CHƯƠNG 1. TTCK VÀ VAI TRÒ CỦA TTCK ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ
1.1. Tổng quan về TTCK
1.1.1. Khái niệm về TTCK
TTCK là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Trong quá trình phát triển và hoàn thiện, TTCK tồn tại dưới hai hình thức: TTCK có tổ chức và TTCK phi tổ chức. TTCK có tổ chức với hình thái điển hình của là SGDCK (Stock exchange). Mọi việc mua, bán, chuyển nhượng, trao đổi CK phải tiến hành trong Sở giao dịch và thông qua các thành viên của Sở giao dịch theo quy chế của SGDCK. SGDCK có thể là tổ chức sở hữu nhà nước, là doanh nghiệp cổ phần hoặc một hiệp hội và đều có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán. Có thể dẫn ra những SGDCK nổi tiếng của thế giới như: NYSE (New York Stock exchange), TSE (Tokyo Stock exchange), LSE (London Stock exchange )v.v TTCK phi tổ chức là một thị trường không có hình thái tổ chức tồn tại, nó có thể là bất cứ nơi nào mà tại đó người mua và người bán trực tiếp gặp nhau để tiến hành giao dịch. Nơi đó có thể là tại quầy giao dịch ở các ngân hàng bất kỳ nào đó. Thị trường hình thành như thế gọi là thị trường giao dịch qua quầy (Over-the-counter – OTC).
1.1.2. Tổ chức hoạt động của TTCK
1.1.2.1. Sở giao dịch chứng khoán
Theo Liên đoàn các SGDCK thế giới (WFE), tại 4 mô hình tổ chức SGDCK phổ biến. Mỗi mô hìnđiểm nhất định, được các nước áp dụng tùy theo từngcủa thị trường, bao gồm: SGDCK tổ chức dưới hình thức công ty tráchbởi các thành viên (còn gọi là mô hình thành viên)
SGDCK tổ chức theo mô hình công ty cổ phần niêm yết (công ty niêm yết đại chúng): Theo mô hình này, SGDCK thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên chính SGDCK do mình quản lý. Đây là mô hình đang được nhân rộng hiện nay trên thế giới. Hiện nay có khoảng 26,5% SGDCK trên thế giới áp dụng mô hình này, ví dụ SGDCK Phillipines, Australia, Malaysia SGDCK Singapore (SGX) là SGDCK đầu tiên ở Châu Á – Thái Bình Dương chuyển từ mô hình thành viên sang công ty cổ phần và cũng là SGDCK đầu tiên hợp nhất giữa giao dịch chứng khoán và giao dịch các công cụ phái sinh. Ngày 23/11/2000, SGX là SGDCK đầu tiên ở Châu Á Thái Bình Dương niêm yết sau khi phát hành cổ phiếu ra công chúng. Vốn của SGX được nắm giữ bởi 3 cổ đông chính là: thành viên của SGX, SEL Holdings Pte Ltd (một pháp nhân được thành lập để nắm giữ cổ phần của SGX cho Quỹ phát triển thị trường vốn) và các cổ đông mới. Hiện vốn pháp định của SGX là 1 tỷ đôla Singapore. Luật chứng khoán Singapore quy định SGX có vai trò quan trọng và duy nhất trong việc cung cấp cơ sở hạ tầng và địa điểm giao dịch, bù trừ và thanh toán chứng khoán và công cụ phái sinh ở Singapore. SGX có nhiệm vụ đề ra và cưỡng chế thực thi các quy định áp dụng cho các công ty muốn huy động vốn qua SGDCK. Tuy nhiên, các quy định này của SGX phải được MAS (Cơ quan Quản lý tiền tệ Singapore) phê chuẩn. Ngoài chức năng trên, SGX còn được thực hiện các chức năng như giám sát thị trường để phát hiện các giao dịch bất thường trên SGDCK, giám sát các công ty chứng khoán trong việc tuân thủ các quy định của SGX. Mô hình tổ chức của SGX bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, Uỷ ban kiểm toán, Uỷ ban bầu cử, Uỷ ban phúc thẩm, Uỷ ban khen thưởng, Uỷ ban quản lý rủi ro, Uỷ ban giải quyết xung đột và Uỷ ban điều hành. ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao nhất của SGDCK. HĐQT gồm 12 thành viên, được đề cử bởi Uỷ ban bầu cử. Thành viên của HĐQT được bầu thông qua ĐHĐCĐ. Nhiệm kỳ của các thành viên HĐQT không tham gia điều hành từ 4-6 năm. Tại mỗi kỳ Đại hội thường niên sẽ có 1/3 số thành viên của HĐQT hết nhiệm kỳ.
1.1.2.2. Công ty chứng khoán
công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian ở thị trường chứng khoán, thực hiện trung gian tài chính thông qua các hoạt động chủ yếu như mua bán chứng khoán, môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, phát hành và bảo lãnh chứng khoán, tư vấn đầu tư và quản lý quỹ đầu tư. Công ty chứng khoán có thể tham gia quá trình trao đổi cổ phiếu trong thị trường với vai trò
trung gian.
1.1.2.3. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Nhà đầu tư cá nhân bao gồm : Nhà đầu tư chấp nhận rủi ro và Nhà đầu tư không thích rủi ro;
Nhà đầu tư có tổ chức bao gồm: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm xã hội, công ty tài chính.
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1811 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gân hàng nói
riêng, nền kinh tế nói chung.
Nhưng bên cạnh đó, TTCK còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có thể
tăng trưởng bền vững như: các vấn đề cung, cầu, chất lượng chứng khoán niêm yết,
chất lượng dịch vụ các CTCK, trình độ kiến thức của NĐT, thông tin bất cân
xứng…
48
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TTCK VIỆT
NAM PHÁT TRIỂN
3.1.Định hƣớng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2015 theo đề án của chính
Phủ.
Ngày 02 tháng 08 năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định
số128/2007/QĐ-TTg phê duỵêt đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm
2010 và tầm nhìn đến năm 2020.
3.1.1.Mục tiêu của đề án
Mục tiêu tổng quát
Phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn Việt Nam, trong đó
thị trường chứng khoán đóng vai trò chủ đạo; từng bước đưa thị trường vốn trở
thành một cấu thành quan trọng của thị trường tài chính, góp phần đắc lực trong
việc huy động vốn cho đầu tư phát triển và cải cách nền kinh tế; đảm bảo tính công
khai, minh bạch, duy trì trật tự, an toàn, hiệu quả, tăng cường quản lý, giám sát thị
trường; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao
khả năng cạnh tranh và chủ động hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Phấn đấu
đến năm 2020, thị trường vốn Việt Nam phát triển tương đương thị trường các
nước trong khu vực.
Mục tiêu cụ thể
Phát triển thị trường vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và
đầu tư của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Phấn đấu đến năm 2010 giá trị vốn
hoá thị trường chứng khoán đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP.
3.1.2.Giải pháp thực hiện
3.1.2.1.Giải pháp dài hạn
Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc (bao
gồm thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ phái sinh,
thị trường tập trung, thị trường phi tập trung…), vận hành theo các thông lệ quốc tế
tốt nhất, có khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế.
Phát triển mạnh các kênh cung cấp vốn cả trong và ngoài nước cho thị
49
trường; mở rộng hệ thống các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức;
phát triển đầy đủ các định chế trung gian; đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp, …
đảm bảo có đầy đủ các yếu tố cấu thành một thị trường vốn phát triển trong khu
vực.
Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá; hài hoà
giữa mục tiêu huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững thị trường
vốn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo an ninh tài chính quốc
gia.
Tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện có hiệu quả chức năng thanh tra,
kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động trên thị trường.
