để đảm bảo tính liên tục, cân bằng và bền vững trong hoạt động của thị trường chứng khoán, điều cần là nguồn cung chứng khoán phải được điều tiết để đảm bảo trên thị trường chúng khoán số lượng chứng khoán lưu hành luôn đủ lớn về số lượng và đảm bảo về mặt chất lượng. Sau đây là một số giải pháp để gia tăng khối lượng của dòng cung chứng khoán:
- Trên cơ sở đánh giá và phân nhóm các doanh nghiệp nhà nước, cần triển khai đồng bộ và mạnh mẽ việc sắp xếp, cải tổ lại các doanh nghiệp nhà nước trên diện rộng nhằm loại bỏ lề lối quản lý kém hiệu quả, cứng nhắc, tạo ra động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và các tiền đề vật chất cần thiết cho việc hình thành thị trường cổ phiếu nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung.
- Sẽ không có động lực cho các doanh nghiệp phát hành cổ phiếu ra công chúng nếu như không có một chính sách khuyến khích, ưu đãi về tài chính và bảo vệ doanh nghiệp trước nguy cơ bị thâu tóm, sát nhập đủ hấp dẫn dành cho các doanh nghiệp niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung.
- Đa dạng hoá các loại phiếu phát hành cả về kỳ hạn (ngắn, trung, dài hạn) lẫn mệnh giá. Đồng thời tích cực nghiên cứu để đưa vào thị trường các công cụ mới như các hợp đồng quyền chọn, các chứng quyền mua thêm chứng khoán.
3.2.4 Chính sách kích cầu chứng khoán
TTCK như biểu tượng của một nền kinh tế thị trường phát triển, một thị trường chứng khoán hoàn chỉnh đã dần được hình thành ở Việt Nam. Đó là bước phát triển tất yếu, hợp quy luật của các nỗ lực chuyển đổi triệt để từ nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển sang nền kinh tế thị trường phát triển trong lộ trình hội nhập từng bước vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới của Việt Nam. Nhưng đối với một định chế phức tạp, gai góc và có nhiều tác động đến nền kinh tế như thị trường chứng khoán, sẽ là rất thiếu sót nếu tính đến việc hình thành, phát triển, ổn định thị trường mà không nghiên cứu kỹ cung và cầu chứng khoán trên thị trường. So với yếu tố cung là ý muốn, khả năng phát hành và bán cổ phiếu để gây vốn hoặc để cân bằng thu chi ngân sách, thì yếu tố cầu: ý muốn, khả năng tích luỹ và sử dụng tiền tiết kiệm để mua chứng khoán như một công cụ để tiết kiệm và đầu tư, có ý nghĩa rất lớn đối với tiến trình phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta. Vấn đề cần quan tâm ở đây là, trong nền kinh tế mà tiền mặt vẫn còn giữ địa vị thống trị trong các quan hệ giao dịch trao đổi như ở nước ta hiện nay làm thế nào để kích cầu chứng khoán. Cũng như cầu các loại hàng hoá khác, sức cầu chứng khoán trên thị trường được quyết định bởi mức thu nhập trung bình của dân cư. Với mức thu nhập bình quân đầu người của nước ta hiện nay (trên 1000 USD/năm), đối với phần lớn mọi người, thu nhập hiện tại đã đủ để trang trải cho các nhu cầu sinh hoạt tối thiểu và tiết kiệm, nếu chúng ta huy động được nguồn tiết kiệm này sẽ tạo ra được một nguồn vốn đủ lớn đầu tư dài hạn trên thị trường chứng khoán. Nguồn vốn tiết kiệm trôi nổi trong dân cư chưa được khai thác và luân chuyển trên thị trường vốn ở nước ta là rất lớn. Như vậy, có thể thấy rằng, tiềm năng vốn đầu tư trong bộ phận công chúng vào thị trường chứng khoán vẫn còn rất lớn nếu biết khai thác đúng mức.
