Luận văn Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà nội

Đề tài trên là một vần đề lớn, cần có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc và thấu đáo để đề ra phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính trong cổ phần hóa DNNN. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, việc cổ phần hóa DNNN trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả SXKD, phát huy tính tự chủ của doanh nghiệp, tăng cường năng lực cạnh tranh của DNNN đang được đặt ra bức thiết trong bối cảnh chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ.

doc112 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1497 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế sao cho việc mua bán vừa thực hiện theo đúng giá trị của nó, vừa cân nhắc rất kỹ rằng tài sản mình mua sẽ tạo ra lợi ích như thế nào? Nếu như việc mua cổ phần này chỉ tạo được một khoản lợi nhuận ngang bằng với lãi suất tiền gửi ở ngân hàng, hay lãi mua tín phiếu kho bạc thì khó lòng mà hấp dẫn người đầu tư. Việc cổ phần hóa có thể được ví như việc bán hàng, hàng hóa ở đây là các doanh nghiệp cổ phần hóa và sản phẩm được trao đổi phụ thuộc vào chất lượng sản phẩm được trao đổi. Chất lượng hàng hóa ở đây không chỉ tính bằng cổ tức được chia, mà ngoài ra nó còn được đánh giá bằng năng lực của nhà quản lý, chất lượng sản phẩm sản xuất và uy tín của công ty trên thị trường. Khi doanh nghiệp được cổ phần hóa thì tất cả những tiêu chí này được các nhà đầu tư lượng giá và không thể không tính tới khi quyết định đầu tư. Nhìn lại số doanh nghiệp đã được cổ phần hóa, cổ phần của nhiều doanh nghiệp đã không hấp dẫn được nhà đầu tư và tuy rằng vẫn được cổ phần hóa nhưng phần vốn của Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn, chưa đáp ứng được mục đích chuyển dịch tỷ trọng sở hữu về huy động vốn. Chúng ta chỉ có thể bán được hàng hóa có chất lượng và những doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa phải là những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tình hình tài chính mạnh. Do đó phải tổ chức đánh giá phân loại toàn bộ hệ thống DNNN theo mức độ hiệu quả, chưa hiệu quả phải phá sản, giải thể. Ngày7/5/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 86/2003/QĐ-TTg phê duyệt Phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà nội giai đoạn 2003-2005. Tuy nhiên, nhiều DNNN chưa được đánh giá đúng tình hình tài chính khi tiến hành xây dựng đề án sắp xếp. Hiện nay Thành phố chưa ban hành tiêu chí doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, nên còn nhiều tranh cãi và áp dụng không thống nhất trong xác định cơ cấu vốn điều lệ. b, Vấn đề ưu đãi về tài chính đối với DNNN chuyển sang công ty cổ phần. Theo điều 26 Nghị định số 64/2002/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đã được hưởng ưu đãi: - Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước như đối với doanh nghiệp thành lập mới mà không cần phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư. - Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của DNNN cổ phần hóa thành sở hữu của Công ty cổ phần. - Quy định “được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các tổ chức tín dụng theo cơ chế và lãi suất như đối với DNNN trước khi cổ phần hóa”. - Được tiếp tục kinh doanh những ngành nghề đã đăng ký và miễn lệ phí cấp giáy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần. - Được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai trong trường hợp giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất. - Được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp khác hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa để ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy Nhà nước cũng có những ưu đãi về tài chính nhưng chưa ở mức hấp dẫn. Cụ thể: Quy định “được tiếp tục vay vốn tại ngân hàng thương mại công ty tài chính, các tổ chức tín dụng theo cơ chế và lãi suất như đối với DNNN trước khi cổ phần hoá”. Hình thức này không có tác dụng trên thực tế vì không được các tổ chức này thực thi. Việc sử dụng quỹ phúc lợi và khen thưởng chia cho người lao động để mua cổ phần là đương nhiên vì quỹ này thuộc quyền quản lý và sử dụng của cán bộ công nhân viên. Mặt khác với quy định hiện hành về việc trích lập quỹ khen thưởng phúc lợi không được vượt quá 3 tháng lương đối với doanh nghiệp có lãi và tăng trưởng tốt thì thực tế số dư không đáng kể. Như vậy, chính sách chưa phải thực sự ưu đãi cho doanh nghiệp cổ phần hoá. c, Chính sách đối với người lao động khi DNNN chuyển sang công ty cổ phần. Theo quy định tại điều 27 Nghị định số 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn thực hiện của Bộ tài chính, Bộ lao động và thương binh xã hội, quyền lợi của người lao động trong DNNN khi chuyển sang công ty cổ phần được chú ý nhiều hơn. Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp cổ phần hoá tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được Nhà nước bán tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm đã làm việc thực tế tại khu vực nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 đồng. Trường hợp cổ phần hoá theo hình thức giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp thì giá trị ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp được trừ vào phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp. Tổng giá trị ưu đãi, kể cả giá trị ưu đãi cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu không vượt quá giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau khi đã trừ đi giá trị cổ phần nhà nước nắm giữ. Người lao động sở hữu số cổ phần được mua theo giá ưu đãi có quyền để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần. Đối với lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá cần được đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong công ty cổ phần thì Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho công ty cổ phần để tổ chức đào tạo, đào tạo lại từ Quỹ hỗ trợ sẵp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.... Người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá được mua chịu cổ phần theo giá ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên. Người lao động bị mất việc làm hay tự nguyện thôi việc khi cổ phần hoá hoặc trong 12 tháng sau khi cổ phần hoá được hưởng chế độ trợ cấp mất việc theo Bộ luật lao động và trợ cấp khác theo quy định của Chính phủ. Tiền trợ cấp từ quỹ hỗ trợ cổ phần hoá và từ quỹ khác (có quy định của Chính phủ). Như vậy, quyền lợi của người lao động đã được quan tâm nhiều hơn, tuy nhiên trong thực tế nhiều khi không trở thành hiện thực vì nhiều lý do khác nhau. Theo quy định tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp cổ phần hóa tại thời điểm quyết định cổ phần hóa được mua cổ phần giảm giá 30% so với mệnh giá ban đầu (mỗi năm làm việc được mua 10 cổ phần ưu đãi), trị giá một cổ phần là 100.000 đồng. Quy định này trong thực tế nhiều khi không trở thành hiện thực do nhiều lý do khác nhau. Bên cạnh đó, trong thực tế hầu hết các doanh nghiệp cổ phần hóa số năm làm việc của người lao động khá nhiều nhưng thu nhập còn thấp, chỉ đủ trang trải cuộc sống hàng ngày mà ít có tích lũy nên họ cũng không có tiền mua cổ phần ưu đãi. Như vậy, những ưu đãi trong quy định đã không trở thành ưu đãi thực tế làm giảm sự thu hút của cán bộ công nhân viên đối với cổ phần hóa. Người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá được mua chịu cổ phần theo giá ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên. Song thực tế hiện nay cho thấy thu nhập của người lao động trong các DNNN ở các ngành, các khu vực có khác nhau rất lớn, việc đưa ra tiêu chí chung về người lao động nghèo là không hợp lý, theo chủ quan là chính. d, Về quyền được mua cổ phần: điều 5 đoạn 1 Nghị định 64 quy định “các đối tượng quy định tại khoản 1 điều 4 Nghị định 64 đều có quyền mua cổ phần lần đầu với số lượng không hạn chế”. Điều này có thể được hiểu là: tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân người nước ngoài đều được quyền mua cổ phần lần đầu ở các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Nhưng đoạn 2 lại có quy định: các nhà đầu tư nước ngoài được mua số lượng cổ phần có tổng giá trị không quá 30% vốn điền lệ của các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề do Thủ tướng chính phủ quy định. Như vậy, ở đoạn 1 và đoạn 2 trong điều 5 Nghị định 64 có thể gây nhầm lẫn cho các doanh nghiệp và có thể gây ra các trở ngại trong quá trình cổ phần hoá. e, Vấn đề cơ cấu bán cổ phần lần đầu. Vấn đề cơ cấu bán cổ phần lần đầu, điều 23 Nghị định 64 quy định “dành tối thiểu 30% số cổ phần còn lại (nếu có) để bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp trong đó ưu tiên bán cho nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, vốn và kinh nghiệm quản lý”. Nếu so sánh với mục tiêu của quá trình cổ phần hoá là “nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu.… huy động vốn của toàn xã hội...”. Nhưng có thể thấy rằng tỷ lệ 30% số cổ phần còn lại (nếu có) để bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp là quá khiêm tốn so với mục tiêu nói trên. Vấn đề tiếp theo được đặt ra là nếu như “công nghệ, thị trường vốn và kinh nghiệm quản lý” được xem là các ưu tiên bán cổ phần lần đầu cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp thì cần phải sắp xếp và khẳng định thứ tự của các ưu tiên đó khi xem xét lựa chọn để bán cổ phần. Như vậy Nghị định số 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ ra đời thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã có rất nhiều đổi mới cải tiến về cơ cấu chính sách nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình cổ phần hóa sắp xếp DNNN, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề bất cập cần phải được giải quyết để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa DNNN. Chương IIi Phương hướng và giải pháp tài chính góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Hà nội 3.1 Phương hướng nhiệm vụ cổ phần hóa trong thời gian tới. 3.1.1 Chủ trương của Đảng và Chính phủ Quan điểm về sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN đã được thể hiện rất rõ trong các văn kiện của Đảng và Chính phủ: Đại hội Đảng lần thứ IX đã nhấn mạnh Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã chỉ rõ: “Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỷ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế. Đại bộ phận DNNN phải có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến; một bộ phận cần thiết có quy mô nhỏ để kinh doanh những sản phẩm, dịch vụ thiết yếu, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Chuyển DNNN sang hoạt động theo chế độ công ty; đẩy mạnh cổ phần hóa những DNNN mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu quan trọng để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả DNNN.” Đồng thời, Nghị quyết cũng nhấn mạnh, trong 5 năm tới, hoàn thành cơ bản việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN hiện có. Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những DNNN không cần nắm 100% vốn; giao, bán, khoán, cho thuê…. các doanh nghiệp loại nhỏ Nhà nước không cần nắm giữ; sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách đối với DNNN để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng: xóa bao cấp; doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã khẳng định: “Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 3 về sắp xếp, đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả DNNN. Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và mở rộng diện các DNNN cần cổ phần hóa, kể cả một số TCT và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, cơ khí, hóa chất, phân bón, ngân hàng, bảo hiểm….. Giá trị tài sản DNNN thực hiện cổ phần hóa, trong đó có giá trị quyền sử dụng đất, về nguyên tắc phải do thị trường quyết định. Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp. Tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, tổng kết công tác cổ phần hóa; kịp thời rút kinh nghiệm, uốn nắn những lệch lạc, hoàn thiện cơ chế, chính sách để thực hiện ngày càng tốt hơn.” “Khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn của Nhà nước hoạt động có hiệu quả chuyển thành công ty cổ phần, phát hành cổ phiếu, trái phiếu tham gia TTCK.” Và gần đây nhất là Chỉ thị số 11/2004/CT-TTg ngày 30/3/2004 của Chính phủ với tinh thần: “Nghiêm túc thực hiện nội dung và phấn đấu đẩy nhanh lộ trình thực hiện. Đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN đã được phê duyệt. Trong năm 2004, rà soát chiến lược, quy hoạch phát triển DNNN, tiếp tục phân loại DNNN, TCT nhà nước để mở rộng diện các DNNN cổ phần hóa theo tinh thần NQTƯ 9 khóa IX. Đẩy mạnh việc cổ phần hóa DNNN quy mô lớn theo hình thức giữ nguyên vốn nhà nước hiện có và phát hành cổ phiếu để huy động thêm vốn.” 3.1.2 Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hóa DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới ở đất nước ta hiện nay. Đây là một chủ trương đúng đắn, một giải pháp ưu việt trong việc cải cách và sắp xếp lại các DNNN. Cổ phần hóa là đa dạng hóa chủ sở hữu đối với DNNN nhằm huy động thêm nguồn vốn và kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu tư, người lao động, thể nhân, pháp nhân ngoài doanh nghiệp… tạo động lực mới và phát huy quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp từ đó nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Cổ phần hóa ở Việt nam có nét độc đáo rất riêng, đó là không nhằm mục tiêu tư nhân hóa, tức là không biến công ty cổ phần thành công ty của số ít các cổ đông, của một số cá nhân, mà làm sao cho mọi người lao động đều có cổ phần, trở thành những người chủ thực sự của công ty; gắn bó với công ty, đồng thời thu hút thêm cổ đông ở bên ngoài vào công ty. Đối với Hà nội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, Thành ủy Hà nội, UBND Thành phố Hà nội, tiến hành cổ phần hóa DNNN thuộc Thành phố nhằm đạt các mục tiêu sau: Một là, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho DNNN; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Hai là, sắp xếp lại, xây dựng cơ cấu hợp lý doanh nghiệp nhà nước trong mối quan hệ với các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định vững chắc. Ba là, khắc phục một cách cơ bản và từng bước nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước để thực hiện có kết quả tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Bốn là, tăng cường thực lực của DNNN để phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Năm là, cổ phần hóa DNNN gắn với thị trường vốn để khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong xã hội, phát triển doanh nghiệp, giảm thất thoát cho Nhà nước và tạo điều kiện để thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường (đặc biệt là thị trường vốn và thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường lao động). 3.1.3 Phương hướng nhiệm vụ cổ phần hóa trong giai đoạn từ nay đến 2005 Để đẩy nhanh tiến độ sắp xếp DNNN theo tiến độ chung của cả nước, Thành phố Hà nội đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước thuộc Thành phố Hà nội giai đoạn 2003 - 2005. Ngày 7/5/2003 Thủ tướng chính phủ có Quyết định số 86/2003/QĐ-TTg phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước thuộc Thành phố Hà nội giai đoạn 2003 - 2005, trong đó kế hoạch cổ phần hóa DNNN qua từng năm như sau: Bảng 2: Phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới DNNN thuộc Thành phố Hà nội giai đoạn 2003 - 2005 TT Chỉ tiêu Tổng số Trong đó Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 1 Giữ nguyên pháp nhân 100% vốn Nhà nước 70 2 Chờ sắp xếp theo chủ trương chung của Chính phủ các nông lâm trường quốc doanh 1 3 Cổ phần hóa: Trong đó: 82 27 38 17 3.1 - CPH Nhà nước giữ trên 50% tổng số cổ phần của doanh nghiệp 20 3 11 6 3.2 - CPH khi bán cổ phần lần đầu Nhà nước giữ ít nhất 51% vốn điều lệ 44 12 21 11 3.3 - CPH Nhà nước giữ cổ phần ở mức thấp, hoặc không giữ cổ phần 18 12 6 0 4 Giải thể 9 9 0 0 5 Chuyển về Bộ Giao thông Vận tải 3 3 0 0 6 Chuyển thành đơn vị sự nghiệp 1 1 0 0 7 Sáp nhập 42 24 15 3 Tổng cộng 208 (Nguồn dữ liệu: báo cáo của Chi cục Tài chính doanh nghiệp Hà nội tổng hợp theo Quyết định số 86/2003/QĐ-TTg) Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện nay (chỉ tính kết quả cổ phần hóa doanh nghiệp năm 2003 và 6 tháng đầu năm 2004), mới chỉ có 13 doanh nghiệp hoàn thành cổ phần hóa, thành lập 15 công ty cổ phần (nguồn dữ liệu: báo cáo kết quả thực hiện cổ phần hóa DNNN và phương hướng đến năm 2004 của UBND Thành phố). Sự chậm trễ này được lý giải một phần là do các vướng mắc về mặt tài chính. Việc hoàn thiện các giải pháp tài chính được đặt ra như một yêu cầu bức thiết góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa. Ngoài việc thực hiện các giải pháp đồng bộ như củng cố hoạt động của các DNNN, hoàn thiện các chính sách cổ phần hóa theo hướng phù hợp với luật doanh nghiệp, cần lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, giải quyết các vấn đề công nợ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp sau khi chuyển sang công ty cổ phần, không gây thiệt hại đến lợi ích của người lao động. 3.2 Các giải pháp tài chính góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội 3.2.1 Hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. Ngày 5/6/2003, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 109/2003/QĐ-TTg, thành lập Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp nhằm mục đích: Thứ nhất, hỗ trợ các DNNN lành mạnh hóa tình hình tài chính trong quá trình hoạt động SXKD thông qua hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Thứ hai, góp phần giải quyết những tồn tại về tài chính nhằm thúc đẩy quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, giao, bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp thông qua việc: xử lý tài sản và các khoản nợ tồn đọng trước khi thực hiện chuyển đổi doanh nghiệp; xử lý các khoản nợ và tài sản được loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp. Thứ ba, thúc đẩy tiến trình hình thành, phát triển và tạo thêm nguồn hàng hóa cho thị trường tài sản và thị trường vốn. Qua đó, thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong nền kinh tế quốc dân đi đôi với việc tạo lập khung pháp luật đảm bảo sự quản lý và giám sát của Nhà nước. Thứ tư, xây dựng mô hình mẫu và định hướng cho việc hình thành và phát triển của một số định chế tài chính trung gian như: công ty mua bán nợ, dịch vụ đòi nợ thuộc các thành phần kinh tế khác, công ty dịch vụ tư vấn tài chính. Qua đó, chuyển giao một số nghiệp vụ mang tính sự vụ từ các cơ quan quản lý Nhà nước sang cho các tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động chuyên trách. Tách bạch các hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước và các hoạt động về kinh doanh dịch vụ. Theo báo cáo kiểm kê 0 giờ ngày 1/1/2000 tổng số nợ tồn đọng ở các DNNN (bao gồm cả hệ thống Ngân hàng thương mại) đã lên tới 31.935 tỷ đồng, bao gồm 21.218 tỷ đồng nợ phải thu quá hạn, và 