MỤC LỤC
Chương I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG 3
1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG .3
1.1 Khái niệm về hợp đồng: .3
1.2 Phân loại hợp đồng 4
1.2.1 Hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ .4
1.2.2 Hợp đồng có đền bù và hợp đồng không có đền bù 5
1.2.3 Hợp đồng ưng thuận, hợp đồng trọng thức và hợp đồng thực tại 5
1.2.4 Hợp đồng thương lượng, hợp đồng theo mẫu .5
1.2.5 Hợp đồng gắn liền với thân nhân của người giao kết .6
1.2.6 Hợp đồng với người tiêu dùng .7
1.3 Các điều kiện để hợp đồng có giá trị pháp lý 7
1.3.1 Điều kiện về nội dung .8
1.3.1.1 Năng lực giao kết. 8
1.3.1.2 Nguyên tắc tư do ý chí 9
1.3.1.3 Các yếu tố dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng .10
1.3.2 Đối tượng của hợp đồng 15
1.3.2.1 Chuyển giao một quyền 16
1.3.2.2 Làm hoặc không làm một việc 17
1.3.2.3 Chế tài 18
1.3.3 Hình thức của hợp đồng 19
1.3.3.1 Một số quy định đặc biệt về hình thức 19
1.3.3.2 Một số quy định đặc biệt về thủ tục 21
1.3.3.3 Các chế tài 21
Chương II :
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH - THƯƠNG MẠI BẰNG
TÒA ÁN THEO LUẬT VIỆT NAM .24
2.1 Khái quát chung về tranh chấp hợp đồng 24
2.1.1 Tranh chấp thương mại .24
2.1.2 Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp trong kinh doanh, thương mại 27
2.2 Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng con đường tòa án .29
2.2.1 Xác định thẩm quyền của tòa kinh tế .30
2.2.1.1 Thẩm quyền theo vụ việc 30
2.2.1.1.1 Những tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của tòa án .30
2.2.1.1.2 Những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết củatòa án 34
2.2.1.2 Thẩm quyền theo cấp xét xử .36
2.2.1.2.1 Tòa án nhân cấp huyện 36
2.2.1.2.2 Tòa án nhân dân cấp tỉnh .36
2.2.1.2.3 Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao .37
2.2.1.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ 37
2.2.1.4 Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn 38
2.3 Thủ tục xét xử sơ thẩm .40
2.3.1 khởi kiện và thụ lý vụ án .40
2.3.1.1 khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại .40
2.3.1.2 Thời hạn khởi kiện vụ án kinh doanh, thương mại, thời hạn yêu cầu
giải quyết việc kinh doanh, thương mại 40
2.3.1.3 Đơn khởi kiện .41
2.3.1.4 Thụ lý vụ án .44
2.3.2 chuẩn bị xét xử 45
2.3.2.1 Thu thập chứng cứ 46
2.3.2.2 Tiến hành hòa giải 50
2.4 Phiên tòa sơ thẩm .52
2.4.1 Thủ tục bắt đầu phiên tòa 53
2.4.2 Thủ tục hỏi tại phiên tòa 54
2.4.2.1 Hỏi các đương sự về yêu cầu của họ .54
2.4.2.2 Nghe lời trình bày của các đương sự .55
2.4.2.3 Hỏi từng đương sự từng vấn đề .57
2.4.3 Tranh luận tại phiên tòa .57
2.4.4 Nghị án .59
2.4.5 Tuyên án .60
2.5 Thủ tục phiên tòa phúc thẩm 61
2.5.1 Khái niệm .61
2.5.2 Chủ thể của quyền kháng cáo và kháng nghị .61
2.5.3 Trình tự thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị .63
2.5.4 Phiên tòa phúc thẩm 65
2.5.5 Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm .67
2.5.6 Thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị 68
2.6 thủ tục giám đốc thẩm 69
2.6.1 khái niệm 69
2.6.2 Chủ thể khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm 70
2.6.3 Trình tự thực hiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm 71
2.6.4 Phiên tòa giám đốc thẩm .73
2.7 Thủ tục tái thẩm .75
2.7.1 khái niệm 75
2.7.2 Chủ thể và khách thể có quyền kháng nghị 76
2.7.3 Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh có yếu tố nước ngoài 77
Chương III :
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 79
3.1 Thực trạng việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại bằng Tòa án 79
3.2 Một số kiến nghị 82
KẾT LUẬN .84
TÀI LIỆU THAM KHẢO .86
90 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1906 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết tranh chấp về hợp đồng trong luật Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tụng Dân sự 2004:
1.Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ
trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính
toán sai. Việc sửa chữa, bổ sung phải được thông báo ngay cho người có quyền
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 61
lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc sửa chữa, bổ sung; đồng thời thông báo cho cơ
quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Việc sửa chữa, bổ sung bản án quy định tại khoản 1 Điều này phải do
Thẩm phán phối hợp với các Hội thẩm nhân dân là thành viên Hội đồng xét xử
vụ án đó thực hiện. Trong trường hợp Thẩm phán đó không còn đơn nhiệm chức
vụ Thẩm phán thì Chánh án Toà án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung đó.
Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày kết thúc phiên toà, Tòa án cấp
trích lục bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện. Trong thời hạn
mười ngày kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương
sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp.
2.5 Thủ tục phiên tòa phúc thẩm
2.5.1 Khái niệm
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản
án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo hoặc kháng
nghị.
Việc tiến hành phúc thẩm các bản án, quyết định chưa có hiệu lực của Tòa
án cấp dưới nhằm mục đích sửa chữa, khắc phục những sai sót của tòa án trong
các bản án, quyết định đó.