Một yếu tố khác chi phối đến sức cầu chứng khoán là sự hiểu biết về thị trường tài chính và sự ưa thích đầu tư chứng khoán. Khó khăn lớn nhất hiện nay trong việc huy động vốn tiết kiệm vào thị trường vốn là đại bộ phận công chúng ở nước ta mặc dù đã biết về chứng khoán và đầu tư chứng khoán nhưng thực đơn đầu tư phổ biến vẫn là cất trữ tại nhà, mua đất, mua vàng tích trữ, nắm giữ ngoại tệ mạnh hoặc gửi ngân hàng và các dạng đầu tư truyền thống khác.
Hiện tại khi nguồn cung chứng khoán đang gia tăng mạnh, sức cầu chứng khoán hiện nay vẫn chưa thể đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường chứng khoán trong tương lai. Vì vậy, để khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tầng lớp dân cư hiểu và ưa thích đầu tư vào các công cụ tài chính, các giải pháp cần tập chung thực hiện để kích cầu chứng khoán có hiệu quả
Nỗ lực thực hiện có hiệu quả các chương trình khuyến khích giúp đỡ các tầng lớp có thu nhập khá và trung bình trên khắp cả nước có điều kiện mua chứng khoán chứ không hạn chế chủ yếu ở thành thị như hiện nay. Bên cạnh đó việc hỗ trợ về mặt tài chính để khuyến khích người lao động mua cổ phiếu ngay tại chính doanh nghiệp mà mình đã và đang gắn bó nhằm tạo điều kiện cho người lao động tham gia là chủ doanh nghiệp, mở rộng đối tượng đầu tư, hạn chế nạn đầu cơ, lũng đoạn thị trường và tăng tính linh hoạt của thị trường.
Bên cạnh việc tổ chức tốt các kênh tuyên truyền, phổ cập, giáo dục cho công chúng hiểu rõ các lợi ích của đầu tư chứng khoán trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong hệ thống trường học (phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) để từng bước hình thành một nền văn hoá chứng khoán cho công chúng, cần nhanh chóng hình thành và phát triển việc quản lý vốn đầu tư bằng việc hình thành các quỹ uỷ thác đầu tư để giúp cho vốn đầu tư của những nhà đầu tư không thích mạo hiểm được quản lý an toàn, hiệu quả bởi những nhà quản lý vốn chuyên nghiệp cùng với việc tăng tính hấp dẫn của hình thức đầu tư và chứng khoán bằng cách cải thiện khối lượng và chất lượng của chứng khoán.
Xây dựng và phát triển hệ thống các trung gian tài chính hoạt động trên thị trường chứng khoán (các quỹ đầu tư, các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm) để giúp các nhà đầu tư có thể dễ dàng tiếp cận hình thức đầu tư chứng khoán.
3.2.5 Minh bạch, công khai hoá thông tin
Ngày nay, trong thời đại bùng nổ thông tin, thông tin có vai trò quan trọng trong sinh hoạt của mọi tầng lớp, mọi đối tượng. Đối với nhà đầu tư, trừ phi là nhà đầu tư theo đuổi một chiến lược đầu tư đơn giản (như đầu tư số tiết kiệm hiện có vào các sổ tiết kiệm hay chọn lựa ngẫu nhiên một loại chứng khoán nào đố và nắm giữ chúng cho tới khi đến hạn), thông tin lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì để đầu tư thành công cần phải có đầy đủ thông tin về thị trường, về ngành nghề, về tình trạng tài chính của doanh nghiệp mà mình định đầu tư. Chính vì vậy, trong đầu tư, nắm được thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác là đã nắm một nửa của sự thành công: nửa còn lại tuỳ thuộc vào khả năng phân tích, phán đoán, sự nhạy cảm và tính năng động của mỗi nhà đầu tư.
Trong môi trường đầu tư ở các nước kinh tế thị trường phát triển, nguồn thông tin rất phong phú. Nguồn thông tin thứ nhất mà các nhà đầu tư có thể sử dụng là thông tin từ các doanh nghiệp. Các công ty cổ phần đại chúng phải xuất bản các báo cáo thường niên và báo cáo hàng quý để gửi cho các cổ đông. Thêm nữa, Uỷ ban chứng khoán cũng yêu cầu các công ty cổ phần đại chúng phải xuất bản các bản tin hàng ngày trình bày chi tiết bất cứ sự thay đổi nào có liên quan đến tình trạng tài chính và những thông tin khác có thể sử dụng để định giá các chúng khoán của công ty.
