MS: LVVH-PPDH002
SỐ TRANG: 135
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LL VÀ PPDH VĂN HỌC
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2007
CẤU TRÚC LUẬN VĂNLỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Xuất phát từ yêu cầu về việc đổi mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường phổ thông hiện nay
1.2. Từ thực trạng dạy học văn trong nhà trường hiện nay nói chung và vấn đề dạy học mảng văn học nước ngoài còn nhiều hạn chế
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
CHƯƠNG 1: VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH PHỔ THÔNG HIỆN NAY
1.1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1.1. Một cái nhìn tổng thể về những tinh hoa văn học và những trường phái văn học tiêu biểu của văn học nước ngoài
1.1.2. Đối sánh Văn học nước ngoài với Văn học Việt Nam
1.2. NỘI DUNG, CẤU TRÚC, THỜI LƯỢNG VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG SÁCH GIÁO KHOA Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.2.1. Cấp trung học cơ sở
1.2.2. Cấp trung học phổ thông
1.2.3. Nhận xét cấu trúc, thời lượng của Văn học nước ngoài và thơ Đường trong sách giáo khoa văn ở trường phổ thông
CHƯƠNG 2: THƠ ĐƯỜNG VÀ THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG
2.1. VỀ NÉT VỀ THƠ ĐƯỜNG
2.1.1. Thời đại hoàng kim của thơ ca
2.1.2. Sự phong phú đa dạng của thơ ca
2.2. THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG
2.2.1. Thi pháp và thi pháp học
2.2.2. Các phương diện trong thi pháp thơ Đường
CHƯƠNG 3: ỨNG DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO GIẢNG DẠY THƠ ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
3.1. VIỆC DẠY VÀ HỌC THƠ ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY
3.1.1. Những thuận lợi, khó khăn của giáo viên và học sinh khi tiếp cận thơ Đường
3.1.2. Đi tìm nguyên nhân
3.2. ỨNG DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO GIẢNG DẠY NHỮNG BÀI THƠ ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG
3.2.1. Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương)
3.2.2. Vọng Lư Sơn bộc bố, Tĩnh dạ tư, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch)
3.2.3. Mao ốc vị thu phong sở phá ca, Thu hứng (Đỗ Phủ)
3.2.4. Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu)
3.2.5. Phong Kiều dạ bạc (Trương Kế)
3.2.6. Khuê oán (Vương Xương Linh)
3.2.7. Điểu minh giản (Vương Duy)
3.3. ỨNG DỤNG CỤ THỂ QUA THIẾT KẾ BÀI GIẢNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
3.3.1. Đối với các bài giảng chính thức
3.3.2. Đối với ba bài tự học có hướng dẫn (tiết 51)
3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Hình ảnh một số nhà thơ nổi tiếng thời Đường
Phụ lục 2. Một số địa danh liên quan đến các nhà thơ thời Đường
Phụ lục 3. Nguyên văn chữ Hán các bài thơ Đường trong chương trình phổ thông
Phụ lục 4: Tổng hợp các kết quả điều tra
135 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3903 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là niềm đồng cảm với nhân dân trong khổ nạn, chứa
chan tình yêu nước và tinh thần nhân đạo.
Tác phẩm
- Học sinh dựa vào
chú thích (1) trong
sách giáo khoa trang
145, nói lại hoàn
cảnh sáng tác của bài
thơ?
- Thể thơ và bố cục
+ Học sinh nhận xét
thể thơ trong nguyên
tác và bản dịch thơ.
+ Giáo viên nêu vấn
đề và hỏi: Theo ý
kiến của em, nên chia
bài thơ theo cấu trúc
chung – phổ biến của
thể thơ thất ngôn bát
cú Đường luật hay
chia thành hai phần:
4 câu đầu (tiền giải)
và 4 câu cuối (hậu
- Giọng thơ của Đỗ Phủ trầm uất, nghẹn ngào. Ông
sành tất cả các thể thơ nhưng đặc biệt thành công ở
thể luật thi. Với nhân cách cao thượng, tài năng nghệ
thuật trác việt, Đỗ Phủ được người Trung Quốc gọi là
“Thi thánh”.
- Đỗ Phủ có ảnh hưởng lớn đến các nhà thơ Việt Nam
trung đại như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...