Thủ tục phúc thẩm là một bảo đảm về mặt tố tụng, một thủ tục quan trọng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Thủ tục phúc thẩm còn tạo khả năng thuận lợi cho Tòa án cấp trên kiểm
tra chất lượng xét xử của Tòa án cấp dưới và thông qua đó mà chỉ đạo hoạt động
xét xử của Tòa án cấp dưới cho phù hợp với pháp luật và thực tiển khách quan,
đảm bảo việc tăng cường pháp chế nói chung.
2.5.2 Chủ thể của quyền kháng cáo và kháng nghị
Chủ thể của quyền kháng cáo và kháng nghị là Đưng sự, người đại diện
của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm đơn kháng cáo bản án,
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu
cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Nếu đương sự có kháng cáo thì phải làm đơn và gửi cho Tòa án trong thời
hạn kháng cáo, đơn kháng cáo phải có các nội dung sau:
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 62
a) Ngày, tháng, năm làm đơn kháng cáo;
b) Tên, địa chỉ của người kháng cáo;
c) Kháng cáo phần nào của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật
d) Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu của người kháng cáo;
đ) Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng cáo.”
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên trực tiếp có quyền
kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án
cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc
thẩm.
1. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát phải bằng văn bản và có các
nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm ra quyết định kháng nghị và số của quyết định kháng
nghị;
b) Tên của Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị;
c) Kháng nghị phần nào của bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật;
d) Lý do của việc kháng nghị và yêu cầu của Viện kiểm sát;
đ) Họ, tên của người ký quyết định kháng nghị và đóng dấu của Viện
kiểm sát ra quyết định kháng nghị.
Quyết định kháng nghị phải được gửi ngay cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra
bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị để Toà án cấp sơ thẩm tiến hành các
thủ tục do Bộ luật này quy định và gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
Kèm theo quyết định kháng nghị và tài liệu, chứng cứ bổ sung, nếu có để chứng
minh cho kháng nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và hợp pháp.
Khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị là bản án, quyết định chưa có
hiệu lực của tòa án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên không phải tất cả các quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm đều là khách thể của quyền kháng cáo và kháng nghị. Chẳng
hạn quyết định đình chỉ vụ án vì lý do người khởi kiện rút đơn.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 63
2.5.3 Trình tự thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị
- Về thời hạn kháng cáo được quy định như sau:
Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm
ngày, kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời
hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Thời
hạn kháng cáo đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà
án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được
quyết định. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày kháng
cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì.
Tòa án phải kiểm tra đơn kháng cáo theo quy định như sau: Sau khi
nhận được đơn kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra tính hợp lệ của đơn
kháng cáo theo quy định về nội dung của đơn kháng cáo đã được trình bày ở
phần trên.
Trong trường hợp đơn kháng cáo quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu
người kháng cáo trình bày rõ lý do và xuất trình tài liệu, chứng cứ, nếu có để
chứng minh cho lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng.
Trường hợp đơn kháng cáo chưa làm đúng quy định về thủ tục của pháp
luật thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung.
Trong thời hạn mười ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về
việc nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng
án phí và nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Hết thời
hạn này mà người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì được
coi là họ từ bỏ việc kháng cáo, trừ trường hợp có lý do chính đáng. Trong thời
hạn năm ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nếu người
kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm hoặc người kháng cáo
nộp cho Tòa án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, Tòa án
cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ
kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm.
Về hậu quả pháp lý của việc kháng cáo, kháng nghị
Theo quy định tại Điều 254 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:
Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì
chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp pháp luật quy định cho thi hành ngay.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 64
Vì vậy, bản án, quyết định hoặc những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của
Toà án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Như vậy, hậu quả pháp lý của kháng cáo, kháng nghị hợp lệ là tạm thời
đình chỉ việc chấp hành bản án, quyết định sơ thẩm. Tùy thuộc vào khách thể của
quyền kháng cáo mà toàn bộ hay một phần bản án, quyết định chưa có hiệu lực
pháp luật. Nếu toàn bộ bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị thì toàn bộ
bản án quyết định chưa có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp bản án, quyết
định chỉ bị kháng cáo, kháng nghị một phần thì chỉ có phần bị kháng cáo, kháng
nghị là chưa có hiệu lực pháp luật, phần còn lại (không bị kháng cáo, kháng nghị)
vẫn có hiệu lực pháp luật.
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị:
Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên toà phúc thẩm, người kháng
cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng
nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm
vi kháng cáo, kháng nghị ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo, kháng nghị đã hết.
Trước khi bắt đầu phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng
cáo có quyền rút kháng cáo, Viện kiểm sát ra quyết định kháng nghị hoặc Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền rút kháng nghị.
Toà án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của
vụ án mà người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng
nghị.
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà
phi được làm thành văn bản và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm. Toà án cấp phúc
thẩm phải thông báo cho các đương sự biết về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng
cáo, kháng nghị.
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được
ghi vào biên bản phiên tòa.
- Thông báo việc kháng cáo, kháng nghị
Sau khi nhận đơn kháng cáo và xét thấy hợp lệ, Tòa án cấp sơ thẩm phải
thông báo ngay bắng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và đương sự có liên
quan đến kháng cáo biết về việc kháng cáo. Nếu Viện kiểm sát ra quyết định
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 65
kháng nghị thì phải gửi ngay quyết định kháng nghị cho đương sự có liên quan
đến kháng nghị. Người được thông báo về việc kháng nghị có quyền gửi văn bản
nêu ý kiến của mình về nội dung kháng nghị cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản
nêu ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong thời hạn hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp,
Toà án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây:
a) Tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
b) Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án;
c) Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì xử
Chánh án Toà án cấp phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét
xử, nhưng không được quá một tháng.
2.5.4 Phiên tòa phúc thẩm
Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử,
Toà án phải mở phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng thì
thời hạn này là hai tháng. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được
gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người có liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị.
