Công cuộc cải cách thuế bước II với sự ra đời của luật thuế giá trị gia tăng là một bước tiến vượt bậc so với thuế doanh thu trước đây góp phần đưa nước ta hội nhập
về kinh tế, nhất là trong lĩnh vực thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Qua hơn ba năm thực hiện, luật thuế giá trị gia tăng đã thực sự phát huy tác dụng tích cực trên các mặt tài chính - kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện gặp không ít khó khăn, vướng mắc ở chính ngay bản thân luật thuế và do các điều kiện khách quan mang đến như điều kiện về kinh tế xã hội . đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp thích hợp tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
76 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chênh lệch về tỷ lệ tương đối lớn giữa các mức thuế suất giá trị gia tăng và thuế doanh thu trước đây. Do vậy có một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh do phải nộp thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu.
+ Giá tính thuế: giá tính thuế chủ yếu dựa vào hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán. Quản lý hoá đơn dặc biệt là doanh nghiệp tư nhân đang là một vấn đề bức xúc, nan giải có nhiều vi phạm nhất. Các trường hợp vi phạm thường gặp là: giá ghi liên 1 thấp hơn nhiều so với giá ghi trên liên 2, giá ghi trên hoá đơn thấp hơn so với giá bán thực tế; bán hàng không niêm yết giá,... mà công tác đối chiếu và xử lý chưa kịp thời và cũng không thể đối chiếu được với số lượng lớn.
- Công tác khấu trừ, hoàn thuế: Trong quá trình thực hiện một số doanh nghiệp đã lợi dụng cơ chế được khấu trừ theo tỷ lệ phần trăm nói trên ( còn gọi là khấu trừ khống) đối với hàng nông lâm thuỷ sản mua của người không có hoá đơn, hàng hoá mua của người bán có hoá đơn thông thường hoá đơn mua vào hoặc nâng số lượng hàng hoá mua vào vượt so với thực tế nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Việc khấu trừ “khống” đối với nông, lâm, thuỷ sản mua của cơ sở sản xuất, khai thác trực tiếp, đào tạo nên nhiều khe hở để cơ sở kinh doanh lợi dụng thông đồng trốn lậu thuế (cả đối với hàng tiêu dùng nội địa và hàng xuất khẩu), không tạo được lợi ích cho nông dân, ngư dân.
Thi hành chủ trương khuyến khích xuất khẩu, giải quyết về vốn sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp một cách nhanh chóng nên trong công tác hoàn thuế Nhà nước áp dụng có chế hậu kiểm “Hoàn thuế trước, kiểm tra sau” tương đối thông thoáng lợi dụng kẽ hở này nhiều doanh nghiệp cố tình vi phạm chiếm đoạt thuế của Nhà nước: như có hành vi mua bán hoá đơn để hợp thức hoá đầu vào hoặc có hành vi gian dối khai man về số lượng, mặt hàng và giá cả để chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước, hoặc thông đồng với hải quan để rút tiền Ngân sách, thành lập những công ty “ma”.
+ Chưa triển khai đưa chương trình quản lý ấn chỉ vào máy tính nên hạn chế tới công tác đối chiếu hoá đơn và biên lai thuế.
- Công tác quản lý thu nộp thuế.
Thu nộp thuế vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp chây ỳ nộp thuế dẫn đến số nợ đọng thuế chiếm tỷ trọng đáng kể, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, số thu về thuế giá trị gia tăng chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số thu ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng, toàn doanh nghiệp nói chung.
- Công tác thanh tra, kiểm tra :
+ Số doanh nghiệp được thanh tra, kiểm tra còn hạn chế, đặc biệt là công tác kiểm tra sử dụng hoá đơn, chứng từ ở các doanh nghiệp chưa được nhiều, kiểm tra công tác nội bộ ngành còn ít.
+ Chưa xử lý nghiêm đối với các đơn vị vi phạm.
+ Năng lực cán bộ còn hạn chế.
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế.
+ Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là các quy định thông thoáng của pháp luật. Với sự ra đời của luật doanh nghiệp ban hành quyết định thành lập doanh nghiệp với quan điểm thông thoáng, kịp thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thành lập. Trong đó có một số trường hợp lợi dụng sự thông thoáng lập ra các công ty không có thực trong thực tế ( không có người, không có vốn, không có địa điểm cụ thể ...) với mục đích có được chứng nhận về tư cách pháp nhân để được mua hoá đơn do bộ tài chính phát hành sau đó bán hoặc thông đồng với các đơn vị khác trốn thuế hoặc chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
Nhà nước có chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp mua hàng nông, lâm, thuỷ sản của người sản xuất khai thác trực tiếp ... được khấu trừ khống nhưng do việc kiểm soát về hoá đơn, chứng từ chưa được chặt chẽ do đó các doanh nghiệp lợi dụng sự ưu đãi này thông đồng với tư thương giúp tư thương trốn thuế và doanh nghiệp cũng có lợi. Với cơ chế hậu kiểm “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” nên nhiều doanh nghiệp sau khi khai khống hoá đơn hoàn được thuế đến khi cơ quan thuế kiểm tra xác minh ra thì đã cao chạy xa bay. Như đối với cơ chế hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hoá là nông lâm thuỷ sản mua không có hoá đơn, chỉ lập bảng kê, việc xác nhận hàng xuất khẩu của hải quan, thanh toán hàng xuất khẩu qua biên giới bằng tiền mặt khó kiểm soát,dễ bị khai khống ( thực chất là không có hàng ) .
+ Hai là, lợi dụng sự thông thoáng của cơ chế nền kinh tế thị trường cho phép mọi doanh nghiệp khai thác hàng hoá ở bất kỳ địa điểm nào trong nước, từ khâu mua gom của người sản xuất, đánh bắt khai thác và bán cho bất kỳ đối tượng nào hoặc tham gia xuất khẩu trực tiếp.
+ Ba là, các văn bản quy phạm pháp luật thiếu tính đồng bộ, trong một khoảng thời gian ngắn có nhiều điều khoản sửa đổi, bổ sung nên việc nắm bắt những thay đổi này rất khó khăn ngay cả cán bộ thuế không chỉ riêng gì đối tượng nộp thuế. Vì vậy, trong một điều khoản chúng ta có thể hiểu nhiều cách khác nhau; ví dụ như thuế suất 5% - 10% được phân biệt theo công dụng sản phẩm nhưng tiêu chí để phân biệt chúng rất khó xác định.
+ Bốn là, do chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế còn hạn chế, chức năng điều tra, xét hỏi thuộc về cơ quan công an, trong khi đó thực tiễn thiếu dự phối kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan này. Một số cán bộ còn yếu về năng lực nghiệp vụ, thiếu tính thuyết phục trong việc giải đáp, hướng dẫn chính sách thuế cho đối tượng nộp thuế.
+ Năm là, bộ phận thanh tra thuế còn mỏng trong khi đó khối lượng công việc lớn, trang thiết bị như máy tính nối mạng ... của cơ quan thuế còn thiếu, với tình hình hệ thống tin học của ngành thuế hiện nay thì điều tra, xác minh nguồn gốc của những hoá đơn, chứng từ là việc không phải dễ dàng. Cục thuế chưa triển khai chương trình quản ký ấn chỉ vào máy tính nên hạn chế tới công tác đối chiếu hoá đơn và biên lai thuế. Qua công tác thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện có trường hợp vi phạm chỉ xử phạt hành chính ở mức độ nhẹ, số lượng vụ án bị truy tố còn rất ít do đó tính giáo dục, răn đe không cao, các đối tượng nộp thuế vẫn tiếp tục vi phạm nhiều lần.
+ Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến các vi phạm trong công tác quản lý thu thuế là tâm lý, ý thức chấp hành luật thuế giá trị gia tăng của người tiêu dùng và các doanh nghiệp.
Nhân dân ta quen với tập quán mua hàng hoá, dịch vụ không có hoá đơn chứng từ vì họ nghĩ mình không phải nộp thuế khi mua hàng hoặc giá bán bao gồm cả thuế. Chính điều này dẫn đến thái độ thời ơ của người tiêu dùng đối với chính sách thuế. Hơn nữa thuế gián thu bị che lấp trong giá nên người tiêu dùng thường không mấy quan tâm đến, đặc điểm của thuế gián thu là giữa đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế khác nhau, người mua hàng chỉ là người thu hộ thuế cho Nhà nước còn người bán hàng mới là người phải chịu khoản thuế đó. Thói quen không lấy hoá đơn khi mua hàng đã làm lợi cho người bán vì họ không phải nộp thuế mà vẫn thu được thuế, như vậy người mua hàng đã biếu không một khoản tiền cho người bán, tiếp tay cho người bán trốn lậu thuế. Đây là một thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân để bãi bỏ nó là công việc rất khó khăn.
Có trường hợp người mua và người bán cấu kết với nhau, người bán sẽ bán hàng hoá thấp hơn giá thực tế một chút đổi lại họ được ghi trên hoá đơn ghi thấp hơn nhiều hoặc giá ghi trên liên 1 thấp hơn liên 2 nhiều lần như thế cả hai đều có lợi.
Thuế giá trị gia tăng chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Còn thuế doanh thu trước đây tính trên tổng số doanh thu không phân biệt giữa doanh nghiệp có nhiều hay ít giá trị tăng thêm, do đó thuế suất thuế giá trị gia tăng cao hơn thuế doanh thu điều này dễ gây ra tâm lý Nhà nước tăng thuế và dẫn đến có một số doanh nghiệp tăng giá bán lên.
Một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá lợi dụng việc kiểm soát hàng hoá xuất khẩu chưa chặt chẽ khai khống hàng xuất khẩu, nhất là hàng nông lâm thuỷ sản, để hợp thức hoá giá trị hàng mua vào được khấu trừ khống.
+ Đối với doanh nghiệp: do ý thức chấp hành luật của họ chưa tốt, tâm lý của các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn muốn trốn lậu thuế, họ luôn coi thuế là “gánh nặng” là “rút tiền túi” của mình nộp cho Nhà nước, là khoản làm tăng chi phí làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Do đó, các đối tượng này luôn tìm mọi cách trốn thuế, tránh thuế để thu lợi riêng.
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động kinh doanh thường mang tính chất gia đình chủ yếu là người trong gia đình làm, trong số đó số người được đào tạo chuyên môn còn ít nên việc nắm bắt các văn bản, chính sách, chế độ của Nhà nước còn hạn chế. Điều quan trọng hơn cả là khó có sự tách biệt giữa giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ nhiều khi chỉ có một người nắm giữ cho nên việc thanh tra, kiểm tra khó phát hiện.
Do quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, số lượng doanh nghiệp ít công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý còn hạn chế, do đó sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất ra ở các doanh nghiệp này chưa cao, dẫn đến số thuế nộp vào Ngân sách Nhà nước chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số thu các doanh nghiệp.
+ Quy trình quản lý thuế vẫn duy trì việc cơ quan thuế in và phát hành thông báo thuế cho đối tượng nộp thuế do đó thu Ngân sách chậm, chưa nâng cao được ý thức tự giác về nghiã vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế; đồng thời làm cho trách nhiệm giữa cơ quan thuế với đối tượng nộp thuế chưa rõ ràng và ngành thuế phải tốn nhiều thời gian, kinh phí và nhân lực hơn.
CHƯƠNG III
giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh nghệ an
I. Những quan điểm cơ bản về tăng cường quản lý thu thuế .
Quan điểm cơ bản về chính sách thuế và quan lý thu thuế trong giai đoạn tới đã được Đảng nêu trong Nghị quyết Đại hội Đảng IX là :
“Tiếp tục cải cách về chính sách hệ thống chính sách thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu, thực hiện công khai, minh bạch giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và dân cư, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh và bảo đảm công bằng xã hội. Tiến hành cải cách thuế giai đoạn ba theo hướng thu hẹp dần các mức thuế suất, đơn giản hoá các sắc thuế hiện hành, giảm tỷ trọng thuế gián thu, áp dụng các sắc thuế mới như: thuế thu nhập cá nhân, thuế bất động sản ... Thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập, trước hết là lộ trình giảm thuế quan, thực hiện chính sách bảo hộ có trọng điểm, có điều kiên và thời hạn thích hợp với tiến trình hội nhập; cải tiến hình thức thu phí, lệ phí, đổi mới phương thức thu thuế đơn giản hoá thủ tục hành chính. Đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời vào Ngân sách Nhà nước, chống thất thu và lạm thu. Cơ quan thuế thực hiện chức năng kiểm tra, xử lý vi phạm”.
Mục tiêu cụ thể của thu Ngân sách trong 5 năm 2001-2005 là: tỷ lệ huy động vào Ngân sách Nhà nước hàng năm 20-21% trong đó thuế và phí chiếm khoảng 18-19% GDP.
Với quan điểm đó, mục tiêu cụ thể về chính sách và công tác quản lý thu thuế trong giai đoạn tới là:
+ Mức huy động qua thuế và phí phải đạt được chỉ tiêu mà Đảng và Nhà nước đề ra (giai đoạn 2001-2005) là từ 18-19% GDP.
+ Thuế phải góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng khuyến khích xuất khẩu, phát triển kinh tế Nông nghiệp, kinh tế trang trại để tăng khối lượng sản phẩm Nông nghiệp, khuyến khích hoạt động chế biến nông sản để sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước phục vụ mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào các ngành có lợi thế, giải quyết nhiều việc làm cho người lao động, các vùng trọng điểm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiên đại hoá đất nước.
+ Thuế đảm bảo bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm tính rõ ràng ổn định.
+ Nâng cao năng lực bộ máy quản lý thuế và hoàn thiện thủ tục hành chính thuế cho phù hợp với yêu cầu của giai đoạn này nhằm tăng cường sự tuân thủ nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế.
Quá trình thực hiện các mục tiêu này sẽ làm cho cơ cấu thuế nước ta thay đổi theo chiều hướng: thuế nhập khẩu giảm dần tỷ trọng trong tổng số thu thuế, thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp trở thành hai loại thuế đóng góp nhiều nhất cho Ngân Sách Nhà nước chiếm khoảng 50% tổng số thu.
Việc cắt giảm thuế quan (CEPT) về cơ bản sẽ hoàn thành vào năm 2006 thuế suất thuế nhập khẩu chỉ còn tối đa 5%. Việt Nam tiếp tục mở rộng và tham gia hội nhập với khu vực và trên thế giới; trong giai đoạn này các ngành dịch vụ sẽ phát triển; đầu tư nước ngoài tăng, đặc biệt là ngành sản xuất, chế tạo, chế biến ... Tổng sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 20 - 25%, lao động trong ngành này chiêm 55 - 60% tổng lao động toàn xã hội.
