Luận văn Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai

Quá trình thực tập tại công ty dệt Minh Khai cũng là quá trình em tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu cũng như những thuận lợi và khó khăn của công ty, trên cơ sở nắm vững những vấn đề lý luận cơ bản có liên quan tới hoạt động xuất khẩu, đã giúp em có được cái nhìn cụ thể và bao quát hơn về những vấn đề của công ty. Với một số giải pháp nêu ra ở trên mà em thấy là thiết thực và có tính khả thi đối với công ty, em hy vọng sự đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình có thể giúp công ty từng bước khắc phục được những khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển đi lên vững mạnh hơn nữa, xứng đáng là đơn vị chủ lực của ngành công nghiệp dệt may Hà Nội.

doc100 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty Dệt Minh Khai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước nào hay một nhóm nước nào. Cục diện cạnh tranh được hình thành như sau: Cơ hôi xuất khẩu sẽ gia tăng cho tất cả các nước. Trong khi tất cả các nước Bắc Mỹ và EU vẫn là thị trường nhập khẩu lớn của thế giới, thì chính các nước xuất khẩu khác cũng sẽ là một thị trường nhập khẩu rộng lớn. Đồng nghĩa với điều này là cạnh tranh xuất khẩu giữa các nước ngày càng mở rộng quyết liệt hơn và đi đến khai thác triệt để hơn các lợi thế tạo thành sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. Nói cách khác sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may xuất khẩu sẽ có xu hướng trở lại gần hơn với sức cạnh trạnh “thực” của nó Các nước phát triển sẽ bị giảm sức cạnh tranh đối với các sản phẩm dệt may sử dụng nhiều lao động, giá trị gia tăng thấp do giá lao động trong nước ngày càng tăng. Tuy nhiên, các nước này sẽ khai thác khả năng cạnh tranh dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, tạo ra sản phẩm chất lượng cao nhờ lợi thế phát triển đi trước của công nghệ sản xuất, trình độ am hiểu khám phá thị trường và thiết kế mẫu mã. Các sản phẩm dệt may xuất khẩu có sức cạnh tranh cao của các nước này là: sản phẩm dệt có chất lượng cao, sợi nhân tạo, trang phục chất lượng cao, các sản phẩm sử dụng chất liệu mới... Các nước đang phát triển đặc biệt là các nước xuất khẩu mới (ở Nam á, ASEAN và Trung Quốc) sẽ tiếp tục khai thác khả năng cạnh tranh dựa trên lợi thế về nguồn nhân công rẻ, dồi dào. Các sản phẩm dệt may xuất khẩu có sức cạnh tranh cao của các nước này là sản phẩm dệt có chất lượng thấp và trung bình, sợi tự nhiên và đặc biệt là sợi bông, trang phục thông thường, các sản phẩm sử dụng chất liệu tự nhiên. Như vậy, cục diện cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may trong xu thế tự do hoá thương mại phát triển theo cả chiều rộng (cạnh tranh giữa các quốc gia) và theo chiều sâu (cạnh tranh theo mặt hàng, nhóm hàng). Cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may không chỉ là cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu với nhau trên thị trường nhập khẩu mà nước xuất khẩu này phải đối mặt với cạnh tranh của các nước xuất khẩu khác ở chính ngay trên thị trường nội địa 2. Định hướng phát triển của ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 ở Việt Nam dệt may là một ngành có truyền thống lâu đời và có thể phát triển ở mọi vùng của đất nước từ đô thị đến nông thông, từ đồng bằng đến miền núi với nguồn nhân lực dồi dào cả về số lượng và chất lượng. Ngành dệt may là một ngành công nghiệp tiêu dùng nhưng đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Cùng với việc thu hút trên 1.6 triệu lao động chưa kể số lao động trồng bông nuôi tằm, ngành dệt may Việt Nam hàng năm đã có những đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm và đăc biệt là đóng góp vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Có thể nói hơn 10 năm qua ngành dệt may nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, sản phẩm dệt may xuất khẩu nhiều năm liền luôn đứng thứ hai trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, chất lượng sản phẩm dệt may xuất khẩu được đánh giá cao trên thị trường thế giới. Nhưng cho tới nay sự thành công của Việt Nam chủ yếu dựa vào giá nhân công dẻ và sức hấp dẫn đối với các nhà sản xuất châu á muốn tìm địa đIúm gia công. So với các quốc gia xuất khẩu dệt may khác như Trung Quốc, Indonesia, Thai Lan thì sản xuất của ngành dệt may Việt Nam được xem là lỗi thời với máy móc còn cũ kỹ lạc hậu, đặc biệt là trong các doanh nghiệp nhà nước. Những khung dệt hầu hết có khổ hẹp hạn chế việc đa dạng hoá sản phẩm và chất lượng sản phẩm chưa cao. Vì vậy nguyên phụ liệu cần thiết để đáp ứng cho sản xuất xuất khẩu không đủ. Trước khủng hoảng châu á mà kéo theo khủng hoảng này là sự mất giá của hàng loạt các đồng tiền, tiền nhân công Việt Nam trong ngành dệt may Việt Nam được xem là thấp nhất trên thế giới. Nhưng sau khủng hoảng do ảnh hưởng của khủng hoảng tới các nước khác mạnh hơn ở Việt Nam, nên tiền nhân công VIệt Nam trong lĩnh vực này lại trở nên cao hơn. Bên cạnh đó năng suất lao động trong ngành dệt may Việt Nam hiện tại còn thấp chỉ bằng 50-70% năng suất lao động ở Trung Quốc và các đối thủ khác ở Châu á như Thái Lan, Hồng Kông, ấn Độ, Indonesia. Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan song xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vẫn chưa được xếp vào trong số mười nước xuất khẩu lớn nhất và thị phần chỉ chiếm 0.5% trên thị trường thế giới. Các thị trường nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam là EU và Nhật Bản, các thị trường lớn này cũng đang dần dỡ bỏ hạn ngạch để đến năm 2005 đối với các nước đã là thành viên của WTO sẽ không còn mặt hàng dệt may nào bị áp đặt hạn ngạch. Trong xu thế như vậy ai đáp ứng được chất lượng, giá cả và đáp ứng nhanh đơn hàng mới thì mới có thể đứng vững được. Đồng thời kết quả kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm gần đây cũng cho thấy đang có xu hướng chuyển dịch từ các thị trường EU, Nhật Bản sang các thị trường Hoa Kỳ, Nga, Canada. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được ký kết vào tháng 7/2000 và có hiệu lực từ năm 2001 là một cơ hội to lớn cho xuất khẩu dệt may Viêt Nam vì đây là thị trưòng nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, sức tiêu thụ khổng lồ lại dễ tính. Có thể nói trong thời gian tới cơ hội thị trường sẽ mở rộng ra rất nhiều cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam bởi xu thế tự do hoá thương mại đối với ngành dệt may và đến năm 2005 thì sẽ thực sự tự do hoá hoàn toàn sẽ không có bất kỳ cản trở nào. Bên cạnh những cơ hội thì cũng có những thách thức gay gắt vì những yếu kém vốn có của ngành dệt may nước ta đó là khả năng tự đáp ứng nguyên liệu và sức cạnh tranh . Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt như vậy ngành dệt may Việt Nam đã xây dựng chiến lược tăng tốc phát triển dệt may trong giai đoạn từ nay đến năm 2005 nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với hàng dệt may của các nước khác trong khu vực và trên thế giới vào thời điểm năm 2006 và những năm tiếp theo. Mục tiêu và ngành dệt may đặt ra là phấn đấu đưa công nghiệp dệt may trở thành ngành xuất khẩu chủ lực thoả mãn ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước tạo nhiều việc làm cho người lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc vào kinh tế khu vực và thế giới. Để cụ thể hoá cho mục tiêu trên ngành dệt may Việt Nam đã đưa ra các chỉ tiêu cần đạt được: đến năm 2005 ngành dệt may quyết tâm đạt được kim ngạch xuất khẩu 5 tỷ USD và 7.5 tỷ USD vào năm 2010 với mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 15%, tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm xuất khẩu lên từ 45-50%, tăng cường sản xuất nguyên phụ liệu cho hàng dệt may và sử dụng thêm 500.000-700.000 lao động Riêng đối với ngành dệt quan điểm của chiến lược tăng tốc bao gồm: Ưu tiên phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu hoá chất, phục vụ cho sản xuất tiết kiệm ngoại tệ đồng thời tạo thế chủ động trong kinh doanh. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ sở, doanh nghiệp trồng bông, dệt, hoá chất, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển Khai thác tối đa tiềm năng đất nước nhằm phục vụ cho sản xuất xuất khẩu. Chú trọng công tác thiết kế cho các sản phẩm dệt mới nhằm từng bước củng cố vững chắc uy tín, nhãn hiệu hàng dệt Việt Nam trên thị trường quốc tế. Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, tăng nhanh số lượng tạo bước nhảy vọt về chất lượng đối với các sản phẩm dệt may nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và ngoài nước. Chú trọng đầu tư chiều sâu trang thiết bị công nghệ cao, kỹ thuật tiên tiến hiện đại để cân đối lại các dây truyền sản xuất cho đồng bộ, bổ sung thay thế các thiết bị lạc hậu, cải tạo nâng cấp một số máy móc nhằm tăng năng suất giảm chi phí, mở rộng mặt hàng, khắc phục ô nhiễm môi trường. Để thực hiện chiến lược tăng tốc đã đề ra hiệp hội dệt may Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm để các doanh nghiệp có thể trao đổi với nhau và giới thiệu sản phẩm tới các khách hàng trong và ngoài nước. Bên cạnh đó hiệp hội sẽ nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp dệt may và đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cầu nói trong việc hợp tác sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài hiệp hội. Tóm lại, mục tiêu phát triển của ngành dệt may Việt Nam tới năm 2010 là: Toàn ngành có mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 15% kim ngạch xuất khẩu đạt 5 tỷ USD năm 2005 và 7.5 tỷ USD vào 2010 nâng cao trình độ công nghệ đạt mức tiên tiến của khu vực hiện nay vào năm 2010 (đạt mức tương đương của Hồng Kông và Thái Lan hiện nay). Đáp ứng đầy đủ kịp thời, nhu cầu đa dạng của dân cư trong mỗi giao đoạn cụ thể. Tạo việc làm cho khoảng 2 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình quân 100 USD/ người/ tháng. II. Phương hướng phát triển của công ty dệt Minh Khai Là một doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty may Việt Nam, công ty dệt Minh Khai cũng đang từng bước thực hiện chiến lược tăng tốc của dệt may đặt ra với mục tiêu là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, không ngừng khẳng định vai trò của công ty trong hàng chục các doanh nghiệp trực thuộc tổng công ty. Căn cứ vào xu hướng phát triển chung của toàn ngành dệt, trên cơ sở nhiệm vụ được giao, dựa vào nội lực và ngoại lực, công ty dệt Minh khai đã đề ra cho mình một hướng đi đúng đắn để mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên đáp ứng cho nhu cầu sản xuất trong tương lai nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty. * Về chiến lược kinh doanh xuất khẩu . Trên cơ sở chiến lược kinh doanh chung, công ty dệt Minh Khai đã đặt ra những kế hoạch để phát triển hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty nhằm thích ứng hơn nữa với cơ chế thị trường và phát triển đúng hướng. Phương châm mà công ty đặt ra cho hoạt động xuất khẩu của mình là hoàn thành tốt đúng thời hạn của các hợp đồng xuất khẩu, cố gắng tiến hành các thủ tục mà nhà nước và hợp đồng quy định một cách nhanh chóng như xin giấy phép xuất khẩu, làm thủ tục hải quan, chuẩn bị tốt hàng hóa nhằm đảm bảo đúng thời hạn giao hàng. Công ty cũng đề ra mục tiêu quyết tâm giữ vững và củng cố hơn nữa thị phần của mình trên thị trường Nhật Bản. * Kế hoạch sản xuất kinh doanh Trong xu thế phát triển chung để tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của công ty trên các thị trường đặc biệt là các thị trường khó tính như Nhật Bản và EU, công ty cần đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng không những về mặt số lượng mà còn cả về chất lượng lẫn hình thức mẫu mã sản phẩm. Bên cạnh đó công ty cũng đặt ra mục tiêu là phấn đấu hạ giá thành sản phẩm tới mức tối đa có thể. Trên cơ sở mục tiêu sản xuất kinh doanh trên công ty đã đề ra phương hướng phát triển sản xuất - xuất khẩu trong những năm tới như sau: - Tăng vốn kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất phù hợp với tiềm năng cũng như yêu cầu của công ty. - Đầu tư chiều sâu cho máy móc thiết bị, nhập các dây chuyền công nghệ sản xuất hiệnđại, bổ xung cho các thiết bị cũ, đáp ứng các yêu cầu sản xuất mới. - Dần chuyển sang dùng nguyên vật liệu trong nước hoàn toàn thay cho việc phải nhập khẩu nguyên liệu sản xuất như hiện nay. - Tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm áp dụng bộ tiêu chuẩn ISO 9002 để có thể đáp ứng được yêu cầu của các khách hàng khó tính nước ngoài. - Mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường khác như EU, Châu á, Mỹ ... bên cạnh đó tiếp tục củng cố và mở rộng xuất khẩu sang thị trường NHật. - Xúc tiến quảng cáo, bán hàng rộng rãi, tham gia các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm các bạn hàng. - Xây dựng một hệ thống kênh phân phối hoàn chỉnh bao gồm các cửa hàng và đại lý ở trong nước và ngoài nước. - Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật để nâng cao khả năng tiếp thu và ứng dụng nhanh các công nghệ sản xuất hiện đại để đưa vào vận hành sản xuất. III. Một số giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty dệt Minh Khai . Trong bối cảnh hiện nay một công ty muốn tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt là điều không phải dễ, song cũng không hoàn toàn là quá khó nếu như công ty đề ra được mục tiêu và có hướng đi thích hợp trong từng giai đoạn. Để đạt được các mục tiêu đề ra, công ty cần phải có biện pháp thích hợp nhằm tác động vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu ở công ty dệt Minh Khai cũng như đánh giá những thuận lợi khó khăn còn tồn tại của công ty hiện nay, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty trong thời gian tới. 1. Tổ chức tốt công tác điều tra nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là một việc làm hết sức cần thiết đối với bất kỳ một công ty kinh doanh nào đặc biệt là công ty kinh doanh xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty trên thị trường nhất là thị trường quốc tế. Công tác nghiên cứu thị trường được thực hiện tốt và có hiệu quả sẽ tạo tiền đề, cơ sở cho quá trình tiếp cận thị trường cũng như quá trình chiếm lĩnh và củng cố thị trường cho công ty xuất khẩu. Nghiên cứu thị trường còn là căn cứ để công ty xuất khẩu lựa chọn thị trường xuất khẩu phù hợp với khả năng và tiềm lực của công ty. Hiện nay công tác nghiên cứu thị trường của công ty dệt Minh Khai vẫn còn khá yếu kém . Là một công ty sản xuất với mục tiêu chính để xuất khẩu , hoạt động nghiên cứu thị trường đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của công ty. Vậy mà cho tới nay hoạt động này vẫn bị bỏ ngỏ. Công ty chưa thực sự có sự quan tâm đầu tư đúng đắn cho các hoạt động của công tác nghiên cứu thị trường. Hoạt động nghiên cứu của công ty hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu tại bàn qua các nguồn thông tin trên báo, tạp chí, mạng Internet và các khách hàng quen thuộc. Việc tổ chức nhân sự cho công tác này bị coi nhẹ. Hoạt động nghiên cứu thị trường chỉ là một hoạt động nhỏ trong các hoạt động khác nằm ở phòng kế hoạch thị trường của công ty. Hiện tại phòng này mới chỉ có 6 nhân viên, cán bộ mà phải đảm nhiệm rất nhiều công việc từ việc xây dựng kế hoạch sản xuất và tiêu thụ, điều độ sản xuất đến các việc tổ chức tìm kiếm, lo nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, nghiên cứu thị trường, ký kết các hợp đồng xuất khẩu,lo tiêu thụ đầu ra cho sản phẩm. Với nhiệm vụ chồng chất và số lượng nhân viên ít ỏi như vậy nên phòng kế hoạch thị trường không thể thực hiện tốt công tác nghiên cứu thị trường . Trong những năm tới để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu công ty dệt Minh Khai cần có sự quan tâm đầu tư đúng đắn cho công tác này bằng các biện pháp cụ thể sau: - Thành lập riêng một phòng ban chuyên nghiên cứu thị trường- còn gọi là phòng Marketing, gồm 3-5 người. Các nhân viên cán bộ trong phòng này phải là những người có năng lực, thông thạo nghiệp vụ, có kinh nghiệm hiểu biết về thị trường trong nước và quốc tế. Việc thành lập phòng marketing cần phải được tiến hành khẩn trương. Về mặt nhân sự của phòng ban này, để có đủ số lượng nhân viên trong phòng này công ty có thể điều một cán bộ trong phòng kế hoạch thị trường có năng lực chuyên môn cao trong lĩnh vực marketing sang. Bên cạnh đó công ty phải tiến hành tuyển dụng thêm nhân viên và trang bị cho họ những kiến thức hiểu biết về thị trường, sản phẩm và đối thủ cạnh tranh của công ty. Hiện nay thị trường lao động trong nước đang rất sôi động, số lượng cử nhân kinh tế ra trường chiếm số đông. Vì vậy công ty có thể chọn lựa được những ứng cử viên thích hợp với những yêu cầu của công ty bằng các chính sách nhân sự, chính sách đãi ngộ hợp lý. Việc thành lập riêng một phòng marketing như vậy sẽ tách phòng kế hoạch thị trường ra thành hai phòng mới là phòng kế hoạch xuất nhập khẩu và phòng marketing. Mối quan hệ giữa phòng marketing với các phòng khác vẫn là quan hệ hợp tác và phối hợp hoạt động. Sau khi thành lập phòng ban này, công ty cần cho triển khai ngay hoạt dộng của phòng với nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là thực hiện việc nghiên cứư thị trường. Thời đại ngày nay là thời đại của khoa học và công nghệ, với sự phát triển như vũ bão của khoa học của khoa học và công nghệ cộng với sự gia nhập ngày càng nhiều của các doanh nghiệp dệt may trong nước và quốc tế đã tạo ra số lượng hàng hóa ngày càng nhiều, đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng ngày càng được nâng cao, sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết đã dẫn tới nguy cơ làm thu hẹp thị phần của các doanh nghiệp hiện tại trong ngành. Để đối phó với vấn đề này công ty dệt Minh Khai không phải chỉ dừng lại ở việc tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao mà còn phải nghiên cứu thiết kế ra những sản phẩm mới, mẫu mã chủng loại đa dạng hơn theo xu hướng tiêu dùng và thị hiếu tiêu dùng trong tương lai. Thực hiện công việc này đó chính là nhiệm vụ và trách nhiệm của phòng marketing. Các nhân viên phòng marketing phải năng động,có óc sáng tạo,có kiến thức hiểu biết rộng về các vấn đề thị trường, thường xuyên kiểm tra, theo dõiviệc tiêu thụ của các nhà phân phối sản phẩm của công ty trên thị trường xuất khẩu cũng như nôị địa; nghiên cứu tìm hiểu thị trường mới trên cơ sở nghiên cứu các thông tin qua sách báo mạng Internet đồng thời có những chuyến đi khảo sát thực tế để có thể bám sát nắm chắc tình hình nhu cầu cuả thị trường cũng như những biến động thay đổi của thị trường nhằm đáp ứng một cách tốt nhất và kịp thời nhu cầu của khách hàng. -Để phòng marketing hoạt động có hiệu quả, trước hết công ty dệt Minh Khai cần có sự đầu tư thoả đáng cho công tác nghiên cứu thị trường. Hàng năm công ty trích một phần lợi nhuận để đầu tư cho hoạt động này, trang bị các phương tiện công cụ nghiên cứu hiện đại phục vụ cho nghiên cứu đặc biệt là đôí vơí việc thu thập thông tin càng cần có sự đầu tư bổ sung các phương tiện hiện đại đảm bảo cho việc thu thập thông tin nhanh nhất, chính xác nhất. Đồng thời tổ chức tạo điều kiện cho các nhân viên thị trường có điều kiện đi khảo sát thị trường nước ngoài; tích cực tham gia các hội chợ triển lãm, đặc biệt là các hội chợ triển lãm tổ quốc tế tổ chức tại nước ngoài để giới thiệu sản phẩm của công ty đến người tiêu dùng, đồng thời đó cũng là dịp để công ty có thể trực tiếp tiếp xúc với khách hàngvà người tiêu dùng, bám sát nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Về phía phòng marketing, hàng năm phòng phải lập một ngân sách cụ thể chi tiết cho các hoạt động của phòngcùng với kế hoạch công tác trình lên