Chánh án Toà án cấp phúc thẩm hoặc Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án
nhân dân tối cao thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm
phán làm chủ toạ phiên toà. Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 thẩm phán.
Trước khi mở phiên tòa, Tòa án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp,
tạm thời theo yêu cầu của các đương sự hoặc chủ động ra quyết định khẩn cấp
tạm thời nếu xét thấy cần thiết. Tòa án cũng có thể tiến hành xác minh, thu thập
chứng cứ….đảm bảo cho việc giải quyết vụ án đúng đắn, khách quan.
Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm
có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng
cáo, kháng nghị.
Phiên toà phúc thẩm được khai mạc và bắt đầu như phiên toà sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử chỉ xem xét phần bản án, quyết định sơ
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 66
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; Hội đồng xét xử phải xem xét ra một trong các
quyết định tố tụng sau:
Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm;
Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm;
Quyết định hoãn hoặc vẫn tiếp tục phiên tòa phúc thẩm;
Ra bản án và các quyết định phúc thẩm.
Trước khi bắt đầu thủ tục hỏi tại phiên toà phúc thẩm, một thành viên Hội
đồng xét xử (thông thường là chủ toạ phiên toà) tóm tắt nội dung vụ án, quyết
định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị. Hỏi nguyên đơn có rút
đơn khởi kiện không; những người kháng cáo, kháng nghị có thay đổi, bổ sung,
rút kháng cáo, kháng nghị không; các đương sự có thoả thuận được với nhau hay
không. Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì xử lý theo quy định tại
Điều 269 Bộ luật tố tụng dân sự:
1. Trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút
đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay
không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau:
a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn ;
b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn .
Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm
theo quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm
theo quy định của pháp luật.
2. Trong trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án thì nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ tục do Bộ
luật này quy định nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.”
Trường hợp các bên thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, thì
Hội đồng xét xử ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận thoả thuận
của các đương sự, Điều 270 Bộ luật Tố tụng Dân sự :
1. Tại phiên toà phúc thẩm, nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án và thoả thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 67
hoặc đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm sửa bản
án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
2. Các đương sự tự thỏa thuận với nhau về việc chịu án phí sơ thẩm; nếu
không thoả thuận được với nhau thì Toà án quyết định theo quy định của pháp
luật.”
Khi các bên đương sự cũng như Viện kiểm sát vẫn giữ kháng cáo, kháng
nghị, thì tiếp tục phiên tòa theo quy định tại các điều 271; 272; 273 và 274 Bộ
luật Tố tụng Dân sự.
2.5.5 Thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm
Kết thúc phiên tòa phúc thẩm, tòa án cấp phúc thẩm có quyền ra một trong
các quyết định sau:
1. Giữ nguyên bản án sơ thẩm;
2. Sửa bản án sơ thẩm;
3. Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải
quyết lại vụ án;
4. Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Bản án của phiên tòa phúc thẩm phải có những nọi dung sau:
1. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm nhân danh nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Bản án phúc thẩm gồm có:
a) Phần mở đầu;
b) Phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị, nhận định;
c) Phần quyết định.
3. Trong phần mở đầu phi ghi rõ tên của Toà án xét xử phúc thẩm; số và
ngày thụ lý vụ án; số bản án và ngày tuyên án; họ, tên của các thành viên Hội
đồng xét xử, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, người giám định, người phiên dịch;
tên, địa chỉ của nguyên đơn , bị đơn , người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cơ
quan, tổ chức khởi kiện; người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ; người kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị; xét xử công khai
hoặc xét xử kín; thời gian và địa điểm xét xử.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 68
4. Trong phần nội dung vụ án, kháng cáo, kháng nghị, nhận định phi tóm
tắt nội dung vụ án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm; nội dung kháng cáo,
kháng nghị; nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm; điểm, khoản và điều của
văn bản quy phạm pháp luật mà Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ để giải quyết
vụ án.
Trong nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm phi phân tích những căn
cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị.
5. Trong phần quyết định phi ghi rõ các quyết định của Hội đồng xét xử
phúc thẩm về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án do có kháng cáo, kháng
nghị, về việc phải chịu án phí sơ thẩm, phúc thẩm.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
2.5.6 Thủ tục phúc thẩm đối với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị
Hội đồng phúc thẩm phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp tham gia
phiên họp phúc thẩm để xét quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị.
Trong mọi trường hợp Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham
gia phiên
Tòa án cấp phúc thẩm phải thành lập Hội đồng phúc thẩm gồm ba Thẩm
phán để xem xét, giải quyết kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm.
Sau khi có quyết định phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải gửi quyết
định cho những người được quy định tại Điều 281 Bộ luật Tố tụng Dân sự .
1. Khi phúc thẩm đối với quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị, Hội đồng phúc thẩm không phải mở phiên toà, không phải triệu tập
các đương sự, trừ trường hợp cần phải nghe ý kiến của họ trước khi ra quyết
định.
2. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp phúc thẩm
quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Một thành viên của Hội đồng phúc thẩm xét quyết định bị kháng cáo,
kháng nghị trình bày tóm tắt nội dung quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 69
nghị, nội dung của kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có.
4. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết
kháng cáo, kháng nghị trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định.
5. Khi xem xét quyết định của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị, Hội đồng phúc thẩm có quyền:
a) Giữ nguyên quyết định của Toà án cấp sơ thẩm;
b) Sửa quyết định của Toà án cấp sơ thẩm;
c) Huỷ quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà
án cấp sơ thẩm để tiếp tục giải quyết vụ án.
2.6 thủ tục giám đốc thẩm
2.6.1 khái niệm
Thủ tục giám đốc thẩm là một giai đoạn đặc biệt của tố tụng vụ án kinh
doanh, thương mại, trong đó Tòa án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp,tính coa căn
cứ đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới
trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền.