Vì vậy mục tiêu cụ thể của thuế giá trị gia tăng trong giai đoạn này phải bảo đảm:
+ Thu về thuế giá trị gia tăng là nguồn thu quan trọng trong Ngân sách Nhà nước, tăng về tỷ trọng trong tổng số thu thuế gián thu nói riêng, thu Ngân sách Nhà nước nói chung để đảm bảo phù hợp với tình hình cắt giảm thuế nhập khẩu trong quá trình tham gia hội nhập.
+ Khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất và dịch vụ đặc biệt là xuất khẩu.
+ Phù hợp với thông lệ quốc tế.
+ Đơn giản hoá chính sách, tăng cường tính trung lập của thuế.
Từ những thực trạng trong quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An cũng như những định hướng chiến lược nêu trên, từ đó đưa ra cá giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hoàn thiện công tác quản lý thu thuế thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
II. Một số giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
1. Thay đổi quy trình quản lý thu thuế trong tương lai.
Quy trình quản lý thuế hiện hành vẫn duy trì việc cơ quan thuế in và phát hành thông báo thuế làm cho việc thu ngân sách chậm, chưa nâng cao được ý thức tự giác về nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế, đồng thời làm cho trách nhiệm giữa cơ quan thuế với đối tượng nộp thuế chưa rõ ràng ngành thuế phải tốn nhiều thời gian, kinh phí và nhân lực hơn. Để khắc phục tình trạng trên trong thời gian tới chúng ta nên áp dụng mô hình quản lý thu thuế sau:
+ Các doanh nghiệp và hộ kinh doanh lớn sẽ thực hiện tự tính, kê khai thuế sau đó tự giác nộp thuế tại Kho bạc; Kho bạc xác nhận nộp tiền thuế và thông tin số thuế đã nộp của các đối tượng nộp thuế về cơ quan thuế. Để nâng cao trách triệm của cán bộ thuế cũng như phân định trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận và tránh hiện tượng cán bộ thuế tiếp xúc trực tiếp với các đối tượng nộp thuế nhiều; bộ máy quản lý thuế nên được tổ chức theo chức năng công việc:
Cục trưởng Cục thuế
Phòng xử lý tờ khai thuế
Phòng đốc thu và cưỡng chế thuế
Các phòng thanh tra và điều tra thuế (theo đối tượng)
Phòng dịch vụ đối tượng nộp thuế
Các phòng quản lý nội bộ
Trong đó bộ phận xử lý tờ khai thuế, chứng từ thanh toán thuế của cơ quan thuế nhập tờ khai thuế và chứng từ thanh toán thuế để phát hiên những trường hợp không nộp tờ khai thuế hoặc không nộp đủ thuế, phát thông báo nhắc nhở và cung cấp thông tin cho bộ phận thanh tra thuế lựa chọn các đối tượng nghi vấn để thực hiên thanh tra, kiểm tra và tiến hành xử lý các hành vi vi phạm về thuế. Bộ phận cưỡng chế thuế sẽ thực hiện các biện pháp xử lý thu thuế đối với các trường hợp chây ỳ, trốn thuế.
Ưu điểm của mô hình này:
+ Mô hình tổ chức này tăng cường hiệu suất quản lý, cho phép cán bộ thuế phát triển chuyên môn theo chức năng người đó thực hiện (tính thuế, theo dõi cưỡng chế thu nộp, thanh tra); cơ quan thuế có thời gian để tập trung vào việc phát hiện những hiện tượng vi phạm và kịp thời xử lý; hơn nữa giảm được tiêu cực do việc giảm tiếp xúc giữa cán bộ thuế với đối tượng nộp thuế .
+ Mô hình này cho phép trong tương lai khi số đối tượng nộp thuế tăng lên thì sẽ không gây áp lực về nhân lực quản lý.
+ Mô hình chức năng đảm bảo cho cơ quan thuế hoạt động hiêu quả hơn, tao điều kiện hiện đại hoá công tác quản lý bằng việc ứng dụng máy tính hoàn toàn vào khâu quản lý.
2. Thường xuyên xây dựng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thuế đáp ứng yêu cầu mới, chấn chỉnh công tác tổ chức cán bộ, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ thuế.
Sự thành công của một chính sách, hay luật thuế ngoài yếu tố phải đúng đắn, đồng bộ và phù hợp với điều kiện thực tế thì còn một yếu tố quan trọng đó là nhân tố con người.Yếu tố con người luôn được xem là yếu tố quyết định đến sự thành công của mọi công việc nói chung và quản lý thu thuế nói riêng. Bởi máy móc, trang thiết bị có hiện đại đến đâu cũng do con người chế tạo ra và sử dụng nó; nếu không chúng chỉ là những vật bỏ đi, do đó phải chú trọng tới công tác đào tạo cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, giáo dục nâng cao ý thức phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp. Tổ chức các lớp tập huấn cán bộ về bồi dưỡng chính sách thuế, nghiệp vụ thuế thường xuyên, có quy mô, chất lượng cao. Xây dựng đội ngũ cán bộ thuế kế cận giỏi về chuyên môn nghiệp vụ thuế, giỏi về kế toán, thành thạo về kỹ năng quản lý, có trình độ tin học và ngoại ngữ, với phẩm chất đạo đức tốt và có tinh thần phục vụ nhân dân, đất nước. Sắp xếp lại tổ chức bộ máy và trình độ chuyên môn sẽ phát huy tối đa năng lực làm việc của họ. Tiếp tục thực hiện kế hoạch tinh giảm biên chế, nâng cao chất lượng cán bộ thuế; đồng thời tuyển chọn cán bộ mới có trình độ, năng lực, kiên quyết thay cán bộ yếu kém đảm bảo cán bộ thuế liên tục đổi mới, trẻ hoá và chất lượng được nâng cao.
Để thực hiện mô hình quản lý nêu ở trên thì phải đào tạo cán bộ theo hướng chuyên môn hoá sâu theo từng chức năng công việc phù hợp với mô hình quản lý thuế theo phương pháp tự khai thuế, tự tính, tự giác nộp thuế vào kho bạc; công tác đào tạo nên theo các bước sau:
Đào tạo nâng cao
Đào tạo chuyên sâu
Đào tạo cơ bản
Tuỳ theo đặc điểm, địa bàn, Cục thuế chủ động đề ra các tiêu chuẩn cán bộ quản lý doanh nghiệp làm căn cứ để đánh giá năng lực, trình độ và xem xét trách nhiệm của cán bộ thuế, trong tiêu chuẩn cán bộ cần tập trung vào các yêu cầu sau:
- Về quản lý đối tượng kinh doanh : Đối với doanh nghiệp phải bám sát tình hình cấp giấy phép kinh doanh của Sở Kế hoạch và Đầu tư để nắm một số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký, thông báo kịp thời cho doanh nghiệp đến cơ quan thuế dăng ký xin cấp mã số thuế, định kỳ phòng quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các chi Cục thuế phải giải trình đày đủ số lượng doanh nghiệp hiện thực tế có kê khai nộp thuế, số doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, số doanh nghiệp đã có quyết định thu hồi đăng ký kinh doanh, số doanh nghiệp đã di chuyển sang địa bàn khác hoặc bỏ kinh doanh, mất tích ...