Tác phẩm
- Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ
+ Những điểm chính đã nêu ở chú thích (1) sách giáo
khoa trang 145.
+ Bổ sung thêm: Loạn An Lộc Sơn làm cho đất nước
Trung Hoa chìm đắm trong nội chiến, nhân dân vô
cùng điêu đứng thì Đỗ Phủ cũng bị lưu lạc tới Ba
Thục, ngụ ở Quỳ Châu (Tứ Xuyên). Năm 766, nơi núi
non hùng vĩ, hiểm trở, xa cách quê hương, gia đình đã
khơi nguồn cho nhà thơ viết chùm thơ mùa thu gồm
tám bài mà Thu hứng là bài đầu tiên.
- Thể thơ và bố cục
Thu hứng là bài thơ thất ngôn bát cú. Cấu trúc của nó
rất chặt chẽ, theo bốn phần giống như kết cấu của các
bài thơ thất ngôn bát cú khác. Nhưng ở đây, phần đề
và phần thực (bốn câu đầu) dường như biểu hiện trọn
vẹn một ý. Còn phần luận và kết lại biểu hiện trọn vẹn
một nội dung, một ý khác. Vậy nên không phân tích
theo kết cấu truyền thống mà theo nội dung:
+ Bốn câu đầu miêu tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ
mà hiu hắt, sôi động mà nhạt nhòa trong sương khói
mùa thu, hiện diện của một tâm trạng buồn xót xa
trước tình cảnh đất nước.
+ Bốn câu cuối thể hiện nỗi buồn thương nhớ quê
hương.
giải)?
Hoạt động 2: Hướng
dẫn học sinh đọc -
hiểu chi tiết
Bốn câu đầu
- Học sinh đọc lại
bốn câu đầu trong cả
ba văn bản (phiên
âm, dịch nghĩa, dịch
thơ).
- Giáo viên hỏi: bốn
câu thơ tả cảnh mùa
thu ở đâu? Cảnh sắc
ấy gợi cho ta liên
tưởng gì?
- Học sinh trả lời
khái quát cảm nhận
của mình.
- Giáo viên hỏi: Vì
sao có thể nhận xét
như thế? Có bốn hình
ảnh thiên nhiên mùa
thu xuất hiện ở đoạn
thơ, đó là những hình
ảnh nào? Cách tả của
tác giả có gì độc đáo?
- Học sinh suy nghĩ,
lần lượt trả lời từng
ý.
- Giáo viên hỏi:
Phong cảnh mùa thu thể hiện qua bốn câu đầu
- Cảnh mùa thu ở Quỳ Châu (Tứ Xuyên – Ba Thục,
miền núi phía tây Trung Quốc, thượng nguồn sông
Trường Giang).
- Cảnh thu trong thơ Việt Nam có nhiều bài rất đặc
sắc như Vịnh mùa thu (Nguyễn Công Trứ), thu vịnh,
thu điếu, thu ẩm (nguyễn Khuyến). Nhưng cảnh thu
trong thơ Đỗ Phủ không phải là cảnh đẹp bình yên,
mà mang màu sắc ảm đạm, điêu linh.
- Bốn hình ảnh xuất hiện lần lượt trong bốn câu:
Câu 1: Những hạt sương rơi lác đác đác trên rừng
phong.
Câu 2: Những dãy núi mờ mịt trong sương, càng thêm
hiu quạnh.
Câu 3: Những đợt sóng Trường Giang dữ dội cao tới
lưng trời.
Câu 4: Những đám mây đùn nơi cửa ải xa xôi.
Cảnh thu thật khác hẳn cảnh thu dưới đồng bằng hoặc
chốn thành thị, nơi bờ biển. Đúng là cảnh thu miền
núi non biên viễn.
- Mùa thu cũng là mùa trời trong xanh, nước trong
Trong cảnh ấy vẫn
ngầm ngụ tình của
người viết. Đó là cảm
xúc gì, tâm trạng gì?
- Học sinh căn cứ
vào các hình ảnh thơ,
cách miêu tả để suy
ngẫm, suy luận và
phát biểu.
Bốn câu sau
- Học sinh đọc câu 5
và 6.
- Giáo viên hỏi:
+ Hai câu 5 – 6 trong
thơ thất ngôn bát cú
đường luật phải sử
dụng biện pháp nghệ
thuật gì?