10.717 tỷ đồng nợ phải trả quá hạn. Giá trị tài sản thuộc đối tượng chưa cần dùng, không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý (theo sổ sách kế toán) của 5.914 DNNN trên toàn quốc đã lên tới 3.285 ỷ đồng, chiếm 2% tổng số nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp. (Nguồn dữ liệu: làm thế nào để đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ, Kim Chi, NXB Chính trị quốc gia 2002) Các khoản nợ và tài sản tồn đọng tại các DNNN đã và đang là những trở ngại lớn cho tiến trình sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN. Khi tiến hành cổ phần hóa, nhiều doanh nghiệp đến lúc xác định giá trị doanh nghiệp thì mới vỡ lẽ số nợ tồn đọng của doanh nghiệp còn lớn hơn số vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Để đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN việc lành mạnh hóa tình hình tài chính có vai trò hết sức quan trọng. Việc thành lập Công ty Mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp tạo ra một công cụ của Nhà nước để hỗ trợ các doanh nghiệp lành mạnh hóa tình hình tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thúc đẩy quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, giao, bán, khoán và cho thuê doanh nghiệp. Tuy nhiên, Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp hiện nay chỉ mới đi vào hoạt động từ đầu năm 2004. Việc ra đời công ty là một bước quan trọng trong việc chuyển đổi chức năng quản lý tài chính doanh nghiệp của cơ quan quản lý Nhà nước, xóa bỏ sự can thiệp của các cơ quan hành chính và hoạt động của các doanh nghiệp, chuyển giao một số nghiệp vụ có tính chất sự vụ từ các cơ quan quản lý nhà nước sang cho các tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động có tính chuyên nghiệp. Tách bạch các hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước và các hoạt động về kinh doanh dịch vụ. Hoạt động của Công ty hỗ trợ cho việc xử lý nợ và tài sản tồn đọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nằm trong diện chuyển đổi hình thức sở hữu như: cổ phần hóa, giao, bán khoán và cho thuê doanh nghiệp nhà nước… Do mô hình còn mới mẻ lại hoạt động trong môi trường pháp lý chưa đầy đủ, thị trường mua bán nợ đang ở thời kỳ sơ khai nên để Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp có thể hoạt động tốt theo đúng như mục đích thành lập công ty thì cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ khi đó mới có thể xử lý nợ một cách triệt để cho doanh nghiệp. Cần phải ban hành Pháp lệnh để Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp hoạt động theo pháp lệnh này. Pháp lệnh được ban hành với mục đích khuyến khích việc bán hiệu quả các tài sản tồn đọng của các tổ chức tài chính và hỗ trợ nỗ lực cho quá trình lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp và đặc biệt góp phần giảm bớt khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp sau khi chuyển đổi. 3.2.2 Hoàn thiện phương pháp định giá doanh nghiệp. Thông tư 79/2002/TT-BTC ngày 12/9/2002 về việc hướng dẫn xác định giá trị doanh nghiệp trước khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần chính là cụ thể hóa Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Theo hướng dẫn tại Thông tư 79 quy định 2 phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp là phương pháp xác định theo giá trị tài sản và phương pháp xác định theo dòng tiền chiết khấu. Phương pháp xác định theo giá trị tài sản cơ bản phù hợp với nguyên tắc thị trường nhưng còn mang nặng tính hình thức. Để hoàn thiện hơn nữa phương pháp xác định theo giá trị tài sản cần: - Việc định giá tài sản hữu hình cần tham khảo giá thị trường của tài sản tương tự hoặc cùng loại và có phát hành thành tài liệu chính thức. Ngoài ra phải xem xét kỹ tới sự hao mòn vô hình của tài sản. - Việc định giá tài sản vô hình cần dựa vào chi phí và khả năng sinh lời của tài sản. + Đối với tài sản vô hình có thể xác định được chi phí, việc xác định giá sẽ dựa vào chi phí để tạo lợi thế và khả năng sinh lời của tài sản vô hình. + Đối với các tài sản vô hình không thể xác định được chi phí, việc xác định giá sẽ dựa vào khả năng sinh lời của tài sản vô hình. Việc định giá doanh nghiệp theo phương pháp mới (phương pháp dòng tiền chiết khấu): trong điều kiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa phát triển, hàng hóa và hoạt động đầu tư qua thị trường chứng khoán chưa nhiều. Việc xác định hệ số phụ phí rủi ro trong đầu tư cổ phiếu (Rp) để xác định giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực tư vấn, kiểm toán... còn khó khăn. Hiện nay mới chỉ dựa vào các thông tin của nước ngoài để áp dụng hoặc giao cho các công ty định giá xác định cho từng trường hợp cụ thể. Do đó, trong thời gian tới đề nghị thành lập Ban dự án để nghiên cứu và ban hành bản hệ số phụ phí rủi ro trong đầu tư cổ phiếu trong các ngành kinh tế - kỹ thuật ở Việt Nam. Khi xác định giá trị doanh nghiệp bên cạnh việc tính lợi thế doanh nghiệp thì cũng cần phân tích những yếu tố bất lợi cho doanh nghiệp, chẳng hạn như doanh nghiệp có lao động dôi dư, những kỹ năng chưa cao, tài sản có giá trị lớn nhưng mang lại thu nhập thấp, kế thừa những hoạt động tín dụng dài hạn bằng ngoại tệ, vị trí địa lý không thuận lợi ... Việc xác định giá trị doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hóa hiện còn mang tính chủ quan của Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp nên kết quả còn thiếu chính xác, chưa phản ánh đúng giá trị thật của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến hiện tượng: người lao động trong doanh nghiệp sẽ mua hết số cổ phần được phép bán ra nếu kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thấp, hoặc không bán được cổ phần nếu doanh nghiệp được định giá quá cao. Để khác phục hạn chế này, phải tiến dần đến hình thức định giá doanh nghiệp theo cơ chế thị trường. Chuyển dần theo hình thức đấu thầu doanh nghiệp đang thịnh hành trong nền kinh tế thị trường. Sử dụng phương pháp định giá tài sản và phương pháp lợi nhuận để xác định giá trị doanh nghiệp. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp do cơ quan có thẩm quyền công bố là mức giá tối thiểu để tổ chức bán đấu thầu cổ phần. Từ cơ chế định giá doanh nghiệp thông qua đấu thầu, tiến tới niêm yết cổ phần qua thị trường chứng khoán. + Phương pháp đấu thầu (thoả thuận) Vì phần lớn các doanh nghiệp cổ phần hoá của Thành phố Hà nội hiện nay không đủ tiêu chuẩn để niêm yết trên thị trường chứng khoán trong khi đó chương trình cổ phần hoá trong thời gian tới sẽ được tiến hành rộng rãi với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Với cơ chế định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây tổn thất về chi phí và kéo dài thời gian. Vì vậy, việc áp dụng phương pháp đấu thầu để định giá doanh nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá do cơ chế định giá đơn giản hơn. Phương pháp đấu thầu nên áp dụng thí điểm cho doanh nghiệp nhỏ, chủ yếu cần nhà đầu tư tham gia đấu thầu phải có trình độ về quản lý, có tiềm lực tài chính để đầu tư vào công nghệ mới, có phương án khả thi nhằm khôi phục và phát triển doanh nghiệp, có biện pháp thu hút người lao động vào làm việc. Để áp dụng phương pháp này đòi hỏi phải có sự chuẩn bị thông tin đầy đủ về doanh nghiệp, có sự tiếp thị rộng rãi để thu hút các nhà đầu tư dự thầu, có tiêu chí đánh giá đơn thầu công khai rõ ràng. Việc đánh giá, chọn lọc các nhà đầu tư cần tiến hành trên tinh thần cạnh tranh, tránh thiên vị nhằm lựa chọn các nhà đầu tư quan tâm và có năng lực. + Phương pháp bán cổ phần qua thị trường chứng khoán (niêm yết) Phương pháp này áp dụng cho những doanh nghiệp khó định giá. Để áp dụng phương pháp này, những người tham gia phải được cung cấp thông tin về thực trạng tài chính của doanh nghiệp như tình trạng tài sản, công nợ... để họ có thể đánh giá tài sản và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Việc bán cổ phần phải được tiến hành một cách chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên, hình thức niêm yết có thể không thu hút được những nhà đầu tư chiến lược có kỹ năng quản lý và tiềm lực tài chính do số cổ phần bán ra bị phân tán. Việc định giá doanh nghiệp nên giao cho một tổ chức trung gian thích hợp như công ty chứng khoán, công ty tài chính, công ty kiểm toán, trung tâm thẩm định giá và các tổ chức có chức năng định giá để tạo điều kiện nâng cao uy tín, tính công khai minh bạch và nâng giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hóa. 3.2.3 Tăng khả năng tạo vốn cho công ty cổ phần Việc phát triển doanh nghiệp luôn gắn liền với nhu cầu tăng vốn. Sự thành công về lâu dài của doanh nghiệp cổ phần hoá phụ thuộc vào tính sẵn có của nguồn vốn đầu tư. Nhà nước cần xác định cơ chế chính sách thuận lợi cho công ty cổ phần tăng khả năng tạo nguồn tài chính. Bên cạnh đó, Thành phố Hà nội cần hỗ trợ các doanh nghiệp sau cổ phần hoá thông qua các lớp đào tạo, các tài liệu chuyên môn để nâng cao khả năng quản lý điều hành doanh nghiệp cổ phần hoá đặc biệt là về lĩnh vực phát hành cổ phiếu, phát hành trái phiếu. Vay vốn ngân hàng và chuyển quỹ dự trữ vào vốn công ty - trên cơ sở từng bước nâng cao nhận thức và tự các doanh nghiệp quyết định lúc nào thì dùng các hình thức huy động vốn trên cơ sở cân đối nhu cầu và chi phí thực hiện. Xét về chi phí thì phát hành cổ phiếu sẽ tốn kém nhiều chi phí nhất tiếp theo mới là trái phiếu, vay vốn ngân hàng và chuyển quỹ dự trữ vào vốn của công ty - Thành phố Hà nội căn cứ vào cơ chế chính sách của Nhà nước nới rộng các quy định theo thực tế của địa phương để DNNN trên địa bàn sử dụng linh hoạt các hình thức này. Về vay ngân hàng: trong hoạt động kinh doanh một mặt doanh nghiệp phải thanh toán qua ngân hàng, mặt khác bù đắp sự thiếu vốn đặc biệt vốn lưu động thì sử dụng tín dụng ngân hàng là giải pháp tối ưu. Uỷ ban nhân dân Thành phố cần có công văn trình Chính phủ ban hành cơ chế chính sách hỗ trợ cho các ngân hàng để tăng khả năng cung cấp tín dụng của ngân hàng giúp doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiếp cận các dịch vụ tín dụng ngân hàng một cách dễ dàng hơn. Về phát hành cổ phiếu, tuy mất nhiều chi phí và phải trả cổ tức hàng năm nhưng vốn điều lệ là nguồn vốn cơ bản đầu tiên để công ty có thể hoạt động. Vốn thu hút được từ việc phát hành cổ phiếu thường để đầu tư dài hạn: nhà xưởng, vật kiến trúc máy móc và thiết bị công nghệ - khi hoạt động công ty cổ phần có thể tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Mục tiêu của cổ phần hóa DNNN đã được quy định rõ tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP: “Nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản… và huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp”. Mục tiêu này phù hợp với chủ trương phát triển TTCK ở nước ta cũng như Trung tâm Giao dịch Chứng khoán tại Hà nội. Có thể nói quá trình cổ phần hóa DNNN và việc phát triển TTCK có mối quan hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Cổ phần hóa DNNN hay nói cách khác là quá trình chuyển đổi sở hữu từ một chủ (Nhà nước) sang đa thành phần sở hữu (cổ phần) đã tạo ra cổ phiếu. Đó là công cụ tài chính quan trọng và là hàng hóa của TTCK. Có hàng hóa cổ phiếu (chứng khoán) thì mới có chợ cổ phiếu (TTCK), và có nhiều hàng thì chợ mới đông vui, tấp nập. Ngược lại, khi có chợ chứng khoán người mua mới cảm thấy yên tâm rằng mình đang cầm trong tay công cụ tài chính có khả năng chuyển đổi (chuyển hóa ra tiền) bất cứ lúc nào. Như vậy, TTCK hoạt động đã tạo ra tính thanh khoản và khả mại cho các chứng khoán, tạo một cơ chế chuyển nhượng linh hoạt cho người nắm giữ chứng khoán khi muốn chuyển hóa để thay đổi hình thức đầu tư một cách nhanh chóng và dễ dàng. Cổ phần hóa doanh nghiệp gắn với niêm yết trên TTCK sẽ tạo ra một kênh huy động vốn rất lớn, tiếp cận được với cơ chế quản lý và điều hành doanh nghiệp tiên tiến. Khi thực hiện niêm yết các doanh nghiệp không những có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài mà còn tăng tính cạnh trạnh của doanh nghiệp và mở rộng cơ hội kinh doanh cho các công ty. Tuy nhiên các công ty cổ phần hiện nay chủ yếu huy động vốn trong phạm vi hẹp và bị nhiều hạn chế bởi quy định hiện hành. Theo quy định của Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ những điều kiện chủ yếu để niêm yết trên TTCK là phải “kinh doanh có lãi trong 2 năm gần nhất và mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng”. Nhà nước (uỷ ban chứng khoán Nhà nước) nên hạ bớt tiêu chuẩn khi doanh nghiệp tham gia TTCK, phát hành chứng khoán ra công chúng. Điều kiện kinh doanh có lãi trong 2 năm gần nhất nên giữ nhưng điều kiện mức vốn điều lệ tối thiểu 10 tỷ đồng không nên giữ mà có thể hạ thấp hơn vì phần lớn các DNNN