-Về quản lý doanh thu : Đôn đốc doanh nghiệp nộp tờ khai thuế, nộp báo cáo quyết toán , đảm bảo ít nhất 95% doanh nghiệp nộp đúng hạn. Khi phát hiện có mâu thuẫn trong kê khai hoặc nội dung kê khai không đúng thì phải tổ chức kiểm tra và yêu cầu doanh nghiệp kê khai bổ sung hoặc lập lại, đồng thời xử phạt hành chính theo quy định. Khi kiểm tra kê khai hàng tháng nếu có hiện tượng không bình thường như liên tục khai số thuế giá trị gia tăng đầu ra nhỏ hơn số thuế giá trị gia tăng đầu vào thì tổ chức kiểm tra đẻ làm rõ tình hình, phát hiện và xử lý ngay những trường hợp cố tình gian lận. Sau khi kiểm tra báo cáo quyết toán phải kiến nghị và đề xuất với lãnh đạo cơ quan thuế các trường hợp càn thiét kiểm tra thực tế tại cơ sở. Đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành ăn uống, dịch vụ phải điều tra quy mô kinh doanh, đối tượng kinh doanh để đối chiếu với doanh thu kê khai. Nếu doanh thu kê khai thấp hơn doanh thu của hộ kinh doanh cá thể cùng ngành nghề, cùng quy mô hoặc thấp hơn doanh thu khoán ấn định trước thì phải khảo sát để ấn định lại cho phù hợp mức thuế hộ kinh doanh cá thể cùng ngành nghề, cùng quy mô.
- Về đôn đôc thu nộp: Phòng quản lý doanh nghiệp ngoài quốc doanh và các đội thuế có trách nhiệm đôn đốc đối tượng kinh doanh nộp tiền thuế đúng hạn, đảm bảo thu đủ số thuế phát sinh, tối thiểu 90% số cơ sở nộp đúng ngày ghi trong thông báo. Số còn lại chậm nhất đến ngày 25 của tháng sau phải thu hết. Cục trưởng Cục thuế chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn diện kết quả quản lý thu thuế trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý, kịp thời báo cáo những khoá khăn vướng mắc và đề xuất giải pháp với UBND tỉnh, thành phố chỉ đạo cơ quan các cấp, các ngành ở tỉnh, thành phố phối hợp thực hiện. Trưởng phòng quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chịu trách nhiệm trực tiếp và toàn diện về quản lý thuế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được phân công quản lý, hàng tháng phải tập hợp kết quả thu, phân tích đánh giá nguyên nhân và đề xuất giải pháp chấn chỉnh những tồn tại báo cáo lãnh đạo Cục trực tiếp phụ trách. Phân công các phó trưởng phòng phụ trách từng công việc,từng phó trưởng phòng chịu trách nhiệm trước trưởng phòng về phần việc được gia, phải chỉ đạo cán bộ thực hiện đúng các quy trình và giải pháp của Tổng Cục đề ra. Nếu kiểm tra cán bộ không thực hiện đúng thì phó trưởng phòng phải tự chịu trách nhiệm.
3. Đẩy mạnh công tác tuyền truyền thuế sâu rộng hơn nữa.
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc các đối tượng nộp thuế vi phạm luật thuế là do họ chưa hiểu hoặc không nắm bắt hết tinh thần của luật thuế, dẫn đến vi phạm trong quá trình thực hiện. Do vậy cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền thuế, hướng dẫn luật và các văn bản dưới luật đến tận cơ sở sản xuất kinh doanh, vì cơ sở sản xuất kinh doanh vừa là nơi tiếp thu vừa thực hiện luật, chủ động kê khai sử dụng hoá đơn.
Trước hết, cơ quan thuế phải phân tích điều tra xem đối tượng nộp thuế có những vường mắc gì, từ đó tổ chức đáp ứng giữa hai kênh: dịch vụ công và dịch vụ độc lập, đảm bảo cho các đối tượng nộp thuế hiểu thấu đáo chính sách thuế, biết ghi chép, kê khai, tính thuế, quyết toán thuế đúng chính sách và nộp thuế đúng, đủ, kịp thời cho Nhà nước. Phối hợp giữa ngành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng như: báo, đài phát thanh, truyền hình, các tổ chức đoàn thể xã hội trong tuyên truyền giáo dục pháp luật về thuế. Để công tác tuyên truyền đạt hiệu quả hơn chúng ta cần tập trung vào những nội dung và áp dụng các phương thức sau:
+ Nghành thuế cần chủ động phối hợp chặt chẽ với các báo đài Trung ương và địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền nội dung các văn bản pháp luật thuế, các chinh sách thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng, in các chính sách thuế, nội dung và ý nghĩa của mỗi sắc thuế … với nội dung ngắn gọn và dễ hiểu để các doanh nghiệp cũng như nhân dân nắm được chương trình cải cách thuế, chế độ thu thuế trong thời gian từng giai đoạn.
+ Xây dựng kế hoạch phát triển công tác tuyên truyền ngắn, trung và dài hạn.
+ Xây dựng cho được đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền mạnh về số lượng và trình độ. Tập trung đào tạo nâng cao một bước căn bản cho đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền bằng việc đào tạo bổ sung các kiến thức thiếu hụt như: Kỹ năng viết, kiến thức về thuế, kinh tế - tài chính ... để mỗi cán bộ có thể đảm đương được việc in ấn, phát hành một tài liệu tuyên truyền.
+ Mở các dịch vụ tư vấn thuế đối với đối tượng nào cần tham mưu.
+ Cục thuế tăng cường đối thoại với doanh nghiệp để kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp từ đó có biện pháp giải quyết trong phạm vi thẩm quyền của mình.
+ Ngành thuế nên tiếp tục tuyên truyền sâu rộng cho nhân dân về thuế giá trị gia tăng, xây dựng nề nếp và thói quen sử dụng hoá đơn trong việc mua bán hàng hoá, giáo dục ý thức tố giác các hành vi trốn thuế của các đối tượng nộp thuế.
. Việc thực hiện luật thuế giá trị gia tăng của Nhà nước có đầy đủ, nghiêm túc hay không; Nhà nước có quản lý thu thuế được hay không thì vai trò quản lý của quần chúng nhân dân có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi áp dụng luật thuế giá trị gia tăng thì khách hàng (người tiêu dùng) là người chịu thuế, người bán hàng là người nộp thuế thay cho khách hàng. Như vậy, thuế giá trị gia tăng có quản lý và nộp đầy đủ cho Ngân sách Nhà nước liên quan đến việc đòi hoá đơn bán hàng hợp pháp của người mua hàng cho tiêu dùng hàng ngày, cho sản xuất, cho kinh doanh; nếu người mua hàng không đòi hoá đơn hợp pháp thì Nhà nước sẽ không những không quản lý và thu được số thuế giá trị gia tăng mà người mua hàng đã trả cho Nhà nước. Trong trường hợp này người bán hàng vừa chiếm đoạt số thuế giá trị gia tăng và trốn được cả thuế thu nhập doanh nghiệp của Nhà nước. Nhà nước đã mất cả thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp.
Do vậy, việc đòi hoá đơn hợp pháp khi mua hàng là một yêu cầu bắt buộc của mỗi khách hàng, dù là mua hàng tiêu dùng cá nhân, tập thể, xí nghiệp, đơn vị đều có ý nghĩa trong chấp hành luật thuế góp phần chống thất thu thuế cho Ngân sách Nhà nước thiết lập kỹ cương trong công tác quản lý hành chính, lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội. Đây là quyền lợi thiết thực của toàn dân, đòi hoá đơn bán hàng là quyền lợi của người mua hàng ( người tiêu dùng), nó là chứng từ để bảo đảm chất lượng hàng hóa và chứng từ để bảo hành hàng hoá.
