Luận văn Giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010

Khả năng tiếp cận và đổi mới công nghệ, nỗ lực đầu tư cho nghiên cứu phương pháp công nghệ và sản phẩm mới, số lượng bản quyền sáng chế, đầu tư nghiên cứu kiểu dáng sản phẩm. đều là những yếu tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu đến chất lượng và tính năng của sản phẩm. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, kiểm soát các yếu tố công nghệ là một trong những chìa khoá rất quan trọng để giúp doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh. Tuy nhiên, về mặt này các DNNN ở Việt Nam còn rất yếu. Nguyên nhân của tình trạng yếu kém này là do tồn tại nhiều yếu tố gây cản trở đến tiến trình đổi mới công nghệ trong các DNNN. Đó là: - Sự thiếu hiểu biết về thị trường mà nguyên nhân chính là do công tác nghiên cứu thị trường và tiếp thị yếu. - Sự thiếu hiểu biết về công nghệ thích hợp, do hầu hết các DNNN đều không có những nghiên cứu một cách hệ thống về công nghệ thích hợp với thị trường. Do Việt Nam chưa có thị trường vốn trung và dài hạn nên các DNNN không có khả năng lựa chọn về nguồn vốn, còn phụ thuộc vào vốn của Ngân hàng nên việc tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại còn nhiều khó khăn. - Thủ tục đầu tư phức tạp và tốn thời gian, công sức, tiền bạc. - Việc thay đổi công nghệ nhiều khi không được người lao động ủng hộ đặc biệt là những người lao động lớn tuổi và ít được đào tạo. Họ lo sợ nếu áp dụng công nghệ hiện đại mới thì họ sẽ bị sa thải, bị mất “miếng cơm manh áo”. - Sự thiếu quyết tâm của bộ phận cán bộ lãnh đạo DNNN. Do DNNN được hưởng một số ưu đãi nên không thực sự phải đương đầu với sức ép cạnh tranh. Bởi vậy cán bộ quản lý doanh nghiệp không cảm thấy cần thiết phải thực hiện đổi mới công nghệ.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1754 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ản và giá lợi thế doanh nghiệp còn nhiều lỗ hổng nên công tác định giá còn mang nặng tính cảm quan, ước lượng và thoả hiệp giữa cơ quan đánh giá và doanh nghiệp. 3.2.5. Sự phân biệt đối xử đối với doanh nghiệp sau chuyển đổi tạo tâm lý e ngại khi tham gia quá trình chuyển đổi sở hữu So với trước kia khi còn là DNNN, doanh nghiệp sau chuyển đổi mất đi nhiều lợi ích liên quan đến các yếu tố đất đai, tài sản, tín dụng và các thủ tục hành chính. Điều này tạo ra tâm lý lo sợ cho các doanh nghiệp chuẩn bị thực hiện chuyển đổi sở hữu gây cản trở không nhỏ đến quá trình thực hiện kế hoạch. Do đó hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi có được thuận lợi trong việc huy động vốn tín dụng, trong các thủ tục hành chính cũng là nguyên nhân làm cho kế hoạch chuyển đổi không hoàn thành mục tiêu đặt ra. Thể hiện: a. Đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh Diện tích đất đai và nhà xưởng của phần lớn doanh nghiệp không bị giảm so với trước khi chuyển đổi. Nhiều doanh nghiệp vẫn tiếp tục được thuê đất và giao đất với mức giá thấp hơn nhiều so với giá trị thị trường nhưng vẫn gặp khó khăn trong các quan hệ với ngân hàng hoặc khi muốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân là do sự thiếu rõ ràng về quyền sử dụng cũng như chưa giải quyết dứt điểm các quyền và nghĩa vụ có liên quan khiến cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong bố trí kế hoạch kinh doanh ổn định, lâu dài. b. Quyền sở hữu tài sản Quyền sở hữu tài sản không rõ ràng đang gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp sau chuyển đổi. Khi tiến hành khảo sát trực tiếp tại các doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc sau khi tiến hành chuyển đổi cho thấy hầu hết các dây chuyền sản xuất chính hoặc tài sản có giá trị đều thuộc quyền sở hữu của tổng công ty. Doanh nghiệp đã tiến hành chuyển đổi rồi nhưng quyền sở hữu tài sản vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Doanh nghiệp sau chuyển đổi không biết những tài sản nào thuộc quyền sở hữu của mình, điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan đến những loại tài sản này. c. Vốn tín dụng và quan hệ với ngân hàng Một số vấn đề phát sinh gây khó khăn, trở ngại đối với các doanh nghiệp chuyển đổi. Đặc biệt là khoảng cách khá xa giữa quy định và thực tế thực hiện chính sách tín dụng ngân hàng và chưa tạo được môi trường bình đẳng cho doanh nghiệp sau chuyển đổi. Trước khi chuyển đổi, các doanh nghiệp được các đơn vị chủ quản hoặc tổng công ty phê duyệt phương án đầu tư hoặc các khoản vay lớn của doanh nghiệp - một hình thức gián tiếp bảo lãnh, gây sức ép với ngân hàng thương mại quốc doanh cho doanh nghiệp vay vốn. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện pháp tài chính như khoanh nợ, giãn nợ, chuyển vốn vay thành vốn của Nhà nước đầu tư… Nhưng sau khi chuyển đổi, các nguồn hỗ trợ này hầu như không còn trong khi đó nguồn vốn huy động từ bên trong của doanh nghiệp bị hạn chế và việc huy động nguồn vốn từ bên ngoài cũng gặp nhiều khó khăn. Điều này gây cản trở rất nhiều cho doanh nghiệp sau chuyển đổi tiến hành đầu tư mở rộng sản xuất. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH CHUYỂN ĐỔI SỞ HỮU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 I. Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 1. Quan điểm chỉ đạo Để thực hiện có hiệu quả quá trình chuyển đổi sở hữu DNNN ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, những quan điểm sau cần được quán triệt. Một là, DNNN phải chiếm vị trí then chốt và cùng với các yếu tố khác của KTNN thực hiện vai trò điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tư cách này, DNNN chỉ cần đạt được một tỷ lệ nhất định về GDP trong tổng số GDP của cả nền kinh tế và tỷ lệ này không nhất thiết phải ở vị trí áp đảo. Quan trọng là DNNN phải chiếm giữ ở những vị trí, những ngành kinh tế hay những lĩnh vực có ý nghĩa chiến lược quan trọng bậc nhất cùng với những văn bản pháp luật có liên quan, DNNN bằng chất lượng hoạt động của mình làm nòng cốt cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Hai là, DNNN chỉ nên nắm giữ những khâu trọng yếu của ngành, của nền kinh tế mà ở đó không thể cho các DNTN nắm giữ. Vì lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia, vì sự phát triển ổn định và cân đối của cả nền kinh tế mà DNNN phải đóng vai trò quan trọng trong những khâu trọng yếu nhất của đất nước. Vai trò chủ đạo của DNNN không phải ở số lượng nhiều hay ít mà là ở hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cao, tính tiên tiến về khoa học công nghệ… Đối với những lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng hoá thông thường, DNNN chỉ chiếm tỷ lệ tối thiểu, chủ yếu phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn… Ba là, tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để DNNN kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Thực hiện bảo hộ cần thiết, có điều kiện với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm quan trọng. Thực hiện độc quyền Nhà nước trong lĩnh vực cần thiết nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xoá bao cấp đồng thời có chính sách đầu tư đứng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần ưu tiên. Phân biệt rõ chức năng của cơ quan đại diện quyền chủ sở hữu của Nhà nước với chức năng điều hành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Giao quyền quyết định nhiều hơn đi đôi với đòi hỏi trách nhiệm cao hơn với đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp. Bốn là, việc tiếp tục thực hiện chuyển đổi sở hữu và nâng cao hiệu quả DNNN là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược lâu dài với nhiều khó khăn phức tạp và mới mẻ. Đối với những vấn đề đã rõ, đã có Nghị quyết thì khẩn trương kiên quyết triển khai thực hiện; những vấn đề chưa rõ thì phải tổ chức thí điểm, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, kịp thời uốn nắn những các sai sót, lệch lạc để có bước đi thích hợp, tích cực nhưng vững chắc. Năm là, chuyển đổi sở hữu phải đảm bảo được sự đồng bộ trong hoạt động cũng như quyền và lợi ích của doanh nghiệp sau chuyển đổi. Tức là tạo ra sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp sau chuyển đổi với doanh nghiệp trước khi chuyển đổi. Có như vậy mới khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia chuyển đổi sở hữu. Các chính sách liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi phải đáp ứng được mối quan tâm của doanh nghiệp về các yếu tố đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh và cho vay tín dụng… Sáu là, nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động về sự cần thiết phải tiến hành chuyển đổi sở hữu DNNN. Vấn đề này có ảnh hưởng gì đến mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề phức tạp vì nó hàm chứa không chỉ những khía cạnh kinh tế mà còn có những yếu tố chính trị xã hội hết sức nhạy cảm. Tuy nhiên, đã đến lúc cần phải nhìn nhận đúng vai trò của kinh tế ngoài nhà nước. Giữa mục tiêu phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với việc giữ lại hàng loạt những DNNN hoạt động kém hiệu quả, tác động xấu đến môi trường kinh doanh có mối quan hệ ngược chiều. Ngày 24/8/2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg quy định cụ thể các tiêu chí, danh mục phân loại các công ty nhà nước giữ 100% và 51% vốn. Điều này thể hiện quan điểm thiếu dứt khoát trong chuyển đổi sở hữu DNNN. Việc giữ lại DNNN là cần thiết nhưng không thể tồn tại công ty cổ phần mà Nhà nước lại nắm giữ 51% vốn bởi thực chất nó vẫn là DNNN. Chính mô hình này sẽ tiếp tục làm méo mó môi trường kinh doanh và tiếp tục tạo ra những rào cản về nhận thức. Nhà nước chỉ cần giữ lại một số DNNN trong lĩnh vực liên quan trực tiếp đến an ninh, quốc phòng và an sinh xã hội (bao hàm cả an ninh kinh tế). Tất cả các doanh nghiệp không thuộc dạng này đều phải tiến hành chuyển đổi sở hữu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 2. Mục tiêu thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước Thực hiện chuyển đổi sở hữu phải tạo ra được những doanh nghiệp đủ mạnh góp phần để kinh tế Nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. DNNN sau khi chuyển đổi phải có cơ cấu hợp lý, hoạt động có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, chiếm được thị phần lớn, điều khiển được nền kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế. Những doanh nghiệp sau chuyển đổi sẽ trở thành nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và xây dựng công sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp sản xuất công nghệ cao, công nghiệp quốc phòng, tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ những yêu cầu trên mà kế hoạch chuyển đổi sở hữu DNNN giai đoạn 2006 – 2010 đưa ra những định hướng sau: P Thực hiện chuyển đổi sở hữu và nâng cao hiệu quả của DNNN để DNNN góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. P Hoàn thành cơ bản việc chuyển đổi sở hữu DNNN, xây dựng hệ thống DNNN có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế: - Thu hẹp tối đa doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước giữ 100% vốn, thực hiện chuyển đổi sở hữu đối với các doanh nghiệp này. Đến năm 2010, số lượng doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn chỉ còn lại 1200 doanh nghiệp, hoạt động có hiệu quả, đại bộ phận có quy mô vừa và lớn, công nghệ tiên tiến tập trung trong những ngành then chốt, cung ứng các sản phẩm và dịch vụ công ích liên quan đến an toàn xã hội, an ninh - quốc phòng. - Thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN gắn với thị trường vốn, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong xã hội, phát triển doanh nghiệp, giảm thất thoát cho Nhà nước và tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển đồng bộ của các yếu tố thị trường. Đến cuối năm 2005, số lượng DNNN còn lại là hơn 3000 doanh nghiệp và tổng số DNNN cần phải thực hiện chuyển đổi là gần 1500 doanh nghiệp. Mục tiêu này phải hoàn thành xong trong giai đoạn 2006 – 2010 nên kế hoạch chuyển đổi được phê duyệt như sau. Bảng 8: Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 Đơn vị: doanh nghiệp Năm Hình thức 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng 150 212 395 456 287 Cổ phần hóa 118 139 324 398 248 Các tỉnh 46 46 158 189 108 Các ngành 35 42 99 153 92 Tổng công ty 37 51 67 56 48 Giao 15 28 35 26 13 Các tỉnh 8 12 19 10 6 Các ngành 3 11 8 9 4 Tổng công ty 4 5 8 7 3 Bán 17 45 36 32 26 Các tỉnh 10 23 20 18 13 Các ngành 5 15 11 8 9 Tổng công ty 2 7 5 6 4 Nguồn: Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp Trung ương Trong hai năm 2006 và 2007, chỉ tiêu thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN thấp hơn các năm cùng kỳ, nguyên nhân là do: một là theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước hai năm này sẽ tập trung cổ phần hoá những DNNN có tài sản lớn, phức tạp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị tài sản; hai là các doanh nghiệp sau chuyển đổi phải thống nhất hoạt động theo Luật Doanh nghiệp mới mà Luật Doanh nghiệp này vừa mới được xây dựng cuối năm 2005 nên khuôn khổ pháp lý còn nhiều vướng mắc. Năm 2010 là năm tổng kết cho kế hoạch chuyển đổi sở hữu DNNN, hoàn thành xong việc chuyển đổi và chuyển sang giai đoạn mới – giai đoạn phát huy hiệu quả của các doanh nghiệp sau chuyển đổi. II. Giải pháp thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2006 – 2010 1. Tăng cường tổ chức quản lý Nhà nước tạo điều kiện tốt cho thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 1.1. Xác định những ngành, lĩnh vực mà doanh nghiệp nhà nước cần nắm giữ nhằm lựa chọn hình thức chuyển đổi sở hữu phù hợp Để thực hiện được vai trò nòng cốt của DNNN thì phải xác định được những ngành, lĩnh vực mà DNNN cần nắm giữ. Căn cứ của việc xác định sân chơi hay phạm vi của DNNN: - Căn cứ vào tính chất quan trọng, vị trí then chốt của các ngành kinh tế - Dựa vào khả năng, ưu thế của DNNN so với các thành phần kinh tế khác - Dựa vào điều kiện thị trường, sự tương quan của DNNN với các khu vực khác và mục tiêu phát triển của đất nước trong thời gian tới Dựa trên những căn cứ trên thì DNNN cần nắm giữ một số ngành và lĩnh vực chủ yếu sau: - Lĩnh vực công nghiệp: DNNN cần có khả năng đi đầu trong một số ngành tạo cơ sở vật chất cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như luyện kim, hoá chất cơ bản, chế tạo máy, khai thác khoáng sản có trữ lượng cao và quý hiếm, sản xuất một số vật liệu xây dựng và linh kiện quan trọng, những ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử, công nghệ tin học, công nghệ sinh học... - Lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: DNNN cần giữ vị trí quyết định trong các ngành đường sắt, vận tải biển, hàng không, sân bay, bến cảng, mạng lưới điện quốc gia, các khâu quan trọng của bưu chính - viễn thông, hệ thống thuỷ lợi lớn tưới tiêu cho nông nghiệp và chống thiên tai, cung cấp nước sạch. - Lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: DNNN tập trung vào phát triển các lĩnh vực có liên quan đến xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, đưa công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản. - Lĩnh vực thương mại: các doanh nghiệp thương mại nhà nước cần chi phối trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá đối với khâu xuất nhập khẩu, những ngành hàng và địa bàn quan trọng, chi phối bán buôn, và tổ chức tốt dự trữ các mặt hàng thiết yếu cho cả sản xuất và đời sống, tổ chức mạng lưới bán lẻ có sự chi phối của Nhà nước để thăm dò thị trường, nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Khi đã xác định được phạm vi hoạt động của DNNN trong nền kinh tế thị trường thì đây sẽ là cơ sở để thực hiện các giải pháp có liên quan đến chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp trong thời gian tới. Việc xác định sân chơi của DNNN và việc thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bởi cả hai công việc trên đều nhằm mục đích đảm bảo cho DNNN thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi, lĩnh vực hoạt động của mình góp phần nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Thông qua đó tăng cường tính chất xã hội hoá quản lý DNNN, tạo điều kiện nâng cao khả năng đầu tư phát triển và hiệu quả quản lý. Như đã phân tích ở trên, việc thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN được thực hiện theo các hướng sau: - Duy trì một tỷ trọng nhỏ các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm 100% vốn điều lệ, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực có liên quan đến an ninh, quốc phòng và bí mật quốc gia. - Các doanh nghiệp mà trong đó vốn của Nhà nước chiếm một tỷ lệ lớn hoạt động trong các lĩnh vực công ích như cung cấp điện, nước... Đối với các doanh nghiệp này không nên duy trì hình thức doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước nhằm mở rộng phạm vi đầu tư của các loại hình dịch vụ công đồng thời giảm bởt tính cửa quyền, quan liêu của các nhà quản lý doanh nghiệp. - Các doanh nghiệp còn lại tiến hành chuyển đổi sở hữu với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế tạo điều kiện cho toàn xã hội tham gia đầu tư và quản lý doanh nghiệp. Với việc thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN như trên là phù hợp với xu thế chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác lại tạo điều kiện cho DNNN được quản lý một cách hiệu quả, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh. 1.2. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, để quá trình chuyển đổi sở hữu được diễn ra thuận lợi thì phải nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước đối với DNNN. 1.2.1. Phải phân định chức năng quản lý Nhà nước và chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Để có thể làm tốt mục tiêu này thì phải nhất quán quan điểm sau: - Nhà nước không vì là chủ sở hữu mà can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm giảm tính tự chủ, chủ động sáng tạo của doanh nghiệp. - Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, quyền lợi của cơ quan đại diện Nhà nước làm chủ sở hữu trực tiếp đối với doanh nghiệp để tránh tình trạng quá nhiều người quản lý, gây khó khăn cho doanh nghiệp. - Các cơ quan quản lý Nhà nước căn cứ theo các quy định của pháp luật và căn cứ theo yêu cầu trong lĩnh vực mình phụ trách để ban hành các văn bản pháp quy thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Cơ quan quản lý không nên can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở những quan điểm nêu trên thì sự phân cấp được thực hiện như sau: - Quản lý Nhà nước tập trung vào xây dựng khung pháp lý và ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với DNNN. Phải xoá bỏ bao cấp, thúc đẩy cạnh tranh và tạo quyền chủ động kinh doanh theo các tín hiệu của thị trường. - Chỉ đạo công tác xây dựng quy hoạch và chiến lược phát triển DNNN trong tổng thể chiến lược phát triển của đất nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cho DNNN, tổ chức kiểm tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương và các chính sách được ban hành. - Nhà nước tập trung chỉ đạo thúc đẩy phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp. Nhà nước có chính sách khuyến khích DNNN nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo điều kiện áp dụng công nghệ mới vào sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao mà giá thành hạ từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. - Quản lý điều hành sản xuất, kinh doanh là nhiệm vụ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở pháp lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác do Nhà nước giao nhằm thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ của doanh nghiệp. Người lãnh đạo doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm đầy đủ về mọi quyết định của mình trong sản xuất kinh doanh. 