3.1.2.2.Giải pháp trƣớc mắt
Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hàng hoá để
đáp ứng nhu cầu của thị trường:
- Mở rộng quy mô và đa dạng hoá các loại trái phiếu, các phương thức phát
hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu doanh
nghiệp trên thị trường vốn; phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh
nghiệp, trái phiếu công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của
quốc gia;
- Đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp, tổng công ty nhà
nước, tập đoàn kinh tế và các ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc cổ phần
hoá với niêm yết trên thị trường chứng khoán; mở rộng việc phát hành cổ phiếu
mới để huy động vốn trên thị trường. Đối với những doanh nghiệp đã cổ phần hoá
đủ điều kiện phải thực hiện việc niêm yết; đồng thời tiến hành rà soát, thực hiện
việc bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước không cần
giữ cổ phần chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần. Chuyển đổi các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hình thức công ty cổ phần và niêm yết,
giao dịch trên thị trường chứng khoán;
- Phát triển các loại chứng khoán phái sinh như: quyền chọn mua, quyền
chọn bán chứng khoán; hợp đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản phẩm liên
50
kết (chứng khoán - bảo hiểm, chứng khoán - tín dụng, tiết kiệm - chứng khoán...);
các sản phẩm từ chứng khoán hoá tài sản và các khoản nợ....Từng bước hoàn
chỉnh cấu trúc của thị trường vốn đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà
nước:
- Tách thị trường trái phiếu ra khỏi thị trường cổ phiếu để hình thành thị
trường trái phiếu chuyên biệt. Từng bước nghiên cứu hình thành và phát triển thị
trường giao dịch tương lai cho các công cụ phái sinh, thị trường chứng khoán hoá
các khoản cho vay trung, dài hạn của ngân hàng…;
- Phát triển thị trường cổ phiếu theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu
phát hành cổ phiếu, niêm yết, giao dịch của nhiều loại hình doanh nghiệp và đảm
bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước theo hướng tách biệt thị trường giao
dịch tập trung, thị trường giao dịch phi tập trung (OTC), thị trường đăng ký phát
hành, giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ;
- Chuyển Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành Sở Giao dịch chứng
khoán hoạt động theo mô hình công ty theo tinh thần của Luật Chứng khoán. Sở
Giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch chứng khoán thực hiện chức năng tổ
chức và giám sát giao dịch chứng khoán tập trung. Nâng cấp đồng bộ hạ tầng kỹ
thuật của thị trường, đảm bảo khả năng liên kết với thị trường các nước trong khu
vực;
- Tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC) theo hướng
có quản lý thông qua các giải pháp: thực hiện đăng ký, lưu ký tập trung đối với các
công ty cổ phần đủ điều kiện theo quy định của Luật Chứng khoán; nghiên cứu cơ
chế giao dịch đối với các chứng khoán không đủ điều kiện niêm yết theo mô hình
thoả thuận thông qua các công ty chứng khoán; các giao dịch chứng khoán tập
trung thanh toán và chuyển giao thông qua TTLKCK; đồng thời, thiết lập cơ chế
giám sát của thị trường giao dịch chứng khoán trong việc công bố thông tin để
tăng cường tính công khai, minh bạch trên thị trường, đảm bảo sự quản lý, giám sát
của Nhà nước đối với các giao dịch chứng khoán, thu hẹp hoạt động trên thị
trường tự do.
51
Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường:
- Tăng số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính
cho các CTCK, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán,.... Đa dạng hoá
các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất
lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường;
- Mở rộng phạm vi hoạt động TTLKCK, áp dụng các chuẩn mực lưu ký
quốc tế, thực hiện liên kết giao dịch thanh toán giữa thị trường vốn và thị trường
tiền tệ;
- Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cho
phép thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm đủ điều kiện tại Việt Nam và cho
phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt
động định mức tín nhiệm ở Việt Nam.
Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong và ngoài nước:
- Khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm…) tham gia đầu tư trên thị trường theo quy định của pháp luật.
Thực hiện lộ trình mở cửa đối với các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài vào thị
trường Việt Nam theo lộ trình đã cam kết;
- Đa dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư; tạo điều kiện cho phép Bảo hiểm xã
hội Việt Nam, Tiết kiệm bưu điện,… tham gia đầu tư trên thị trường vốn; từng
bước phát triển, đa dạng hoá các quỹ hưu trí để thu hút các vốn dân cư tham gia
đầu tư; khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn
vào thị trường Việt Nam.
Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của
Nhà nước:
- Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ đáp ứng được
yêu cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu vực và quốc
tế;
- Bổ sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để phòng ngừa
và xử lý các hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường vốn, thị trường
chứng khoán;
52
- Nghiên cứu hoàn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt
động chứng khoán, khuyến khích đầu tư dài hạn, hạn chế đầu tư ngắn hạn; điều tiết
lợi nhuận thu được do kinh doanh chứng khoán, đồng thời thông qua thuế, phí, lệ
phí góp phần giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán và từng đối tượng,
thành viên tham gia thị trường (bao gồm cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước);
- Áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường theo thông lệ quốc tế; đẩy mạnh
việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các thành viên tham
gia thị trường; kiểm tra, giám sát hàng hoá đưa ra thị trường, đảm bảo tính công
khai, minh bạch; tăng cường năng lực giám sát, cưỡng chế thực thi của cơ quan
giám sát thị trường;
- Củng cố bộ máy, nâng cao năng lực quản lý, giám sát của Nhà nước đối với
thị trường vốn; từng bước tách bạch chức năng quản lý với chức năng giám sát các
hoạt động của thị trường; sớm nghiên cứu thành lập Cơ quan giám sát tài chính
quốc gia, giúp Thủ tướng Chính phủ điều phối chính sách và công cụ cảnh báo,
điều hành, giám sát hoạt động tài chính tiền tệ ở tầm vĩ mô.
Chủ động mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế:
- Thực hiện mở cửa từng bước thị trường vốn cho nhà đầu tư nước ngoài
theo lộ trình hội nhập đã cam kết, đồng thời đảm bảo kiểm soát được luồng vốn
vào, vốn ra; mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn chính sách,
tư vấn pháp luật và phát triển thị trường;
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thị trường vốn;
tăng cường phổ cập kiến thức về thị trường vốn, thị trường chứng khoán cho
công chúng, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế.
Đảm bảo an ninh tài chính quốc gia: thực hiện tốt việc giám sát các giao dịch
vốn; áp dụng các biện pháp kiểm soát luồng vốn chặt chẽ; trong những trường hợp
cần thiết để giảm áp lực đối với tỷ giá, ngăn ngừa nguy cơ biến dạng và khủng
hoảng trên thị trường, cần có những giải pháp xử lý thích hợp. Các giải pháp này
được thể hiện trong văn bản quy phạm pháp luật và công bố cho nhà đầu tư được
biết và chỉ áp dụng khi có những nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh của hệ thống tài
chính. Thực hiện cơ chế giám sát đặc biệt với các định chế trung gian yếu kém
53
để giảm thiểu tác động tiêu cực có tính chất dây chuyền trong toàn hệ thống.
3.2.Các giải pháp Đề xuất
3.2.1.Giải pháp từ các công ty chứng khoán
Một trong những giải pháp chiến lược để nâng cao hoạt động đầu tư, giảm
thiểu rủi ro trong đầu tư CK, tạo cầu nối cho cung cầu CK gặp nhau là phải mở
rộng phát triển qui mô và nâng cao chất lượng dịch vụ hoạt động của các tổ
chức tài chính trung gian, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nghiệp vụ và
tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ.
Trong mọi thời điểm, thiết nghĩ, vấn đề chất lượng nên được đặt lên hàng
đầu, nhất là trong tình hình thị trường hiện nay, việc nâng cao chất lượng hoạt
động cho đội ngũ trung gian thị trường mà chủ yếu là CTCK càng là vấn đề cấp
thiết.
Việc nâng cao chất lượng hoạt động của CTCK được thể hiện qua các tiêu chí sau:
3.2.1.1.Nâng cao năng lực về tài chính
Rất nhiều nhà đầu tư bỏ ra số tiền tương đối lớn so với tài sản của họ. Cho
nên vấn đề an toàn trong thanh toán, năng lực tài chính của CTCK là điều mà nhà
đầu tư không thể bỏ qua.