Nhằm khuyến khích khách hàng mua hàng đòi hoá đơn với nội dung đầy đủ, chinh xác và lưu giữ chứng từ, cung cấp cho cán bộ thuế khi có yêu cầu; ở một số nước có chế độ tuần kỳ quay số trúng thưởng đối với hoá đơn mua hàng. Thiết nghĩ đây cũng là một kinh nghiệm hay cần tham khảo, vận dụng thích hợp vào điều kiện nước ta nhăm góp phần nâng cao ý thức tự giác trong việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn chứng từ.
4. Tin học hoá công tác quản lý thu thuế.
Đẩy mạnh công tác quản lý thuế giá trị gia tăng trên máy vi tính nhằm ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thu thuế theo hướng hiện đại, hiệu quả và tiết kiệm; với ba nội dung trọng tâm của chương trình là: tin học hoá quản lý về đối tượng nộp thuế, tin học hoá công tác quản lý thu thuế và tin học hoá phân tích số liệu thống kê thuế phù hợp với mỗi sắc thuế.
Theo số liệu thống kê của Tổng Cục thuế, trên phạm vi cả nước sổ trường hợp mất hoá đơn tương đối lớn. Nếu chỉ một hoá đơn bị mất mà bị lợi dụng thì thiệt hại cho Ngân sách đã không thể tính được. Một trong những biện pháp ngăn chặn việc lợi dụng hoá đơn là thông báo các số hoá đơn không còn giá trị trên phạm vi cả nước... Tuy nhiên, trong thực tế biện pháp này còn nhiều bất cập. Nếu một trường hợp nào đó mất hoá đơn thì phải thông báo cho Tổng Cục thuế, Cục thuế 61 tỉnh, thành phố trong cả nước, các chi Cục thuế, các cơ quan ban ngành chức năng ..., tính sơ bộ số lượng phát hành của mỗi thông báo trên 80 bản, mỗi thông báo khi đến đơn vị lại được nhân lên hai, ba lần nữa. Nếu tính trên phạm vi cả nước thì các số lượng các thông báo loại này đã góp phần làm tăng lên đáng kể khối kượng văn bản được lưu giữ tại cơ quan. Với khối lượng đó kinh phí giấy mực kinh phí bưu điện dành cho công tác này hàng năm không nhỏ vì số thông báo rất nhiều.
Nhưng các thông báo đó có phát huy tác dụng trong việc ngăn chặn, phòng ngừa các hành vi lợi dụng để trốn thuế không? Thực tế, viêc sử dụng các thông tin từ thông báo để phát hiện các hành vi lợi dụng, gian lận trốn thuế rất hy hữu. Có chăng chỉ là một số trường hợp sử dụng hoá đơn, chứng từ không còn giá trị sử dụng ngay gần thời điểm phát hành thông báo, còn sau một thời gian khả năng này hầu như không có vì việc tra cứu các thông báo đã được lưu trữ để kiểm tra, đối chiếu với các hoá đơn chứng từ nghi vấn tại hầu hết các cơ quan thuế hiện nay chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp thủ công rất tốn thời gian, công sức mà hiệu quả không cao; với số lượng hoá đơn, chứng từ cần đối chiếu lớn như vậy cùng thời gian hoàn thuế tương đối ngắn thì những hoá đơn, chứng từ đã được đối chiếu chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số hoá đơn, chứng từ cần được đối chiếu.
Ngoài việc lợi dụng các hóa đơn không còn giá trị sử dụng, nhiều đối tượng còn trốn thuế bằng cách ghi sai lệch các nội dung trên hoá đơn. Cho đến thời điểm hiện nay việc kiểm tra, đối chiếu hoá đơn đầu vào của các doanh nghiệp mua hàng hóa ngoài địa phương vẫn còn thực hiện bằng cách gửi công văn đề nghị các Cục thuế bạn hỗ trợ. Việc này cũng có nhiều bất cậpvà mất nhiều thời gian cho việc chờ kết quả xác minh. Mặt khác, các Cục thuế khi nhận được văn bản đề nghị này phải hình thành một bộ phận để xử lý công việc này mà các văn bản này không phải là ít. Một vấn đề đặt ra cho ngành thuế là làm thế nào để công tác xác minh hoá đơn nhanh hơn, giản tiện, chính xác hơn đỡ tốn kém hơn.
Trước thực trạng trên, để tăng cường công tác quản lý thu thuế, giải quyết các vấn đề nổi cộm hiện nay trong việc chống lợi dụng hoá đơn để trốn thuế ... ngành thuế cần sớm nghiên cứu, đưa chương trình ứng dụng máy ví tính vào công tác quản lý hoá đơn trên phạm vi cả nước. Trong đó, cùng với việc cập nhật các hoá đơn đầu vào, đầu ra trong tờ khai hàng tháng của doanh nghiệp nêu trên nên có phần nhập các thông tin về các hoá đơn không còn giá trị sử dụng; đồng thời có một chương trình tự động kiểm tra, đối chiếu để kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp lợi dụng hoá đơn để trốn thuế. Các hoá đơn bán ra của các doanh nghiệp được đưa lên mạng để Cục thuế các tỉnh, thành phố có thể tự kiểnm tra được mức độ chính xác của các hoá đơn tạo điều kiện cho viêc trao đổi thông tin và tóc độ làm việc nhanh hơn, kịp thời và chính xác hơn.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc kiểm tra đối chiếu hoá đơn, chứng từ và quản lý thu thuế đối với các đối tượng nộp thuế nhất là thuế đã nộp, nợ đọng ... cần phải hoà mạng máy tính trong toàn ngành thuế nhưng phải bảo đảm an toàn bảo mật.
5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra.
Như chúng ta đã biết doanh nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển mở rộng và đa dạng; việc giấu doanh thu, trốn lậu thuế trở nên tinh vi và nghiêm trọng hơn. Để thực hiện đúng luật thuế là phải thu đúng, thu đủ, thu kịp thời vào Ngân sách Nhà nước; vì vậy công tác thanh tra phải tăng cường hơn nữa để đạt hiệu quả cao nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và hạn chế thấp nhất thất thu thuế.
Với việc đối tượng nộp thuế tự kê khai, tính thuế và tự giác nộp thuế vào kho bạc Nhà nước đã nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế, Quy trình thu thuế này đã giảm tới mức tối thiểu mối quan hệ trực tiếp giữa cán bộ thuế với các đối tượng nộp thuế. Bằng cách đó, với lực lượng có hạn trong bộ máy quản lý thuế có thể tập trung vào việc kiểm tra,thanh tra phát hiện và xử lý những trường hợp vi phạm. Để có thể thanh tra, kiểm tra một cách có hiệu quả trong cơ chế thu mới, Cục thuế Nghệ An cần thiết phải thực hiện một số biện pháp sau:
+ Tăng cường số lượng thanh tra viên lên khoảng 25% - 30% tổng cán bộ ngành. ở Cục thuế Nghệ An hiện nay số thanh tra còn quá mỏng chỉ xấp xỉ 19%, đồng thời phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng có liên quan như: công an kinh tế, Viện kiểm sát…
+ Đẩy mạnh công tác thanh tra định kỳ đối với các doanh nghiệp, khi phát hiện thấy có trường hợp nghi vấn cần nhanh chóng triển khai công tác thanh tra. Thanh tra thường xuyên là cần thiết nhưng phải dựa trên những ăn cứ xác đáng, không được vin vào cớ thanh tra để quấy nhiễu làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
+ Duy trì thường xuyên công tác thanh tra nội bộ ngành về việc chấp hành các quy định của luật thuế, các quy định của ngành ... và coi đây là công tác trọng tâm của ngành nhằm đưa công tác thu vào đúng quy trình quản lý, hạn chế thấp nhất sai sót trong tổ chức thực hiện các luật thuế và các quy định của ngành.
