Trên cơ sở nghiên cứu tình hình phát triển của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong những năm vừa qua và những cơ hội, thách thức đặt ra cho ngành Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO, ta thấy có những đặc điểm nổi bật sau :
Qua hơn 10 năm đổi mới, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã có những thành công nhất định. Tốc độ tăng trưởng qua các năm cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bắt đầu tạo được uy tín đối với khách hàng trong nước. Tuy nhiên, so với các nước các nước xuất khẩu Dệt May trong khu vực thì có thể thấy rằng nội lực của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam còn yếu, đặc biệt là trình độ về thiết bị, công nghệ của ngành Dệt. Sự yếu kém trong ngành Dệt đã làm cho ngành May phải nhập khẩu cao những nguyên liệu đầu vào, đồng thời không tạo ra được những mối liên kết kinh tế mạnh thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
78 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1516 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO từ nay đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
88
Nguồn : Tổng công ty Dệt May Việt Nam
Qua bảng số liệu ta thấy: Từ năm 1991-1998 nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tất cả các nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt May. Nguồn vốn này thường là vốn vay ngắn hạn với lãi suất cao. Mặc dù vậy, nguồn vốn này vẫn bị đánh giá là quá nhỏ so với tiềm năng của nó. Hiện nay, các doanh nghiệp đang rất cần vốn để đầu tư chiều sâu và đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Cơ hội đầu tư đang mở rộng, nhiều ngân hàng sẵn sàng cho các doanh nghiệp vay vốn nếu họ có phương án đầu tư tốt. Phạm vi các doanh nghiệp vay vốn không chỉ bó hẹp ở các ngân hàng thương mại trong nước mà cả ở các ngân hàng thương mại nước ngoài. Do đó, các doanh nghiệp cần tranh thủ tối đa nguồn vốn này.
Đối với nguồn khấu hao và vốn tự bổ sung đang có chiều hướng tăng. Các doanh nghiệp đã dần thích nghi với môi trường cạnh tranh, đã bắt đầu làm ăn có hiệu quả, có tích luỹ, tỷ lệ tái đầu tư trong mỗi doanh nghiệp ngày càng tăng. Tuy nhiên, nguồn vốn này chiếm tỷ trọng không lớn lắm trong tổng vốn đầu tư.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có xu hướng giảm từ 257,6 tỷ đồng năm 1999 xuống còn 171,2 tỷ đồng năm 2000 và 127 tỷ đồng năm 2001. Tuy nhiên, đến năm 2002 nguồn vốn nay tăng mạnh 2500 tỷ đồng do Nhà nước hỗ trợ tín dụng rất mạnh cho các dự án đầu tư xây dựng các cụm công nghiệp mới cùng với những dự án đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu.
Vốn ngân sách chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng vốn đầu tư cho Dệt May. Lượng vốn này chủ yếu là hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường... Do vậy, các doanh nghiệp phải tự cố gắng, không nên trông chờ ỷ lại vào nguồn vốn này.
Vốn ODA thường không ổn định qua các năm. Nguồn vốn này chủ yếu là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, hỗ trợ giáo dục đào tạo và cải thiện môi trường làm việc chung trong ngành.
Đối với nguồn vốn từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lượng vốn đầu tư ngày càng tăng góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh ngay trong nước. Một số doanh nghiệp tư nhân đã khẳng định được chỗ đứng của mình ở thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế như gấm Thái Tuấn đã rất năng động trong việc tổ chức sản xuất, tìm đầu ra cho sản phẩm và góp phần đáng kể vào sự phát triển chung của ngành.
2.2.2.Các chính sách tài chính khác của nhà nước đối ngành Dệt May
2.2.2.1.Chính sách về ưu đãi
Nhà nước dự kiến đầu tư tập trung vào 10 cụm công nghiệp Dệt (phía Bắc 4 cụm, miền Trung 2 cụm, phía Nam 4 cụm)
Hà Nội
Hải phòng
Hải Dương
Thanh Hoá
Đà nẵng
Bình Định
Hồ Chí Minh
Đồng Nai
Long An
Cần Thơ
Mỗi cụm gồm
Nhà máy kéo sơị 2-3 vạn cọc 3200 tấn /năm
Nhà máy dệt vải mộc cho áo sơ mi10 triệu mét/ năm
Nhà máy dệt vải mộc cho quần âu 10 triệu mét/ năm
Nhà máy nhuộm, hoàn tất cho vải bóng 25 triệu mét /năm
Nhà máy nhuộm, hoàn tất vải tổng hợp 1500 tấn/ năm.
Nhu cầu đầu tư cho một cụm
Diện tích mặt bằng 160000 m2
Tiêu thụ điện 9286 KW
Tiêu thụ nước 8719 m3/ ngày đêm
Tiêu thụ nhiên liệu 8259 tấn/ năm
Nhu cầu vốn đầu tư cho một cụm
Vốn thiết bị 1165,6 tỷ
Vốn xây lắp 119 tỷ
Vốn lưu động 491,8 tỷ
Vốn dự phòng và vốn khác : 2441 tỷ
2.2.2.2.Về Thương mại - Hải quan
- Ưu tiên phân bổ Quota cho các đơn hàng FOB sử dụng nguyên liệu nội địa. Hiệp hội Dệt May Việt Nam được tham gia vào việc thảo luận xây dựng các quy chế phân bổ Quota (hiện tại, các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Dệt May Việt Nam đã đạt chỉ tiêu xuất khẩu theo phương thức FOB trong tổng số kim ngạch xuất khẩu như sau: Dệt là 70%, may là 30%)
- Đặc biệt trong thời điểm hàng Dệt May Việt Nam hiện vẫn phải chịu thuế suất nhập khẩu vào Mỹ cao. Chính phủ khuyến khích vào các doanh nghiệp khẩn trương thiết lập kênh tiêu thụ xuất khẩu vào Mỹ bằng cách trợ giá 15% trên số ngoại tệ thực thu từ xuất khẩu vào Mỹ cho đến khi được hưởng chế độ quan hệ Thương mại bình thường(NTR)
- Cho phép Viện kinh tế kỹ thuật Dệt May được phối hợp cùng với cơ quan hải quan và cơ quan thuế để áp dụng mã thuế phù hợp đối với các loại nguyên phụ liệu, vật tư nhập khẩu cho ngành Dệt May.
2.3 Đánh giá chung về những giải pháp tài chính và tác động của chúng với sự phát triển ngành Công nghiệp Dệt May
2.3.1.Những tác động tích cực
Ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng, góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc của đất nước và tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả hơn trong những năm tới.
Ngành công nghiệp Dệt May là một trong những ngành góp phần quan trọng vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 10 : Tình hình xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam 1996-2002
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
KNXK (triệuUSD)
1150
1350
1352
1747
1892
1975
2710
Tỷtrọng CNDệt May(%)
15,92
15,04
14,5
15,17
13,1
14,5
15,7
Nguồn : Tổng cục hải quan
Mặc dù tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu không tăng nhiều qua các năm nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Ngành liên tục tăng. Trong những năm vừa qua kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam liên tục tăng không ngừng chỉ đứng sau dầu thô. Nếu như năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May là 850 triệu USD thì đến năm 2002 con số đó đã là 2710 triệu USD ).
Sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt May còn có tác động tích cực trong việc giải quyết việc làm và thu nhập cho người lao động, qua đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và ổn định xã hội. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện tính ưu việt của ngành này khi kinh tế đang còn kém phát triển, khả năng đầu tư giải quyết việc làm còn hạn chế. Sự phát triển của ngành công nghiệp Dệt May còn có tác động tích cực đến sự phát triển của một số ngành khác, chẳng hạn như việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở một số vùng, nâng cao mức sống và thu nhập cho người dân, góp phần tích cực vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
2.3.2. Những bất cập và cản trở của các giải pháp tài chính với sự phát triển công nghiệp Dệt May
Thứ nhất, tuy có yêu cầu phát triển mạnh, nhưng đến nay ngành Dệt May Việt Nam vẫn còn nhỏ bé so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Bảng dưới đây chứng minh cho điều này.
Bảng 11 : Ngành Dệt May Việt Nam so với các nước trong khu vực:
Chỉ tiêu
Số lượng sợi
(nghìn Tấn)
Số lượng vải
(Triệu m2)
Sản phẩm may
(Triệu SP)
KNXK (Tr.USD)
Trung Quốc
5.300
21.000
10.000
50.000
ấn Độ
2.100
23.000
12500
Thái Lan
1.000
4.200
2.500
6.500
Inđônêxia
1.800
4.400
3.000
8.000
Việt Nam
85
304
400
2.000
Nguồn: Tổng Công ty Dệt May Việt Nam 2001
Những số liệu trên cho thấy trong lĩnh vực Dệt May, Việt Nam chưa phải là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với các nước khác, cả trên thị trường thế giới và trong thị trường nội địa.
ở thị trường trong nước: Năm 1999 ngành Dệt cả nước chưa huy động được hết 40% năng lực sản xuất, do đó dệt được gần 317 triệu mét vải các loại phục vụ cho tiêu dùng trong nước là chủ yếu. Ngành May phải nhập hơn 200 triệu mét vải và gần 10 triệu sản phẩm quần áo may sẵn từ nước ngoài để tiêu thụ tại thị trường trong nước. Vải sản xuất trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả so với vải nhập ngoại, nhất là vải nhập từ Trung Quốc. Hàng Dệt của ta sản xuất không chỉ không tiêu thụ được ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém và giá bán cao hơn hàng Trung Quốc.
ở thị trường xuất khẩu: Kim ngạch buôn bán hàng Dệt May trên thị trường thế giới hàng năm lên tới 300 - 350 tỷ USD (chiếm hơn 6% tổng kim ngạch mậu dịch toàn thế giới) và có mức tăng trưởng khá cao (trên 6%/năm). Thị trường buôn bán sản phẩm Dệt May trên thế giới tập trung ở 3 trung tâm lớn là : Châu á, Tây Âu, Bắc Mỹ. Như vậy tiềm năng của thị trường xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam hiện nay rất lớn. ở thị trường có hạn ngạch như khối EU, trong thời gian qua Việt Nam được ưu đãi khá nhiều trong việc cấp hạn ngạch cho hàng Dệt May. Tuy nhiên, so với các nước ASEAN và Trung Quốc, khả năng cạnh tranh của hàng Dệt May Việt Nam ở các thị trường lớn vẫn thua kém. Số lượng hạn ngạch EU ưu đãi cho Việt Nam chỉ bằng 20% của các nước ASEAN, 5% của Trung Quốc. Số mặt hàng Dệt May bị hạn chế xuất vào thị trường EU của Thái Lan là 20 nhóm, Singapore là 8 nhóm và Việt Nam là 28 nhóm. Sản phẩm Dệt May của ta xuất khẩu vào EU tập trung ở một số sản phẩm truyền thống dễ làm như áo sơ mi, quần âu, áo jắckét…những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao đang còn bị bỏ trống hạn ngạch được cấp. ở khu vực thị trường tiêu thụ hàng Dệt May Châu á tập trung ở Nhật Bản, Hàn Quốc, hàng Dệt May Việt Nam đang có uy tín cao nhưng cũng đang bị cạnh tranh gay gắt và mất dần lợi thế bởi hàng Dệt May của các nước ASEAN đang phục hồi sau khủng hoảng tiền tệ Châu á vừa qua. ở thị trường Mỹ và Bắc Mỹ, hàng Dệt May xuất khẩu của Việt Nam đang còn rất nhỏ bé và gặp nhiều khó khăn trong quá trình thâm nhập vì trước đây chúng ta chưa được hưởng quy chế tối Hiệp quốc do Chính phủ quy định. Những điểm hạn chế cơ bản của hàng Dệt May Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu là : khâu nắm bắt thông tin về thị trường thế giới còn quá ít, sơ sài, lạc hậu, công tác nghiên cứu mẫu mốt thời trang hàng dệt, may, thị hiếu của khách hàng các nước chưa được quan tâm thích đáng. Sản phẩm vải dệt của Việt Nam chưa đủ tiêu chuẩn về chất lượng làm nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu theo yêu cầu của khách hàng nước ngoài. Ngành may phát triển theo phương thức may gia công là chủ yếu, nguyên liệu vải và các phụ liệu đều phải nhập từ nước ngoài. Mẫu mã sản phẩm dệt, may còn đơn điệu chủ yếu là những sản phẩm dễ làm và có yêu cầu kỹ thuật trung bình, thấp.
Thứ hai: Việc xuất khẩu bằng phương thức gia công của các doanh nghiệp may chiếm tỷ trọng lớn, cùng với việc không bảo đảm nguyên phụ liệu trong nước đã gây ảnh hưởng khá nặng nề tới hiệu quả xuất khẩu.
Phương thức gia công quốc tế phù hợp với trình độ phát triển thấp của các doanh nghiệp Dệt May vì nó bảo đảm việc làm khi ngành này chưa có đủ khả năng thâm nhập trực tiếp vào thị trường thế giới và khi khả năng về vốn và trình độ công nghệ còn hạn hẹp. Song đây lại không thể là phương thức có thể duy trì lâu dài trong chiến lược của ngành Dệt May bởi lẽ nó sẽ gây nên tình trạng phụ thuộc, bất ổn định trong sản xuất kinh doanh, trong đầu tư của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế không được bảo đảm. Hơn nữa, ở trong nước vẫn chưa có đủ khả năng bảo đảm nguyên liệu và phụ liệu cho sản xuất mà chủ yếu các nguyên liệu và phụ liệu này phải nhập khẩu từ bên ngoài nên hiệu quả sản xuất thấp.
Trong khi ngành Dệt May chủ yếu sử dụng nguyên liệu nhập khẩu, thì kim ngạch xuất khẩu vải lại rất khiêm tốn: Nếu tính cả xuất khẩu vải bông, sản phẩm dệt kim và các loại khăn thì kim ngạch chỉ chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May. Trong ngành may, phương thức gia công chiếm tỷ trọng lớn và vì hầu hết các loại nguyên phụ liệu đều phải nhập khẩu nên giá trị gia tăng nhỏ, thông thường chỉ khoảng 20 - 25%.
Thứ ba: Trình độ công nghệ của các doạnh nghiệp lạc hậu và mất cân đối là yếu tố quan trọng làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
Trong ngành dệt chỉ có 15% máy mới ở các doanh nghiệp Nhà Nước. Tuy ở các doanh nghiệp may xuất khẩu, máy móc hiện đại đã được trang bị để thay thế máy móc thế hệ cũ nhưng sản phẩm của các doanh nghiệp dệt không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp may xuất khẩu.
Chương III
hoàn thiện các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 trước yêu cầu hội nhập WTO.