Bộ luật Tố tụng Dân sự tại điều 282 quy định: “Giám đốc thẩm là xét lại
bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì
phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”.
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật Giám đốc thẩm là
thủ tục đặc biệt, chỉ được tiến hành khi có kháng nghị giám đốc thẩm. Đó là đặc
điểm khác biệt so với các thủ tục xét xử thông thường như sơ thẩm (đương nhiên
được thực hiện khi có khởi kiện hợp pháp của đương sự), phúc thẩm (đương
nhiên được thực hiện khi có kháng cáo hợp pháp của đương sự hoặc các kháng
nghị của Viện kiểm sát). Các Thẩm phán không tham gia trực tiếp giám đốc thẩm
cũng có thể tham gia vào trình tự giám đốc công tác xét xử bằng việc phát hiện vi
phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 70
thông báo cho những người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Đối tượng của
việc kháng nghị giám đốc thẩm chỉ là những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án.
Kháng nghị và giám đốc thẩm là cơ chế nhằm khắc phục sai lầm nghiêm
trọng của Tòa án trong việc giải quyết vụ án mà bản án, quyết định đó đã có hiệu
lực. Vì vậy, cấp giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử thứ ba sau sơ thẩm và
phúc thẩm.
2.6.2 Chủ thể khách thể của quyền kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm
Theo quy định tại điều 285 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì những người sau
đây có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:
- Chánh án Toà án nhân dân tối cáo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cáo.
- Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân dân cấp huyện.
Khách thể của kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là những bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu thấy có vi phạm pháp luật, bao gồm:
- Những bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
- Những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phiên Tòa đã có hiệu lực pháp luật, quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự;
- Những bản án, quyết định đã giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án;
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 71
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
2.6.3 Trình tự thực hiện kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 285 Bộ luật Tố tụng
Dân sự):
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao chỉ bị hạn chế không được kháng nghị đối với quyết định giám đốc
thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh chỉ có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân cấp huyện thuộc địa hạt tỉnh ấy.
Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 288 Bộ luật Tố tụng Dân sự):
- Thời hạn kháng nghị là ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật;
- Đối với bản án, quyết định dân sự có hiệu lực trước ngày Bộ luật Tố
tụng Dân sự có hiệu lực (01-01-2005) thì áp dụng quy định về thời hạn kháng
nghị giám đốc thẩm theo quy định của các văn bản pháp luật tố tụng trước khi có
Bộ luật Tố tụng Dân sự có hiệu lực; cụ thể là:
+ Đối với bản án, quyết định dân sự và hôn nhân và gia đình thì thời hạn
kháng nghị là ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; việc
kháng nghị theo hướng không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào thì không bị
hạn chế về thời gian;
+ Đối với bản án, quyết định kinh doanh, thương mại, bản án, quyết định
kinh tế thì thời hạn kháng nghị chỉ là chín tháng, kể từ ngày bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật;
+ Đối với bản án, quyết định lao động thì thời hạn kháng nghị chỉ là sáu
tháng, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; việc kháng nghị có lợi
cho người lao động thì thời hạn đó là một năm.
Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 283 Bộ luật Tố tụng Dân sự )
- Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng
nghị khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 283 Bộ luật Tố tụng Dân sự:
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 72
“ Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây:
1. Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật”.
- Cần chú ý là có loại đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm bị hạn chế về
căn cứ kháng nghị như quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự quy
định chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng
sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo
đức xã hội (khoản 2 Điều 188 Bộ luật Tố tụng Dân sự) nhưng nếu có vi phạm
nghiêm trọng khác (như vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng) vẫn có thể bị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (tham khảo Công văn số
218/2005/KHXX ngày 29-9-2005 của Tòa án nhân dân tối cao)
- Cũng cần chú ý là quy định về nghĩa vụ chứng minh và thu thập chứng
cứ trong Bộ luật Tố tụng Dân sự đã có đổi mới căn bản so với quy định của pháp
luật tố tụng trước đó nên quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm hiện nay
không còn căn cứ "Việc điều tra không đầy đủ" như trước đây.
Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm:
- Việc phát hiện những vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật không phải chỉ là quyền của các đương sự trong vụ án đó, mà
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác cũng có quyền phát hiện và thông báo bằng văn
bản cho người có quyền kháng nghị (khoản 1 Điều 284 Bộ luật Tố tụng Dân sự);
- Đối với Tòa án và Viện kiểm sát thì việc thông báo bằng văn bản cho
những người có quyền kháng nghị khi phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật còn là nghĩa vụ (khoản 2 Điều 284 Bộ luật Tố
tụng Dân sự);
- Theo tinh thần quy định tại Điều 5 Bộ luật Tố tụng Dân sự về quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự, Điều 296 về phạm vi giám đốc thẩm thì
tuy nhiều người có quyền phát hiện vi phạm nhưng sẽ chỉ có kháng nghị nếu có
khiếu nại, yêu cầu của đương sự trừ trường hợp đương sự không có khả năng
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 73
thực hiện việc khiếu nại hoặc có xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của
người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án;
- Đơn vị chức năng giúp việc cho người có quyền kháng nghị có thể có cả
Thẩm phán (giúp cho Chánh án) nhưng không nên để Thẩm phán đã tham gia
vào việc kháng nghị lại tham gia Hội đồng xét xử giám đốc thẩm để đảm bảo
việc xét xử khách quan, chính xác. Phạm vi của kháng nghị quyết định phạm vi
xét xử giám đốc thẩm ; do đó, kháng nghị không chỉ nêu ra một hay một số vi
phạm, sai lầm mà phải là tất cả những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định bị
kháng nghị; người đã kháng nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung
quyết định kháng nghị trong thời hạn kháng nghị; rút một phần hoặc toàn bộ
kháng nghị trước hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm.