+ Xác minh và trả lời các thắc mắc của các doanh nghiệp theo thời gian quy định để từ đó các doanh nghiệp tin tưởng vào chính sách của Nhà nước và công tác quản lý thu thuế tạo được sự ủng hộ giúp đỡ của người dân như tố cáo các hành vi trốn lậu thuế ...
+ Trong quá trình thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện thấy có trường hợp nào vi phạm cần phải xử lý nghiêm minh và kịp thời; đối với những trường hợp vi phạm nghiêm trọng kiên quyết truy tố trước pháp luật để giáo dục răn đe các đối tượng khác.
Đẩy mạnh thanh tra còn để giúp các đơn vị tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về nghiệp vụ đề xuất giải quyết các chủ trương chính sách bất hợp lý nảy sinh trong quá trình triển khai thực hiện luật thuế.
6. Tăng cường sự phối kết hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan chức năng có liên quan trong công tác quản lý thu thuế.
Sự phối kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan thuế với các cơ quan hữu quan có một vai trò quan trọng trong sự thành công của công tác quản lý thu thuế. Bởi công tác quản lý thu thuế là trách nhiệm chung của chính quyền các cấp, các ngành và của toàn dân chứ không chỉ riêng ngành thuế. Do đó, để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thu thuế, ngoài việc chất hành sự chỉ đạo cảu cơ quan chuyên môn, Cục thuế nhất thiết phải tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của các cấp chính quyền các cấp, sự kiểm tra giám sát của các tổ chức quần chúng, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành chức năng, nhất là các ngành nội chính như: Công an, Quản lý thị trường, Viện kiểm sát, Toà án, Ngân hàng, Kho bạc, Sở Kế hoạch Đầu tư, ...
Trong những năm qua, các ngành các cấp chính quyền từ xã phường,đến quận, huyện, thành, các tổ chức xã hội chưa quan tâm đến vấn đề quản lý thu thuế nhiều, coi quản lý thu thuế là nhiệm vụ của ngành thuế. Các ngành, các cấp luôn phải coi nhiệm vụ thu Ngân sách là trách nhiệm chung chứ không chỉ riêng ngành thuế và chuyển nó thành những hành động cụ thể. Như mỗi cán bộ, đảng viên đều có nghĩa vụ trong việc cùng ngành thuế trực tiếp chỉ đạo thực hiện luật, chịu trách nhiệm về việc cơ sở trê địa bàn mình, đơn vị mình, gia đình mình không hoàn thành nhiệm vụ, nghĩa vụ nộp thuế. Phải có nhiệm vụ tổ chức chỉ đạo thu thuế nói chung và thuế giá trị gia tăng nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên, trực tiếp của các cấp ,các ngành.
Cơ quan thuế phối hợp với cơ quan công an để kiểm tra các trường hợp hoàn thuế nhất là các trường hợp xin hoàn thuế đối với hàng hoá xuất khẩu qua biên giới, phối hợp và xử lý kịp thời các trường hợp lập chứng từ khống, nhằm chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước, tăng tính nghiêm minh của pháp luật.
Cơ quan thuế phối hợp với Kho bạc tổ chức cho đối tượng kinh doanh nộp thuế trực tiếp qua kho bạc, tổ chức trao đổi thông tin để nắm bắt kịp thời tình hình thu nộp thuế, từ đó có thể nắm chắc số thuế còn nợ đọng và đưa ra các biện pháp thu hồi số nợ đọng này.
Cơ quan thuế phối hợp với cơ quan Quản lý thị trường đẩy mạnh kiểm tra việc chấp hành các quy định về đăng ký kinh doanh, về niêm yết giávà bán theo giá niêm yết, về lập hoá đơn chứng từ khi mua hàng hoá ... phát hiện kịp thời các trường hợp vi phạm làm căn cứ xử lý thuế, ấn định thuế.
Cơ quan thuế phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc xét cấp đăng ký kinh doanh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các trường hợp lợi dụng, rà soát lại các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, doanh nghiệp nghỉ kinh doanh ...để báo cáo UBND giải pháp xử lý thích hợp, ngăn chặn việc bán hoá đơn khống của các đối tượng ngừng, nghỉ kinh doanh. Lập hồ sơ đề nghị thu hồi giấy phép kinh doanh đối với doanh nghiệp nợ đọng thuế keo dài.
Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng để có thể lập lệnh thu tiền trên tài khoản các doanh nghiệp khi cần thiết.
Trong thời gian tới các ngành chức năng cần phối hợp, tập trung chỉ đạo để phát hiện ra những tổ chức in hoá đơn giả ... cơ quan hành pháp cần sớm đưa ra xét xử một số vụ án gian lận điển hình để ngăn chặn, răn đe.
Phần trên em đã trình bày một số giải pháp để tăng cường quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, sau đây em xin đưa ra một số kiến nghị:
III. Một số kiến nghị.
1. Nhà nước cần chỉnh sửa một số điều khoản trong luật thuế.
Yêu cầu và mục tiêu sửa đổi luật thuế giá trị gia tăng là góp phần khắc phục những tồn tại hiện nay để luật thuế giá trị gia tăng thực sự là công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích đầu tư đối với xuất khẩu.
- Vấn đề khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào:
+ Nên chăng bỏ chế độ khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng đầu vào trong trường hợp không có hoá đơn: Xuất phát từ mục tiêu hỗ trợ bà con nông dân tiêu thụ nông sản, thực phẩm đẩy mạnh xuất khẩu, Chính phủ quy định đối với các trường hợp thu mua nông sản của người dân trực tiếp sản xuất bán ra không có hoá đơn nhưng có bảng kê thì được khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng theo tỷ lệ 2%. Thực chất đó là khoản trợ giá của Nhà nước đối với hàng nông sản, thực phẩm của nông dân, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người kinh doanh trong việc mua hàng của nông dân – những người bán hàng không có hoá đơn - để tránh việc các doanh nghiệp mua hàng ép giá của người bán, từ đó khuyến khích sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản. Nhưng trên thực tế, khi các doanh nghiệp mua hàng họ vẫn mua theo giá thị trường, người nông dân không thấy được mình được hưởng lợi ở chỗ nào hay nói cách khác, không thấy mình được hưởng lợi trực tiếp từ việc khấu trừ ấy. Tất nhiên, cũng phải thừa nhận, do có chính sách khấu trừ nên các doanh nghiệp chấp nhận mua với giá như hiện nay mà không thấp hơn và đối với người làm ăn chân chính thì mức khấu trừ sẽ hỗ trợ phần thiệt thòi của doanh nghiệp so với thuế doanh thu trước đây. Nhưng rõ ràng cơ chế này đã bị nhiều cơ sở kinh doanh lơi dụng để moi tiền của Nhà nước. Nhưng trên thực tế doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu thường ít hoặc không mua trực tiếp hàng nông sản của nông dân mà thu mua qua các nhà buôn còn bảng kê chỉ là hình thức, người nông dân không được hưởng gì từ chính sách khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng của Nhà nước. Vì vậy, cần bãi bỏ khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng để hạn chế, loại bỏ cá trường hợp lợi dụng kẻ hở của pháp luật trốn lậu thuế của Nhà nước. Mà việc cho khấu trừ thuế theo tỷ lệ ấn định đối với một số mặt hàng không có hoá đơn giá trị gia tăng ( 2%đối với hàng nông lâm thuỷ sản không có hoá đơn mua của người sản xuất trực tiếp ), thực chất là hình thức trợ giá của Nhà nước đối với một số mặt hàng. Nó chỉ phát huy tác dụng trong thời gian đầu triển khai luật thuế giá trị gia tăng. Trong một vài năm tới, cùng với sự ổn định cua nền kinh tế ở nước ta thì biện pháp này sẽ không còn phù hợp và điều tất yếu là vòng tay bảo hộ của Nhà nước sẽ từng bước buông lỏng, trên cơ sở phát huy nội lực tối đa của cơ sở kinh doanh. Đồng thời trả lại tính trung lập của thuế giá trị gia tăng và các luật thuế mới, phù hợp với thông lệ quốc tế, thực sự phát huy hết tác dụng là công cụ quản lý nền kinh tế vĩ mô. đòi hỏi phải có bước chuyển biến để thu hẹp dần hướng tới xoá bỏ dần diện khấu trừ thuế đối với mọi trường hợp không có hoá đơn, chứng từ; đưa việc hạch toán kinh tế của cơ sở sản xuất kinh doanh vào nề nếp tạo điều kiện tự chủ cho doanh nghiệp nâng công tác hạch toán nhằm kinh doanh có hiệu quả và nộp đủ thuế , đảm bảo công bằng xã hội. Và hơn nữa trên thực tế doanh nghiệp có kinh doanh những mặt hàng xuất khẩu thường ít hoặc không mua trực tiếp hàng nông sản của nông dân mà thu mua qua các nhà buôn còn bẳng kê chỉ là hình thức; do đó giải pháp bãi bỏ khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng là hợp lý.