Hiện tại theo thống kê có đến hơn 80% CTCK đang gặp khó khăn về tài
chính. Nhiều công ty còn gặp khó khăn ngay trong vấn đề thanh toán. Chỉ có những
CTCK nằm trong top 20 về thị phần môi giới thì tình hình tương đối ổn.
Nguyên nhân là do chủ yếu là do khi thành lập các CTCK này có nguồn vốn
tương đối hạn hẹp, lại bị thua lỗ trong nhiều năm qua. Nên nguồn vốn còn lại không
còn chỉ đủ duy trì cho hoạt động cầm chừng của công ty. Rất khó để phát triển.
Vì vậy các CTCK này muốn tồn tại và phát triển thì bắt buộc phải tìm cách
tăng vốn. Nếu không tăng vốn được thì phải sát nhập lại với nhau để tăng cường
năng lực.
3.2.1.2.Hoàn thiện hệ thống công nghệ
TTCK là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, mà chỉ cần chậm chể vài giây
cũng có thể khiến cho nhà đầu tư thiệt hại hàng tỷ đồng. Vì vậy vấn đề công nghệ
luôn được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu khi quyết định mở tài khoản tại CTCK
54
nào đó. Cho nên mỗi CTCK phải hoàn thiện được hệ thống giao dịch trực tuyến
đảm bảo an toàn, chính xác , minh bạch và không xảy ra sự cố khi vận hành.
3.2.1.3.Nâng cao chất lƣợng đội ngũ nhân sự
Nhu cầu được tư vấn của NĐT cá nhân rất cao. Nhất là thời điểm hiện
nay, khi thị trường không còn cảnh mua đâu, thắng đó nên NĐT rất cần có nhiều
thông tin, có người trao đổi trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng nhìn
chung, những lời tư vấn của các nhân viên môi giới còn nặng về cảm tính, không
chuyên sâu về phân tích. Hơn nữa, các quy định ràng buộc về trách nhiệm của
người tư vấn hầu như không có nên NĐT phải biết sàng lọc và xem đó như một
nguồn thông tin tham khảo. Để nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút nhiều hơn các
NĐT tham gia và nhằm hạn chế rủi ro cho các NĐT, các CTCK cần phát triển
các hình thức tư vấn đầu tư và nâng cao năng lực hiệu quả hoạt động tư vấn cho
khách hàng:
- Các CTCK phải chủ động tuyển dụng có chọn lọc một đội ngũ nhân viên
tư vấn có năng lực thực sự, có ý thức, tác phong năng động, hoạt bát, có đạo đức
nghề nghiệp tốt. Đây là một trong những vấn đề khó khăn đối với các CTCK hiện
nay khi mà vấn đề nhân sự trong lĩnh vực tài chính trở nên khan hiếm trong thời
gian qua.
- Định kỳ, các CTCK nên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm về nghiệp
vụ chuyên môn, để các nhân viên nghiệp vụ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tức là
không chỉ đào tạo theo hướng chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo song
phương theo hướng đào tạo và tự đào tạo. Bên cạnh đó, các CTCK cần phải tổ chức
các buổi tư vấn, thuyết trình, giải đáp những thắc mắc để nâng cao kiến thức và
kinh nghiệm cho các NĐT.
- Các CTCK cũng cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên
tư vấn làm tốt chuyên môn, nhằm khuyến khích họ phát huy hơn nữa năng lực
của mình.
- UBCK Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống đào tạo, cấp phép hành
nghề tư vấn CK và phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức cho công chúng đầu
tư. Xây dựng chương trình đào tạo theo sát đúng với thực tế Việt Nam có tính
55
chuyên sâu và riêng biệt; xây dựng đội ngũ giảng viên tốt về phẩm chất, sâu về
chuyên môn và giỏi về phương pháp sư phạm là vấn đề cần phải được quan tâm;
xây dựng quy trình đào tạo từ việc quản lý, ra đề thi, tổ chức thi, chấm thi, cấp
chứng chỉ
3.2.2.Giải pháp từ nhà các nhà đầu tƣ
Thứ nhất : Mỗi nhà đầu tư phải cố gắng tự trang bị cho mình đầy đủ kiến
thức và kinh nghiệm về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Khi chưa có nhiều
kinh nghiệm thì chỉ nên dùng một phần nhỏ trong nguồn vốn tự có của mình để đầu
tư vừa là học hỏi kinh nghiệm .
Thứ hai: Không nên sử dụng đòn bẩy tài chính để đầu tư. Vì việc sử dụng
đòn bẩy dể khiến cho nhà đầu tư không còn sáng suốt đưa khi ra những quyết định
đầu tư. Nếu có sử dụng đòn bẩy tài chính thì chỉ nên dùng với tỷ lệ thấp khoảng
dưới 50% vốn tự có.
Thứ ba : Nên chọn những công ty chứng khoán lớn có uy tín, có tiềm lực tài
chính, công nghệ hiện đại để mở tài khoản. Nhằm tránh được những rủi ro không
đáng có như : rủi ro về thanh khoản, rủi ro về hệ thống…
Thứ tư : Chỉ nên đầu tư vào những doanh nghiệp mà mình biết rỏ, ban lãnh
đạo phải là những người có trình độ có tâm huyết với công ty. không nên đầu tư vào
những doanh nghiệp công bố thông tin mập mờ không minh bạch. Không nên đầu tư
theo tin đồn và chạy theo đám đông.
3.2.3.Giải pháp từ UBCKNN
3.2.3.1.Đa dạng hóa và nâng cao chất lƣợng các loại hàng hóa, dịch vụ để đáp
nhu cầu của thị trƣờng.
3.2.3.1.a.Nâng cao tiêu chuẩn của doanh nghiệp niêm yết
Điều kiện niêm yết trên TTCK hiện tại là quá thấp. Nên trên thị trường đang
tồn tại rất nhiều hàng hóa kém chất lượng, đã ảnh hưởng rất xấu cho thị trường. Vì
vậy cần phải nâng cao hơn tiêu chuẩn niêm yết.
Thứ nhất về quy mô vốn của doanh nghiệp:
Đối với sàn HSX tăng từ 80 tỷ lên 200 tỷ đồng
Đối với sàn HNX tăng từ 10 tỷ lên 50 tỷ đồng
56
Thứ hai về hiệu quả kinh doanh:
Đối với sàn HSX đạt lợi nhuận liên tục trước năm đăng ký niêm yết phải tăng
từ mức 2 lên 4 năm, ROE bình quân trong 4 năm phải đạt trên 15%/năm.
Đối với sàn HNX đạt lợi nhuận liên tục trước năm đăng ký niêm yết phải tăng
từ 1 lên 2 năm, ROE bình quân trong 2 năm phải đạt trên 10%/năm.
3.2.3.1.b.Triển khai giao dịch ký quỹ, bán khống
Thị trường chứng khoán đi vào hoạt động đã được trên 10 năm , nhưng chưa
có một sản phẩm mới nào được hướng dẫn triển khai. Nhiều công ty chứng khoán đã
nhìn thấy được nhu cầu thực sự cần thiết của nhà đầu tư, của thị trường. Nhằm nâng
cao chất lượng phục và tăng sức cạnh tranh để thu hút khách hàng, các công ty
chứng khoán đã tìm mọi kẻ hở của luật pháp để triển khai các sản phẩm trên.
Do những sản phẩm này chưa được cho phép và chưa có hướng dẫn thực hiện
nào của UBCK. Vì vậy khi triển khai thực hiện các sản phẩm trên thường có nhiều
trở ngại. Đặc biệt khi phát sinh tranh chấp thì rất khó giải quyết vì chưa có cơ sở
pháp lý rỏ ràng.
Qua thực tiển thời gian vừa qua cho ta thấy rằng các sản phẩm nêu trên là
hoàn toàn cần thiết cho nhu cầu chính đáng của tất cả các bên liên quan tham gia
TTCK. Vì vậy UBCK cần phải sớm đưa ra hướng dẫn thực hiện các sản phẩm trên
cho TTCK.