2.6.4 Phiên tòa giám đốc thẩm
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm không những phải gửi ngay cho
các đương sự và cơ quan thi hành án mà còn cho Tòa án đã ra bản án, quyết định
bị kháng nghị và đặc biệt là phải gửi cho cả những người khác có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến nội dung kháng nghị.
Hồ sơ vụ án bị kháng nghị phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp
cùng với kháng nghị của Chánh án. Thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát
là mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
Thẩm quyền giám đốc thẩm:
- Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh giám đốc thẩm bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện bị kháng nghị;
- Các Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân tối cao (Tòa Dân sự, Tòa
Kinh tế, Tòa Lao động) giám đốc thẩm bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh bị kháng nghị;
- Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm bản án,
quyết định của các Tòa Phúc thẩm và các Tòa chuyên trách khác của Tòa án nhân
dân tối cao;
- Trường hợp những bản án, quyết định về cùng một vụ án nhưng thuộc
thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp Tòa án khác nhau thì Tòa án có thẩm
quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 74
Phiên tòa giám đốc thẩm phải được mở trong thời hạn bốn tháng,
kể từ ngày Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm nhận được kháng nghị.
Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình
về vụ án tại phiên tòa. Đối với các Tòa chuyên trách thì Hội đồng xét xử gồm ba
Thẩm phán nên Thẩm phán được phân công làm bản thuyết trình thường đồng
thời là chủ tọa phiên tòa. Bản thuyết trình chỉ tóm tắt nội dung vụ án, các bản án,
quyết định của các cấp Tòa án, nội dung của kháng nghị (không đòi hỏi phải có ý
kiến của người làm bản thuyết trình) và phải được gửi cho các thành viên Hội
đồng giám đốc thẩm chậm nhất là bảy ngày, trước ngày mở phiên tòa giám đốc
thẩm.
Phiên tòa giám đốc thẩm không phải triệu tập đương sự, những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng nghị, trừ trường hợp Tòa án xét thấy cần
phải nghe ý kiến của họ trước khi quyết định. Tuy nhiên, khi xét thấy cần thiết,
Tòa án triệu tập những người tham gia tố tụng và những người khác có liên quan
đến việc kháng nghị tham gia phiên Tòa giám đốc thẩm.
Phiên tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của Viện kiểm sát cùng cấp.
Về phạm vi giám đốc thẩm, được quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng Dân sự:
1. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem
xét nội dung kháng nghị.
2. Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan
đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án.
Tại phiên tòa, sau khi chủ toạ khai mạc phiên tòa, một thành viên của Hội
đồng giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án,
quyết định của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị. Đại
diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị.
Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác được Toà án
triệu tập tham gia phiên toà giám đốc thẩm thì họ được trình bày ý kiến của mình
về quyết định kháng nghị. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 75
sát về quyết định kháng nghị.Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thoả
luận và phát biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm
sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Khi quyết định các vấn đề trong phiên Tòa thì Hội đồng giám đốc thẩm
biểu quyết về việc giải quyết vụ án.
Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp
tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được quá nửa tổng
số thành viên của Ủy ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán
thành.
Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao biểu quyết theo trình tự tán thành, không tán thành với
kháng nghị và ý kiến khác; nếu không có trường hợp nào được quá nửa tổng số
thành viên của Ủy ban Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Hội đồng
Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành thì phải hoãn phiên toà.
Trong thời hạn ba mười ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên toà, Ủy ban
Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của
toàn thể các thành viên.
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có các quyền sau đây:
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật;
2. Giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã
bị huỷ hoặc bị sửa;
3. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại
hoặc xét xử phúc thẩm lại;
4. Huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình chỉ giải
quyết vụ án.
2.7 Thủ tục tái thẩm
2.7.1 khái niệm
Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi c bản nội
dung của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà
án ra bản án, quyết định đó.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 76
Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm khi có một trong những căn cứ sau:
1. Mới phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà đương sự đã
không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
2. Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người
phiên dịch không đúng sự thật hoặc có gi mạo chứng cứ;
3. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ
vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
4. bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thưng mại, lao động của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà
nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.
Đương sự hoặc cá nhân, cơ quan tổ chức khác có quyền phát hiện tình tiết
mới của vụ án và thông báo bằng văn bản cho những người có thẩm quyền kháng
nghị. Trong trường hợp phát hiện tình tiết mới của vụ án, Viện kiểm sát, Tòa án
phải hông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị.
2.7.2 Chủ thể và khách thể có quyền kháng nghị
Theo điều 307 Bộ luật tố tụng dân sự thì người có quyền kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm bao gồm:
1.Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao.
2. Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Toà án nhân dân cấp huyện.
Cũng giống như thủ tục giám đốc thẩm, người đã kháng nghị bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành
bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định tái thẩm.
Thời hạn là một năm, kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết
được căn cứ kháng nghị.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 77
Khách thể của quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Cụ thể là:
- Những bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
- Những bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm không bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật, quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
- Những bản án, quyết định đã giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
Hội đồng tái thẩm có các quyền sau đây:
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật;
2. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại
theo thủ tục do Bộ luật này quy định;
3. Huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết
vụ án.
Các quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện như các quy định về
thủ tục giám đốc thẩm.
2.7.3 Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh có yếu tố nước ngoài
Những quy định của Bộ luật Tố tung Dân sự cũng được áp dụng đối với
việcgiải quyết các tranh chấp kinh doanh tại Việt Nam, nếu một hoăc các bên là
cá nhân, pháp nhân nước ngoài, trừ trường hợp mà điều ước quốc tế mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác.