3.1. Quan điểm và mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Dệt May trước yêu cầu hội nhập WTO.
Ngành Công nghiệp Dệt May là một trong những ngành công nghiệp trọng tâm trong tiến trình hội nhập WTO của nước ta. Kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai chỉ sau dầu thô. Quyết định số 55 /2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ về chiến lược phát triển và một số cơ chế, chính sách hỗ trợ việc thực hiện chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May đến năm 2010, với những quan điểm và mục tiêu như sau:
3.1.1 Quan điểm phát triển.
Đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong quá trình đẩy nhanh phát triển Công nghiệp Dệt May. Có như vậy mới huy động mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài, kể cả nguồn lực quốc tế cho bước phát triển đột biến ttrong thời gian ngắn với ngành Công nghiệp Dệt May. Coi trọng các nguồn lực từ nhân dân lao động. Đồng thời đẩy mạnh kêu gọi đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực Dệt May, kể cả đầu tư nước ngoài cho phát triển cây bông và trồng dâu nuôi tằm.
Coi trọng phát triển chiều rộng đi đôi với củng cố chiều sâu. Đây là bước đi quan trọng trong giai đoạn đến năm 2010. Công nghiệp dệt cần phát triển thành từng cụm, nằm trong khu công nghiệp nhằm tiết kiệm vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, giải quyết vấn đề xử lý nước thải tập trung lành mạnh trong môi trường sinh thái. Có như vậy mới có thể hình thành các doanh nghiệp mới vừa và nhỏ. Trên cơ sở đó tạo ra các cơ hội để đưa công nghệ hiện đại vào sản xuất và áp dụng mô hình quản lý, điều hành tiên tiến của thế giới vào Công nghiệp Dệt May.
Công nghiệp May cần phát triển rộng khắp, tận đến vùng nông thôn miền núi nhằm huy động mọi nguồn vốn có trong nhân dân và trong mọi thành phần kinh tế. Có như vậy mới thu hút được mọi nguồn lực lao động khắp trên mọi miền đất nước, đồng thời thực hiện thành công chủ trương Công nghiệp hoá - hiện đại hoá vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa của Đảng và Nhà nước. Mặt khác, lấy May xuất khẩu để kích thích phát triển vải và các vùng nguyên phụ liệu chất lượng cao, nghĩa là thúc đẩy ngành Dệt.
Tập trung phát triển các vùng nguyên liệu như bông tơ tằm và sơ sợi tổng hợp cùng việc phát triển công nghiệp hoá dầu. Cho đến nay, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 90% nhu cầu nguyên liệu ban đầu cho ngành Dệt May. Việc nâng cao tỷ lệ giá trị xuất xứ nội địa trên sản phẩm Dệt May vừa là yêu cầu bắt buộc của thị trường nhập khẩu, vừa là môi trường của chiến lược phát triển ngành Dệt May nhằm nâng cao phần lợi nhuận cho ngành và cho đất nước.
Phát triển nhanh bằng việc đầu tư các công nghệ mới nhất, với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về sản lượng và chất lượng. Mặt khác, cần coi trọng và tận dụng các loại thiết bị đã qua sử dụng với công nghệ tiên tiến từ các nước công nghiệp hoá, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây.
Đầu tư phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá cao theo loại công nghệ. Có như vậy mới tạo điều bước nhảy vọt về chấ lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải chuyên sâu và làm chủ được một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng mới có chất lượng cao. Xây dựng mối quan hệ cung cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại
3.1.2. Mục tiêu phát triển
3.1.2.1.Mục tiêu tổng quát .
Phát triển ngành Công nghiệp Dệt May thành một trong những ngành trọng điểm, mũi nhọn, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước tạo ra việc làm cho xã hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc trong khu vực và trên thế giới.
3.1.2.2.Mục tiêu cụ thể
Bảng 12: Các chỉ tiêu cụ thể của ngành Dệt May
năm 2005- 2010
Các chỉ tiêu
Đơn vị
Năm 2005
Năm 2010
1. KNXK
Triệu USD
4000-5000
8000-9000
2. Sử dụng LĐ
Nghìn LĐ
2500-3000
4000-4500
5. Các sản phẩm chủ yếu:
Bông sợi
Xơ sợi tổng hợp
Sợi các loại
Vải lụa
Sản phẩm dệt Kim
Sản phẩm May
Nghìn tấn
Nghìn tấn
Nghìn tấn
Triệu mét
Triệu SP
Triệu SP
30
60
150
1000
300
7800
80
4. Tỷ lệ sử dụng NPL nội địa trên sản phẩm Dệt May xuất khẩu
%
>50
>75
5. Nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành
Tổng vốn đầu tư
+ Vốn cho đầu tư mới
+ Vốn đầu tư cho chiều sâu
Tỷ đồng
Tỷ đồng
Tỷ đồng
35000
23200
11800
30000
20000
10000
Nguồn : Cục tài chính doanh nghiệp
3.2. Một số vấn đề đặt ra cho ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập vào WTO.
3.2.1. Sự ra đời và mục tiêu của WTO.
Trước nhu cầu đẩy mạnh tự do thương mại hoá sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, 50 quốc gia đã trao đổi và xây dựng một kế hoạch thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO). Mục đích thành lập ITO là để giải quyết vấn đề hợp tác kinh tế trong hệ thống Breeton Woods bên cạnh Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) . ITO cuối cùng không ra đời do điều lệ của nó không được một số nước phê chuẩn. Tuy vậy 23 trong 50 nước tham gia đàm phán ký kết Hiệp đinh chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) bắt đầu có hiệu lực từ tháng 1 năm 1948.
GATT chủ yếu điều chỉnh các lĩnh vực thương mại hàng hoá , và đã tạo ra hệ thống thương mại đa phương vững mạnh, thịnh vượng ngày càng tự do hoá thông qua tám vòng đàm phán, vòng đàm phán thứ tám của GATT, vòng Urguay kéo dài từ năm 1986-1994, diễn ra trong tình hình thương mại thế giới trở nên phức tạp. Xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới đang diễn ra; thương mại dịch vụ - lúc đó không trong phạm vi điều chỉnh của GATT- trở thành vấn đề ngày càng được quan tâm; đầu tư quốc tế đã phát triển. Với sự tham gia của 123 nước, vòng đàm phán đã thảo luận tất cả các lĩnh vực thương mại và dẫn đến sự ra đời của WTO với một hệ thống Hiệp định mới mang lại sự đổi mới lớn nhất trong hệ thống thương mại thế giới. Từ năm 1995, WTO không chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá mà cả thương mại dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Như vậy, WTO là tổ chức kế thừa của GATT với các mục tiêu cơ bản sau:
Tự do hoá thương mại bằng cách xoá bỏ các loại rào cản và đảm bảo tính minh bạch, dự đoán được trong chính sách thương mại của các nước thành viên
Làm diễn đàn để các thành viên đàm phán ký kết các Hiệp địnhThương mại
Giải quyết tranh chấp thương mại.
3.2.2. Lộ trình cắt giảm thuế quan với một số mặt hàng Dệt May Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO.
3.2.2.1. Hiệp định ưu đãi thuế quan phổ cập CEFT trong hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).
CEFT là một thoả thuận giữa các nước thành viên ASEAN trong việc giảm thuế quan thương mại giữa các nước thành viên ASEAN xuống còn từ 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và các rào cản phi thuế quan khác trong vòng 10 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành ngày 1/1/2003.