Ngoài nguồn thông tin được cung cấp có tính miễn phí như trên, nhà đầu tư có thể mua các thông tin từ các tạp chí và các báo cáo tài chính chuyên ngành có uy tín. Đây cũng là những nguồn thông tin rất hữu ích trong việc giúp nhà đầu tư ra quyết định. Có lẽ giới đầu tư quốc tế không mấy ai không biết đến các tạp chí nổi tiếng thế giới như Wall Street Jounal, Forbes, Business Week, Fortune, Aall Jounal,… Để có được những phân tích nhạy bén, sắc sảo thì ngoài trình độ của chuyên gia phân tích thì yếu tố có vai trò quyết định là chất lượng các báo cáo tài chính của các công ty.
Ở nước ta, Chính phủ cũng đã pháp chế hoá nghĩa vụ cung cấp thông tin của các doanh nghiệp niêm yết. Tuy nhiên, việc thực hiên các quy định này xem ra vẫn còn hết sức tuỳ tiện cho nên hiện nay tình trạng đã quí II nhưng vẫn chưa có báo cáo của quí I vẫn còn là hiện tượng khá phổ biến của các doanh nghiệp. Vì vậy, để hệ thống công bố thông tin có thể phục vụ đắc lực cho hoạt động của thị trưòng chứng khoán, cần phải:
- Tổ chức xây dựng một khung pháp lý đầy đủ hơn về nghĩa vụ công bố công khai thông tin bắt buộc đối với mọi loại hình doanh nghiệp theo đúng với các thông lệ và tập quán quốc tế và quy định các chế tài thích hợp để xử lý nghiêm minh các vi phạm về công bố thông tin.
- Hiện đại hoá hơn nữa các phương tiện công bố thông tin và đa dạng hoá phương pháp công bố thông tin. cùng với việc xây dựng hệ thống cung cấp thông tin qua mạng internet để cung cấp tất cả những thông tin về thị trường và các thông tin có liên quan đến tổ chức niêm yết để phục vụ cho việc công bố thông tin trực tiếp từ tổ chức niêm yết đến các công ty chứng khoán thành.
- Thông tin, đặc biệt là những thông tin định hướng thể hiện qua các bài phân tích, dự báo xu hướng thị trường, giá cả cổ phiếu có vai trò tối quan trọng đối với các nhà đầu tư. Chỉ cần các thông tin này được xử lý không đúng do thiếu thận trọng, do non tay nghề hoặc cố ý làm sai lệch vì một động cơ nào đó thì hiệu ứng lây lan sẽ không lường hết được. Vì vậy, cần có những quy định nhiêm ngặt ngoài những mẫu tin về tình hình, diễn biến thị trường, các bài phỏng vấn các nhân vật có liên quan, các phóng viên các báo cáo không được phân tích, bình luận về những lĩnh vực không thuộc chuyên ngành của mình.
- Cơ sở của hoạt động công bố thông tin là các cơ sở dữ liệu. Dữ liệu có chính xác thì thông tin được xử lý mới phát huy tác dụng. Trong thực tế, hầu hết các dữ liệu thống kê có nguồn gốc từ các nghiệp vụ hoạch toán kế toán. Vì vậy, cần khẩn trương xây dựng và đưa vào vận hành một hệ thống một chế độ kế toán và kiểm toán hoàn chỉnh theo các chuẩn mực kế toán và kiểm toán quốc tế để tạo điều kiện cho nhà đầu tư trong và ngoài nước có điều kiện so sánh, thẩm định tình hình tài chính, khả năng sinh lời của các công ty cổ phần trước khi quyết định đầu tư. Đây cũng là điều kiện cơ bản để thích ứng với xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá giai đoạn hiện nay.
Để tạo sự minh bạch, công bằng và cân đối về mặt thông tin trong các quyết định điều tiết thị trường, cần công khai khoá nội dung các chính sách sẽ được áp dụng và nguyên tắc, lộ trình thực hiện cụ thể cho mỗi chính sách nhằm giữ vững gia tăng niềm tin của giới đầu tư về hình ảnh của một thị trường trong sáng, ổn định.