Khi thi hành quy định về việc giải quyết các tranh chấp kinh tế có nhân
tố nước ngoài, có một số vấn đề cần lưu ý:
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền
giải quyết theo thủ tục sơ thẩm tất cả các vụ án kinh doanh, thương mại khi có
một hoặc các bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài.
- Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác khi có một hoặc các bên là cá nhân,
pháp nhân nước ngoài thì việc giải quyết các tranh chấp kinh tế trong trường hợp
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 78
này được thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc
tham gia.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 79
Chương III
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1 Thực trạng việc giải quyết các vụ án kinh doanh, thương mại bằng Tòa
án
Trong các năm qua tình hình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại bằng Tòa án đã có nhiều tiến bộ và đã đạt được những thành công nhất định
cụ thể như sau:
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Số vụ án thụ
lý mới 859 575 657 748 1159
Số vụ án
được giải
quyết
859 575 557 638 1034
(Nguồn các Báo cáo tổng kết ngành của Toà án nhân dân tối cao)
Thông qua các số liệu báo cáo trên ta thấy rằng tình hình các vụ việc kinh
doanh thương mại ngày càng tăng. Tuy nhiên bằng sự cố gắn của mình ngành
Tòa án đã giải quyết các vụ việc ngày càng hiệu qủa hơn, từ đó, có thể nói rằng
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng tòa án cũng có những mặt tích cực:
Ưu điểm của Tòa án trong cách giải quyết tranh chấp.
- Giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án đảm bảo nguyên tắc tự
định đoạt của đương sự. Đây được xem là nguyên tắc cơ bản nhất trong tố tụng
vụ án thương mại. Trên cơ sở đảm bảo quyền tự do kinh doanh, Nhà nước không
can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các nhà kinh doanh trừ khi họ kinh
doanh những ngành nghề trái với pháp luật đã quy định. Khi có tranh chấp xảy ra
và có yêu cầu thì Tòa án mới giải quyết. Ngoài ra quyền tự định đoạt đó còn thể
hiện quyền tự hòa giải trước Tòa, quyền rút đơn kiện, thay đổi nội dung đơn
kiện…
- Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm ngăn
chặng khả năng lẫn tránh của đương sự, đồng thời đảm bảo tài sản nhằm thi hành
án khi các bên có yêu cầu.Trong trương hợp không có yêu cầu nhưng tòa án xét
thấy cần thiết phải áp dụng thì Tòa ra quyết định cho áp dụng ngay.
- Nếu như ở phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có ưu điểm
xét xử không công khai để giữ bí mật, uy tín trong kinh doanh thì Tòa án có
ngoại lệ như thế nếu có yêu cầu của đương sự mà xét thấy là chính đáng, để họ
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 80
đảm bảo được bí mật trong kinh doanh, phát minh, sáng chế….Nếu đưa vụ án ra
xét xử công khai sẽ làm khó khăn thêm cho đương sự thì Tòa án là người có
quyền quyết định cho phép đưa vụ án ra xét xử kín.
- Để đáp ứng được nhu cầu kinh doanh và giải quyết tranh chấp thì tính
nhanh chóng khi chọn phương thức Tòa án cũng là ưu điểm nổi bật: như thời
hiệu, thời hạn, thủ tục rút gọn và hạn chế giao việc cho cấp dưới xét xử lại. Công
nhận sự thỏa thuận của đương sự và có hiệu lực ngay. Nếu như chọn trọng tài
làm cách giải quyết tranh chấp thì khi trọng tài ra quyết định nếu ai có nghĩa vụ
thì phải thực hiện không có tính bắt buộc. Không có ai kiểm tra quyết định đó có
tính khách quan hay không? Ngược lại, Tòa án có trình tự tái thẩm, giám đốc
thẩm xem lại bản án và có quyền sửa đổi hoặc ra quyết định mới chứ không trả
lại bản án cho cấp dưới xét xử nữa, tránh đi được một khoản thời gian đáng kể
cho nhà kinh doanh.
- Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án cũng được xem là một thể thức hết
sức mềm dẽo, linh hoạt phù hợp với thể thức kinh doanh.Trên nguyên tắc thì Tòa
án xét xử công khai nhưng một số trường hợp đặc biệt và có lý do chính đáng có
thể được xét xử kín. Thêm vào đó thủ tục tố tụng rút ngắn lại cho phù hợp với vụ
án kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc đúng với những gì mà pháp luật
quy định.
- Tòa án là một cơ quan nhà nước chịu sự quản lý của cấp trên, có nhiệm
vụ xét xử. Vì thế, nó mang tính chuyên môn rất cao, hiểu biết pháp luật rất rõ nên
đảm bảo tính công bằng khi xét xử. Hơn nữa, phán quyết của Tòa án mang tính
bắt buộc thực hiện. Vì thế các bên tranh chấp rất an tâm khi chọn cách giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án do quyền lợi luôn được bảo đảm.
Tuy nhiên ngoài nhưng thành tích trong việc xét xử thì cũng còn những
mặt han chế thiếu sót cần khắc phục.
Ngoài những ưu điểm trên thì Tòa án cũng có nhưng khuyết điểm như
sau:
- Tòa án xét xử theo thủ tục đã được ban hành và phải qua nhiều cấp xét
xử khi có kháng cáo, kháng nghị nên vấn đề thời gian không thể đảm bảo nhanh
như mong muốn của người kinh doanh.
- Tòa án xét xử theo nguyên tắc công khai, minh bạch nên các bí mật kinh
doanh của các đương sự khó đảm bảo, Tòa án chỉ xử kín khi có yêu cầu và xét
thấy cần thiết nên ít tiện lợi hơn cho việc kinh doanh so với các hình thức khác.