của Thành phố Hà nội cổ phần hoá đều có quy mô vốn nhỏ, mặt khác vấn đề quan trọng là hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp còn quy mô doanh nghiệp không phải là yếu tố hàng đầu khi đánh giá doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hoàn thiện cơ chế chính sách về kinh doanh chứng khoán và TTCK: Giảm bớt can thiệp hành chính trực tiếp của Nhà nước vào thị trường, chuyển sang quản lý giám sát thị trường từ xa theo các tiêu chuẩn, chuẩn mực đối với từng hình thức phát hành và sản phẩm trên TTCK (cổ phiếu, trái phiếu, phát hành trực tiếp ra công chúng….); Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng; Gắn việc phát hành cổ phiếu với niêm yết công khai trên thị trường. Theo đó, cổ phần phát hành lần đầu được bán theo giá thị trường xác định thông qua đấu giá. Cổ phần được bán công khai tại doanh nghiệp cổ phần hóa, trung tâm giao dịch chứng khoán hoặc các tổ chức tài chính trung gian. Đặc biệt, các doanh nghiệp có quy mô vốn điều lệ trên 15 tỷ đồng, hoạt động SXKD của năm trước khi cổ phần hóa có lãi thì sau khi bán cổ phần lần đầu phải thực hiện ngay các thủ tục niêm yết trên TTCK; Phát triển hệ thống trung gian tài chính trên thị trường như các công ty chứng khoán, các Quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham giá đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp bán ra trên TTCK. 3.2.4 Ưu đãi về tài chính đối với doanh nghiệp cổ phần hóa Khi chuyển sang cổ phần hoá doanh nghiệp sẽ gặp phải một số khó khăn nhất định, cần sự giúp đỡ của Nhà nước. Uỷ ban nhân dân Thành phố nghiên cứu đề nghị Bộ Tài chính xem xét, trình Chính phủ ban hành chính sách thật sự ưu đãi cho doanh nghiệp cổ phần hoá để khơi dậy nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp, của cán bộ công nhân viên chức. Những nội dung cần ưu đãi như: + Nới rộng khoảng thời gian giảm mức thuế thu nhập. + Miễn thuế cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, nộp thuế là trách nhiệm và quyền lợi của mỗi đơn vị, mỗi cá nhân. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp và người dân chưa hiểu biết nhiều, chưa tin tưởng vào mô hình cổ phần hóa. Mặt khác, môi trường kinh doanh hiện nay chưa tạo được sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế nên các doanh nghiệp sau cổ phần hóa thấy bị thiệt thòi so với khi còn là DNNN. Bên cạnh đó, dù đã lường trước nhiều tình huống khó khăn, nhưng trong điều kiện còn quá mới mẻ, công ty cổ phần cũng không tránh khỏi những khó khăn ban đầu về vốn, lao động và thị trường, đặc biệt là các doanh nghiệp của Thành phố Hà nội phần lớn là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Vì thế, sự hỗ trợ của Nhà nước sau cổ phần hóa là rất cần thiết, tạo đà cho doanh nghiệp phát triển. Chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp cổ phần hóa, nhất là ưu đãi về miễn giảm thuế như hiện nay chưa khuyến khích các DNNN đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả hăng hái thực hiện cổ phần hóa. Vì thế, trong thời gian tới, Nhà nước cần điều chỉnh các chính sách cho hưởng mức ưu đãi cao hơn đối với các DNNN tiến hành cổ phần hóa như: nới rộng khoảng thời gian giảm mức thuế thu nhập, miễn thuế cho phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư. Từng bước xóa bỏ sự phân biệt trong hệ thống cơ chế, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp cổ phần hóa và DNNN, nhất là cơ chế vay vốn Ngân hàng, xuất nhập khẩu. 3.2.5 Ưu đãi về tài chính đối với người lao động Để khuyến khích người lao động hưởng ứng tích cực tiến trình cổ phần hoá Nhà nước cần phải có chính sách ưu đãi đối với người lao động. Thứ nhất: tạo điều kiện thuận lợi để người lao động được hưởng đúng và đủ chế độ ưu đãi theo quy định của Nghị định số 64/2002/NĐ-CP. Thứ hai: thu hẹp chênh lệch phần được mua ưu đãi giữa doanh nghiệp có nhiều vốn Nhà nước với doanh nghiệp có ít vốn Nhà nước bằng cách quy định tỷ lệ giá trị cổ phần được mua với giá ưu đãi tùy theo từng doanh nghiệp. Thứ ba: tiêu chí chung người lao động nghèo trong doanh nghiệp đưa ra là không hợp lý vì thu nhập của người lao động trong các DNNN ở các ngành, các khu vực khác nhau rất lớn, mặt khác giá cả giữa các vùng cũng rất khác nhau. Vì vậy cần quy định cụ thề mức nghèo cho từng vùng. Thứ tư: nâng tỷ lệ giá ưu đã cho người lao động từ 30% như hiện nay lên 40% giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá. 3.2.6 Chế độ xử lý tài chính đối với DNNN thực hiện cổ phần hoá Chế độ hiện hành đã quy định việc xử lý các khoản nợ không có khả năng thu hồi, các khoản lỗ của doanh nghiệp, các khoản tổn thất tài sản bằng giải pháp tính vào chi phí của doanh nghiệp khi lập báo cáo tài chính tại thời điểm thực hiện cổ phần hoá (nếu doanh nghiệp có lãi) hoặc được trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đối với các tài sản hư hỏng, kém, mất phẩm chất, không cần dùng được loại ra khỏi giá trị doanh nghiệp khi cổ phần hoá (thực chất cũng là trừ vào phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp). Tuy nhiên, cách xử lý này chỉ phù hợp với doanh nghiệp kinh doanh có lãi hoặc những doanh nghiệp có số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp lớn hơn các khoản phải xử lý. Trường hợp các khoản phải xử lý bằng hoặc lớn hơn số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thì tiến trình cổ phần hoá có thể không tiếp tục được. Vì vậy, cần bổ sung cơ chế để xử lý các trường hợp này. Cụ thể là: - Sử dụng Quỹ Hỗ trợ cổ phần hoá để cung cấp bổ sung cho doanh nghiệp đủ để cân bằng các khoản cần xử lý hoặc để hỗ trợ doanh nghiệp trả các khoản nợ phải trả đến hạn tạo sự cân bằng giữa vốn và các khoản phải xử lý. Biện pháp xử lý này hạn chế bởi số vốn của Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá có hạn và chỉ giải quyết được đến mức cân bằng giữa các khoản phải xử lý với số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. 