giám đốc duyệt. Giám đốc sẽ căn cứ vào mức độ khẩn thiết quan trọng của từng việc đối với công ty, đặc biệt là đối với hoạt động xuất khẩu của công ty sẽ ra quyết định cấp ngân sách cho phòng hoạt động sao cho có hiệu quả nhất. Ngoài ra để làm tốt công tác này, phòng marketing cần được tổ chức và phân công công việc rõ ràng đến từng người, cụ thể sẽ phân chia phòng thành các bộ phận như sau: + Bộ phận marketing chuyên nghiên cứu thị trường truyền thống .Bộ phận này sẽ do hai nhân viên đảm nhiệm, chịu trách nhiệm nghiên cứu trên thị trường Nhật Bản, nhằm giúp công ty có thể giữ vững và phát triển sâu hơn trên thị trường này thông qua mở rộng quan hệ với khách hàng, đồng thời giúp công ty có thể trực tiếp tiếp xúc với người tiêu dùng Nhật bản, mở rộng kênh phân phối trên thị trường Nhật Bản. + Bộ phận thứ hai là bộ phận chuyên nghiên cứu tìm kiếm thị trường mới cho công ty do một hoặc hai nhân viên đảm nhiệm, chịu trách nhiệm tìm kiếm phát hiện mở rộng thị trường mới cho công ty. Bộ phận này sẽ đi sâu vào nghiên cứu nhu cầu sở thích, quy mô cũng như cách thức xâm nhập thị trường thông qua các chiến dịch khuếch trương, xúc tiến bán hàng. + Bộ phận thứ ba là bộ phận nghiên cứu marketing chungdo một nhân viên đảm nhiệm,chịu trách nhiệm nghiên cứu tổng quát các vấn đề về thị trường. Với cơ cấu phân công công việc như trên sẽ tạo điều kiện cho việc khai thác mở rộng thị trường cũng như đi sâu vào nghiên cứu các đặc điểm mang tính đặc thù của thị trường. Công việc, nhiệm vụ được phân công rõ ràng với trách nhiệm rõ ràng sẽ khắc phục được tình trạng "cha chung không ai khóc" như ở phòng kế hoạch thị trường hiện nay, đồng thời tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng giúp các nhan viên trong phòng có thể chủ động, linh hoạt trong việc ứng biến trước những biến động của thị trường xuất khẩu. 2. Hoàn thiện kênh phân phối xuất khẩu trên thị trường truyền thống, mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới - đồng thời củng cố vững chắc thị trường nội địa 2.1. Hoàn thiện kênh phân phối trên thị trường xuất khẩu truyền thống Thị trường xuất khẩu truyền thống của công ty là Nhật Bản. Từ năm 1983 công ty đã thực hiện xuất khẩu sang thị trường này. Bằng những nỗ lực và cố gắng không ngừng phục vụ tốt yêu cầu của khách hàng, công ty dêt Minh Khai đã dần chiếm lĩnh được thị trường Nhật Bản, thị phần ngày càng tăng lên. Công ty dệt Minh Khai trong kế hoạch phát triển, công ty luôn xác định rõ quá khứ, hiện tại, tương lai thị trường Nhật Bản luôn là thị trường xuất khẩu truyền thống chủ lực của công ty. Tuy nhiên trong thời gian qua, do sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh lớn như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia...đặc biệt là Trung Quốc, đã làm giảm thị phần, khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty trên thị trường Nhật Bản.Vì vậy trong những năm tới để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường này, bên cạnh những biện pháp cạnh tranh, công ty còn phải mở rộng, hoàn thiện kênh phân phối sản phẩm trên thị trường này. Vì hiện nay hệ thống kênh phân phối của công ty còn quá nhỏ bé đơn giản, các nhà phân phối sản phẩm của công ty luôn tìm cách ép giá buộc công ty phải giảm giá xuất khẩu, nên hiệu quả và lợi nhuận mang lại cho công ty chưa cao. Hơn nữa sản phẩm của công ty chính vì vẫn phải tiêu thụ qua các nhà phân phối trung gian này bằng việc sử dụng thương hiệu của họ để đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng. Vì vậy đây là một bất lợi lớn cho công ty trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Trong thời gian tới, bên cạnh việc xuất khẩu trực tiếp cho các nhà phân phối Nhật Bản, công ty cần lập kế hoạch đầu tư, thành lập một số cửa hàng bán sản phẩm xuất khẩu của công ty trực tiếp trên thị trường Nhật Bản. Đồng thời tích cực tìm kiếm mở rộng quan hệ bán hàng xuất khẩu với các nhà bán lẻ trên thị trường Nhật Bản là các cửa hàng, tạp hoá, siêu thị, khách sạn Nhật Bản. Hiện nay ở Nhật Bản đang phát triển cách thức bán hàng theo đơn đặt hàng, chọn hàng qua cataloge. Mẫu mã các sản phẩm giới thiệu trên cataloge nên thay đổi thường xuyên. Công ty có thể áp dụng cách này để chủ động giới thiệu sản phẩm cho công ty trên thị trường Nhật Bản, đồng thời gửi các sản phẩm mẫu đến chào hàng tới các nhà bán lẻ trên thị trường Nhật Bản kèm theo các điều kiện ưu đãi,phục vụ tốt nhất, đảm bảo trong thời gian không lâu sẽ thiết lập được mối quan hệvới các nhà bán lẻ bên cạnh các nhà bán buôn sản phẩm của công ty. Hệ thống kênh phân phối của công ty trên thị trường Nhật Bản có thể được xây dựnh như mô hình sau: Mô hình 2: Mô hình kênh phân phối mới trên thị trường Nhật Bản của công ty dệt Minh Khai Công ty dệt Minh Khai Nhà bán lẻ Nhà bán buôn Đại lý bán hàng Nhà bán lẻ Người tiêu dùng cuối cùng Theo mô hình này, tốt nhất là công ty nên thành lập một đại lý bán hàng xuất khẩu của công ty trên thị trường Nhật Bản. Việc bán hàng xuất khẩu trực tiếp có thể sử dụng là lực lượng bán hàng của công ty, hoặc người bán hàng là người nước ngoài, nếu là người Nhật Bản thì càng tốt có hiểu biết kinh nghiệm về thị trường Nhật Bản. Sử dụng lực lượng bán hàng xuất khẩu là người Nhật Bản sẽ góp phần thúc đẩy tiêu thụ sản phẩmcủa công ty trên thị trường Nhật Bản. 2.2. Mở rộng xuất khẩu sang các thị trường mới Trong điều kiện xuất khẩu hiện nay của công ty, bên cạnh thị trường xuất khẩu truyền thống Nhật Bản, thì để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hơn nữa công ty dệt Minh Khai cần có sự đầu tư nghiên cứu, bằng các chiến dịch quảng cáo, khuếch trương giới thiệu sản phẩm để thâm nhập và mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng khác. Dự định của công ty trong thời gian tới là tìm cách thâm nhập thị trường Mỹ, đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. Để thực hiện mở rộng thị trường xuất khẩu sang Mỹ, EU thì các công việc công ty cần phải làm là: - Đầu tư chiều sâu cho công tác nghiên cứu thị trường . - Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. - Xúc tiến quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, đài, báo, tạp chí, các băng rôn khẩu hiệu, áp phích, quảng cáo trên mạng Internet. -Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm hàng tiêu dùng trên các thị trường Mỹ và EU nhằm giới thiệu sản phẩm của công ty tới người tiêu dùng. Các công việc nghiên cứu quảng cáo tham gia hội chợ triển lãm sẽ do các nhân viên phòng marketing đảm nhiệm. Lưu ý đối với công ty trên thị trường EU là trong thời gian hiện nay công