Mặt hàng Dệt May bắt đầu thực hiện CEFT từ năm 1998. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: Đối với vải sợi
Các loại tơ sợi, vải dệt có lớp phủ tráng được đưu vào thực hiện CEFT năm 1997 và bắt đầu thưc hiện từ năm 1998. Trong số các mặt hàng này chỉ có khoảng 1/3 số mặt hàng là những mặt hàng có thuế suất 0-5%.
Năm được thực hiện CEFT 1997, những mặt hàng có thuế suất t= 20%
Các loại sơ sợi tổng hợp hoặc sợi pha, lưới, vải các loại, lịch trình cắt giảm được chia thành 3 bước:
Bước 1: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1999, chủ yếu là các mặt hàng sợi đơn đã có thuế suất 5% nên thực tế ta không phải giảm thuế.
Bước 2: Thực hiện CEFT từ năm 2000, chủ yếu là các mặt hàng sợi xoắn có thuế suất 10%, một số mặt hàng sản xuất trong nước có khả năng phát triển nên tuy thuế suất là 5% nhưng cũng lùi lại bước này để tránh khả năng tăng thuế lên trên 5% trước khi giảm
Năm đưa vào thực hiện CEFT 2000 những mặt hàng có thuế suất là 10%.
Bước 3: Đưa vào thực hiện CEFT từ năm 2002( trừ một số vải dệt, bông thì lùi tới cuối năm cuối cùng để bảo hộ tối đa ) gồm những mặt hàng có thuế từ 30% trở lên
Năm đưa vào thực hiện CEFT 2002 những mặt hàng có thuế từ 30-40%.
Bảng 13:Bước giảm dự kiến:
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
t=20%
15
10
10
5
t=10%
10
10
10
10
10
5
5
t=30%-40%
40
30
30
20
20
20
10
10
5
5
Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư
Thứ hai , đối với mặt hàng may:
Được đưa vào thực hiện CEFT từ năm 1998 những mặt hàng có thuế từ 50%.
Bước giảm dự kiến:
Bảng 14 : Biểu thuế đối với những mặt hàng Dệt May có thuế suất là t = 50%
Năm
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
t(%)
40
30
20
20
20
15
15
10
5
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3.2.2.2. Hiệp định hàng Dệt May ký kết giữa Việt Nam với EU giai đoạn 2000 - 2005:
Đối với thị trường EU thì hiện Việt nam đang được hướng thuế MFN nhưng phải chịu hạn ngạch. Từ nay đến năm 2004, EU vẫn duy trì hạn ngạch hàng Dệt May đối với các nước là thành viên của WTO, nên việc Việt Nam chưa ra nhập WTO không ảnh hưởng gì đến xuất khẩu hàng Dệt May sang thị trường EU.
Tuy nhiên từ năm 2005 trở đi, khi EU bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May cho các nước là thành viên của WTO mà vẫn giữ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May Việt Nam thì sẽ rất bất lợi cho Việt Nam. Do vậy hiệp định hàng Dệt May ký kết giữa Việt Nam và EU giai đoạn 2000 - 2005 về lịch trình giảm thuế EU là rất quan trọng.
Cụ thể như sau:
Bảng 15: Biểu thuế EU dành cho ngành Dệt May giai đoạn
2000 - 2006
Mặt hàng
Thuế (%)
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
1.Sợi bông
20
18 - 10
17 - 10
16 - 5
15 - 5
12 - 5
5
2.Vải
40
38
34
30
24
20
5
3.May mặc
50
46 - 20
42 - 20
38 - 20
34 - 15
30 - 10
5
Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư
3.2.2.3. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ:
Hàng may mặc của Việt Nam hiện chưa bị Mỹ áp dụng hạn ngạch, hơn nữa lại hưởng thuế suất MFN. Trong thời gian này, Mỹ đang yêu cầu ký hiệp định song phương về hàng Dệt May với Việt Nam để áp dụng hạn ngạch đối vơí hàng Dệt May Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ. Do đó, Việt Nam cần tập trung xuất khẩu đến mức tối đa hàng Dệt May Việt Nam sang Mỹ để tạo cơ sở ấn định hạn ngạch thuận lợi.
Bảng 16 : Biểu thuế Mỹ dành ngành Dệt May khi có MFN và khi không có MFN
Tên hàng
Thuế tối huệ quốc (MFN)
Thuế không MFN
Vải dệt
7 – 20%
45 – 113,5%
Hàng may mặc, dệt kim
3,6 – 20%
45 – 90%
Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư
3.2.3.Yêu cầu đặt ra đối ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập WTO
3.2.3.1.Ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam hội nhập vào WTO với những cơ hội và thách thức.
A/Những cơ hội ngành Dệt May Việt Nam khi tham hội nhập WTO.
Thứ nhất, xuất phát từ những lợi thế so sánh về lao động và thị trường thì ngành Dệt May Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nhanh và đóng góp nhiều hơn cho đất nước, do đó Chính Phủ cần quan tâm đầu tư phát triển.
Thứ hai, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đã được thực hiện từ cuối năm 2001, trong đó hàng Dệt May Việt Nam chưa bị khống chế hạn ngạch sẽ có điều kiện phát triển mạnh vào thị trường Mỹ.
Thứ ba, xu thế chuyển dịch các đơn đặt hàng Dệt May từ những nước kém an toàn( Pakistan, Inđonêxia…) sang Việt Nam ngày càng rõ nét.
B/Những thách thức của ngành Công nghiệp Dệt May trong tiến trình hội nhập WTO.
Thứ nhất, sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp kém, kể cả chất lượng, hiệu quả và giá cả.
Thứ hai, việc bãi bỏ hạn ngạch cho các nước WTO và việc Trung Quốc gia nhập WTO sẽ làm cho Việt Nam (hiện chưa là thành viên của WTO) mất đi lợi thế cạnh tranh về xuất khẩu.
Thứ ba, việc thực hiện lộ trình cắt giảm thuế AFTA/CEFT sẽ làm hàng Dệt May Việt Nam mất lợi thế bảo hộ tại thị trường nội địa.
3.2.3.2. Những yêu cầu đặt ra đối ngành Công nghiệp Dệt May.
Từ những thuận lợi, khó khăn nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Dệt May nói riêng, trong tiến trình hội nhập vào WTO, để đảm bảo cho ngành Dệt May đứng vững và phát triển, toàn ngành Dệt May nói chung và bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng cần phải thực hiện yêu cầu chủ yếu sau:
Xác định chiến lược thị trường với sản phẩm mũi nhọn và thị phần cụ thể để từ đó tập trung mọi nguồn lực hướng vào thị phần tiêu thụ.
Tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm từ 20-30% so với hiện nay
Đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ nhằm tăng chất lượng sản phẩm, tăng tỷ lệ sản phẩm công nghệ cao, có giá trị tăng cao, đồng thời đầu tư cho công tác quản lý phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000, ISO 14000, SA 8000.
Đầu tư mạnh vào công tác sáng tác mẫu mốt, thiết kế sản phẩm từng bước xây dựng uy tín nhãn mác và thương hiệu cho doanh nghiệp
Tổ chức tiếp thị một cách mạnh mẽ, sử dụng tối đa các hình thức tiếp thị và công cụ điện tử trong kinh doanh
Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài và Việt kiều có tiềm lực, có kinh nghiệm trong việc sử dụng công nghệ mới, sản xuất sản phẩm mới, liên kết sử dụng nhãn mác có uy tín trên thị trường và hợp tác đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
Hợp tác phân công hợp lý trong đầu tư và sản xuất, hạn chế tình trạng trùng lặp, dư thừa và cạnh tranh trong nội bộ; đồng thời hợp tác chặt chẽ trong hoạt động quảng bá chung để xây hình ảnh một ngành Dệt May Việt Nam có đẳng cấp chất lượng uy tín cạnh tranh.