Những sản phẩm nêu trên tuy có mang lại nhiều cơ hội cho nhà đầu tư, nhưng
nó cũng kèm theo những rủi ro không nhỏ cho những nhà đầu tư thiếu kiến thức và
kinh nghiệm. Vì vậy trong thời gian đầu thực hiện UBCK cần đưa ra những điều
kiện ràng buộc đối với từng sản phẩm như sau:
- Đối với sản phẩm giao ký quỹ: CTCK tự quyết định tỷ lệ ký quỹ của từng
mã CK. Nhưng tỷ lệ ký quỹ tối thiểu là 50% .
- Đối với sản phẩm bán khống: chỉ áp dụng đối với những cổ phiếu đã mua
được nhưng chưa đủ T+4 để có thể giao dịch.
3.2.3.1.c.Triển khai một số công cụ phái sinh
* Nhà đầu tư cần có những công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro:
57
Trong thời gian qua, những rủi ro kể trên đã làm TTCK không ngừng biến
động, mang lại nhiều tổn thất cho nhà đầu tư cũng như cho toàn thị trường. Vì thế,
phòng ngừa rủi ro là nhu cầu hết sức bức thiết của các nhà đầu tư trên TTCKVN,
đặc biệt là khi các nhà đầu tư cá nhân ít hiểu biết, ít kinh nghiệm và vốn nhỏ hiện
đang chiếm hơn 90% số nhà đầu tư tham gia trên thị trường. Trong khi đó, cả lý
thuyết cũng như thực tiễn đã chứng tỏ được rằng sử dụng các công cụ chứng khoán
phái sinh, đặc biệt là hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn là một trong
những phương cách mang tính thị trường rất hữu hiệu giúp phòng ngừa rủi ro, giảm
thiểu tổn thất cho nhà đầu tư. Từ đó cho thấy, việc triển khai các công cụ chứng
khoán phái sinh trên TTCKVN sẽ là việc làm hết sức cần thiết và vô cùng có ý nghĩa
đối với các nhà đầu tư vẫn còn đang e ngại rủi ro, lo sợ tổn thất.
* Nhu cầu đa dạng hóa cơ hội đầu tư:
Hiện nay TTCK Việt Nam vẫn chỉ giao dịch trên 3 loại hàng hóa là cổ phiếu,
trái phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Trong đó, giao dịch cổ phiếu luôn chiếm trên
80% tổng giao dịch thị trường. Trái phiếu chủ yếu là trái phiếu Chính phủ. Hàng
hóa chưa đa dạng đã hạn chế sự lựa chọn đối với nhà đầu tư. Vì thế, nếu có thêm
công cụ để lựa chọn đầu tư chắc chắn sẽ thỏa mãn tốt hơn nhu cầu đầu tư của các
nhà đầu tư trên thị trường.
Bên cạnh đó, với đặc điểm nổi bật của chứng khoán phái sinh là chỉ cần một
lượng vốn nhỏ ở hiện tại, nhà đầu tư hoàn toàn có thể tham gia vào các giao dịch
chứng khoán phái sinh để mua bán lượng chứng khoán cơ sở có giá trị lớn sau một
thời gian thỏa thuận, từ đó giúp mở ra nhiều cơ hội tìm kiếm lợi nhuận tốt hơn cho
các nhà đầu tư. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với thực trạng nhà đầu tư trên
TTCKVN.
* Nhu cầu thúc đẩy TTCK phát triển hiệu quả của Chính phủ:
Đứng ở góc độ quản lý Nhà nước, Chính phủ có nhiệm vụ thúc đẩy
TTCKVN tiếp tục phát triển hiệu quả hơn nhằm phát huy các giá trị tích cực của
TTCK đối với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước.
Với các ưu điểm của mình, các công cụ chứng khoán phái sinh hoàn toàn có khả
năng trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của TTCK. Bởi kỳ vọng giảm thiểu
58
rủi ro và tìm kiếm lợi nhuận qua các hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn
chắc chắn sẽ thu hút thêm nhiều đối tượng tham gia vào thị trường. Bên cạnh đó,
triển khai hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn sẽ tạo áp lực hoàn thiện
không ngừng các yếu tố của thị trường như số lượng và chất lượng hàng hóa, trình
độ quản lý, chất lượng nguồn nhân lực, cơ sở vật chất…
Như vậy, khi triển khai các công cụ chứng khoán phái sinh như hợp đồng
tương lai và hợp đồng quyền chọn trên TTCKVN sẽ giúp thỏa mãn nhu cầu phòng
ngừa rủi ro và đa dạng hóa cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư trên thị trường một cách
rất hữu hiệu. Bên cạnh thỏa mãn các nhu cầu cho nhà đầu tư, việc triển khai các
công cụ này còn góp phần thực hiện được nhu cầu quản lý vĩ mô đối với hoạt động
chứng khoán của Chính phủ.
3.2.3.1.d.Rút ngắn thời gian thanh toán
Thời gian thanh toán hiện tại là T+3, nhưng thực tế khi mua CK thì đến ngày
T+4 mới bán được, có nghĩa là phải chờ đến 4 ngày sau. Điều này gặp rủi ro rất lớn
khi thị trường đi xuống, nhà đầu tư sẽ không có cơ hội cắt lỗ. Nên khi chưa xác định
được xu hướng rỏ ràng nhà đầu tư không dám mạnh dạng giải ngân, làm cho thị
trường giảm tính thanh khoản.
Đối với giao dịch bán chứng khoán thì nhà đầu tư phải chờ đến buổi chiều
ngày T+3 mới nhận được tiền. Trong trường hợp này nếu nhà đầu tư có nhu cầu lấy
nguồn tiền đó để đầu tư lại hoặc rút ra để sử dụng cho nhu cầu khác, thì phải tốn
khoản lãi tương đối lớn. Vô tình đẩy chi phí đầu tư lên cao, gây khó khăn và hạn chế
vòng quay vốn của nhà đầu tư.
Như vậy vấn đề rút ngắn thời gian thanh toán là vô cùng cần thiết. Nó không
những giúp cho nhà đầu tư giảm thiểu được rủi ro, bớt được chi phí mà còn làm tăng
tính thanh khoản cho thị trường. Giúp thị trường phát triển ngày càng tốt hơn.
59
3.2.3.1.e.Nhà đầu tƣ có thể mở đƣợc nhiều tài khoản tại các CTCK khác nhau,
có thể mua bán cùng loại cổ phiếu trên tài khoản trong ngày
Khi được phép mở nhiều tài khoản tại các CTCK khác nhau thì nhà đầu tư có
nhiều cơ hội lựa chọn những sản phẩm tốt nhất từ các CTCK mang lại. Điều này làm
cho các CTCK phải luôn cố gắng để hoàn thiện sản phẩm của mình để phục vụ tốt
nhất cho thị trường, cho nhà đầu tư.
Đối với sản phẩm mua bán cổ phiếu trong ngày cũng không những giúp cho
nhà đầu tư hạn chế được rủi ro T+ mà còn làm tăng tính thanh khoản cho thị trường.
3.2.3.2.Xây dựng lại cách tính Vnindex và phát triển thêm một số chỉ số
Index phụ.
Cách tính Vn-index hiện tại theo Hsx (áp dụng trong trường hợp không có
chứng khoán mới niêm yết):
∑ Pit x Qit
VN-Index = -------------------- x 100
∑ Pio x Qio
Trong đó: (i= 1…n)
Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i
Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i
Pio: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i
Qio: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i
Trong cách này Vn-index hoàn toàn dựa vào quy mô vốn hóa thị trường của
doanh nghiệp mà không dựa vào tính thanh khoản của cổ phiếu đó. Chính vì thế mà
trong thời gian qua Vn-index đã không còn phản ánh đúng sự lên xuống của TTCK.