ty cần khai thác hiệu quả các quy định về hạn ngạch, tìm hiểu nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của người dân EU đối với mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Các nhân viên marketing sau khi đã tiến hành nghiên cứu kỹ về thị trường, phối hợp với phòng kỹ thuật để nghiên cứu và thiết kế đưa ra những sản phẩm có mẫu mã, chất lượng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng EU. 2.3 Củng cố vững chắc thị trường tiêu thụ nội địa Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như ngày nay, các công ty xuất khẩu không chỉ phải cạnh tranh trên thị trường quốc tế mà sự cạnh tranh còn diễn ra ngay tại thị trường nội địa của chính công ty xuất khẩu. Thị phần của công ty xuất khẩu trên thị trường nội địa rất quan trọng, nó nói lên vai trò và vị trí của công ty trong ngành, vị thế của công ty trên thị trường. Công ty xuất khẩu muốn thành công trên thị trường xuất khẩu thì trước hết cần phải đạt được thành công bước đầu ngay trên thị trường nước nhà. Uy tín và danh tiếng của công ty trên thị trường nội địa sẽ là yếu tố góp phần tạo điều kiện cho công ty đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên thị trường quốc tế. Chiếm lĩnh được thị trường nội địa là cơ sở vững chắc, tạo tiềm lực vững vàng để công ty có thể mở rộng xuất khẩu, đồng thời phần nào gây được thiện cảm và sự tín nhiệm đối với khách hàng nước ngoài. Những năm qua công ty dệt Minh Khai đã có định hướng sai lầm để ngỏ thị trường nội địa. Công ty chỉ chú trọng tới xuất khẩu mà quên mất thị trường tiêu dùng nội địa, trong khi thị trường này đang có nhu cầu tiêu dùng loại sản phẩm cuả công ty ngày càng tăng lên. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phải có sự quan tâm đầu tư đúng đắn tới thị trường nội địa. Hiện tại việc tiêu thụ sản phẩm khăn bông của công ty trên thị trường nội địa mới chỉ dừng lại ở việc tiêu thụ trên một số tỉnh miền Bắc (mà chủ yếu là Hà Nội). Sản phẩm được tiêu thụ thông qua những người bán buôn, bán lẻ siêu thị nhà hàng và qua hai cửa hàng giới thiệu sản phẩm, một ở Hà Nội và một ở Hải Phòng. Tuy nhiên cả hai cửa hàng này đều chưa được đặt ở ngay trung tâm thương mại và các khu đông dân nên hiệu quả bán hàng không cao. Công ty nên di chuyển các cửa hàng này tới các khu đông dân, tổ chức thêm một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các khu trung tâm thương mại. Ngoài ra trong tương lai công ty cần mở thêm một số đại lý tiêu thụ để tạo điều kiện thuận lợicho các khách hàng ở xa có thể trực tiếp liên lạc với các đại lý. Bởi vì hiện tại các khách hàng khi muốn mua hàng của công ty đều phải thông qua phòng kế hoạch thị trường . Các đại lý mới thành lập chỉ được phép bán sản phẩm của công ty và sẽ được hưởng hoa hồng theo số lượng sản phẩm bán được. Công ty có thể lựa chọn đại lý dựa trên các tiêu chuẩn cơ bản sau: - Người làm đại lý phải có đủ tư cách pháp lý. - Có khả năng về tài chính. - Có địa điểm bán hàng thuận lợi, có khả năng hoạt động thương mại. - Quan điểm kinh doanh đại lý với mặt hàng của công ty . Đặc biệt với sự xuất hiện của một đại lý có ảnh hưởng tới việc tiêu thụ sản phẩm thì công ty không nên mở đại lý mới. Chẳng hạn như sự xuất hiện của đại lý khiến cho người bán lẻ không mua hàng của người bán buôn như trước đây thì sự xuất hiện của đại lý này thực sự không cần thiết. Mặt khác để giữ vững và củng cố vị trí của mình trên thị trường nội địa, công ty cần tạo nên mối quan hệ gần gũi hơn với khách hàng. Thông qua các đợt quảng cáo, tham gia hội chợ triển lãm để tìm kiếm khách hàng, đồng thời công ty cần phải làm tốt các công tác xúc tiến bán hàng để tăng nhanh số lượng tiêu thụ sản phẩm, khuyến khích khách hàng mua hàng như: - Tạo điều kiện cho quá trình mua hàng của khách hàng được nhanh chóng thuận lợi. Đối với những khách hàng mua với số lượng lớn thì công ty có thể khuyến khích bằng các dịch vụ vận chuyển miễn phí, xong chỉ áp dụng với khách hàng có lô hàng vận chuyển trong phạm vi nội thành Hà Nội. Với các khách hàng ở xa công ty có thể áp dụng các biện pháp chiết khẩu giảm giá. Thủ tục mua hàng, thanh toán tiền hàng phải được giải quyết linh hoạt, nhanh gọn, tránh phiền phức cho khách hàng. - áp dụng các biện pháp chiết khấu giảm giá: + Đối với các biện pháp chiết khấu, công ty nên áp dụng các biện pháp chiết khấu thanh toán và chiết khấu thương mại. Chiết khấu thanh toán được coi là một khoản tiền thưởng của công ty cho khách hàng mua với số lượng lớn, thanh toán nhanh hoặc đúng thời hạn. Trong thời gian tới công ty nên áp dụng chiết khấu thanh toán với tỉ lệ 1,3% doanh thu/ tháng để có thể thu tiền nhanh về trả cho các khoản vay ngân hàng với lãi xuất 1,1 %/ tháng của công ty. Như vậy thực chất công ty sẽ chỉ phải trả 0,2% / tháng cho chiết khấu thanh toán và chắc chắn sẽ kích thích được khách hàng mua hàng nhiều hơn. Chiết khấu thương mại được coi là khoản tiền thưởng của công ty với khách hàng có mối quan hệ thường xuyên và tiêu thụ số lượng lớn sản phẩm của công ty. Đối với hình thức này công ty nên áp dụng nhiều mức chiết khấu khác nhau, lũy tiến theo số lượng sản phẩm mà khách hàng tiêu thụ. + Đối với các hình thức giảm giá. Giảm giá là cách đền bù thiệt hại do sản phẩm của công ty kém chất lượng chokhách hàng. Những sản phẩm xuất khẩu không đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu công ty thường để lại tiêu thụ trong nước, song mức giá thành chưa thực sự có tác dụng khuyến khích đối với người tiêu dùng. Trong thời gian tới công ty cần phải giảm giá cho loại sản phẩm này của công ty. 3. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm * Cơ sở thực tiễn để áp dụng giải pháp này Đối với mọi doanh nghiệp kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất khẩu nói riêng thì biện pháp hạ giá thành sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao lợi nhuận là một công việc tất yếu mà bất kỳ nhà quản trị nào cũng phải nghĩ đến. Công ty dệt Minh Khai hiện nay đang phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường trong nước và quốc tế. Các sản phẩm của công ty có chất lượng tốt nhưng giá bán còn cao. Giá xuất khẩu sản phẩm của công ty trên thị trường Nhật thường cao hơn các đối thủ cạnh tranh rất nhiều nên công ty thường bị các công ty thương mại Nhật Bản ép giá. Vì vậy công ty phải có hướng phấn đấu hạ giá thành sản phẩm, mà muốn hạ giá bán sản phẩm thì cách tốt nhất là hạ giá thành sản phẩm sản xuất. Các biện pháp hạ giá thành sản phẩm có thể được thực hiện như sau: * Nội dung giải pháp hạ giá thành sản phẩm Giảm chi phí nguyênvật