1.2.2. Phân định rõ quyền của cơ quan Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu và trách nhiệm của người sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Chủ sở hữu có quyền quyết định thành lập, thực hiện chuyển đổi sở hữu bằng các hình thức CPH, giao hoặc bán doanh nghiệp..., quyết định mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược và định hướng kế hoạch kinh doanh trung và dài hạn, ban hành điều lệ doanh nghiệp, bổ nhiệm hoặc bãi miễn, khen thưởng hoặc kỷ luật các cán bộ trong doanh nghiệp, và tổ chức kiểm tra giám sát việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp do Nhà nước giao. Người sử dụng vốn Nhà nước có trách nhiệm sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển phần vốn ấy nhằm thực hiện các mục tiêu kinh doanh do Nhà nước giao. Thực hiện đúng các chế độ quy định về quản lý vốn, tài sản, các quỹ và chế độ hạch toán kế toán, chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp pháp của các hoạt động tài chính và báo cáo tài chính. 1.2.3. Nâng cao trình độ của cán bộ quản lý doanh nghiệp Một vấn đề có tính quyết định trong việc nâng cao hiệu quả quản lý DNNN là yếu tố con người bao gồm đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước. Hay có thể nói, DNNN có phát triển được hay không phụ thuộc phần lớn vào “tài và đức” của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp. Do đó, Nhà nước phải coi trọng hơn nữa công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp. Nhà nước cần có cơ chế chính sách khuyến khích và lựa chọn các cán bộ giỏi có năng lực. Để phát huy được vai trò của cán bộ quản lý doanh nghiệp cần phải xác định tiêu chuẩn cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng phù hợp... đồng thời xây dựng chế độ trách nhiệm và đãi ngộ đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp. Bên cạnh những cơ chế khuyến khích, khen thưởng cần phải xử lý nghiêm khắc và kiên quyết những cán bộ biến chất, gây tổn hại đến tài sản của Nhà nước và uy tín của Đảng. 1.2.4. Nâng cao vai trò tổ chức Đảng tại các doanh nghiệp nhà nước Thực tiễn đã chứng minh những doanh nghiệp nào có Đảng bộ vững mạnh, chấp hành đúng pháp luật, Đảng viên gương mẫu, lãnh đạo doanh nghiệp và Đảng uỷ đoàn kết thì ở đó doanh nghiệp phát triển. Tổ chức Đảng tại DNNN tập trung lãnh đạo việc quán triệt Nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi sở hữu. Đảng trong doanh nghiệp cùng với Ban giám đốc lãnh đạo doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đúng pháp luật và bảo đảm quyền hợp pháp, phát huy dân chủ, tinh thần thi đua hoàn thành nhiệm vụ của người lao động; lãnh đạo việc bổ nhiệm cán bộ quản lý doanh nghiệp theo đúng các tiêu chuẩn và quy trình; lãnh đạo xây dựng đạo đức, phẩm chất cán bộ Đảng viên và đấu tranh chống mọi tiêu cực trong doanh nghiệp như tham ô, tham nhũng, kết bè cánh, hách dịch, cửa quyền... Đảng viên trong doanh nghiệp phải gương mẫu, nghiêm túc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và các điều lệ, quy định của doanh nghiệp, luôn phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kiện toàn tổ chức Đảng tại doanh nghiệp, phù hợp với đặc điểm, tổ chức quản lý của doanh nghiệp trong điều kiện mới. 1.3. Tăng cường sự chỉ đạo chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước Tập trung chỉ đạo, kiên quyết thực hiện chuyển đổi sở hữu những doanh nghiệp thuộc diện chuyển đổi theo kế hoạch và đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Gắn trách nhiệm hành chính của người lãnh đạo các Bộ, ngành, địa phương và lãnh đạo doanh nghiệp với kết quả chuyển đổi theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong chuyển đổi sở hữu DNNN, đơn giản hoá thủ tục các bước. Rút ngắn thời gian thực hiện các bước trong quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu. Trong đó tập trung vào các khâu: thành lập Ban Đổi mới doanh nghiệp - bắt đầu định giá, bắt đầu định giá - quyết định giá trị của doanh nghiệp, quyết định giá trị của doanh nghiệp – phê duyệt phương án, phấn đấu tổng cộng 3 khâu chỉ kéo dài không quá 100 ngày đối với CPH, 70 ngày đối với giao, bán doanh nghiệp. Các bộ, ngành, địa phương, ban giám đốc DNNN cần chủ động trong việc hướng dẫn, chỉ đạo doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu, giải quyết các tồn tại về tài chính và lao động trước khi chuyển đổi, tránh tình trạng để đến thời điểm thực hiện chuyển đổi sở hữu mới xử lý dẫn đến chậm trễ... Kiện toàn Ban Đổi mới doanh nghiệp ở các bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chưa theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ban nhất thiết phải có bộ phận chuyên trách giúp việc với những cán bộ nhiệt tình công tác, tinh thông nghiệp vụ, am hiểu doanh nghiệp và có trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ được giao. Thành lập công tác liên ngành, thành phần gồm đại diện Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp, giúp Thủ tướng Chính phủ giải quyết các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN. Định kỳ, thực hiện việc giao ban với các bộ, địa phương có nhiều doanh ngiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu như Bộ Công nghiệp, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Thương mại, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, thực hiện công tác kiểm tra, theo dõi, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh thực hiện chuyển đổi sở hữu theo quy định của pháp luật và phương án chuyển đổi đã được phê duyệt và định kỳ báo cáo với Chính phủ về tình hình triển khai thực hiện như thế nào. 1.4. Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách Các văn bản quy phạm pháp luật khi được ban hành phải đảm bảo điều kiện phù hợp với thực tế chuyển đổi sở hữu, góp phần giải quyết các vướng mắc nảy sinh trong quá trình thực hiện. Muốn vậy thì những người trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản luật liên quan đến chuyển đổi sở hữu phải đi sâu xát thực tế hoặc thực hiện những biện pháp khảo sát tình hình thực tế của doanh nghiệp sau chuyển đổi, phát hiện những khó khăn vướng mắc mới nảy sinh để có biện pháp tháo gỡ kịp thời. Trong những chính sách liên quan đến chuyển đổi sở hữu phải đặc biệt lưu ý đến chính sách đối với người lao động bởi họ trực tiếp tham gia quá trình chuyển đổi sở hữu. Quá trình đó diễn ra nhanh hay chậm phụ thuộc rất nhiều vào thái độ của người lao động. Do đó nếu người lao động được hưởng những ưu đãi từ việc chuyển đổi sở hữu thì chắc chắn tiến trình thực hiện chuyển đổi sở hữu sẽ gặp nhiều thuận lợi. Bởi vậy phải hoàn thiện hơn nữa chính sách đối với người lao động tại các DNNN được chuyển đổi sở hữu. Theo các văn bản hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi chỉ trả trợ cấp thôi việc cho cho thời gian làm việc tại doanh nghiệp còn khi chuyển thành doanh