+ Theo quy định của pháp luật hiên hành thì hàng hoá mua của các cơ sở nộp thuế theo phương pháp trực tiếp được khấu trừ khống thuế giá trị gia tăng đầu vào, nếu hàng hoá đó được bán ta trong nước và quy định không áp dụng đối với trường hợp hàng hoá xuất khẩu. Như vậy không phù hợp với chính sách xuất khẩu của Nhà nước; theo tôi Nhà nước nên khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào theo tỷ lệ (%) bằng hoặc cao hơn tỷ lệ khấu trừ hiện hành đối với hàng hoá tiêu thụ trong nước nhằm khuyến khích xuất khẩu và tạo sự công bằng hơn.
+ Để khuyến khích các đơn vị trong việc sử dụng hoá đơn, chứng từ nên quy định: khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào có hoá đơn bán hàng còn nếu không có hoá đơn bán hàng thì không được khấu trừ.
- Về thuế suất thuế giá trị gia tăng: Như phần trên đã phân tích do hệ thống pháp luật chưa đồng bộ nên một sắc thuế có thể hiểu nhiều cách khác nhau đã làm giảm tính pháp lý cao của pháp luật. Như căn cứ tính thuế chủ yếu dựa vào định tính của sản phẩm để phân biệt các mức thuế suất khác nhau. Ví dụ: căn cứ vào đâu để phân biệt hoá chất cơ bản và hoá chất thông thường, kinh doanh ăn uống bình dân và cao cấp để áp dụng mức thuế suất 5% hay 10%, chênh lệch thuế suất lớn như vậy nên nhiều đối tượng nộp thuế lợi dụng kẽ hở của pháp luật để lách thuế. Do đó theo tôi để phân biệt các mức thuế suất khác nhau chúng ta nên căn cứ vào định lượng của sản phẩm chứ không phải định tính như hiện nay.
Thuế suất là linh hồn của mỗi sắc thuế; trong kinh tế thị trường, với đường lối mở cửa để hội nhập, thuế suất không chỉ làm nhiệm vụ động viên tích luỹ vào Ngân sách Nhà nước, mà còn giúp cho doanh nghiệp định hướng đầu tư, chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh, để từmg bước chiếm lĩnh thị trường trong nước, hướng ra xuất khẩu. Thuế suất quyết định mức thuế thu nộp nhiều hay ít, một mức thuế suất hợp lý mới có tác dụng kích cầu và cung.
Một sắc thuế có nhiều thuế suất dẫn đến hạn chế trong việc tính toán thu nộp thuế rất phức tạp. Để cân nhắc, đánh giá, sắp xếp một hàng hóa của một ngành nào đó vào mức thuế suất cụ thể thật không đơn giản. Vì thế, nó có thể tạo ra kẽ hở cho việc tránh thuế, kê khai sai mặt hàng ... gây ra thất thu cho Ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, là trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta mở cửa để hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế, theo thông lệ chung, cần thiết phải sử dụng hệ thống chính sách thuế ít thuế suất. Điều này đặt ra cho từng doanh nghiệp phải tự điều chỉnh cơ cấu sản xuất kinh doanh để làm tròn nhiệm vụ nộp thuế cho Nhà nước, mà còn thu được lợi nhuận bình quân xã hội. Xây dựng chính sách thuế ít mức thuế suất sẽ đơn giản cho công tác quản lý và thi hành. Việc nghiên cứu, áp dụng ít mức thuế suất có rất nhiều ưu điểm, tạo ra tiên đề đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh phải tự đổi mới về mọi mặt để có thể phát triển và thích nghi với những yêu cầu hiện tại và tương lai.
+ Giảm số lượng thuế suất chỉ còn 2 mức ( trừ thuế suát 0% áp dụng đối với hàng xuất khẩu): Thuế giá trị gia tăng đang áp dụng 4 mức thuế suất : 0%; 5%; 10% và 20%. Việc thay thế 11 mức thuế suất thuế doanh thu bằng 4 mức thuế suất thuế giá trị gia tăng trong thời gian đầu là việc làm thận trọng hợp lý, tránh những biến động lớn đảm bảo sự bình ổn và phát triển kinh tế. Đây chỉ là các quy định tình thế; trước mắt trong thời gian tới chúng ta chỉ nên áp dụng các mức thuế suất: 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; 5% đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu; những mặt hàng còn lại là 10%; bỏ thuế suất 20%. Đối với một số hàng hoá, dịch vụ cần thiết phải đánh thuế suất cao, cần nghiên cứu để chuyển sang nhóm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt để nâng cao tính trung lập của thuế giá trị gia tăng.
- Về hoàn thuế giá trị gia tăng: trong thời gian tới khi luật thuế giá trị gia tăng đang từng bước hoàn thiện để tránh gian lận trong việc kê khai khống để hoàn thuế nên giảm bớt số đối tượng được thực hiện hoàn thuế. Chỉ tập trung hoàn cho các doanh nghiệp tổ chức hạch toán đầy đủ, chính xác, xuất - nhập khẩu chính ngạch, thực hiện thanh toán qua ngân hàng và một số dự án đầu tư xây dựng có số thuế đầu vào lớn.
-Về hoá đơn, chứng từ: khuyến khích sử dụng hoá đơn tự in.
2. Thành lập các trung tâm tư vấn thuế .
Cơ sở tạo nên nhu cầu tư vấn thuế xuất phát từ đối tượng nộp thuế, từ hệ thống pháp luật và từ chính các cơ quan thuế. Số lượng lớn các đối tượng nộp thuế tạo nên nhu cầu không nhỏ đối với dịch vụ tư vấn thuế.