Tổ chức tốt việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chuyên ngành Dệt May.
3.2.4. Hoàn thiện các giải pháp tài chính cho phát triển ngành Công nghiệp Dệt May đến năm 2010.
3.2.4.1. Định hướng phát triển ngành Dệt May đến năm 2010 trước yêu cầu của hội nhập.
Thứ nhất: Đối ngành Dệt.
Bao gồm: sản xuất nguyên liệu dệt, sợi, dệt, in nhuộm hoàn tất:
Kinh tế nhà nước làm nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo, khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia phát triển lĩnh vực này.
Đầu tư phát triển phải gắn với bảo vệ môi trường, quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp sợi, dệt, in, nhuộm hoàn tất ở xa trung tâm đô thị lớn.
Tập trung đầu tư trang thiết bị hiện đại, công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến, trình độ chuyên môn cao. Chú trọng công tác thiết kế các sản phẩm dệt mới, nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín nhãn mác hàng Dệt May Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Tổ chức lại hệ thống tổ chức quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo bước nhảy vọt về chất lượng, tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt, nhằm đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.
Thứ hai: Đối ngành May
Đẩy mạnh cổ phần hoá những doanh nghiệp may mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là các vùng đông dân cư nhiều lao động.
Đẩy mạnh công tác thiết kế mẫu thời trang, kiểu dáng sản phẩm may.Tập trung đầu tư, cải tiến hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng, áp dụng các biện pháp nhằm tăng năng suất lao động giảm giá thành sản phẩm và nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm may Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thứ ba: Đẩy mạnh đầu tư phát triển các vùng trồng bông dâu tằm, các loại cây có xơ, tơ nhân tạo, các loại nguyên liệu, phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm cung cấp cho ngành Dệt May nhằm tiến tới tự túc phần lớn nguyên liệu, vật liệu, phụ liệu thay thế nhập khẩu.
Thứ tư: Khuyến khích mọi hình thức đầu tư kể cả đầu tư nươc ngoài để phát triển cơ khí Dệt May, tiến tới cung cấp phụ tùng, lắp ráp và chế tạo thiết bị Dệt May trong nước.
3.2.4.2.Các giải pháp, chính sách tài chính nhằm phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2010.
A/Giải pháp, chính sách về vốn
Thứ nhất: Giải pháp của ngành Dệt May Việt Nam
Để triển khai kế hoạch theo mục tiêu đã nêu ở trên, ngành công nghiệp Dệt May cần thiết phải huy động một lượng vốn khoảng 35.000 tỷ đồng từ năm 2000 cho đến năm 2005 và 30.000 tỷ đồng cho giai đoạn 2006 - 2010. Đây là số vốn lớn, các doanh nghiệp Dệt May cần phải nghiên cứu và áp dụng các giải pháp huy động vốn sau đây:
Cần huy động mọi nguồn lực tự có trong công ty như khấu hao tài sản cơ bản, vốn có được bằng cách bán, khoán, cho thuê các tài sản không dùng đến, giải phóng hàng tồn kho, huy động từ cán bộ công nhân viên,…
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, cần nghiên cứu khả năng phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích và kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm huy động mọi nguồn vốn từ bên ngoài và của mọi thành phần kinh tế.
Xin phép được sử dụng vốn ngân sách cho các chương trình quy hoạch như quy hoạch vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm hoặc quy hoạch các cụm công nghiệp Dệt.
Xin phép sử dụng vốn ngân sách cho các trường đào tạo, Viện nghiên cứu chuyên ngành được bình đẳng như đối với các loại hình trường, Viện do Chính phủ hoặc các Bộ quản lý.
Xin phép sử dụng vốn ODA hoặc đặc biệt ưu đãi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng hoặc đầu tư xử lý nước thải, hoặc hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp khó khăn về tài chính.
Vay tín dụng trả chậm từ các nhà cung cấp, từ các tổ chức tài chính, ngân hàng, thuê tài chính, vay thương mại,.. Đối với các hình thức này, doanh nghiệp Dệt May rất cần được bảo lãnh của Chính phủ.
Thứ hai: Chính sách hỗ trợ của Nhà nước
Yếu kém nhất của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay là ngành Dệt phát triển chậm, không cung ứng được vải cho ngành May xuất khẩu đã và đang phát triển khá nhanh. Ngành May vì vậy phải làm gia công là chủ yếu. Hiệu quả xuất khẩu của ngành Dệt May còn hạn chế do hầu hết vải còn phải nhập từ nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng này là đa số các doanh nghiệp Dệt không tập trung đủ vốn để đáp ứng cho nhu cầu vốn đầu tư khá lớn với thời gian thu hồi vốn lâu. Do đó, Nhà nước đã đưa ra chính sách tạo nguồn vốn đầu tư cho ngành Dệt, cụ thể như sau
Cho phép sử dụng vốn Ngân sách nhà nước cho các dự án quy hoạch vùng nguyên liệu, quy hoạch cụm công nghiệp dệt, cho xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp dệt mới, cho đào tạo và tất cả mọi hoạt động của các viện và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành.
Cho phép sử dụng vốn ODA không thêm điều kiện vay lại và một phần vốn đối ứng đặc biệt ưu đãi (vay 12-15 năm, 2-3 năm ân hạn, lãi suất 1% năm) cho các chương trình phát triển cây bông, trồng dâu nuôi tằm, đầu tư các công trình xử lý nước thải và giải quyết vốn đối ứng xây dựng hạ tầng cho các cụm công nghiệp Dệt mới.
Có cơ chế cho vay ưu đãi để tăng tốc phát triển ngành dệt trong 10 năm từ 2001-2010: 50% tín dụng ưu đãi thời gian vay 12-15 năm, 2-3 năm ân hạn, lãi suất 3,5-4% năm; 50% tín dụng thương mại thông thường. Tổng công ty Dệt may Việt Nam xin 50% tổng mức đầu tư cho 5 năm 2001-2005, khoảng 6000 tỷ đồng từ nguồn tín dụng ưu đãi của Chính phủ. 50% còn lại khoảng 6200 tỷ đồng Tổng công ty sẽ vay thương mại tại ngân hàng trong và ngoài nước
Đề nghị Chính Phủ bảo lãnh cho các doanh nghệp nhà nước được mua trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc các tổ chức tài chính nước ngoài.
DNNN kinh doanh phát triển nhanh cần được cấp vốn lưu động phù hợp tốc độ phát triển.
Đối các dự án mới, được cấp 30% vốn từ Ngân sách nhà nước và cấp đủ vốn lưu động theo qui định.
Doanh nghiệp ngành Dệt may sử dụng lợi tức để tái đầu tư thì được miễn thuế lợi tức tương đương với phần đầu tư. Đối với Tổng công ty Dệt may Việt Nam, đề nghị Chính Phủ cho để lại phần thu sử dụng vốn và thuế thu nhập doanh nghiệp trong 10 năm 2001-2010 để đầu tư, coi như vốn ngân sách cấp (khoảng 1000tỷ đồng)
áp dụng thuế suất VAT 5% cho các sản phẩm sợi và vải trong vòng 5 năm (2001-2005). Miễn thuế VAT đối với nguyên phụ liệu, hoá chất, thuốc nhuộm, chất trợ nhập khẩu .