nghiệp mới thì lại do đơn vị khác chi trả rất phiền hà và khó khăn cho người lao động. Để tránh những phiền toái này, việc chi trả trợ cấp thôi việc cần được thu về một đầu mối. Việc trợ cấp thôi việc cho người lao động do người sử dụng lao động tại doanh nghiệp thực hiện việc chuyển đổi, nếu số tiền chi trả thiếu sẽ được lấy từ nguồn Quỹ hỗ trợ chuyển đổi. Có địa phương đã đề xuất cơ chế, chính sách giải quyết cho người lao động như sau: giải quyết chế độ thôi việc cho người lao động ngoài nguồn từ bảo hiểm xã hội, phần còn lại mỗi năm được hưởng 1/2 tháng lương cấp bậc đang hưởng được lấy từ giá trị thực tế vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Nếu Quỹ hỗ trợ chuyển đổi của tỉnh chưa có khả năng thanh toán thì thực hiện theo phương thức: những người lao động đủ năm đóng bảo hiểm xã hội (từ 20 năm trở lên) chưa đủ tuổi đời về hưu thì vẫn được nghỉ chế độ hưu, còn những người đủ tuổi về hưu nhưng chưa đóng đủ số năm bảo hiểm xã hội thì được đóng một lúc cho đủ để được nghỉ hưu. Bên cạnh đó, đề nghị các Bộ, ngành có văn bản hướng dẫn cụ thể về chính sách, chế độ đối với giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng của doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi sở hữu. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng đề nghị Chính phủ có chính sách cụ thể để giải quyết chế độ cho người lao động trong việc chuyển đổi và có chính sách đào tạo lại cho người lao động nhằm tạo điều kiện cho người lao động có thể thích nghi với điều kiện mới. Một vấn đề làm nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn lớn khi xử lý những cá nhân cụ thể cần phải giải quyết chế độ cho họ. Trên thực tế, nhiều lao động đã không làm việc trong doanh nghiệp trong nhiều năm, nhưng khi doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi sở hữu thì quay lại đòi quyền lợi. Nhiều người đã có việc làm ổn định nơi khác nhưng vẫn “giữ biên chế” trong doanh nghiệp... Đành rằng nguyên do là doanh nghiệp không bố trí được việc làm cho họ nhưng trong một khoảng thời gian nhất định những việc “tạm thời” của họ đã dần đi vào ổn định. Nếu như quay lại yêu cầu doanh nghiệp sau chuyển đổi phải có trách nhiệm đối với họ thì sẽ gây sức ép cho doanh nghiệp. Do vậy, đối với những lao động mà doanh nghiệp sau khi chuyển đổi không có nhu cầu sử dụng thì cần có sự phân loại và áp dụng biện pháp ưu tiên theo từng loại: - Với những lao động đã không làm việc tại doanh nghiệp từ 3 năm trở lên thì doanh nghiệp nên trả tiền hỗ trợ cho họ đi tìm công việc khác. - Với những lao động thời gian làm việc trước khi nghỉ hưu chỉ còn dưới 5 năm thì có thể giải quyết cho họ nghỉ hưu sớm (nếu họ đồng ý). 2. Những giải pháp có liên quan đến tổ chức quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước 2.1. Thực hiện tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý doanh nghiệp và người lao động Cần nâng cao công tác phổ biến chính sách và tuyên truyền về chủ trương chuyển đổi sở hữu. Chú trọng giải quyết những vướng mắc về nhận thức với quá trình chuyển đổi sở hữu, tạo nên sự đồng thuận trong xã hội về thực hiện chủ trương chuyển đổi sở hữu. Khi thực hiện tuyên truyền không có nội dung chung bao trùm cho tất cả các đối tượng mà cần thiết phải có sự cụ thể hoá cho từng đối tượng cụ thể mới đảm bảo tính hiệu quả và thiết thực cho việc tạo hậu thuẫn về chính trị và xã hội để thực hiện chuyển đổi sở hữu. Cụ thể: - Với đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, vấn đề trọng tâm tập trung giải quyết là chuyển đổi sở hữu có dẫn đến suy yếu kinh tế nhà nước? Việc thúc đẩy chuyển đổi sở hữu có tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa. - Với người lao động trong doanh nghiệp thì vấn đề cần tập trung là sự cần thiết phải chuyển đổi hình thức sở hữu, tác dụng tích cực của chuyển đổi sở hữu DNNN và người lao động sẽ trở thành những người chủ doanh nghiệp thực sự có quyền quyết định tương lai của họ. - Với các nhà đầu tư xã hội, điều quan trọng là cho họ thấy việc phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo có tính chiến lược và nhất quán của Đảng và Nhà nước, tạo sự yên tâm khi tham gia thực hiện chuyển đổi sở hữu và họ sẽ mang công sức, trí tuệ góp phần phát triển sản xuất kinh doanh. Nội dung tuyên truyền phải gắn gọn, dễ hiểu và tập trung vào hai nội dung chính: một là, chuyển đổi sở hữu DNNN là cần thiết bởi chuyển đổi sở hữu là làm tăng tính chủ động, tính sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau chuyển đổi, từ đó tạo động lực cho nền kinh tế quốc dân phát triển; hai là, chuyển đổi sở hữu DNNN không làm cho người lao động thất nghiệp mà là làm cho người lao động trở thành những người chủ thực sự, có quyền quyết định cho tương lai của doanh nghiệp cũng như của chính người lao động. Cách thức tuyên truyền được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài truyền hình, đài phát thanh về các Quyết định, Nghị định có liên quan đến chuyển đổi sở hữu DNNN. Bên cạnh đó, tại các doanh nghiệp hoặc các địa phương phải thường xuyên mở các lớp tập huấn cho cán bộ có trách nhiệm trực tiếp thực hiện các kế hoạch, chương trình về chuyển đổi sở hữu. Ngoài ra trên các trang Web về doanh nghiệp Việt Nam nên có một chuyên mục về chuyển đổi sở hữu DNNN cung cấp các thông tin về văn bản pháp luật, thực trạng quá trình chuyển đổi sở hữu ở Việt Nam trong thời gian qua. 2.2. Kiên quyết bằng các phương thức thị trường thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp Xoá bỏ việc xác định giá trị doanh nghiệp thông qua hội đồng. Việc xác định giá trị doanh nghiệp phải được thông qua các tổ chức chuyên nghiệp để nâng cao tính minh bạch trong định giá. Ngoài 44 tổ chức mà Bộ Tài chính đã công bố thì cần xem xét bổ sung thêm kể cả các tổ chức nước ngoài để tăng thêm tính cạnh tranh trong khâu xác định giá trị doanh nghiệp. Đối với những doanh nghiệp có tổng giá trị tài sản theo sổ sách kế toán dưới 30 tỷ đồng thì doanh nghiệp tự xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp được xác định chỉ là cơ sở để xác định cơ cấu vốn điều lệ và xây dựng phương án chuyển đổi sở hữu. Việc xác định giá trị doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào việc xử lý nợ tồn đọng nhằm làm lành mạnh hóa tài chính của doanh nghiệp và việc xử lý tài sản trước khi tiến hành chuyển đổi doanh nghiệp. Do đó cần phải thực hiện các biện pháp nhằm xử lý những vấn đề kể trên để giá trị doanh nghiệp được xác định theo giá thị trường. 