Mà đã hoàn toàn bị chi phối bởi nhóm cổ phiếu có giá trị vốn hóa lớn như : BVH,
VIC, VPL,VNM, MSN (tính đến 31.12.2010 chiếm 32% giá trị vốn hóa thị trường)
. Mặc dù thanh khoản của các cổ phiếu này là rất thấp do ít được nhà đầu tư quan
tâm (chỉ chiếm bình quân 2.8% giá trị mỗi phiên giao dịch trong năm 2010).
Để khắc phục tình trạng này thì phải xây dựng lại cách tính chỉ số Vn-index
trong đó có lồng vào yếu tố thanh khoản bình quân của từng loại cổ phiếu vào trong
công thức tính Vn-index. Người viết đề xuất cách tính như sau (áp dụng trong
trường hợp không có chứng khoán mới niêm yết):
60
∑ (Pit x Qit x Ti(t-1))
VN-Index = ------------------- x 100
∑ Pio x Qio x Ti(t-1))
Trong đó :
(i= 1..n)
Ti(t-1) = (Thanh khoản bình quân trong ngày năm trước của cp i/số lượng cp niêm
yết bình quân năm trước). Nếu cp niêm yết năm đầu tiên thì T(i-1)= T(i-1) bình quân
thị trường.
Pit: Giá thị trường hiện hành của cổ phiếu i
Qit: Số lượng niêm yết hiện hành của cổ phiếu i
Pio: Giá thị trường vào ngày gốc của cổ phiếu i
Qio: Số lượng niêm yết vào ngày gốc của cổ phiếu i
Ngoài ra để khắc phục tình trạng này chúng ta có thể xây dựng thêm một số
chỉ số Index phụ như:
- Chỉ số VN50 đại diện cho 50 doanh nghiệp có giá trị vốn hóa lớn nhất thị
trường;
Chỉ số VN70 đại diện cho 70 doanh nghiệp có cổ phiếu thanh khoản bình quân lớn
nhất trên thị trường.
3.2.3.3.Tạo đƣợc sự liên thông giữa TTCK Việt Nam và Thế Giới
Sự liên thông giữa TTCK Việt Nam với Thế Giới có ý nghĩa hết sức to lớn,
nó giúp cho vị thế TTCK Việt Nam được nâng lên trên TTCK Toàn cầu.
Khi đã có sự liên thông thì vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài trở nên
thuận lợi và nhanh chóng hơn. Nó cũng giúp cho doanh nghiệp Việt Nam muốn
niêm yết ở nước ngoài và ngược lại các doanh nghiệp nước ngoài muốn niêm yết
trên TTCK Việt Nam có nhiều thuận lợi. Điều này giúp cho giá của chứng khoán
phản ánh đúng hơn với giá trị thực của chúng.
Để có được sự liên thông với TTCK Thế giới thì chúng ta cần phải xây dựng
và cũng cố các điều kiện sau:
- Xây dựng được hành lang pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế về việc
doanh nghiệp Việt Nam đăng ký niêm yết ở TTCK nước ngoài và các doanh nghiệp
nước ngoài đăng ký niêm yết tại TTCK Việt Nam.
- Chính phủ, UBCKNN cần phải tạo điều kiện, cơ chế thuận lợi để hỗ trợ cho
các doanh nghiệp trong nước đăng ký niêm yết ra nước ngoài và doanh nghiệp nước
ngoài niêm yết trên TTCK Việt Nam.
61
- Có giải pháp để thu hút nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đến với
TTCK, nhằm tạo tính thanh khoản cho thị trường.
- Nâng cao quy mô niêm cho TTCK đủ lớn với nhiều hàng hóa có chất lượng,
để thu hút một số quỹ đầu tư lớn trên Thế Giới.
3.2.3.4.Phát triển hệ thống điều hành giám sát của UBCK
* Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát của UBCK:
Chứng khoán là thị trường nhạy cảm, nơi mà lòng tin của NĐT vào sự
thành công của thị trường. Trong thời gian qua, niềm tin của NĐT vào thị trường
đang bị lung lay bởi rất nhiều lý do, trong đó đáng kể nhất là thị trường thiếu tính
minh bạch. Giao dịch nội gián, tiết lộ thông tin nội bộ, cổ đông lớn chèn ép cổ
đông nhỏ, hối lộ bằng quyền mua cổ phiếu, ưu tiên lệnh công ty trước lệnh khách
hàng…hàng loạt vi phạm đang đánh vào cái gốc của thị trường, đó là niềm tin
của nhà đầu tư. Nếu ra đi vì thua lỗ, một lúc nào đó nhà đầu tư sẽ quay lại với thị
trường, nhưng nếu mất lòng tin, họ sẽ không bao giờ trở lại.
Sự phát triển của TTCK hiện cũng đang đặt ra một số vấn đề phải quan
tâm xử lý như: giá một số cổ phiếu tăng liên tục ở mức cao; chất lượng dịch vụ của
các tổ chức tài chính trung gian, hoạt động tư vấn, giám sát, định giá cổ phẩn để
niêm yết, chất lượng và quản lý thông tin còn hạn chế; các quy định về quản lý,
kiểm soát thị trường đảm bảo phát triển bền vững còn thiếu và chưa đồng bộ; sự
chủ động của các Bộ, ngành chức năng cũng như sự phối hợp liên ngành để thực
hiện quản lý, kiểm soát TTCK chưa thật tốt; năng lực quản lý giám sát thị trường
của UBCKNN còn yếu.
Để tiếp tục tạo điều kiện cho TTCK phát triển ổn đinh, bền vững, thực sự
trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế; đồng thời, bảo đảm
lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư, góp phần hoàn thiện và phát triển đồng bộ thị
trường tài chính Việt Nam, các cơ quan chức năng cần thực hiện những vấn đề sau:
- Phát triển thị trường các giao dịch chính thức, tăng cường quản lý các công
ty đại chúng theo quy định của Luật chứng khoán nhằm thu hẹp thị trường OTC.
- Giám sát các hoạt động của các quỹ đầu tư CK, đặc biệt đối với các quỹ
đầu tư CK nước ngoài phải bảo đảm hoạt động theo đúng các quy định của
62
pháp luật về tỷ lệ cổ phiếu, công bố thông tin và các quy định hiện hành khác;
đồng thời, phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm khắc mọi hành vi vi phạm; chỉ cho
phép thành lập các quỹ đầu tư CK đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; phối
hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng cơ chế kiểm soát luồng tiền để giám sát
hoạt động đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Thực
hiện đăng ký lại ngay các văn phòng đại diện của các tổ chức kinh doanh chứng
khoán theo quy định của Luật Chứng khoán.
- Giám sát hoạt động giao dịch trên các SGDCK; chú trọng kiểm soát việc
thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân hoạt động trên
TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu ký, thanh toán CK
để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công khai, minh bạch, đúng
pháp luật.
- Giám sát hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, tư vấn định giá doanh nghiệp
để các hoạt động dịch vụ này thực sự có chất lượng, phản ảnh trung thực và là
hoạt động có độ tin cậy cao đối với các NĐT chứng khoán.
- Tăng cường giám sát hoạt động giao dịch trên các SGDCK; chú trọng
kiểm soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân
hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu ký,
thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công khai,
minh bạch, đúng pháp luật.
- Nghiên cứu, ban hành cơ chế tài chính phù hợp đối với UBCK,
SGDCK, TTLKCK, để có thể thu hút, khuyến khích cán bộ có năng lực và
chuyên môn làm việc tại cơ quan quản lý, giám sát TTCK.
- Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc thông tin
tuyên truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng có hiểu biết hơn
về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị trường.