B/Giải pháp, chính sách về đầu tư
Thứ nhất: Các giải pháp của ngành Dệt May
Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất. Có đầu tư thì có đổi mới. Không đầu tư thì không bao giờ có đổi mới. Do vậy, chủ các doanh nghiệp Dệt May cần sớm xây dựng các dự án đầu tư, trình các cấp có thầm quyền phê duyệt. Các dự án đã được phê cần được triển khai thực hiện bởi nhiều đối tác khác nhau, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ngay cả việc kêu gọi đầu tư nước ngoài cũng cần các dự án đã được phê duyệt. Do đó, ngành Dệt May cần đầu tư vào các lĩnh vực sau:
Đầu tư phát triển nguyên phụ liệu cho Ngành, đặc biệt là cây bông vải, các hoá chất, thuốc nhuộm, chất trợ cho ngành Dệt, phụ liệu cho ngành May, các sản phẩm Dệt sử dụng cho các ngành công nghiệp, các sản phẩm Dệt hiện chưa sản xuất được như xơ sợi tổng hợp, vải không dệt, vải địa kỹ thuật…
Hiện nay, phần lớn nguyên phụ liệu của ngành Dệt May như bông, xơ sợi tổng hợp, hoá chất thuốc nhuộm, vải chất lượng cao may hàng xuất khẩu, phụ liệu cho ngành May vẫn phải nhập khẩu. Nếu các nguyên phụ liệu này được trong nước cung cấp thì ngành Dệt May có thể chủ động hơn trong sản xuất kinh doanh, giá hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao hơn, thời gian giao hàng sớm hơn và nhờ vậy ngành Dệt May sẽ thu được lợi nhuận cao hơn, tăng trưởng nhanh hơn. Mặt khác, Việt Nam hoàn toàn có điều kiện để xây dựng và phát triển vùng trồng bông vì hiện hầu hết các vùng có khả năng trồng bông lại đang trồng trọt các loại cây khác, do đó lượng bông cung cấp quá ít ỏi (khoảng 10% nhu cầu nhập khẩu) không đủ để hỗ trợ cho ngành Dệt, khiến ngành Dệt Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nhập khẩu.
Để giải quyết được khó khăn này, cần mở rộng diện tích trồng bông và tăng năng suất cây bông hạt. Mở rộng diện tích trồng bông bằng cách: trồng xen canh với các loại cây khác; khuyến khích nông dân chuyển sang trồng bông vì đầu tư vào việc này thấp, nhanh được thu hoạch, được ngành Dệt May lo đầu ra, hơn nữa lại có sự trợ giúp của Chính phủ để ổn định sản xuất, ổn định lợi nhuận cho nông dân; hình thành các khu trồng bông lớn, năng suất cao, chất lượng tốt, áp dụng mô hình trang trại trồng bông; quy hoạch một số vùng trồng bông mới như Sơn La - Thanh Hoá, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung. Tăng năng suất cây bông hạt bằng cách: lai tạo các giống bông cho năng suất cao; áp dụng các phương pháp phòng trừ sâu bệnh mới, hiệu quả cao hơn; đầu tư vào hệ thống bảo quản để tránh bông bị hư hỏng do thời tiết.
Đầu tư phát triển ngành Dệt tập trung theo cụm, nằm trong khu công nghiệp nhằm giảm chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết xử lý môi trường tập trung.
Ngành Dệt là ngành cần có vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp; yêu cầu lao động có trình độ cao; nhu cầu đầu vào và hạ tầng cơ sở lớn; quản lý lại khó khăn; giải quyết xử lý môi trường tập trung.
Hiện nay, ngành Dệt đang có chủ trương đầu tư tập trung vào 10 cụm công nghiệp Dệt (phía Bắc 5 cụm, miền Trung 1 cụm và phía Nam 4 cụm) với nhu cầu vốn đầu tư cho mỗi cụm là 2.018 tỷ đồng và đầu tư toàn cụm ước tính: 1.684 tỷ đồng, thời gian thu hồi vốn là 10 năm. Bao gồm :
Cụm công nghiệp Dệt May Phố Nối B, tỉnh Hưng Yên.
Cụm công nghiệp Dệt May Thái Bình.
Cụm công nghiệp Dệt May Hải Phòng.
Cụm công nghiệp Dệt May tại KCN Lễ Môn, Thanh Hoá.
Cụm công nghiệp Dệt May Đà Nẵng.
Cụm công nghiệp Dệt May Nhơn Trạch, Đồng Nai.
Cụm công nghiệp Dệt May Bình An, Bình Dương.
Cụm công nghiệp Dệt May Bến Lức, Long An.
Cụm công nghiệp Dệt May Cần Thơ.
Cụm công nghiệp Dệt May Tiên Sơn, Bắc Ninh.
Đầu tư phát triển ngành May rộng khắp đến tận các vùng thị trấn, những khu dân cư nhằm kết hợp phát triển ngành với công nghiệp hoá ở nông thôn.
Khác với ngành Dệt, ngành May chỉ cần vốn đầu tư ít với công nghệ đơn giản; lao động giản đơn; sử dụng lao động nhiều (có thể từ nông thôn và miền núi).
Hiện các sản phẩm May có chất lượng cao, xuất khẩu FOB được tập trung may tại các thành phố lớn (Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng). Các sản phẩm may trung bình và cấp thấp , là các đơn vị vệ tinh, may da công tập trung may chủ yếu ở các tỉnh, huyện và xã.
Để có thể xây dựng và triển khai nhanh các dự án đầu tư, cần khuyến khích và mở rộng việc sử dụng các công ty tư vấn chuyên ngành hoặc thành lập các trung tâm tư vấn Dệt May có đủ chuyên gia Dệt May, chuyên gia thiết bị động lực, chuyên gia xây dựng và chuyên gia tài chính nhằm giúp các doanh nghiệp xây dựng nhanh các dự án đầu tư.
Thứ hai:Chính sách hỗ trợ của Nhà nước
Đối 10 cụm công nghiệp mới
+ Chính phủ chỉ đạo các tỉnh thành phố cấp đất ( không thu phí )để xây dựng các cụm công nghiệp nói trên
+Các tỉnh thành phố phối hợp Công ty Dệt May xây dựng hạ tầng và quy hoạch sản xuất ở các cụm này
+ Đối các doanh nghiệp mới thành lập trong các cụm này được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư cụ thể là;
a/ Giảm 50% phí hạ tầng trong 5 năm đầu
b/ Miễn thuế thu nhập trong 5 năm đầu và được giảm 50% trong năm tiếp theo
- Kêu gọi rộng rãi đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May. Riêng đối ngành may xuất khẩu, cần ưu tiên trong việc thành lập các liên doanh may xuất khẩu vào thị tường Mỹ và cam kết Quota vào Mỹ tương ưng với số thực xuất trong các năm được hưởng chế độ phi Quota. Đề nghị Chính Phủ nên tham khảo ý kiến của Hiệp hội Dệt May Việt Nam về chính sách với đầu tư nưóc ngoài vào ngành Dệt May.
- Đối các dự án của VINATEX, đề nghị Chính Phủ uỷ quyền cho HĐQT Tổng công ty Dệt May được xem xét quyết định về việc mua máy đã qua sử dụng. Quyền cho HĐQT chủ định thầu và duyệt giá đối với các thiết bị mua thẳng từ nhà chế tạo.