Hiện nay, cả nước có hơn 5.700 doanh nghiệp Nhà nước, trên 50.000 doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần ( trong đó có khoảng 15.000 doanh nghiệp được thành lập mới theo luật doanh nghiệp), hơn 1.000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và trên 1,2 triệu hộ kinh doanh đang tham gia vào đời sống kinh tế của đất nước. Ngoài việc tạo ra sản phẩm hàng hoá phục vụ nhu cầu xã hội, tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, họ còn có nghĩa vụ phải đóng góp cho Ngân sách Nhà nước từ đó tạo nên nhu cầu về tư vấn thuế rất lớn.
Mặc dù hiện nay pháp luật về thuế đang ngày càng được hoàn chỉnh, quy trình ngày càng cải tiến theo hướng đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế vào Kho bạc. Nhưng không phải tất cả các đối tượng nộp thuế đều nắm chắc và hiểu biết đầy đủ về pháp luật thuế để thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Hơn nữa các sắc thuế mới được áp dụng ở nước ta như thuế giá trị gia tăng còn là vấn đề bỡ ngỡ, gây lúng túng cho nhiều doanh nghiệp; thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện cũng được các doanh nghiệp cho là không ít phức tạp. Công tác tư vấn thuế trở thành yêu cầu khách quan đối với đối tượng nộp thuế.
Đồng thời tư vấn thuế chính là một chức năng cơ bản của cơ quan thuế nhằm tăng cường ý thức tự giác, tự nguyện chấp hành các luật thuế của đối tượng nộp thuế, đảm bảo thực hiện nhiệm vụ thu đúng, thu đủ, thu kịp thời và các khoản thu khác vào Ngân sách Nhà nước. Cơ quan thuế phải tiến hành công tác tuyên truyền, giải thích các luật thuế, giải đáp vướng mắc cho các đối tượng nộp thuế. Sự phát triển của tư vấn thuế sẽ góp phần giảm nhân viên ngành thuế và chính là một phần của công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế.
ở các nước trên thế giới dịch vụ tư vấn thuế rất phát triển và qua thực tế nó đã góp phần giảm biên chế trong ngành thuế nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế. Như ở Nhật Bản, từ năm 1950 đến nay, số nhân viên ngành thuế không những không tăng mà còn giảm ( năm 1995 là 57.000 người so với 62.000 người năm 1950); trong khi ở nước ta, số nhân viên thuế ngày càng lớn, nhưng hiệu quả thực hiện công tác thuế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. ở nước ta dịch vụ này còn rất đơn lẻ, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh ... song hình thức tư vấn tư chưa được phát triển thành các tổ chức nên có rất ít đối tượng tiếp cận được loại hình này. Do đó, thúc đẩy tư vấn thuế trong điều kiện hiện nay đang trở thành một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, trên nhiều mặt : thể chế hoá bằng văn bản, các dịch vụ tư vấn thuế; khuyến khích và có cơ chế ưu đãi phát triển các tổ chức tư vấn thuế tư; hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực cho các chuyên gia, cán bộ làm công tác tư vấn thuế.
Các trung tâm này giải đáp mọi vướng mắc của các đối tượng nộp thuế về: tính thuế, thuế suất, điều kiện hoàn thuế, thủ tục đăng ký khai nộp thuế ... cho các đối tượng phải nộp thuế có nhu cầu tư vấn thuế. Trong đó, trung tâm tư vấn thuế công trực thuộc Cục thuế, chi Cục thuế tư vấn các chế độ chính sách về thuế mang tính chất chung như: tư vấn về kế toán thuế cho đối tượng nộp thuế, các chế độ chính sách mới ban hành liên quan đến nhiều ngành nghề kinh doanh, thủ tục kê khai nộp thuế, các hoá đơn chứng từ liên quan tới hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu ... để các đối tượng này làm tròn nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước và dịch vụ này tư vấn không thu phí. Còn trung tâm dịch vụ tư vấn tư cung cấp mọi dịch vụ liên quan đến thuế theo yêu cầu của khách hàng và có thu phí. Thành lập các trung tâm này giúp các đối tượng hiểu biết về luật thuế rõ hơn, nhằm mở rộng kênh thông tin hỗ trợ pháp luật cho hoạt động của doanh nghiệp giúp họ thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật hơn từ đó làm giảm công tác đôn đốc nộp thuế, giảm chi phí thu thuế, giảm các đơn kiện xuất phát từ sự hiểu biết kém về luật thuế.
Kết luận
Công cuộc cải cách thuế bước II với sự ra đời của luật thuế giá trị gia tăng là một bước tiến vượt bậc so với thuế doanh thu trước đây góp phần đưa nước ta hội nhập
về kinh tế, nhất là trong lĩnh vực thuế với các nước trong khu vực và trên thế giới. Qua hơn ba năm thực hiện, luật thuế giá trị gia tăng đã thực sự phát huy tác dụng tích cực trên các mặt tài chính - kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện gặp không ít khó khăn, vướng mắc ở chính ngay bản thân luật thuế và do các điều kiện khách quan mang đến như điều kiện về kinh tế xã hội ... đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp thích hợp tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
Công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn được xem là mặt trận “ nóng bỏng “ xuất phát từ đặc điểm của loại hình kinh doanh này. Trên địa bàn tỉnh Nghệ An mặc dù tỷ trọng thu thuế cuả thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chiếm rất nhỏ trong tổng số thu ( 13% ) và chiếm 9% về số thuế giá trị gia tăng thu được, nhưng số cán bộ thuế ngoài quốc doanh lại chiếm hơn 80% tổng số cán bộ của toàn ngành. Nguồn thu này trong những năm qua chưa tương xứng với mức độ và quy mô phát triển sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế này trong đó có doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính vì vậy đề tài: “ Giải pháp tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn Tỉnh Nghệ An “ rất thiết thực, hứng thú đồng thời cũng khá phức tạp.
Với nội dung phân tích ở từng chương, tác giả luận văn đã cố gắng hệ thống hoá một số vấn đề mang tính lý luận cơ bản như: khái niệm thuế, thuế giá trị gia tăng; đặc điểm, vai trò, vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế, quy trình quản lý thu thuế, các nhân tố tác động tới hiệu quả quản lý thu thuế giá trị gia tăng… ; cũng như làm rõ thực trạng quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh do Cục thuế Nghệ An quản lý. Luận văn đã thẳng thắn nêu ra những vướng mắc, hạn chế trong công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, luận văn đưa ra những giải pháp, kiến nghị góp phần khắc phục những hạn chế đó nhằm tăng cường quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên điạ bàn tỉnh Nghệ An.
Đây là vấn đề mới mẻ và phức tạp, hơn nữa với thời gian và trình độ có hạn nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Kính mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, các cán bộ thuế và các bạn quan tâm để tác giả có nhiều kiến thức chuyên môn khi ra trường và để luận văn hoàn thiện hơn, có tính khả thi hơn.
Tài liệu tham khảo
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2000 - 2010.
Luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn chi tiết luật thuế giá trị gia tăng.
Giáo trình thuế - Trường Đại học Tài chính.
Luận văn tốt nghiệp.
Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2000, 2001.
Báo cáo tình hình thu nộp thuế năm 2000, 2001.
Thời báo kinh tế.
Tạp chí thuế và Nhà nước.
Tạp chí tài chính.
Tạp chí thông tin tài chính.
Tạp chí kế toán.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Họ và tên giáo viên hướng dẫn:
Chức vụ :
Nhận xét luận văn tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị An:
Điểm: - Bằng số :
- Bằng chữ: Người nhận xét
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33879.doc