-Tiếp tục giám sát hoạt động của các NHTM trong hoạt động repo, huy động,
cho vay, cầm cố để đầu tư CK; xây dựng, củng cố về tổ chức và áp dụng các công
cụ quản lý thích hợp để bảo đảm giám sát được luồng vốn đầu tư nước ngoài vào
TTCK trong mối liên hệ giữa TTCK và thị trường tiền tệ
63
Ngoài ra UBCKNN cần phải theo dõi sát sao tình hình thị trường, nhà đầu
tư. Để biết được hiện tại thị trường đang thiếu gì, nhà đầu tư đang cần gì để kịp thời
bổ sung cải tiến. Trong trường hợp những thay đổi là thật sự cần thiết cho TTCK
nhưng không nằm trong thẩm quyền của UBCKNN. Thì cần phải kịp thời đề xuất
lên cấp trên để giải quyết vướng mắc. Ví dụ như hiện tại hầu như các nhà đầu tư
tham gia vào thị trường đều bị thua lỗ nặng. Nhưng còn phải ghánh thêm phần thuế
thu nhập chứng khoán. Làm cho nhiều nhà đầu tư bất mãn và rời bỏ thị trường. Nếu
UBCKNN kịp thời đưa ra phương án đề xuất giản thuế chứng khoán thêm 2,3 năm
nữa. Điều đó thể hiện được sự quan tâm của UBCKNN, Chính Phủ đến thị trường,
nhà đầu tư. Và đây có thể là cú huýt tâm lý tốt giúp nhà đầu tư lấy lại niềm tin với
TTCK để vượt qua giai đoạn khó khăn này.
* Có những chế tài đủ mạnh đối với những vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán:
Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện rất nhiệu vụ việc vi phạm đặc biệt
nghiêm trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy những vụ vi phạm đã gây ra tổn thất rất
lớn cho các nhà đầu khác và làm mất rất nhiều uy tín của TTCK Việt Nam với các
nhà đầu tư Quốc tế. Nhưng hình phạt mà những người vi phạm nhận được thì quá
nhẹ, không đủ tính răng đe.
Những vi phạm thường gặp trên TTCK là: việc giao dịch nhưng không công
bố thông tin của cổ đông nội bộ, cổ đông lớn, giao dịch nội gián, làm giá cổ phiếu,
việc chậm công bố thông tin của các doanh nghiệp…Ví dụ như: giao dịch nhưng
không công bố thông tin của VTV, làm giá cổ phiếu của HTV, AAA, DVD.
Do đó cần phải có những chế tài đủ mạnh đủ tính răng đe, đối với cá nhân vi
phạm với quy mô lớn thì cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự, đối với doanh
nghiệp chậm công bố thông tin thì cho tạm dừng giao dịch trong khoảng thời gian
nhất định.
*Tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK:
Thống kê cả nước đến 31.12.2010 có khoảng 1,1 triệu tài khoản của nhà đầu
tư tổ chức, cá nhân thì con số NĐT có bài bản và chiến lược trên các sàn CK quả là
không nhiều. Nghịch lý này dẫn tới chuyện nhiều NĐT thiếu chuyên nghiệp lên sàn
mơ đổi đời bằng được trong phút chốc trong khi kiến thức, kinh nghiệm còn thiếu
64
khiến cho mỗi khi chỉ số chứng khoán sụt giảm thì họ là những người bị ảnh hưởng
đầu tiên.
Trong chiến lược phát triển TTCK, gắn với tiến trình cải cách đổi mới nền
kinh tế trong giai đoạn hội nhập; một nội dung khá cần thiết đang được đặt ra hiện
nay là công tác phổ cập kiến thức CK. Có thể nói, việc phổ cập kiến thức CK hiện
nay chưa được thực hiện “tận gốc” và đây cũng chính là một trong những yếu tố
hạn chế sự phát triển của TTCK.
Hiện nay, công tác đào tạo và phổ cập hiện mới bó hẹp trong UBCKNN. Các
hoạt động của UBCKNN trong khâu này mới chỉ giới hạn ở việc trực tiếp mở một
số khoá đào tạo nghiệp vụ ngắn ngày, chủ yếu ở Hà Nội, Tp.HCM với tổng số
người học còn quá khiêm tốn, chỉ vài ngàn người.
Mặt khác, các khóa đào tạo của UBCKNN là những chứng chỉ cần thiết cho
các cá nhân muốn hoạt động môi giới CK nên phần nào bó hẹp trong một số đối
tượng của các CTCK. Các thành phần khác như NĐT, cá nhân được phổ cập chưa
nhiều. Do vậy, cần phải có chiến lược cụ thể để tuyên truyền phổ cập kiến thức về
TTCK:
- Mở rộng tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng trên các phương
tiện thông tin đại chúng như: báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng
Internet, các khóa đào tạo miễn phí, xây dựng các bản tin, các chuyên mục về CK
và TTCK,...
- Các trường Đại học tiếp tục hình thành và phát triển hơn nữa bộ môn CK
cũng như đưa các môn học chuyên sâu vào chương trình để vừa phục vụ công tác
đào tạo tại trường vừa đáp ứng nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ của những Người
làm việc trong lĩnh vực này.
- Khi nhà đầu tư có trình độ cao hơn, hiểu biết rõ hơn về những lợi ích và rủi
ro tiềm ẩn của việc tham gia TTCK, biết cách và được tạo điều kiện để đưa ra những
quyết định đầu tư có căn cứ, niềm tin của họ vào thị trường sẽ được nâng cao. Tác
động từ những yếu tố mang tính tâm lý, bầy đàn cũng có khả năng giảm đi. Kết quả
là hiệu quả và tính ổn định của thị trường sẽ được cải thiện.
65
3.2.4.Giải pháp từ Chính Phủ
3.2.4.1.Xây dựng tính minh bạch cho TTCK để bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tƣ
* Đảm bảo tính minh bạch cho hoạt động của TTCK:
Xét từ góc độ các thành viên tham gia TTCK, sự minh bạch của thị trường là
thuật ngữ mô tả khả năng tiếp cận rộng rãi với những thông tin liên quan đến các cơ
hội giao dịch hiện tại và các giao dịch mới hoàn thành. Nó có thể được xem là chìa
khóa để nâng cao tính thanh khoản, công bằng, hiệu quả của thị trường cũng như
chất lượng của quá trình xác lập giá.
Trên quan điểm của cơ quan quản lý, nói đến tính minh bạch là nói đến độ
mở và sự công bằng của việc ra quyết định trong quá trình soạn thảo, ban hành,
giám sát và thực thi các quy định mới cũng như những quy định sửa đổi. Nói một
cách cụ thể, tính minh bạch được thể hiện qua những quy định và quy tắc đơn giản
và dễ hiểu, có tính đến vai trò và quyền lợi của các đối tượng tham gia thị trường.
Từ hai cách tiếp cận trên, có thể thấy rằng đối với TTCK, tính minh bạch
được nhìn nhận như một nhân tố vô cùng quan trọng, thậm chí có ý nghĩa quyết
định đối với sự tồn tại lâu dài và phát triển bền vững của thị truờng. Nó đảm bảo
cho tất cả các bên tham gia thị trường đều được tiếp cận với những nguồn thông tin
cần thiết để từ đó xây dựng những dự báo kinh doanh xác thực hơn và đưa ra những
quyết định có căn cứ. Nhờ đó, tính hiệu quả của hoạt động đầu tư nói riêng và của
toàn bộ thị trường nói chung được tăng lên. Đồng thời, một thị trường minh bạch
cũng góp phần làm tăng lòng tin của công chúng đầu tư, thúc đẩy họ tham gia thị
trường một cách tích cực. Xét trên bình diện rộng hơn, một thị trường có tính minh
bạch cao sẽ cho phép thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn (trong đó bao gồm cả nhà
đầu tư nước ngoài), hạ thấp chi phí vốn, ngăn chặn những phản ứng dễ gây bất ổn
của nhà đầu tư và làm giảm tính biến động của các luồng vốn quốc tế.
Thực tế cho thấy, sự thiếu thông tin liên quan đến hoạt động của các đối
tượng tham gia thị trường có thể đe dọa tính toàn vẹn của thị trường và gây khó
khăn cho các cơ quan quản lý trong việc xây dựng và thực thi các chính sách nhằm
mục tiêu vận hành hiệu quả thị trường. Một minh chứng rõ ràng cho điều này có thể
được rút ra khi nhìn lại cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua. Sự thiếu tính
66
minh bạch trên một số TTCK phái sinh phi tập trung đã gây nhiều khó khăn và bất
ổn cho những đối tượng tham gia thị trường này cũng như làm tăng rủi ro đối tác.
Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi trong số những đề xuất cải cách khuôn khổ
quản lý được nhiều nhà nghiên cứu chính sách đưa ra lại có nội dung tăng cường
tính minh bạch thị trường và công bố thông tin, trong đó tập trung vào các công cụ
tài chính được sáng tạo và sử dụng, các thị trường phi tập trung, các phương pháp
định giá và kế toán, và phương pháp luận của các tổ chức định mức tín nhiệm. Tất
cả đều nhằm mục tiêu ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tài chính mới trong tương
lai.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và xu hướng luân chuyển
luồng vốn linh hoạt giữa các quốc gia, yêu cầu về tính minh bạch trên thị trường
không bị giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà còn bao trùm cả các hoạt động
xuyên biên giới. Liên quan đến vấn đề này có hoạt động của các định chế sử dụng
mức độ đòn bẩy cao (điển hình là các quỹ đầu tư rủi ro ―hedge fund), các công cụ
giao dịch trên thị trường phi tập trung, hoạt động đầu tư ra nước ngoài và đầu tư của
người nước ngoài vào thị trường nội địa. Trong trường hợp này, yêu cầu đặt ra đối
với các cơ quan quản lý là xây dựng những nguyên tắc, quy định về công bố thông
tin và giám sát hoạt động đảm bảo sự tương đồng và nhất quán với các chuẩn mực
quốc tế, và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan quản lý nước ngoài cũng như những tổ
chức quốc tế có liên quan.
*Nhà đầu tư cần phải được bảo vệ đầy đủ:
Nhà đầu tư là một đối tượng tham gia quan trọng và không thể thiếu trên
TTCK. Với tư cách là người cung cấp vốn cho các công ty (ở vị trí chủ nợ hay cổ
đông), họ có những quyền lợi nhất định và những quyền lợi đó cần phải được bảo
vệ. Có như vậy, các nhà đầu tư mới có động lực để sẵn sàng tham gia thị trường, tạo
điều kiện cho luồng vốn luân chuyển trong nền kinh tế. Những nghiên cứu trong quá
khứ đã chỉ ra rằng những quốc gia nào bảo vệ cổ đông tốt hơn sẽ có thị trường cổ
phiếu phát triển mạnh mẽ hơn, số lượng công ty niêm yết (tính trên đầu người) cao
hơn và tỷ lệ chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng lớn hơn.
Một trong những biện pháp bảo vệ nhà đầu tư cơ bản nhất và được áp dụng
67
phổ biến nhất là dựa vào các quy định mang tính pháp lý và cưỡng chế thực thi các
quy định đó. Trong số này, chiếm một số lượng lớn là các quy định có liên quan đến
công bố thông tin và các nguyên tắc kế toán do thông tin là điều kiện tiên quyết cho
việc thực hiện quyền của nhà đầu tư. Trách nhiệm cưỡng chế thực thi các quy định
này thuộc về cơ quan quản lý, và trong một số trường hợp là cả bản thân các thành
viên thị trường .
Bên cạnh cách làm trực tiếp và truyền thống đề cập ở trên, giáo dục nhà đầu
tư là một biện pháp khác hứa hẹn đem lại nhiều tác dụng về lâu dài. Về cơ bản, giáo
dục nhà đầu tư sẽ góp phần hỗ trợ các cơ quan quản lý đạt được mục tiêu bảo vệ nhà
đầu tư của mình. Lợi ích này có thể được hiện thực hóa thông qua những tác động
tích cực khác nhau. Cụ thể, nhà đầu tư được trang bị những kiến thức để hiểu rõ hơn
vai trò của cơ quan quản lý và của mỗi đối tượng tham gia thị trường, hiểu được
những quyền và lợi ích của mình khi tham gia thị trường. Họ sẽ được biết cần những
thông tin gì và tìm những thông tin đó ở đâu để làm cơ sở cho việc đưa ra các quyết
định đầu tư hợp lý. Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng có thể phát huy vai trò giám sát
đối với thị trường, giúp cơ quan quản lý phát hiện ra những trường hợp sai phạm
trước khi những hậu quả xấu thực sự xảy ra.
* Nâng cao chất lượng của các báo cáo kiểm toán:
Hiện tại trên thị trường tồn tại nhiều công ty kiểm toán mới và thiếu chuyên
nghiệp. Bên cạnh đó việc lựa cho công ty kiểm toán là do các doanh nghiệp niêm yết
tự chọn. Nên nhiều báo cáo tài chính đã được kiểm toán nhưng chất lượng chưa cao
chưa đúng với thực tế tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ như :trường hợp
công ty Bông bạch tuyết (BBT) sau khi đổi công ty kiểm toán theo chỉ định của
UBCK thì mới phát hiện sai sót trong báo cáo tài chính của những năm trước .
Trong khi đó hầu hết nhà đầu tư khi phân tích đánh giá doanh nghiệp để mua
cổ phiếu thì thường dựa vào các báo cáo tài chính đã được kiểm toán để làm cơ sở
chính.
Do vậy việc nâng cao chất lượng của các báo cáo kiểm toán là việc làm cấp
bách giúp nâng cao tính minh bạch cho thị trường và đồng thời lấy lại được niềm tin
cho nhà đầu tư.
68
3.2.4.2.Đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN
Lợi ích của việc CPH DNNN
Những DN mà nhà nước chiếm đến 99% vốn điều lệ đã không còn là DN
một chủ sở hữu mà đã trở thành một CTCP có nhiều cổ đông tham gia. Khi đã trở
thành công ty đại chúng thì DN phải có nghĩa vụ thường xuyên công bố thông tin,
như vậy tính minh bạch trong quản trị DN đã được cải thiện.
Đã là CTCP thì DN tạo được cơ chế trả lương và thu nhập theo cơ chế thị
trường, mà không hề bị ràng buộc theo cơ chế bảng lương được ấn định từ cơ chế
nhà nước đây là một động lực để phát triển DN.
Ban lãnh đạo DN phải chịu một sức ép lớn hơn trước rất nhiều là phải tạo lợi
nhuận cho DN nhằm đủ nguồn để trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông theo mặt bằng
chung của thị trường.
Hiện nay có một tình trạng phổ biến trong các Tổng công ty nhà nước là
không chú trọng đến việc đạt được một tỷ suất lợi nhuận bình quân như các
DNNN đã CPH. Việc chuyển các Tổng công ty nhà nước thành CTCP sẽ làm bộc
lộ nhân sự yếu kém để cơ quan chủ quản có điều kiện thay thế nhân sự, đồng thời
làm tăng hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà
nuớc.
Khi đã trở thành CTCP sẽ mở ra nhiều hình thức huy động vốn mới như:
phát hành cổ phiếu, trả cổ tức bằng cổ phiếu…Đây là những tiền đề quan trọng để
tăng cường khả năng tài chính của công ty mẹ.
Thực tiễn về cổ phần hoá DNNN trong 15 năm qua đã chỉ ra rằng :
- Có mộ t số DNNN kinh doanh liên tục thua lỗ, nên khi cổ phần hoá
thì gặp khó khăn trong việc bán bớt phần vốn nhà nước. Nhưng chỉ sau một thời
gian ngắn đa phần đối tượng này kinh doanh hiệu quả và từ đó làm nền tảng cho
việc bán bớt hoặc bán hết cổ phần còn lại của nhà nước.
- Có những DNNN kinh doanh hiệu quả, khi CPH huy động vốn lớn
trong bối cảnh chưa có TTCK hoặc TTCK bị khủng hoảng (giai đoạn 2001–
2003), khi chuyển thành CTCP thì nhà nước nắm cp đa số tuyệt đối, nhưng cũng
chỉ 1 thời gian ngắn sau CPH, những DN đó đã tái cơ cấu được cổ phần nhà nước.
69
Để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà không làm ảnh hưởng đến sự ổn định
của TTCK thì :
- Tạm thời chấp nhận cổ phần đa số của nhà nước, có thể lên tới 95%
vốn điều lệ.