2.3. Xử lý nhanh các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước trước khi chuyển đổi Không chuyển phần nợ ngân sách vào doanh nghiệp sau chuyển đổi để tránh tình trạng doanh nghiệp mới vừa ra đời đã rơi vào tình trạng nợ đọng trong khi chưa tiến hành kinh doanh. Điều này gây ảnh hưởng đến tâm lý của cổ đông, của tập thể người lao động khi nhận giao doanh nghiệp và của những người đăng ký mua doanh nghiệp. Đối với nợ tồn đọng khó đòi, phát sinh trước thời điểm chuyển đổi sở hữu, các cơ quan chức năng cần hỗ trợ doanh nghiệp giải quyết dứt điểm. Cần phân loại các khoản nợ tồn đọng thành hai loại nợ có khả năng thu hồi ngay và nợ không có khả năng thu hồi ngay. Đối với các khoản nợ có khả năng thu hồi thì cơ quan chức năng hỗ trợ DNNN để thu hồi trước khi tiến hành chuyển đổi sở hữu. Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi thì chuyển giao cho Công ty Mua bán nợ hoặc bộ phận xử lý nợ. Nên thành lập bộ phận xử lý nợ trực thuộc Công ty quản lý vốn và tài sản của Nhà nước ở các doanh nghiệp. Bộ phận này sẽ xử lý những khoản nợ không có khả năng thu hồi và thu về ngân sách. 2.4. Xử lý vấn đề tài sản trong doanh nghiệp nhà nước trước khi tiến hành chuyển đổi Tài sản của doanh nghiệp cần được tính toán đầy đủ vào trong giá trị doanh nghiệp trước khi tiến hành chuyển đổi sở hữu. Cần xử lý nhanh chóng và chính xác tài sản của DNNN để bảo đảm không bị thất thoát hay bị lạm dụng. Muốn vậy, cần nhanh chóng xử lý tài sản theo phương pháp đấu giá. Việc đấu giá cần được tiến hành với sự tham gia của công chúng. Cách làm này giúp tránh việc các lãnh đạo DNNN tự lập danh mục tài sản không cần dùng, định giá rẻ và sau đó chính mình lại mua những tài sản đó và bán ra ngoài kiếm chênh lệch. Việc loại trừ một số tài sản ra khỏi việc định giá doanh nghiệp dẫn đến sự lãng phí những tài sản này do doanh nghiệp sau chuyển đổi sẽ không quan tâm bảo quản chúng vì đó là tài sản “giữ hộ”. Điều này đồng nghĩa với sự xuống cấp nghiêm trọng của tài sản đó. Cần quy định rõ tài sản cố định như nhà xưởng, vật kiến trúc của doanh nghiệp sẽ được chuyển sang doanh nghiệp sau chuyển đổi. Mỗi loại tài sản, giá trị của chúng, các thông số kỹ thuật có liên quan cần phải xác định. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những tài sản mà doanh nghiệp sử dụng thông qua thuê mua tài chính hoặc đồng sở hữu với các chủ thể khác. Tóm lại, giá trị DNNN cần được tính đúng, tính đủ không loại trừ bất cứ bộ phận tài sản nào kể cả những nhà xưởng đã chuyển thành nhà ở. Trong trường hợp đã chuyển thành nhà ở, giá trị căn hộ mà người lao động được hưởng sẽ tính vào giá trị cổ phần ưu đãi mà họ được hưởng khi tiến hành CPH. Cần xác định chính xác về mặt pháp lý tất cả các loại tài sản nằm trong phạm vi quản lý của doanh nghiệp. Có nghĩa là phải làm rõ tài sản nào đang trong phạm vi sở hữu của DNNN, tài sản nào đang thuộc sự quản lý của doanh nghiệp chứ không thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Việc xác định rõ tài sản của công ty có ý nghĩa quan trọng đối với việc quản lý, kế toán, kiểm toán của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Cần tiến hành nhanh thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp sau chuyển đổi. Các cơ quan có thẩm quyền nên coi đây là một ưu tiên bởi càng kéo dài tình trạng này càng gây khó khăn cho tiến trình chuyển đổi sở hữu DNNN. 3. Đẩy mạnh hoạt động của doanh nghiệp sau chuyển đổi sở hữu Nhà nước chỉ tạo ra được môi trường pháp lý, tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi để doanh nghiệp sau chuyển đổi có thể làm tốt các nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, từ những điều kiện thuận lợi đó, doanh nghiệp sau chuyển đổi có thể phát triển được hay không, có thể không phụ sự tin cậy và trông chờ của Đảng và Nhà nước hay không lại phụ thuộc phần lớn vào sự nỗ lực, nhạy bén, sáng tạo của bản thân mỗi một doanh nghiệp. Do DNNN sau khi thực hiện chuyển đổi sẽ cùng hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các loại hình doanh nghiệp khác nên để có thể phát triển trong nền kinh tế thị trường thì trước hết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình để có thể đối mặt với những thách thức đến từ môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế. Trước đây DNNN làm ăn kém hiệu quả, tạo ra những sản phẩm kém chất lượng nhưng giá thành lại cao hay năng lực cạnh tranh kém, để có thể đứng vững thì họ thường yêu cầu “bảo hộ sản xuất” đòi hỏi Nhà nước đánh thuế nhập khẩu cao, thậm chí cấm nhập khẩu để được độc quyền. Sau khi chuyển đổi sở hữu, DNNN hoạt động theo mô hình mới, Nhà nước không thể bảo hộ theo kiểu như vậy. Do đó, Nhà nước phải tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên nhiều mặt để tồn tại và phát triển trong xu thế hội nhập và cạnh tranh gay gắt. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được hiểu là năng lực tồn tại, duy trì và gia tăng lợi nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp. Những doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tốt sẽ có điều kiện thuận lợi thực hiện các mục tiêu đề ra, cả về mặt tài chính và các mục tiêu xã hội khác. Có rất nhiều yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, những yếu tố này bao gồm cả yếu tố bên ngoài và các yếu tố do doanh nghiệp chi phối. Có thể nhận thấy rằng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế và yếu kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này xuất phát từ nguyên nhân khác nhau như: giá đầu vào khá cao; doanh nghiệp lại phải gánh chịu nhiều loại thuế, phí dịch vụ (phí điện thoại, viễn thông và nhiều loại phí tiêu cực khác); máy móc kỹ thuật lạc hậu, cũ kỹ; sự hiểu biết về thị trường, kinh nghiệm về kinh doanh, công tác tiếp thị của doanh nghiệp còn yếu. Đặc biệt, hầu hết các DNNN Việt Nam sau khi chuyển đổi vẫn kê thừa những nhược điểm vốn có của DNNN, đó là chưa có chiến lược kinh doanh lâu dài, ổn định mà chủ yếu là những kế hoạch ngắn hạn, theo từng mùa vụ... Do đó để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì các DNNN sau khi thực hiện chuyển đổi phải thực hiện các giải pháp sau: 3.