C/.Giải pháp về thị trường.
Thứ nhất: Đối với thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu là thị trường chủ yếu thu hút sự phát triển của ngành Dệt May Việt Nam vì nhu cầu về hàng Dệt May trên thế giới là rất lớn. Thông qua thị trường xuất khẩu, ngành công nghiệp Dệt May mới phát huy được hết lợi thế so sánh của mình so với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực. Hơn nữa, xu thế hội nhập vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã thúc đẩy ngành Dệt May nâng cao khả năng xuất khẩu vào thị trường các nước trên thế giới.
Thiết bị hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản, Hoa kỳ…vì đây là thị trường xuất khẩu hàng Dệt May chủ yếu của Việt Nam. Để làm được việc này, Hiệp hội Dệt May, Tổng công ty Dệt May Việt Nam và các doanh nghiệp Dệt May cần tự mình đưa ra các cơ chế nhằm khai thác các nguồn lực thương mại khác nhau hiện đã có mặt tại các thị trường trọng yếu đó.
Hệ thống thương mại cần thiết phải đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần coi trọng thiết lập nhiều đầu mối tại một thị trường, đồng thời chú trọng thiết lập nhiều đầu mối trên sân nhà của mình, đặc biệt là sử dụng các công ty luật của nước ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn cho hoạt động xuất khẩu.
Mỗi doanh nghiệp sản xuất Dệt May hoặc thương mại dịch vụ Dệt May cần coi trọng việc thiết kế mặt hàng với mẫu mốt phù hợp, đặc biệt là xây dựng cho bản thân mỗi đơn vị có phong cách và nhãn hiệu lâu dài và các bộ sưu tập theo từng mùa như phương pháp kinh doanh của các tập đoàn phân phối hàng Dệt May lớn trên thế giới.
Cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu truyền thông của công ty không những ở thị trường nội địa mà ngay tại các thị trường xuất khẩu. Để làm đựợc điều này, các đơn vị Dệt May cần có biện pháp sử dụng và khai thác tốt các phương tiện thông tin hiện đại hiện nay, đặc biệt là phương pháp kinh doanh trên mạng.
Thứ hai: Đối với thị trường trong nước
Hiện nay, các sản phẩm May ở trong nước tiêu thụ chậm, sức cạnh tranh kém cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả so với vải nhập ngoại, nhất là vải nhập từ Trung Quốc. Hàng Dệt của ta sản xuất ra không chỉ không tiêu thụ được ở các thành phố lớn mà ngay cả tại vùng nông thôn cũng tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém và giá bán cao hơn so với Trung Quốc.
Với nhu cầu sử dụng thu nhập vào việc may mặc trong nước ngày càng phát triển và đa dạng. Trong khi đó lại bị cạnh tranh khốc liệt với thị trường Trung Quốc nên để giữ vững thị trường trong nước, ngành Dệt May Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Coi trọng việc quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thống của các công ty Dệt May nhằm nâng cao uy tín của công ty. Tìm các biện pháp để tiết kiệm các chi phí sản xuất, từ đó giảm giá sản phẩm.
D/Giải pháp về điều hành và quản lý nguồn nhân lực
Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp Dệt May. Đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, cần có biện pháp để phát huy hiệu quả của chế độ " một thủ trưởng" theo tiêu chuẩn quản lý ISO 9000. Về việc này, cần có sự thống nhất thực hiện về phía các cấp, các ngành, từ trong Đảng đến cơ quan và các tổ chức quần chúng khác. Giám đốc phải là người chịu trách nhiệm mọi mặt trong công ty, do vậy giám đốc cần được trao các quyền cần thiết để thực thi nhiệm vụ của mình theo đúng luật định.
Các doanh nghiệp Dệt May cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mang thông tin điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý xí nghiệp.
Để có thể tiếp nhận các công nghệ phù hợp, nhập các loại thiết bị tương thích thì việc củng cố các viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật chuyên ngành là rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm đảm bảo cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả.
Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới sau khi đã qua khoá đầu tư ngắn hạn về quản lý và kỹ thuật.
Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải quyết khó khăn cho một số công ty hoặc điều hành các dự án mới.
Xây dựng cơ chế ứng xử mới cả về tinh thần và vật chất nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho phát triển ngành Dệt May.
Củng cố Viện nghiên cứu chuyên ngành nhằm mục đích thay mặt cho ngành Dệt May phối hợp với các cơ quan hải quan, cơ quan thuế thực hiện các thủ tục hải quan và thuế sao cho có lợi đối với các sản phẩm Dệt May Việt Nam.
Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng vọt về cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới.
E/ Giải pháp về thuế
Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư, giảm thuế để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành sản xuất nguyên liệu, phụ liệu cho ngành Dệt May trong giai đoạn 2001-2010. Đặc biệt là nghiên cứu giống bông, sơ chế bông hạt, các nhà máy ươm tơ, sản xuất các loại xơ sợi tổng hợp, tạo lập cơ sở ổn định bền vững về nguyên liệu cho ngành Dệt May phát triển. Ưu tiên cho ngành Dệt May vay vốn đầu tư ưu đãi của Nhà nước với lãi suất 3%/năm và thời hạn vay từ 10-12 năm để tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị cho ngành Dệt May, đặc biệt là đổi mới thiết bị ở các nhà dệt nhuộm lớn như nhà máy Dệt 8-3, Dệt Nam Định có hệ thống thiết bị dệt, nhuộm đã quá lạc hậu.
Giảm thuế nhập khẩu các loại nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May mà trong nước hiện chưa sản xuất được để giảm chi phí về nguyên phụ liệu. Ngành Dệt May là ngành kinh tế xã hội phát triển để giải quyết việc làm là chủ yếu. Vì vậy, cần giảm hoặc miễn hẳn thuế VAT từ 10% cho ngành sợi dệt xuống mức 4-5% để tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cho các sản phẩm Dệt May
F/Giải pháp, chính sách hỗ trợ của Nhà nước nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành
Thứ nhất: Giải pháp của ngành Dệt May Việt Nam
Việc thực hiện CEFT/AFTA đang là vấn đề thách thức đối với ngành Dệt May Việt Nam. Hơn nữa, nguy cơ hàng Dệt May của các nước ASEAN xâm nhập vào thị trường nội địa sẽ xảy ra khi Việt Nam hội nhập khu vực (AFTA) và thế giới (WTO). Theo lộ trình CEFT/AFTA, hàng Dệt May đang được bảo hộ ở mức cao (thuế suất nhập khẩu sợi 20%, vải 40%, hàng may mặc 50%) sẽ giảm dần tới mức 5% từ năm 2006. Còn theo Hiệp định ATC/WTO, đến cuối năm 2001 các nước phát triển sẽ bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu hàng Dệt May từ các nước thành viên. Như vậy hầu hết đối thủ cạnh tranh xuất khẩu Dệt May lớn sẽ có lợi thế hơn. Trong khi đó ngành Dệt May Việt Nam lại có trình độ công nghệ thấp, năng lực sản xuất, chủng loại, mẫu mã hàng hoá nghèo nàn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Sản phẩm May chủ yếu ở dạng gia công, giá trị gia tăng chỉ khoảng 15-20%. Khả năng thương mại và thương hiệu còn nhiều hạn chế, do vậy tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế vẫn thấp.
Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành Dệt May Việt Nam trong thời kỳ hội nhập cần tăng cường khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp và của toàn Ngành.
Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả đến thị trường trong nước và nước ngoài, thị trường hiện có và thị trường tiềm năng của ngành Dệt May Việt Nam. Đối với thị trường xuất khẩu, cần chú ý tiếp cận nhanh đến thị trường Mỹ vì đây là thị trường xuất khẩu có nhiều tiềm năng của ngành Dệt May Việt Nam trong những năm tới. Chú ý khôi phục sớm thị trường xuất khẩu truyền thống SNG và Đông Âu. Các doanh nghiệp ngành Dệt May Việt Nam cần có những giải pháp thích hợp để lựa chọn và tìm ra những ngách thị trường xuất khẩu mà Việt Nam có những lợi thế nhất định trong cạnh tranh ở các khu vực thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường trong nước, cần đặc biệt quan tâm đến các thị trường nông thôn, vùng sâu, vùng xa, các đối tượng có thu nhập và nhu cầu cụ thể khác nhau về hàng Dệt May như học sinh, công nhân. Kết hợp việc nghiên cứu mẫu, mốt, sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng.
Xây dựng hoàn thiện chiến lược sản phẩm đúng đắn cho từng sản phẩm Dệt May, xác định được những sản phẩm mũi nhọn và có thế mạnh trong cạnh tranh ở từng thị trường và của mỗi doanh nghiệp. Đa dạng hoá các mặt hàng sản phẩm Dệt May để đáp ứng tối đa các nhu cầu trong nước về hàng Dệt May.
Khai thác và huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư và nâng cao năng lực hiện đại hoá trình độ công nghệ, thiết bị cho các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam, tạo lập sự cân đối trong toàn ngành, đặc biệt là giữa khâu kéo sợi với Dệt, liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp Dệt và May, May xuất khẩu. Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu mã sản phẩm Dệt, May, nghiên cứu thời trang, quảng bá các sản phẩm mới để hàng Dệt May Việt Nam nhanh chóng đáp ứng được thị trường người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu..
Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cho ngành Dệt May để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động, cán bộ kỹ thuật và quản lý. Cần có sự sửa đổi mức lương và hệ số độc hại quy định cho ngành Dệt May để khuyến khích người lao động yên tâm làm việc trong ngành Dệt May.
Củng cố và phát huy vai trò của Tổng công ty Dệt May Việt Nam nhằm tổ chức mối quan hệ liên kết kinh tế và phân công chuyên môn hoá trong sản xuất và tiêu thụ của các doanh nghiệp ngành Dệt May. Nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam trên thị trường quốc tế và trong nước.
Tạo môi trường để thúc đẩy các doanh nghiệp Dệt May cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới công nghệ hợp lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý giảm chi phí sản xuất cá biệt.
Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký tiêu chuẩn quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002 nhằm nâng cao chất lượng của hàng Dệt May Việt Nam.
Khuyến khích các doanh nghiệp Dệt May mở văn phòng đại diện, đại lý ở nước ngoài để đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu hang Dệt May. Phát huy vai trò tích cực của các cơ quan thường trực, tham tán thương mại ở các Đại sứ quán Việt Nam tại các nước trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu cho ngành Dệt May của ta trong thời gian tới.
Thứ hai: Chính sách hỗ trợ của Nhà nước
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu Dệt May
Dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn ngạch Dệt May cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu, trong đó có chi phí cho các hoạt động tham gia các tổ chức Dệt May quốc tế, cho công tác xúc tiến thương mại và đầu tư nguồn nguyên liệu cho ngành Dệt May.
Hỗ trợ các doanh nghiệp Dệt May đẩy mạnh xuất khẩu hàng Dệt May vào thị trường Mỹ với mức hỗ trợ là 7% trên kim ngạch xuất khẩu (tính theo giá FOB) vào thị trường Mỹ. Đồng thời khuyến khích việc thành lập các liên doanh với nước sản xuất hàng Dệt May xuất khẩu vào thị trường Mỹ trong thời gian còn được hưởng quy chế phi hạn ngạch vào thị trường Mỹ.
Chính sách Thương mại - Hải quan
Ưu tiên phân bổ Quota cho các đơn hàng FOB sử dụng nguyên liệu nội địa. Hiệp hội Dệt May Việt Nam được tham gia vào việc thảo luận xây dựng các quy chế phân bổ Quota.
Đặc biệt trong thời điểm hàng Dệt May Việt Nam hiện vẫn phải chịu thuế suất nhập khẩu vào Mỹ cao. Chính phủ cần khuyến khích vào các doanh nghiệp khẩn trương thiết lập kênh tiêu thụ xuất khẩu vào Mỹ bằng cách trợ giá 15% trên số ngoại tệ thực thu từ xuất khẩu vào Mỹ cho đến khi được hưởng chế độ quan hệ Thương mại bình thường(NTR)
Cho phép Viện kinh tế kỹ thuật Dệt May được phối hợp cùng với cơ quan hải quan và cơ quan thuế để áp dụng mã thuế phù hợp đối với các loại nguyên phụ liệu, vật tư nhập khẩu cho ngành Dệt May.
kết luận
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình phát triển của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam trong những năm vừa qua và những cơ hội, thách thức đặt ra cho ngành Dệt May Việt Nam trong quá trình hội nhập WTO, ta thấy có những đặc điểm nổi bật sau :
Qua hơn 10 năm đổi mới, ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đã có những thành công nhất định. Tốc độ tăng trưởng qua các năm cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng, bắt đầu tạo được uy tín đối với khách hàng trong nước. Tuy nhiên, so với các nước các nước xuất khẩu Dệt May trong khu vực thì có thể thấy rằng nội lực của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam còn yếu, đặc biệt là trình độ về thiết bị, công nghệ của ngành Dệt. Sự yếu kém trong ngành Dệt đã làm cho ngành May phải nhập khẩu cao những nguyên liệu đầu vào, đồng thời không tạo ra được những mối liên kết kinh tế mạnh thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
Để tiến tới hội nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đòi hỏi ngành Dệt May Việt Nam phải có chiều sâu cho sự phát triển, nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới, chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh từ chính nội lực của Ngành.
Trong quá trình hội nhập của nước ta hiện nay, cùng với những đặc điểm riêng của Ngành và những lợi thế so sánh mà việc hội nhập mang lại có thể thấy ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, là ngành có nhiều khả năng phát triển sản xuất và xuất khẩu, cùng với các ngành công nghiệp mũi nhọn khác như Dầu khí, Thuỷ sản, Điện tử... đóng vai trò là “đầu tầu kinh tế” kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác.
tài liệu tham khảo
Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2010 – Bộ Công nghiệp & Tổng Công ty Dệt May Việt Nam.
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và triển vọng gia nhập của Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Chiến lược tăng tốc ngành Dệt May đến năm 2010 – Tổng Công ty Dệt May Việt Nam.
4. Tạp chí Dệt May Việt Nam.
Các tạp chí khác : Kinh tế và phát triển, Phát triển kinh tế, Thương mại,
6. Các báo :
Thời báo kinh tế,
Đầu tư,
Công nghiệp,
Kinh tế quốc tê,
Thời báo ngân hàng,
Thời báo tài chính Việt Nam.
Các nguồn số liệu : Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Tổng cục hải quan, Tổng công ty Dệt May Việt Nam. Cục TCDN
Một số tài liệu khác.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33929.doc