3.4 Kiến nghị 3.4.1 Ban hành kịp thời các văn bản tháo gỡ vướng mắc về cổ phần hoá Trong quá trình cổ phần hoá xuất hiện rất nhiều vướng mắc cần xử lý. Cách xử lý vướng mắc có thể áp dụng chung cho nhiều doanh nghiệp. Khi không có hướng dẫn xử lý thống nhất, nhiều doanh nghiệp lúng túng, mất thời gian xử lý, và việc xử lý khác nhau giữa các doanh nghiệp làm thời gian cổ phần hoá một doanh nghiệp bị kéo dài hoặc thậm chí có doanh nghiệp không cổ phần hoá được. Những vướng mắc cần xử lý kịp thời và được thông báo rộng rãi và cũng cần thống nhất đầu mối xử lý giải quyết các vấn đề sau cổ phần hoá. Cần ban hành chế độ đấu giá mua cổ phần trong DNNN. Ngày 19/6/2002 Chính phủ ban hành Nghị định 64/2002/NĐ-CP thay thế Nghị định 44/1998/NĐ-CP/1998/NĐ-CP. Có thể khẳng định rằng, Nghị định 64/2002/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn liên quan đã tạo một hành lang pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp trong 2 năm qua. Cụ thể: bổ sung các quy định để xử lý những tồn tại về tài chính trước khi cổ phần hóa, sửa đổi phương pháp xác định giá trị theo hướng gắn với thị trường, mở rộng quyền mua cổ phần lần đầu của các nhà đầu tư, bổ sung quy định về việc bán cổ phần phát hành lần đầu,….. Sau khi Nghị định này được ban hành, việc sắp xếp, đổi mới DNNN đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng Nghi định 64/2002/NĐ-CP có nhiều vấn đề còn bất cập. Để đẩy nhanh tiến trình sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp theo Nghị quyết hội nghị TW 3, chỉ thị số 11/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ cần khẩn trương ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung cơ chế cổ phần hóa, sắp xếp doanh nghiệp tại Nghị định 64/2002/NĐ-CP nhằm tăng cường tính khả thi của các giải pháp tài chính, phù hợp với Luật DNNN mới ban hành, nâng cao tính công khai, minh bạch, tính chuyên nghiệp trong hoạt động định giá, hạn chế sự can thiệp của cơ quan hành chính Nhà nước, phù hợp với cơ chế bán cổ phần mới, khắc phục những bất cập trong công tác định giá, bán cổ phần… Cùng với việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 64/2002/NĐ-CP cần ban hành đồng bộ hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện. Khẩn trương ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về phương pháp xác định giá trị lợi thế vị trí địa lý vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa. Đối với doanh nghiệp có địa điểm ở vị trí đắc địa hoặc có nhiều diện tích nhà xưởng đất đai có nhiều khả năng biến thành hàng hóa bất động sản thì thực hiện theo 2 phương án: Thứ nhất là: sẽ không chuyển thành tài sản của Công ty cổ phần mà bán đấu giá tài sản, tiền thu từ bán đấu giá sẽ sử dụng để giải quyết thỏa đáng chính sách chế độ cho người lao động, số còn lại bổ sung vào Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa DNNN để hỗ trợ đầu tư vốn cho những dự án phát triển SXKD được phê duyệt. Số lao động làm việc tại những địa điểm bị Thành phố thu hồi bán đấu giá có nguyện vọng được tiếp tục làm việc thì sẽ được sắp xếp, bố trí nơi làm việc thích hợp cho họ. Thứ hai là: nếu thực hiện cổ phần hóa ở những doanh nghiệp này thực hiện cơ chế riêng: vốn điều lệ của doanh nghiệp sau khi trừ đi cổ phần được mua theo giá ưu đãi của người lao động thì Nhà nước sẽ nắm giữ số cổ phần còn lại này, hoặc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối (trên 50%) của công ty cổ phần mặc dù không nằm trong danh mục tại Quyết định 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ. Sau một thời gian (có thể 3 - 5 năm) cho phép bán hết hay một phần số vốn này theo giá thị trường qua tổ chức tài chính trung gian. Việc này sẽ hạn chế được tiêu cực trong việc mua bán cổ phiếu, Nhà nước sẽ thu được khoản thu lớn về chênh lệch giá cổ phiếu (nếu có). 3.4.2 Nhà nước sớm sửa đổi tiêu chí, danh mục phân loại sắp xếp DNNN và quy định về tỷ lệ vốn Nhà nước tham gia trong cơ cấu vốn phát hành lần đầu tại Quyết định 58/2002/QĐ-TTg và Chỉ thị 01/2003/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ theo nguyên tắc: Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn ở những doanh nghiệp hoạt động trực tiếp trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng và một số doanh nghiệp có vị trí đặc biệt trong một số ngành quan trọng của nền kinh tế như hệ thống truyền tải điện, trục thông tin, các doanh nghiệp hoạt động có tính chất đặc thù Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Các doanh nghiệp còn lại đề có thể thực hiện cổ phần hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu kể cả một số Tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành như điện lực, luyện kim, ngân hàng, bảo hiểm…. Có nghĩa là thu hẹp đối tượng Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối theo hướng không căn cứ vào quy mô vốn mà căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh hoặc vị trí của doanh nghiệp đối với sự phát triển của vùng, lãnh thổ. Bỏ quy định tỷ lệ cổ phần Nhà nước nắm giữ để tạo cơ chế linh hoạt trong hoạt động quản lý và đầu tư vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp và tạo điều kiện khuyến khích doanh nghiệp huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài để mở rộng SXKD. 3.4.3 Ban hành Pháp lệnh riêng cho Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp Pháp lệnh cần quy định rõ quyền và nghĩa vụ của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng để nó có thể hoạt động một cách tự chủ, độc lập: - Thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật DNNN. - Bãi bỏ Quyết định 109/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để bổ sung các quyền và nghĩa vụ của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp và Pháp lệnh nhằm tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Ngoài ra Pháp lệnh này cần phải có: + Được quyền phát mại một phần tài sản như tòa án vì hiện nay thủ tục này rất khó khăn vì đối với tài sản cầm cố được Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp mua lại thì công ty không được chủ động bán mà phải thông qua Tòa án và nếu được chấp nhận thì phải bán dưới sợ giám sát của khách nợ. Chính những thủ tục phiền hà này đã làm cho hoạt động của công ty không được linh hoạt. Quyền này tạo điều kiện cho công ty nhanh chóng thu hồi số vốn bỏ ra để tiếp tục kinh doanh một cách có hiệu quả. + Được quyền tham gia cơ cấu lại doanh nghiệp khi doanh nghiệp có dấu hiệu khó khăn về khả năng thanh toán trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt bằng cách bán những tài sản tồn đọng không sử dụng để tránh lãng phí nguồn tài sản, tư vấn hỗ trợ quá trình bình thường hóa doanh nghiệp đó. + Được phép chuyển nợ thành vốn góp đối với những khoản nợ của con nợ là công ty cổ phần hoặc DNNN chuyển đổi thành công ty cổ phần. + Công ty Mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp được yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp những thông tin, dữ liệu có liên quan mà không cần phải xin phép cơ quan chủ quản để thực hiện các hoạt động mua bán nợ và tài sản tồn đọng. Quyền này sẽ tạo cơ sở để hai bên có thể xác định được giá trị thu hồi của các khoản nợ và tài sản tồn đọng được giao dịch và đàm phán giá mua bán cũng như xây dựng phương án xử lý. 3.4.4 Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa dễ dàng tiếp cận với việc vay vốn ngân hàng, thực hiện chế độ hỗ trợ một phần lãi suất tiền vay đối với những công ty cổ phần vay vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Giải quyết dứt điểm việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho các công ty cổ phần làm tài sản thế chấp khi vay vốn ngân hàng. 3.4.5 Ban hành cơ chế cho phép các Công ty cổ phần niêm yết trên TTCK được hưởng chính sách ưu đãi thuế trong thời hạn dài hơn, có thể là 5 năm chứ không phải là 2 năm như hiện nay nhằm tác động khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp tham gia niêm yết trên TTCK. 3.4.6 Thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp cổ phần hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho các Công ty cổ phần sinh hoạt trao đổi thông tin, chế độ chính sách, là nơi để các doanh nghiệp phản ánh các khó khăn vướng mắc của mình với Thành phố. 3.4.7 Nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện mở rộng các loại hình dịch vụ phục vụ cho quá trình cổ phần hoá DNNN. Ngoài dịch vụ kiểm toán đã có cần tăng cường hơn nữa, cần mở rộng thêm các loại hình dịch vụ khác như dịch vụ tư vấn pháp lý để giúp cho doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá cũng như khi đăng ký là công ty cổ phần theo đúng quy định pháp luật, giảm bớt thời gian, thủ tục phiền hà. Cần tổ chức và phát triển dịch vụ lập phương án hoạt động kinh doanh, phương án cổ phần hoá giúp cho doanh nghiệp thực hiện có hiệu quả. Dịch vụ xác định giá trị doanh nghiệp sẽ giúp cho quá trình xác định giá trị đơn giản, rút ngắn được thời gian và giá trị được xác định có thể sát, đúng hơn với giá thị trường. Đối với những doanh nghiệp tham gia niêm yết trên TTCK cần có dịch vụ giúp cho doanh nghiệp chuẩn bị các thủ tục để được niêm yết. Những doanh nghiệp không đủ điều kiện niêm yết cần được sự giúp đỡ của tổ chức tài chính đứng ra bán đấu giá số cổ phần cần bán. Ngoài ra, dịch vụ đào tạo, đào tạo lại việc làm cho người lao động cần thiết phải được đẩy mạnh để giúp đỡ cho các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá đào tạo, đào tạo lại số lao động dôi dư. Các hoạt động dịch vụ như trên sẽ giúp cho doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hoá được nhanh gọn, hiệu quả cao. 3.4.8 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho mọi người thấy rõ mục đích của việc cổ phần hóa, sắp xếp DNNN một cách có hiệu quả. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức không những chỉ cho các cán bộ nhân viên mà cho cả người lao động trong các DNNN và công chúng. Những giải pháp cụ thể cho việc nâng cao nhận thức này có thể bao gồm: - Thiết lập những chuyên mục trên các phương tiện thông tin đại chúng về cổ phần hóa, giải đáp những băn khoăn, thắc mắc của công chúng, của doanh nghiệp về các vấn đề cụ thể của cổ phần hoá, nhất là từ phía lao động trong các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá cũng như từ phía công chúng. - Cần tổ chức các khoá tập huấn cho Ban lãnh đạo DNNN nhằm nâng cao nhận thức của họ đối với cổ phần hoá, nâng cao năng lực tổ chức thực hiện cổ phần hoá. Như đã nêu, cổ phần hoá gắn liền với sự ra đời, tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, tuyệt đại đa số các giám đốc DNNN chưa hiểu biết nhiều về công ty cổ phần. Trong quá trình cổ phần hoá và sau cổ phần hoá, các cán bộ lãnh đạo của Công ty lúng túng rất nhiều khi đối mặt với những vấn đề tưởng chừng là đơn giản như cổ động, bỏ phiếu bầu Hội đồng quản trị, phân chia cổ tức.v.v… Vì vậy, trong chương trình tập huấn cần chú trọng nội dung về công ty cổ phần, về TTCK. Thực hiện việc công bố thường xuyên, định kỳ trên các phương tiện thông tin đại chúng về kết quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá để củng cố lòng tin của công chúng vào triển vọng và tác động kinh tế, xã hội to lớn của giải pháp này. Kết luận Luận văn đã nghiên cứu thực trạng tài chính, tác động của các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện quá trình cải cách DNNN trên địa bàn Hà nội nói riêng và trên cả nước nói chung. Luận văn đã hệ thống hóa các vấn đề cơ bản lý luận về chính sách tài chính trong cổ phần hóa DNNN của Chính phủ. Luận văn đã chuẩn hóa các khái niệm về DNNN, tài chính doanh nghiệp, tình hình cổ phần hóa của các doanh nghiệp và phần nào trình bày được cơ sở khoa học và thực tiễn cũng như đánh giá những tác động của chính sách tài chính trong quá trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội. “Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN trên địa bàn Hà nội” là phương pháp luận nghiên cứu đánh giá đi từ việc cập nhật các sự kiện, đến sử dụng phương pháp quy nạp, lôgíc, toàn diện để đưa ra những nhận xét đánh giá quá trình thực hiện các chính sách tài chính về cổ phần hóa DNNN. Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện chính sách của Chính phủ đối với việc cổ phần hóa DNNN. Đề tài trên là một vần đề lớn, cần có sự nghiên cứu một cách nghiêm túc và thấu đáo để đề ra phương hướng hoàn thiện chính sách tài chính trong cổ phần hóa DNNN. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, việc cổ phần hóa DNNN trong quá trình cải cách doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả SXKD, phát huy tính tự chủ của doanh nghiệp, tăng cường năng lực cạnh tranh của DNNN đang được đặt ra bức thiết trong bối cảnh chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Do đó, việc không ngừng hoàn thiện các cơ chế chính sách về cổ phần hóa DNNN sẽ là một vấn đề cần được sự quan tâm thích đáng của Đảng và Chính phủ trong những năm tới. Tác giả mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, đồng nghiệp và các bạn quan tâm đến sự nghiệp phát triển DNNN, giúp tác giả tiếp tục hoàn thiện luận văn ở mức độ cao hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32747.doc
Tài liệu liên quan