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh làm kim chỉ nam cho các hoạt động của doanh nghiệp Doanh nghiệp cần xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh tính đến các mục tiêu dài hạn, dựa trên phân tích thị trường, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, định hướng vào thị trường mục tiêu, tập trung vào những sản phẩm và dịch vụ có khả năng cạnh tranh cao. Phải xuất phát từ thị trường sản xuất, nếu được nên cam kết tiêu thụ sản phẩm với khách hàng trước là tốt nhất. Tránh trường hợp sản xuất theo kiểu có gì sản xuất nấy, không bán cho người này thì bán cho người khác. Việc buôn bán như vậy rất mạo hiểm trên thương trường như hiện nay. Công tác nghiên cứu thị trường, tiếp thị để bán hàng lại là khâu yếu nhất, thậm chí nhiều DNNN chưa có bộ phận nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường tức là nghiên cứu, phân tích đối thủ cạnh tranh, tìm lợi thế tương đối của mình, tìm ra một mảng thị phần thích hợp để chiếm lĩnh, tránh đối đầu với những đối thủ quá mạnh. Công tác nghiên cứu thị trường phải có những dự báo trong tương lai về những đối thủ tiềm ẩn với các sản phẩm có thể thay thế hay lấn át sản phẩm của doanh nghiệp để có phương án đối phó hợp lý. Hầu hết các DNNN ở Việt Nam đều không xây dựng cho mình những mục tiêu chủ đạo lâu dài để định hướng cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trừ một số DNNN quy mô vốn lớn thì có xây dựng chiến lược với những mục tiêu rõ ràng và có bộ phận nghiên cứu thị trường được tổ chức tương đối bài bản. Những DNNN không có mục tiêu định hướng thường cũng không có bộ phận nghiên cứu thị trường để tìm kiếm và nắm bắt những thông tin cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc tổ chức thu thập thông tin của đối thủ được thực hiện bị động và không thường xuyên. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, các DNNN sau khi chuyển đổi sở hữu cần xác định rằng việc xây dựng chiến lược kinh doanh là cần thiết, là bước đi không thể thiếu để làm kim chỉ nam cho việc phối hợp các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Từ đó, đảm bảo khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế. Để có thể hoạch định chiến lược kinh doanh hợp lý và tổ chức thực hiện thành công chiến lược, nhu cầu thông tin thị trường đối với các doanh nghiệp phải được coi là nhu cầu nhất thiết phải được thoả mãn. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức bộ phận nghiên cứu thị trường và thu thập cập nhật thông tin một cách có hệ thống và thường xuyên hỗ trợ tích cực cho cán bộ quản lý doanh nghiệp trong việc ra quyết định. 3.2. Đầu tư cho công tác tiếp thị, nghiên cứu phát triển sản phẩm và quảng bá thương hiệu Trong thời gian qua, trừ một số doanh nghiệp quy mô lớn đã có những bước tiến trong việc quảng bá và bảo hộ thương hiệu của doanh nghiệp, còn lại chi phí cho công tác này ở hầu hết các doanh nghiệp còn quá ít. Trong khi đó, xu hướng thị trường hiện nay người ta coi thương hiệu sản phẩm là vũ khí cạnh tranh rất lợi hại. Thương hiệu sản phẩm không chỉ đơn thuần là cái tên mà nó chứa đựng một giá trị rất lớn, đặc biệt nó cho phép doanh nghiệp tạo dựng lòng tin và sự trung thành của khách hàng, nó cho phép khác biệt hoá sản phẩm của doanh nghiệp. Do vậy thương hiệu là tài sản vô cùng có giá trị của doanh nghiệp. Mặc dù nó chỉ là tài sản vô hình nhưng có khi nó lại có giá trị bằng cả giá trị của doanh nghiệp. Hơn nữa, thông qua đầu tư xây dựng thương hiệu, doanh nghiệp có thể thực hiện các chính sách tiếp thị thuận lợi hơn và nó còn thể hiện sự cam kết nghiêm túc của doanh nghiệp đối với khách hàng. Sản phẩm được xem như là công cụ để doanh nghiệp kiểm tra khả năng cạnh tranh của mình, sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận cũng có nghĩa những nỗ lực của doanh nghiệp đã được khách hàng ghi nhận, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được khẳng định. Sản phẩm muốn được chấp nhận thì nó phải đem lại giá trị thực sự cho khách hàng, do đó doanh nghiệp phải đầu tư nghiên cứu phát triển những sản phẩm đáp ứng đúng mong đợi của khách hàng. Bên cạnh chất lượng, tính năng, kiểu dáng tính độc đáo hay khác biệt của sản phẩm thì bao bì cũng là một thành phần quan trọng của sản phẩm. Ngày nay khi chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao thì người tiêu dùng không chỉ “ăn no mặc ấm” mà còn “ăn ngon mặc đẹp” do đó nếu sản phẩm trông “bắt mắt” khách hàng thì chắc chắn khách hàng nghĩ rằng chất lượng cũng được đảm bảo. Tuy nhiên, ở Việt Nam bao bì đóng gói còn thua xa so với trình độ của thế giới. Nếu đem giao dịch quốc tế thì bao bì hàng hoá Việt Nam không đáp ứng yêu cầu bởi không có mã vạch, không ghi đầy đủ thông tin về sản phẩm như nhà sản xuất, hạn sử dụng. Điều này làm cho khả năng tiếp cận với thị trường thế giới còn gặp nhiều khó khăn. Do đó các nhà lãnh đạo doanh nghiệp sau chuyển đổi cần chú ý quan tâm đến vấn đề này nhiều hơn trong thời gian tới bởi trong tương lai yêu cầu của khách hàng nội địa cũng sẽ đòi hỏi cao như khách hàng nước ngoài. 3.3. Nâng cao trình độ và khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến Khả năng tiếp cận và đổi mới công nghệ, nỗ lực đầu tư cho nghiên cứu phương pháp công nghệ và sản phẩm mới, số lượng bản quyền sáng chế, đầu tư nghiên cứu kiểu dáng sản phẩm... đều là những yếu tố có ý nghĩa quyết định hàng đầu đến chất lượng và tính năng của sản phẩm. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, kiểm soát các yếu tố công nghệ là một trong những chìa khoá rất quan trọng để giúp doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh. Tuy nhiên, về mặt này các DNNN ở Việt Nam còn rất yếu. Nguyên nhân của tình trạng yếu kém này là do tồn tại nhiều yếu tố gây cản trở đến tiến trình đổi mới công nghệ trong các DNNN. Đó là: - Sự thiếu hiểu biết về thị trường mà nguyên nhân chính là do công tác nghiên cứu thị trường và tiếp thị yếu. - Sự thiếu hiểu biết về công nghệ thích hợp, do hầu hết các DNNN đều không có những nghiên cứu một cách hệ thống về công nghệ thích hợp với thị trường. Do Việt Nam chưa có thị trường vốn trung và dài hạn nên các DNNN không có khả năng lựa chọn về nguồn vốn, còn phụ thuộc vào vốn của Ngân hàng nên việc tiếp cận khoa học công nghệ hiện đại còn nhiều khó khăn. - Thủ tục đầu tư phức tạp và tốn thời gian, công sức, tiền bạc. - Việc thay đổi công nghệ nhiều khi không được người lao động ủng hộ đặc biệt là những người lao động lớn tuổi và ít được đào tạo. Họ lo sợ nếu áp dụng công nghệ hiện đại mới thì họ sẽ bị sa thải, bị mất “miếng cơm manh áo”. - Sự thiếu quyết tâm của bộ phận cán bộ lãnh đạo DNNN. Do DNNN được hưởng một số ưu đãi nên không thực sự phải đương đầu với sức ép cạnh tranh. Bởi vậy cán bộ quản lý doanh nghiệp không cảm thấy cần thiết phải thực hiện đổi mới công nghệ. Những nguyên nhân kể trên nếu không được sớm khắc phục khi chuyển sang loại hình sở hữu mới thì doanh nghiệp sẽ khó được cải thiện và điều này sẽ khiến các doanh nghiệp phải trả giá đắt nếu không thắng được đối thủ cạnh tranh. 