3.2.6 Xây dựng một lãi suất chuẩn hợp lý và ổn định
Một trong những thành tố quan trọng nhất của quyết định đầu tư trên thị trường chứng khoán là lãi suất. Lãi suất thay đổi sẽ tác động lợi ích kinh tế của nhà đầu tư và do đó ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán. Chẳng hạn, đối với trái phiếu, giá trái phiếu sẽ giảm khi lãi suất thị trường tăng và ngược lại, khi giá trái phiếu tăng khi lãi suất thị trường giảm. Đối với cổ phiếu, mối quan hệ này không hoàn toàn đơn giản như trái phiếu. Tuy vậy, dù giá cả cổ phiếu bị chi phối bởi nhiều yếu tố như tình hình tài chính, tỷ lệ chia cổ tức, triển vọng pháp triển của công ty nhưng nói chung, nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ rằng, giá cổ phiếu thường giảm trong những thời kỳ gia tăng lãi suất. Giá chứng khoán và lãi suất thị trường có mối quan hệ chặt chẽ như vậy cho nên tại các thị trường phát triển, để vận hành có hiệu quả thị trường sơ cấp lẫn thị trường thứ cấp, một lãi suất chuẩn được tính toán một cách hợp lý và được duy trì ổn định trong những khoảng thời gian nhất định là rất cần thiết. Để làm được điều đó phải từng bước nới lỏng việc kiểm soát tiền tệ và lãi suất, tiến tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất để lãi suất không bị bóp méo và phản ánh đúng giá trị thực của thị trường.
3.2.7 Các chính sách hỗ trợ khác
Hoạt động của thị trường chứng khoán phản ánh sức khoẻ của nền kinh tế. Để thị trường chứng khoán hoạt động ổn định và phát triển, các tế bào của nền kinh tế mà trước hết là các thị trường, đặc biệt là thị trường chứng khoán phải :
- Khẩn trương xây dựng một hệ thống các ngân hàng và các thị trường tiền tệ, tín dụng, thị trường ngoại tệ tương đối hoàn chỉnh, hoạt động có hiệu quả để hỗ trợ tích cực cho tiến trình phát triển, hoàn thiện thị trường.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hơn nữa chính sách và cơ chế điều hành lãi suất để lãi suất phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, làm chuẩn mực để so sánh, định giá các công cụ tài chính khác.
- Kiểm soát chặt chẽ thị trường bất động sản, thị trường ngoại tệ và các dạng thị trường ngầm khác để định hướng nguồn tiền nhàn rỗi của công chúng để đầu tư vào các mục tiêu phát triển và tăng trưởng kinh tế
KẾT LUẬN
Trước sự lớn mạnh của nền kinh tế thị trường đã tạo ra bước phát triển mới trong đời sống vật chất của con người, nhu cầu về đời sống của người dân cũng được nâng dần theo tiến trình xã hội, nhiều loại hình doanh nghiệp mới lần lượt ra đời... gắn liền với nền kinh tế là sự hình thành và phát triển của TTCK Việt Nam, qua hơn mười năm hình thành và phát triển cho đến nay TTCK đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, ứng dụng những công nghệ mới vào quá trình hoạt động, thay đổi cách thức quản lý sao cho phù hợp với tình hình mới.Với vai trò quan trọng của nó đối với nền kinh tế đất nước TTCK Việt Nam sẽ góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam đạt được những thành công rực rỡ tiến đến các tầm cao mới. Cho dù hiện nay thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, nhưng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quản lý hợp lý của Nhà nước sẽ giúp thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển hiệu quả góp phần đảm bảo nền kinh tế Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa hoàn thành các mục tiêu dài hạn của nhà nước đến năm 2020.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS.TS. Bùi Kim Yến- TS. Thân Thị Thu Thủy( 2009). Thị trường chứng khoán. Nhà xuất bản thống kê .
PGS.TS. Bùi Kim Yến (2009). Phân tích và đầu tư chứng khoán. Nhà xuất bản thống kê.
Các trang wed vneconomic.vn, cafef.vn, trang wed của các công ty chứng khoán như công ty chứng khoán Âu Việt, …
Các bài đánh giá nhận định thị trường cuả các chuyên gia trên các phương tiện thông tin đại chúng.