- Hội đồng xét xử đã được thành lập theo quy định của pháp luật tuy các
bên liên quan có quyền yêu cầu thay đổi nhưng rất hạn chế. Các Thẩm phán là
những người rất am hiểu về pháp luật tuy nhiên trong vụ việc kinh doanh đòi hỏi
người xét xử phải am hiểu sâu về chuyên môn (kinh doanh) hơn vì vậy biện pháp
Trọng tài có nhiều ưu điểm hơn vì các trọng tài viên do các bên lựa chọn nên
nghiệp vụ chuyên môn cao hơn.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 81
Ngoài những khó khăn về biện pháp thì cũng có những khó khăn về xác
định thẩm quyền của tòa án đối với các vụ việc
Đối với tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại phải hội đủ ba
điều kiện sau:
- Tranh chấp đó phải phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại.
- Chủ thể của các tranh chấp đó phải có đăng ký kinh doanh, thương mại.
- Các bên tham gia quan hệ đều có mục đích lợi nhuận.
Trên thực tế khi áp dụng các quy định này đã phát sinh một số vấn đề như
sau:
+ Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
thường rất đa dạng và phức tạp. Bên cạnh hợp đồng còn có những tranh chấp
khác như tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và các vấn đề khác,
vấn đề đặt ra là các tranh chấp vừa nêu có thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa
kinh tế không?
+ Ngoài ra tại khoản 1 Điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 liệt kê các
hoạt động đó là hoạt động kinh doanh thương mại( 14 lĩnh vực). Như vậy các
tranh chấp khác không được liệt kê như: đấu thầu, đấu giá, ủy thác….có được
xem là tranh chấp kinh doanh thương mại hay không?
+ Các tranh chấp phát sinh không vì mục đích lợi nhuận hoặc một trong
các bên tranh chấp không có đăng ký kinh doanh, thương mại thì có thuộc thẩm
quyền giải quyết của tòa kinh tế không và tranh chấp này thuộc tranh chấp kinh
doanh hay dân sự?
Ví dụ: Một pháp nhân hành chính ký hợp đồng bằng văn bản với một công
ty xây dựng để xây trụ sở cho mình. Theo khoản 1 điều 12 pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế thì tranh chấp phát sinh được giải quyết theo thủ tục tố
tụng kinh tế. Nhưng theo khoản 1 Điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 thì đây
không phải là tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh thương mại vì pháp
nhân hành chính này không có đăng ký kinh doanh. Mặt khác có thể xem đây là
tranh chấp về dân sự vì theo khoản 3 điều 25 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 quy
định tranh chấp dân sự là các tranh chấp về hợp đồng dân sự, trong khi theo quy
định của pháp luật hiện hành thi hợp đồng xây dựng nói trên là hợp đồng kinh tế.
+ Việc xác định mục đích lợi nhuận cũng không phải là vấn đề đơn giản.
Ví dụ: Các tranh chấp về hợp đồng sử dụng tác phẩm hoặc các tranh chấp
về hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả.
Giữa A và C tranh chấp với nhau về quyền tác giả một tác phẩm văn học
nào đó.
Các ví dụ trên cho ta thấy sự khó khăn khi xác định mục đích lợi nhuận
mà tác giả đã trình bày ở phần Chương II.
Qua những tồn tại trên người viết có một số ý kiến đề xuất.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 82
3.2 Một số kiến nghị
- Cần phân biệt rõ thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại và tranh chấp dân sự. Vì Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định một thủ tục chung
để giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động thì việc xác định tranh chấp phát
sinh từ kinh doanh, thương mại hay dân sự chỉ nhằm điều phối công việc của các
tòa án hoặc của các thẩm phán chuyên trách. Việc xác định đó phải thuộc quyền
động của các tòa án. Vì vậy việc sai sót về thẩm quyền không làm căn cứ cho
việc kháng cáo kháng nghị và không được coi là căn cứ để sửa án hoặc hủy án ở
thủ tục tái thẩm, giám đốc thẩm.
- Cần phải hiểu rằng tranh chấp kinh doanh, thương mại là một dạng đặc
biệt của tranh chấp dân sự và sử dụng phương pháp loại trừ để phân biệt. nghĩa là
những tranh chấp nào không thuộc tranh chấp dân sự là tranh chấp kinh doanh
thương mại. Như vậy sẽ tránh được một sớ vướn mắc.
- Cần xây dựng một tiêu chí cụ thể, thế nào là tranh chấp kinh doanh,
thương mại, thế nào là mục đích lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận cần phải hiểu
theo nghĩa rộng để tránh có những tranh chấp kinh doanh, thương mại mà không
được giải quyết theo tranh chấp kinh doanh thương mại.
- Cần quy định tiêu chí cụ thể để xác định tính phức tạp của tranh chấp
kinh doanh, thuơng mại và nhu cầu phải ủy thác cho cơ quan Lãnh sự của Việt
Nam ở nước ngoài hoặc cho tòa án nước ngoài nhằm phân định chính xác thẩm
quyền Tòa án cấp huyện với Tòa cấp tỉnh
- Quyền lựa chọn của nguyên đơn cần được mở rộng, để cho các bên tranh
chấp tự do lựa chọn tòa án khi có tranh chấp xảy ra và chỉ có Tòa án đó mới có
thẩm quyền giải quyết.
Hiện nay, ở nước ta chính vì quan niệm hợp đồng dân sự và hợp đồng
kinh tế có bản chất pháp lý khác nhau, do đó, pháp luật điều chỉnh của chúng ta
không có khả năng hỗ trợ bổ sung cho nhau đã dẫn đến tình trạng các cơ quan tài
phán Việt Nam thường lúng túng trong việc áp dụng pháp luật. Việc xem xét hợp
đồng vô hiệu nên quy định thành các trường hợp khác nhau (tương tự như hợp
đồng vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu tương đối) theo như pháp luật các nước trên thế
giới. Trong trường hợp hợp đồng kinh tế vi phạm điều kiện chủ thể, thiếu sự tự
nguyện mà các bên vẫn chấp nhận thực hiện chỉ có tranh chấp quyền và nghĩa vụ
phát sinh theo hợp đồng thì giải quyết theo yêu cầu không cần tuyên bố vô hiệu.