3.4. Đầu tư vào việc xây dựng đội ngũ lao động Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì yếu tố có tác động mạnh nhất đến năng suất và hiệu quả lao động chính là người lao động. Người lao động Việt Nam được đánh giá là cần cù, chăm chỉ, ham học hỏi và khéo tay. Nếu họ được trả thù lao hợp lý và tổ chức tốt nhất định lao động của doanh nghiệp sẽ phát huy hết khả năng của mình từ đó nâng cao năng suất và hiệu quả lao động. Tuy nhiên, trong các DNNN những lợi thế kể trên chưa được phát huy đầy đủ. Nói đến DNNN là nói đến cơ cấu quản lý lao động cồng kềnh, nhiều tầng bậc hay biên chế lao động trong DNNN chưa hợp lý, chưa khoa học dẫn đến gánh nặng về chi phí. Do đó chế độ thù lao chưa được thực hiện tốt. Bên cạnh đó, chức năng, nhiệm vụ không được phân định rõ ràng, kỷ luật lao động không nghiêm minh dẫn đến năng suất lao động chưa cao. Công tác đào tạo lao động ở các DNNN ít được chú trọng, đặc biệt là đào tạo theo chiều sâu. Việc tổ chức các lớp đào tạo chưa được quản lý chặt chẽ, nhiều doanh nghiệp cử người đi học không đúng đối tượng nên hiệu quả đào tạo không cao. Với những nhược điểm kể trên, DNNN sau khi chuyển đổi sang loại hình sở hữu mới phải có những giải pháp khắc phục triệt để. Nguồn vốn quý nhất của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng là nguồn lao động, nhân sự trong doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động được đào tạo gắn kết cùng đoàn kết vượt qua mọi khó khăn thử thách của quá trình kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, tạo lợi thế cạnh tranh so vởi đối thủ. Do vậy, doanh nghiệp nên xây dựng cho mình một mục đích riêng làm cơ sở tinh thần cho doanh nghiệp vượt qua mọi khó khăn của thị trường, tạo sự đồng lòng trong tập thể người lao động và khuyến khích người lao động tham gia tích cực mọi hoạt động của doanh nghiệp. KẾT LUẬN Chuyển đổi sở hữu là một yêu cầu tất yếu của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. DNNN đang trong tình trạng kinh doanh kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh yếu nhưng lại nắm giữ tài sản lớn, giữ vị trí độc quyền trong nhiều ngành và lĩnh vực, nếu không có những bước đột phá trong chuyển đổi sở hữu DNNN thì không những hạn chế việc phát huy tiềm năng của DNNN mà còn hạn chế cả khả năng phát triển của cả nền kinh tế. Quá trình thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN đã được thực hiện hơn 10 năm qua, thành công đạt được cũng nhiều nhưng hạn chế không phải là ít. Thông qua chuyển đổi sở hữu, DNNN đã phát triển sản xuất kinh doanh, phát huy tốt nguồn nội lực; quan hệ sở hữu được xác định rõ ràng; cơ chế quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh được hoàn thiện; tài chính của doanh nghiệp được tăng cường và cuối cùng là góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng cường sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế. Song bên cạnh đó, việc thực hiện chuyển đổi sở hữu lại không hoàn thành kế hoạch đặt ra; phương thức quản lý và lề lối làm việc vẫn được duy trì theo kiểu cũ dẫn đến tình trạng “bình mới nhưng rượu cũ”; thời gian thực hiện chuyển đổi còn quá dài gây khó khăn cho doanh nghiệp và đặc biệt vẫn chưa giải quyết dứt điểm các khoản nợ, bất cập trong việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi tiến hành chuyển đổi sở hữu... Bởi vậy trong thời gian tới (giai đoạn 2006 – 2010) để có thể hoàn thành mục tiêu đặt ra cho công tác chuyển đổi sở hữu DNNN thì Việt Nam phải kiên quyết thực hiện các giải pháp mạnh nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc còn tồn tại. Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, phát huy vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Bài viết đã đưa ra một số nhận xét về thực trạng và phương hướng, giải pháp thực hiện chuyển đổi sở hữu của DNNN giai đoạn 2006 – 2010. Những nhận xét trên đây còn rất sơ bộ và non kém về phương pháp lý luận và trình độ nhận thức, chưa thể đi sâu như những nhà nghiên cứu kinh tế. Do đó bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót và khuyết điểm, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy các cô đặc biệt là PGS.TS Ngô Thắng Lợi. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Ngô Thắng Lợi và chuyên viên Lê Mạnh Hùng thuộc Phòng Doanh nghiệp nhà nước Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em rất nhiều để hoàn thành bản chuyên đề thực tập này. Sinh viên thực hiện Bùi Thị Thu Hương DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hoàng Anh, “Chặng đường mới của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước”, Tạp chí Nghiên cứu và Trao đổi số 6/2005 2. Vương Hồng Hà, “Cổ phần hoá sau hơn 10 năm thực hiện: kết quả và những hạn chế”, Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp số 3/2005 3. Lê Hồng Hạnh, Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 4. Ngô Thắng Lợi, Doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam đến năm 2010, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 5. Nguyễn Duy Oánh, “Bàn thêm về tính chất của doanh nghiệp nhà nước và sự bức xúc cần sắp xếp lại”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển số 98/2005 6. Nguyễn Văn Phúc, Một số vấn đề về bán, khoán kinh doanh và cho thuê các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003 7. Nguyễn Văn Quảng, “Doanh nghiệp nhà nước sau hơn 4 năm thực hiện sắp xếp và đổi mới”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 9/2005 8. Tài liệu tham khảo do Phòng sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước Cục Doanh nghiệp nhỏ và vừa - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 9. Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội, 2004 10. Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương, Tăng trưởng kinh tế Việt Nam và những rào cản cần phải vượt qua DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CPH: Cổ phần hoá DNNN: Doanh nghiệp nhà nước DNTN: Doanh nghiệp tư nhân KTNN: Kinh tế Nhà nước XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ Bảng 1: Quy mô vốn của doanh nghiệp nhà nước 23 Bảng 2: Kế hoạch thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 37 Bảng 3: Kết quả thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005 39 Bảng 4: Tình hình thực hiện kế hoạch chuyển đổi sở hữu của các ngành trong giai đoạn 2001 – 2005 41 Bảng 5: Kết quả thực hiện đối với từng hình thức chuyển đổi sở hữu trong giai đoạn 2001 – 2005 48 Bảng 6: So sánh tốc độ tăng một số chỉ tiêu quan trọng của DNNN sau chuyển đổi 50 Bảng 7: So sánh tình hình doanh nghiệp trước và sau khi chuyển đổi sở hữu 53 Bảng 8: Kế hoạch chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010 70 Sơ đồ 1: 10 năm thực hiện chuyển đổi sở hữu DNNN ở Việt Nam thời kỳ 1995 – 2004 38 Sơ đồ 2: Kết quả thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2001 – 2005 40

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28323.doc
Tài liệu liên quan