liệu. Tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu sẽ làm cho chi phí nguyên vật liệu trong giá thành sản phẩm giảm nhiều vì trong kết cấu giá thành sản phẩm của công ty tỉ trọng nguyên vật liệu chiếm 60-70%. Hiện tại công ty đang chủ yếu sản xuất bằng nguyên liệu ngoại nhập( chiếm khoảng 80% số nguyên vật liệu đầu vào của công ty). Giá mua nguyên vật liệu của nước ngoài bao giờ cũng đắt hơn trong nước vì khi nhập nguyên vật liệu công ty phải chịu thêm thuế nhập khẩu, phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Mặt khác hiện nay ở nước ta có một số doanh nghiệp có thể sản xuất sợi bông và sợi polieste có chất lượng khá cao, hầu như không thua kém nước ngoài và các loại hóa chất, thuốc nhuộm như: NAOH, H2O2(50%), HCl, axit axêtíc (1%) chất lượng tốt. Bảng 11. Giá cả nguyên vật liệu chính Khoản mục Nhập khẩu Trong nước Giá mua một kg sợi 24.2 22.3 Chi phí vận chuyển 0.2 0.03 Chi phí nhập khẩu 0.1 0 Chi phí khác 0.05 0.02 Tổng giá mua 1kg sợi 24.55 22.35 Vì vậy trong thời gian tới để giảm giá thành sản phẩm công ty có thể sử dụng tăng số lượng nguyên liệu nội địa lên. Hiện tại tỉ trọng nguyên liệu chính( sợi bông,sợi Polieste) chiếm khoảng 35% trong tỉ trọng giá thành sản phẩm( công ty sử dụng khoảng 1.338.400 kg nguyên liệu này mỗi năm, trong đó nhập khẩu 80% còn 20% là từ trong nước. Trong nước công ty sử dụng nguyên vật liệu chính của 4 công ty Miền Bắc: dệt 8-3, dệt 19-5, công ty dệt may Hà Nội và sợi Hà Nội. Hiện nay một số công ty miền Nam có thể đảm bảo ch công ty 30% nguyên vật liệu chính và chất lượng vẫn đảm bảo tốt, tổng giá mua là 22.700 đồng/ kg. Nếu công ty sử dụng thêm 30% nguyên liệu chính ở trong nước thì sẽ tiết kiệm được: + Chi Phí nguyên liệu chính trước khi áp dụng: 24,55 *0,8*1,338.400 + 22,35*0,2*1.388.400 = 32.268.824 (nghìn đồng/ năm). + Chi phí nguyên vật liệu chính sau khi áp dụng: 24,55*0,5*1.338.400 + 22,35*0,2*1.338.400 + 22,7*0,3*1.338.400 =31.532.704(nghìn đồng/năm) + Công ty tiết kiệm chi phí nguyên liệu chính: 32.268.824 - 31.532.704 = 736.120 Một nguyên nhân nữa làm cho chi phí nguyên vật liệu cao là nhân viên mua nguyên vật liệu chưa có ý thức trách nhiệm trong việc mua nguyên vật liệu. Việc nhập nguyên liệu phải vận chuyển trên đường xa nhưng họ bảo quản không tốt làm cho một số lượng lớn nguyên vật liệu bị hỏng và doanh nghiệp phải bỏ đi số nguyên vật liệu đó. Ước tính số nguyên liệu chính công ty phải bỏ đi chiếm khoảng 0,5% số nguyên vật liệu chính mua về. Vì vậy, doanh nghiệp cần giáo dục và áp dụng các biện pháp hưởng phạt vật chất đối với những người đi nhập liệu làm hỏng nhiều. Cụ thể, nếu làm hỏng từ 0,25% đến 0,3% lượng nguyên liệu chính nhập về thì trừ 15% lương của họ, nếu làm hỏng từ 0,3% đến 0,4% lượng nguyên liệu chính nhập về trừ 25% lương của họ, nếu làm hỏng từ 0,4% đến 0,5% lượng nguyên liệu chính nhập về thì trừ 35% lương của họ. Nếu làm hỏng dưới 0,1% thì sẽ được thưởng. Nếu công ty phấn đấu giảm được số nguyên liệu chính phải bỏ đi xuống còn 0,2% thì mỗi năm công ty sẽ tiết kiệm được: (0,05 -0,02) * 0,8 *1.338.400*24,55 = 788.585,28 (nghìn đồng/năm). Như vậy với biện pháp giảm chi phí nguyên vật liệu này, công ty đã tiết kiệm được mỗi năm là 736.120 + 788.588 = 1.524.678 (nghìn đồng/ năm). Đây sẽ là điều kiện rất cần thiết để công ty có thể giảm giá bán được một số sản phẩm của mình góp phần duy trì mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. - Giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm. Công ty muốn tăng năng suất lao động cần phải tăng cường đào tạo bồi dưỡng đội ngũ công nhân. Nhìn chung đội ngũ cán bộ công nhân của công ty thường có tay nghề chưa cao, chưa có kinh nghiệm, chưa có tác phong công nghiệp, do đó ảnh hưởng đến năng xuất lao động. Thực tế cấp bậc công việc yêu cầu chung là 4 nhưng bậc thợ bình quân của công ty mới chỉ đạt 3,6%. Vì vậy, công ty cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn của người lao động để họ có thể thích ứng với công nghệ mới. Hiện tại công ty có nhu cầu đào tạo khoảng 30% số công nhân. Nhưng do hạn chế về tài chính và họ phải tiến hành sản xuất nên trước mắt công ty cho 10% số công nhân đi đào tạo lại, họ sẽ được đào tạo trong 2 tháng, một nửa số người này đi học buổi sáng và đi làm chiều, một nửa còn lại học buổi chiều và đi làm buổi sáng. Học phí do công ty trả với mỗi người hết 400 nghìn đồng/tháng. Do đó chi phí để đào tạo họ là: 0,1*1187*400*2 = 94960 (nghìn đồng) = 94,960 (triệu đồng). Với mức chi phí này là không nhiều và chắc chắn rằng sau khóa học số công nhân này có thể làm những công việc mà có trình độ công nghệ cao, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cho công ty. - Giảm chi phí cố định và hạ giá thành sản phẩm. Muốn giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm cần phấn đấu tăng và tăng nhiều sản phẩm, hàng hóa sản xuất ra. Có thể nói ở công ty hiện nay máymóc thiết bị của công ty chưa hoạt động hết công suất, mới hoạt động 60% công suất nên đẩy giá thành sản phẩm của công ty lên. Vì vậy, công ty cần nhanh chóng tìm kiếm thị trường mới, khách hàng mới để máy móc thiết bị hoạt động hết công suất. * Điều kiện thực hiện. - Nhân viên mua nguyên liệu phải nhanh nhậy đi tìm kiếm nguyên vật liệu để vừa đảm bảo chất lượng đề ra vừa góp phần hạ giá mua nguyên vật liệu. - áp dụng các biện pháp thưởng phạt vật chất đối với nhân viên đi mua nguyên liệu. - Dành riêng một khoản tiền cho việc thực hiện giải pháp này. - Công ty cần tiến hành nghiên cứu thị trường và áp dụng các biện pháp quảng cáo, tạo ra kênh phân phối có hiệu quả nhất để công ty có thêm khách hàng, thị trường. * Lợi ích thu được: Nếu hạ giá thành sản phẩm thì công ty sẽ hạ được giá bán sản phẩm. Nó khắc phục được một một số khó khăn lớn nhất của công ty hiện nay là giá bán sản phẩm của công ty còn cao nên nhiều người Việt Nam không dùng được và giảm tốc độ tiêu thụ mặt hàng chủ lực của công ty ở các thị trường xuất khẩu trong mấy năm gần đây, qua đó góp phần duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty. 4. Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng đội ngũ công nhân tay nghề cao tăng cường công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay của công ty dệt Minh Khai là công nhân quen với lối làm việc cũ nên mặt yếu của họ là tác phong công nghệ chưa có hoặc chưa rõ nét, trình độ tay nghề và tính kỷ luật chưa cao chưa có niềm say mê với công việc mình đảm nhận. Bởi vậy công ty cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề của người lao động. Bên cạnh đó công ty cần phải có các biện pháp nâng cao chất lượng người lao động bằng cách: Xây dựng tác phong công nghiệp, giao dục về chủ trương, đường lối, giáo dục ý thức lao động. Xoá bỏ tâm lý và phong cách của nền sản xuất nhỏ như cá nhân, chủ nghĩa ghen ghét, đố kị. Có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Việc tuyển dụng đào tạo công nhân cần phải có định hướng chiến lược lâu dài có thể cho công nhân đi học ở các trường đào tạo công nhân kỹ thuật, đào tạo hợp đồng đối với công nhân đứng máy với thời gian ngắn nhất là 6 tháng, còn đối với công nhân bảo toàn, bảo dưỡng thì ít nhất là hai năm. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu về chất lượng tay nghề của thợ. Song song với việc dạy nghề phải giáo dục lớp thợ mới nhận thức được vai trò, vị trí của người công nhân trong nền kinh tế có cồng nghiệp phát triển, sự cần thiết phải có tác phong công nghiệp tầm quan trọng hay giá trị của sản phẩm do công ty hoặc ngành sản xuất ra trong đời sống xã hội. Làm cho người công nhân biết được chất lượng sản phẩm rất cần thiết đối với hoạt động xuất khẩu, với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. + Đối với lớp công nhân cũ cũng phải tiến hành hoạch định kế hoạch đào tạo huấn luyện một cách liên tục, có hệ thống để cho họ nắm bắt kịp thời những thay đổi về công nghệ, thiết bị. Song song với việc đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao công ty còn phải bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý bằng cách: Công ty cử cán bộ đi học nhằm nâng cao trình độ quản lý, đáp ứng nhu cầu của công ty cũng như của thị trường . Công ty nên tuyển mới một số cán bộ kinh tế nhằm cân bằng với tầm quan trọng của công ty. Trong thời gian tới công ty nên đào tạo các cán bộ có thể kiêm nhiệm hoặc bổ sung thêm để công ty có thể tiến xa hơn. Để hoạt động xuất khẩu ngày càng được đẩy mạnh công ty cần đào tạo và tuyển chọn một đội ngũ chuyên việc Marketing có năng lực, đầu tư tài chính cho đội ngũ đó để đi khảo sát trên thị trường EU, Nhật Bản, Hàn Quốc...để tìm hiểu thị hiếu, thói quen các yêu cầu quy định về sản phẩm... trên các thị trường. Cần quan tâm hơn nữa đến việc huấn luyện chuyên môn đào tạo nhân lực bằng cách cử đi du học ở các nước có ngành công nghệ dệt phát triển để từ đó công ty có điều kiện học hỏi kinh nghiệm nghiên cứu lâu hơn về văn hóa, truyền thống dân tộc, thị hiếu tập quán cách tiêu dùng.. Vì vậy công ty có thể nắm bắt được sở thích tâm lý của khách hàng, dự đoán chính xác xu hướng tiêu dùng của thị trường để có phương án xâm nhập hiệu quả. Cũng bằng cách đó công ty nên đào tạo đội ngũ chuyên gia thiết kế những mẫu mã, nghiên cứu sáng tác các mẫu thêu phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của các vùng thị trường khác nhau về kiểu dáng, mầu sắc, kết cấu chất liệu hoa văn trang trí... của người tiêu dùng. Đồng thời công ty nên tạo dựng và duy trì nét đặc thù của sản phẩm dệt nhằm tạo ra nhãn hiệu riêng và củng cố uy tín của các sản phẩm của công ty. Để tiến hành đào tạo bồi dưỡng công nhân, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có hiệu quả thì công ty phải dành một khoản vốn đầu tư cho giáo dục bồi dưỡng con người, tổ chức kiểm tra rà soát đội ngũ lao động để biết thực lực tay nghề và triển vọng phát triển của từng cá nhân để có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp, quan hệ chặt chẽ với các trường đào tạo nghề cũng như các trường đào tạo quản lý. IV. Một số kiến nghị 1. Kiến nghị với nhà nước Ngành dệt may là ngành kinh tế mũi nhọn của nước ta, chuyên sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu , ngành có thể mang lại nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên công ty dệt Minh Khai nói riêng và ngành dệt may nói chung đang gặp rất nhiều khó khăn trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, đặc biệt là từ khi Trung Quốc gia nhập WTO, phải đương đầu với nhiều thách thức mới là hàng Trung Quốc đã rẻ nay lại được giảm thuế nhiều hơn nên giá xuất khẩu lại càng rẻ. Bản thân mỗi doanh nghiệp xuất khẩu dệt may sẽ rất khó vượt qua những khó khăn này. Vì vậy Nhà nước cần phải có nhiều biện pháp đồng bộ hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy ngành dệt may phát triển trong đó tập trung vào các biện pháp sau: Có chính sách đầu tư thỏa đáng đối với ngành dệt may và chính sách ưu tiên cho ngành dệt may. Hiện nay ngành dệt may gặp rất nhiều khó khăn nhưng nguyên nhân chủ yếu là số máy móc thiết bị đã quá cũ và lạc hậu, không đủ vốn để đầu tư cho máy móc thiết bị, công nghệ mới. Vì vậy sản phẩm sản xuất theo công nghệ cũ tất nhiên sẽ rất khó khăn trong cạnh tranh. Vậy kiến nghị với Nhà nước tăng vốn đầu tư cho ngành dệt may, có các chính sách ưu đãi đối với ngành như: Giảm thuế VAT xuống còn 5% chứ không phải 10% như hiện đang áp dụng, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp xuống 25% bằng với thuế thu nhập doanh nghiệp đang áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cho vay với lãi xuất ưu đãi hơn và ngân hàng nên nới lỏng điều kiện cho vay, cho các doanh nghiệp trong ngành vay vốn trung và dài hạn nhiều hơn với lãi xuất thấp hơn; cho phép các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành giữ lại nhiều lợi nhuận hơn để đầu tư phát triển. Mặt khác hiện nay các thủ tục hải quan kiểm tra xuất nhập khẩu còn rất rườm rà, gây chậm trễ việc giao hàng của các doanh nghiệp. Vì vậy Nhà nước cần cải tiến thủ tục hành chính trong việc quản lý xuất nhập khẩu, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu được dễ dàng. Ngoài ra, Nhà nước nên phối hợp với các tổ chức Việt Nam ở nước ngoài môi giới khách hàng và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp trong ngành dệt may; cung cấp những thông tin về thị trường xuất khẩu ; tổ chức các khóa đào tạo miễn phí nâng cao trình độ cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp. Chính sách phát triển các ngành phụ trợ cho ngành dệt may Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp trong ngành dệt may phải nhập nguyên liệu ở nước ngoài với giá cao. Ngành nguyên vật liệu cho ngành dệt may mới chỉ đáp ứng một phần nhỏ về số lượng và nhiều khi chất lượng không đảm bảo. Vì vậy Nhà nước nên có chính sách phát triển các ngành trồng bông và các ngành chế biến sợi, ngành hóa chất phục vụ cho ngành dệt may. Có chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu Hiện nay các mặt hàng dệt may nước ngoài tràn vào Việt Nam với số lượng lớn và rất nhiều sản phẩm nhập lậu qua biên giới quốc gia đặc biệt là hàng nhập lậu Trung Quốc đã ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của hàng dệt may nội địa, kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp trong ngành dệt may. Vì vậy đối với những sản phẩm dệt may nào mà ta có thể sản xuất được thì Nhà nước nên đánh thuế nhập khẩu cao và có biện pháp xử lý nghiêm minh các hoạt động nhập khẩu trái phép, buôn lậu. Tuy nhiên việc đánh thuế nhập khẩu cao chỉ có thể áp dụng trong một thời gian ngắn, bởi vì đến năm 2003 khi Việt Nam chính thức gia nhập AFTA, xóa bỏ hàng rào thuế quan. Vì vậy một mặt đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng không ngừng mặt khác ngành dệt may chưa đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế vì giá còn cao hơn nhiều, Nhà nước nên chăng giảm thuế mà không phải là xóa bỏ hoàn toàn đối với hàng dệt may xuất khẩu . Nhà nước nên đánh thuế rất thấp hoặc không đánh thuế đối với mặt hàng dệt may xuất khẩu. Ngoài ra, Nhà nước cần cung cấp các thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể tìm kiếm thị trường và lựa chọn đối tác kinh doanh; tạo điều kiện cho công ty gặp gỡ giao lưu với các đại diện nước ngoài thông qua các hội nghị. Tóm lại nếu Nhà nước làm được các điều này chắc chắn sẽ giúp không chỉ cho công ty dệt Minh Khai nói riêng mà còn cho cả ngành dệt may nói chung vượt qua những khó khăn này và ngày càng phát triển, có thể cạnh tranh được với các doanh nghiệp trên thế giới; các mặt hàng dệt may của Việt Nam ngày càng có chất lượng cao và có khả năng xuất khẩu với khối lượng lớn. 2. Kiến nghị với công ty Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, công ty dệt Minh Khai muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì sự quan tâm giúp đỡ tạo mọi điều kiện thuận lợi của nhà nước là hết sức cần thiết, song quan trọng hơn cả là công ty phải dựa vào nội lực của chính mình. Với những khó khăn còn tồn tại hiện nay của công ty thì việc áp dụng các giải pháp nhằn giải quyết các khó khăncần phải được xem xét và triển khai thực hiện ngay. Cụ thể ở đây công ty dệt Minh Khai cần phải -Nhanh chóng thành lập phòng marketing, tăng cường đầu tư cho các hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường Điều chỉnh lại chính sách giá mà hiện tại công ty đang áp dụng. Vì chính sách giá này làm cho giá cả sản phẩm của công ty trở nên cứng nhắc, không phân biệt giữa giá bán buôn và bán lẻ; đồng thời hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu. Việc điều chỉnh giá cả là một công việc hết sức quan trọng, nó liên quan trực tiếp tới khả năng xuất khẩu cũng như kết quả hoạt động xuất khẩu của công ty. Tích cực, tăng cường đầu tư hơn nữa cho việc đổi mới, sửa chữa máy móc thiệt bị nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm làm ra đáp ứng được yêu cầu của xuất khẩu. Quan tâm hơn nữa tới môi trường làm việc và đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty, có các chính sách khuyến khích đãi ngộ hợp lý cũng như các chế độ thưởng phạt nghiêm minh nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động đối với công việc. Kết luận Thúc đẩy xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng, liên quan tới sự tồn tại và phát triển của công ty Dệt Minh Khai nói riêng và toàn ngành dệt may Việt Nam nói chung. Thúc đẩy xuất khẩu dệt may được xem như là động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế đất nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may đem lại nhiều lợi ích to lớn, phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trở thành một nước công nghiệp. Trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu, công ty dệt Minh Khai đã tận dụng được những tiềm lực sẵn trong nước, tích cực đầu tư nâng cấp, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại , đào tạo nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu của công ty trên thị trường quốc tế, nhờ đó đã mang hiệu quả xuất khẩu cao, giải quyết được công ăn việc làm cho hơn 1000 lao động của công ty, đóng góp một lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình đẩy mạnh xuất khẩu, công ty Dệt Minh Khai nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may nói chung gặp phải không ít những khó khăn, đối mặt với những thử thách cam go khốc liệt đến từ sự cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trong khu vực và trên thế giới, trong đó đặc biệt là từ Trung Quốc. Vì vậy trong thời gian tới đòi hỏi công ty cũng như toàn ngành dệt may Việt Nam phải tìm ra những phương hướng, giải pháp thích hợp nâng cao khả năng cạnh tranh cho mặt hàng dệt may xuất khẩu để có thể đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu. Quá trình thực tập tại công ty dệt Minh Khai cũng là quá trình em tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu cũng như những thuận lợi và khó khăn của công ty, trên cơ sở nắm vững những vấn đề lý luận cơ bản có liên quan tới hoạt động xuất khẩu, đã giúp em có được cái nhìn cụ thể và bao quát hơn về những vấn đề của công ty. Với một số giải pháp nêu ra ở trên mà em thấy là thiết thực và có tính khả thi đối với công ty, em hy vọng sự đóng góp một phần ý kiến nhỏ bé của mình có thể giúp công ty từng bước khắc phục được những khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển đi lên vững mạnh hơn nữa, xứng đáng là đơn vị chủ lực của ngành công nghiệp dệt may Hà Nội. Danh mục tài liệu tham khảo PGS.TS Nguyễn Duy Bột , “Giáo trình thương mại quốc tế “, Nhà xuất bản Thống Kê- Hà Nội –1997 PTS Nguyễn Cao Văn < Marketing quốc tế “, Nhà xuất bản Giáo dục - Hà Nội- 1997 Lê Hiếu Tiến , “ Nghiệp vụ buôn bán quốc tế “, Nhà xuất bản Thanh niên , Hà Nội- 1996 PGS.TS Trần Minh Đạo - TS Vũ Trí Dũng , “ Giáo trình marketing quốc tế “, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội - 2002 PGS.TS Trần Chí Thành , “ Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế “, Nhà xuất bản Giáo dục , Hà Nội -1996 PGS Vũ Hữu Tửu trường đại học Ngoại thương, “ Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”, Nhà xuất bản Giáo dục , Hà Nội - 1998 PGS.TS Trần Chí Thành, “ Đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU “, tạp chí Kinh tế và phát triển số 141/2001 Minh Hương, “ Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam “, tạp chí Tài chính số 9/2002 Đoàn Nghiệp , “ Thị trường dệt may còn khó khăn”, tạp chí Thương mại số 21/2001 Th.S Thân Danh Phúc -Đại học thương mại , “ Những thay đổi cơ bản trong thương mạo hàng dệt may thế giới và ảnh hưởng tới cạnh tranh xuất khẩu hiện nay”, tạp chí Thương mại số 23/2000 Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33847.doc
Tài liệu liên quan