Hợp đồng có thể sai quy định về hình thức, giao kết sai thẩm quyền, nhầm lẫn,
song các bên tự nguyện chấp nhận thì Tòa án không can thiệp. Ngoài ra việc cần
sửa đổi tên gọi hợp đồng kinh tế thành hợp đồng kinh doanh, hợp đồng thương
mại có tính chất là các hợp đồng chuyên biệt đúng với tính chất và mục đích và
thống nhất với pháp luật trong nước (Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004,
Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003...)
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 83
Tóm lại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ra đời tạo tiền đề pháp lý cho
hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự, kinh tế, lao động của Tòa án. Bên cạnh
nhiều quy định mới, tiến bộ về thẩm quyền giải quyết các vụ việc kinh doanh
thương mại thì Bộ luật tố tụng dân sự còn một số quy định chưa rõ ràng hoặc
chưa phù hợp với thực tiễn kinh doanh rất phong phú và không ngừng biến động
của nước ta hiện nay. Vì vậy, cần phải hoàn thiện pháp luật đặc biệt là pháp luật
về tố tụng dân sự nói chung và tố tụng kinh tế nói riêng.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 84
KẾT LUẬN
Nền kinh tế của nước ta hiện nay đang phát triển rất mạnh, và trong thời
gian tới được dự báo là sẽ phát triển mạnh hơn hiện nay. Vì lẽ đó mà các mối
quan hệ về kinh doanh thương mại cũng ngày càng nhiều hơn, phức tạp hơn. Vì
vậy chúng ta càng phải tuyên truyền, phổ biến pháp luật ngày càng sâu rộng hơn
nhằm nâng cao sự am hiểu pháp luật của các nhà đầu tư, nhà kinh doanh.
Trong đó vấn đề nâng cao nghiệp vụ và biên chế cho các cơ quan tiến
hành tố tụng cần phải được quan tâm đặc biệt, phải hoàn thiện hệ thống pháp luật
về tố tụng tránh sự nhằm lẫn, chồng chéo của pháp luật. Từng bước hòa nhập với
hệ thống pháp luật của các nước trên thế giới trong điều kiện nước ta đang hội
nhập mạnh mẽ vào nền kinh tế toàn cầu.
Riêng về công tác giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại
cần phải nâng cao hiệu quả công tác hòa giải, giảm thiểu tối đa việc phải đưa vụ
án ra xét xử nhằm tiết kiệm thời gian và công sức của nhà kinh doanh.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu biện pháp giải quyết tranh chấp về hợp
đông kinh doanh thương mại bằng Tòa án đòi hỏi phải có một công trình nghiên
cứu được đầu tư đúng mức, nghiêm túc nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những
tranh chấp phát sinh trong quá trình kinh doanh cũng như việc xét xử thông qua
Tòa án. Giúp làm tròn trách nhiệm nhà nước đối với việc tạo ra một môi trương
kinh doanh trong sáng, an toàn, đồng thời giúp nhà đầu tư tránh được những khó
khăn do quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh mang lại.
Muốn đạt được những việc đó công việc trước tiên cần phải làm là:
+ Xây dựng một hệ thống pháp luật rõ ràng, minh bạch, hạn chế nhiều kẽ
hở của pháp luật, có khả năng kiểm soát được hoạt động kinh doanh của các nhà
đầu tư một cách hiệu quả.
+ Cần phải có một cơ chế giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương
mại có hiệu quả, nhanh chóng tránh tình trang thẩm quyền chồng lấn nhau giữa
các cơ quan. Cần phải loại bỏ những quy định không phù hơp của pháp luật.
+ Cần tách các chế định về giải quyết các tranh chấp về kinh doanh
thương mại thành một phần riêng nhằm tránh sự nhằm lẫn giữa tranh chấp về dân
sự và kinh doanh, thương mại.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 85
Tuy nhiên, pháp luật chỉ là yếu tố cần, điều quan trong là nhà đầu tư phải
kinh doanh bằng cái tâm của mình, phải biết cách tự bảo vệ mình, phải có
phương án đầu tư khoa học an toàn phải không ngừng nghiên cứu, học hỏi để
tích luỹ kiến thức về pháp luật, bảo đảm đạt được mục tiêu lợi nhuận và tránh
được những cạm bẫy trong kinh doanh.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Trương Thanh Hùng
SVTH: Phan Minh Giới Trang 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004.
2/ Bộ luật Dân sự 2005.
3/ Luật Doanh nghiệp 2005.
4/ Luật thương mại 2005
5/ Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003
6/ Giáo trình luật tố tụng dân sự, trường đại học cần thơ.
7/ Giáo trình luật thương mại, trường đại học cần thơ.
8/ Giáo trình luật dân sự trương đại học cần thơ.
9/ Nghị quyết 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/09/2005 của Hội đồng thẩm phán tòa
án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự về “chứng minh chứng cứ”
10/ Nghị định 25/2004/NQ- HĐTP ngày 15/01/2004 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh trong tài thương mại.
11/ Nghị quyết 01/2005/ NQ- HĐTP ngày 31/03/2005 của Hội đồng thẩm phán
tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất
“những quy định chung của bộ luật tố tụng dân sự 2004”
12/ Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/04/2005 của Hội đồng thẩm phán
tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII
“Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ luật tố tụng dân sự
13/ TS. Lê Thị Bích Thọ - Hợp đồng kinh tế vô hiệu nhà xuất bản Hà Nội 2004.
14/
15/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- GI7842I QUY7870T TRANH CH7844P V7872 H7906P 2727890NG TRONG PHamp193P LUamp7.PDF