- IPO một lượng nhỏ cổ phiếu, số lượng phát hành không quá 100 tỷ
đồng theo mệnh giá.
Giải quyết vấn đề bán cổ phần cho đối tác chiến lược :
- Đàm phán, lựa chọn đối tác chiến lược mất rất nhiều thời gian (từ 6
tháng đến 1năm, thậm chí 2 năm, 3 năm). Vì vậy không nên đặt vấn đề là đàm
phán lựa chọn xong đối tác chiến lược thì mới thực hiện IPO.
- Các cơ quan chỉ đạo CPH nêu ưu tiên tốc độ hoàn thành thủ tục
chuyển thành CTCP, còn đối tác chiến lược có thể thực hiện sau CPH là tốt nhất.
Những giải pháp này hoàn toàn phù hợp với qui định hiện hành, với
phương pháp này chúng ta hoàn toàn có thể đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà
vẫn đảm bảo kiểm soát nguồn cung, đồng thời sẽ tạo được một lượng hàng hoá
có giá trị gia tăng lớn cho nhà nước trong việc bán bớt cổ phần nhà nước khi điều
kiện cho phép.
3.2.4.3.Thành lập quỹ bình ổn TTCK
Khi TTCK Việt Nam đi xuống trong giai đoạn vừa qua, ý tưởng hình thành
quỹ bình ổn thị trường được nhìn nhận là một hướng đi tích cực.
Quỹ bình ổn TTCK là một mô hình góp vốn bằng tiền mặt từ các công ty
thành viên và các Quỹ đầu tư CK trên thị trường. Số tiền sẽ được quản lý và sử
dụng bởi một công ty được lập ra chuyên để bảo đảm lợi ích cho các NĐT trong
những trường hợp xấu. Như vậy khoản tiền này có thể được tung ra để bình ổn thị
trường trong những lúc biến động quá dữ dội, qua đó giúp các nhà đầu tư khỏi bị
sốc.
Cần nhìn nhận rằng mục tiêu của Quỹ là bình ổn thị trường. Vì vậy, quỹ có
tác động ổn định thị trường trong ngắn hạn và phát triển thị trường trong dài hạn.
Trong ngắn hạn, các thành viên tham gia quỹ có thể gặp một số khó khăn khi phải
hy sinh lợi ích ngắn hạn để phục vụ mục tiêu dài hạn.
70
Tuy nhiên, cơ chế điều hành và quản trị nguồn vốn như thế nào để đảm
bảo lợi ích công bằng của các chủ thể thị trường là một điều đáng được quan
tâm. Đây là một vấn đề phức tạp và khó khăn. Mua bán như thế nào, lỗ lãi được
tính toán ra sao đều là những vấn đề khó khăn cần xem xét kỹ lưỡng và cần có sự
đồng thuận giữa các thành viên. Thêm vào đó, ở Việt Nam tồn tại nhiều tình trạng
đầu cơ và thao túng nên việc vận hành quỹ là một vấn đề rất phức tạp.
Do đó Việc hình thành quỹ dù sao vẫn rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ. Theo
đó, Nhà nước có thể trích một phần thặng dư trong quá trình cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước lớn để đóng góp vào quỹ.
Về vấn đề điều hành, chính phủ phải có đóng góp vào quỹ nhưng không nên
tham gia điều hành. Việc điều hành nên để các thành viên thị trường bầu chọn,
không chỉ dựa trên tiêu chí về số vốn mà quan trọng hơn là tiêu chí về đạo đức.
Đồng thời, Chính phủ nên đối thoại với quỹ về hoạt động của quỹ. Ngược lại,
quỹ cũng có thể thỏa thuận với Chính phủ về những điều kiện để tuân thủ các
mệnh lệnh của Chính phủ, đồng thời, yêu cầu chính phủ minh bạch công khai
thông tin để phục vụ các hoạt động.
71
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Trong chương này, người viết đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát
triển TTCK Việt Nam. Các giải pháp được đưa ra dựa trên chủ trương chính sách
của chính phủ trong định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 và tầm
nhìn đến năm 2020.
Người viết đã đưa ra 4 nhóm giải pháp. Nhóm thứ nhất là nhóm giải pháp
dành cho Công ty Chứng khoán, nhóm giải pháp thứ hai dành cho nhà đầu tư, nhóm
giải pháp thứ ba dành cho UBCKNN và nhóm giải pháp thứ tư dành cho Chính phủ.
Do giới hạn của luận văn, người viết chỉ tập trung vào giải pháp cơ bản là
đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, đảm bảo tính minh bạch
trong hoạt động TTCK. Ngoài ra còn có các giải pháp kỹ thuật cho sự phát triển của
TTCK như: Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các loại hàng hóa để đáp ứng nhu
cầu của thị trường, xây dựng lại cách tính chỉ số Vn-index và bổ sung một số chỉ số
index phụ, tạo sự liên thông giữa TTCK Việt Nam và Thế Giới, phát triển hệ thống
điều hành giám sát của UBCK, nâng cao năng lực của các công ty chứng khoán.
Nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân là đối tượng chịu nhiều rủi ro nhất khi
tham gia vào thị trường. Nên cần phải trang bị cho mình đầy đủ kiến thức và kinh
nghiệm nhằm giảm thiểu rủi ro đến mức thấp nhất.
72
KẾT LUẬN
Sau 10 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho
việc phát triển ngành tài chính ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. TTCK
Việt Nam đã thực sự bùng nổ kể từ khi có thông tin Việt Nam sẽ là thành viên thứ
150 của WTO.
TTCK trở thành kênh huy động vốn tương đối hiệu quả của doanh nghiệp và
của nền kinh tế thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Thông qua TTCK,
các doanh nghiệp có những giai đoạn đã huy động được nguồn vốn khổng lồ trong
dân chúng và cả các nguồn vốn ngoại. Chuyễn những nguồn vốn nhàn rỗi ngắn hạn
thành các khoản đầu tư dài hạn, phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Hàng chục nghìn
tỷ đồng đã được đưa vào sản xuất, kinh doanh, vòng quay vốn của toàn nền kinh tế
được cải thiện rõ rệt.
Nhưng bên cạnh đó, TTCK còn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để
có thể tăng trưởng và phát triển, thực sự trở thành kênh huy động vốn thật sự hiệu
quả cho nền kinh tế.
Những giải pháp nhằm tăng cung kích cầu, cải thiện môi trường đầu tư, lấy
lại niềm tin cho nhà đầu tư cần nhanh chóng được triển khai thực hiện.
Việc đánh giá đúng các kết quả đạt được, nhìn rõ những nguyên nhân của
những hạn chế thiếu sót, xác định rõ mục tiêu phát triển của thị trường và hướng
giải pháp khắc phục những tồn tại sẽ thúc đẩy TTCK Việt Nam ngày một phát triển
hơn.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Kim Yến, (2005), TTCK, Nhà xuất bản Lao động
2. Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất bản
Thống kê.
3. Đào Lê Minh, (2002), Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
4. Luật chứng khoán năm 2006.
5. Trần Đắc Sinh, (2005), Các giải pháp để đưa doanh nghiệp tiềm năng lên
niêm yết trên TTCK, Đề tài nghiên cứu khoa học, Sở Khoa học Công nghệ
TP.HCM.
6. Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM, (2006), Tổng kết 5 năm
TTCK Việt Nam, NXB Phương Đông, TP.HCM.
Các website
1. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn
2. Ủy ban chứng khoán Nhà nước www.ssc.gov.vn
3. Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn
4. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM www.hsx.vn
5. Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội www.hnx.vn
6. Thời báo kinh tế Việt Nam www.vneconomy.vn
7. Saga Việt Nam www.saga.vn
8. Thông tin tài chính chứng khoán www.Cafef.vn
9. Công ty chứng khoán Sài gòn www.ssi.com.vn
10. Tin nhanh www.vnexpress.net
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_phat_trien_thi_truong_chung_khoan_viet_nam_den_nam_2015.pdf