+ Em hiểu ý hai câu
thơ này như thế nào?
xanh. Trời thu và nước thu được các thi nhân Việt
Nam thể hiện nói chung rất đẹp. Nhưng ở trong bài
thu hứng của Đỗ Phủ, không gian mùa thu dồn nén,
dữ dội, rừng thu điêu thương, khí thu hiu hắt, nước
thu nổi sóng lên tận trời, chứ không phải “hơi gợn tí”
(Thu điếu – Nguyễn Khuyến), mây không lơ lửng mà
sà xuống tận đất nơi miền biên ải. “Sóng vỗ lên trời,
mây sa tận đất” đó là những biểu tượng mạnh mẽ, dữ
dằn, nói lên suy tư trăn trở mạnh mẽ của nhà thơ.
Đồng thời trong cảnh thu ấy nhà thơ cảm nhận được
nỗi đau khổ của mọi người, mọi cảnh ngộ, trong đó có
cả nỗi xót xa của riêng mình. Ở đây, tuy tả cảnh mà
vẫn thấy tình, tình nằm ẩn sâu trong cảnh.
Tâm trạng của nhà thơ ở bốn câu sau
- Phép đối: đối ý, đối từ, đối thanh...
- “Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ” là câu thơ thứ
nhất của phần luận, bộc lộ trực tiếp cảm xúc của tác
giả. Hoa đáng lẽ tăng thêm vẻ đẹp, làm cho người ta
vui. Ở đây thì không, hoa làm cho người ta càng buồn,
thậm chí những đau khổ của quá khứ (dòng lệ cũ) trở
về với hiện tại và đọng lại trên những nhành hoa. Đã
hai lần mùa thu đến (năm ngoái ở Vân An, năm nay ở
Quỳ Châu), Đỗ phủ không chỉ khóc trong hiện tại mà
nước mắt đã rơi từ lâu rồi, giọt lệ buồn đến nay vẫn
chưa khô.
- “Cô chu nhất hệ cố viên tâm” Nguyễn Công Trứ
dịch là “con thuyền buộc chặt mối tình nhà”. Trong
bài thơ Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng, Lí Bạch có câu thơ nói về “cô phàm”
(cánh buồm đơn chiếc) chỉ con thuyền xa, li biệt. Ở
bài này Đỗ Phủ nói “cô chu” (con thuyền đơn độc)
cũng có thể là con thuyền thật, cũng có thể là con
- Giáo viên hỏi: Tại
sao tác giả lại chọn
hai hình ảnh hoa cúc
và con thuyền?
- Học sinh giải thích.
- Giáo viên hỏi: Hãy
tìm những động từ
nhiều hàm ý trong
hai câu thơ trên. Đặc
sắc trong cách kết
hợp ngữ pháp thơ của
Đỗ Phủ ở đây như
thế nào?
- Học sinh có thể
phân tích, suy luận
dựa trên bản dịch
tiếng Việt, nhưng tốt
hơn là đối chiếu, so
sánh với nguyên tác
qua bản phiên âm.
- Học sinh đọc tiếp
hai câu cuối.
- Giáo viên hỏi: Nêu
thuyền tưởng tượng để chỉ thân phận đơn chiếc và trôi
dạt của mình. Đây là nỗi niềm tâm sự của kẻ tha
phương. Mảnh vườn xưa chính là mảnh đất nơi chôn
nhau cắt rốn của nhà thơ.
Vì đó là những hình ảnh không chỉ tiêu biểu cho mùa
thu mà còn hàm chứa ý nghĩa ẩn dụ - tượng trưng sâu
sắc.
+ Cúc là hoa mùa thu cũng như sen, phượng là hoa
của mùa hè.
+ Con thuyền – tượng trưng cho cuộc đời, con người
nổi trôi, luân lạc. Con thuyền mang chở tâm tình con
người.
Các động từ khai (nở), hệ (buộc) kết hợp với các bổ
ngữ (tha nhật lệ, cố viên tâm).
Chú ý thêm từ lưỡng: hai (hoa cúc nở hai lần và đều
ra nước mắt).
Nhất: một, duy nhất chỉ có con thuyền buộc mãi vào
trái tim trĩu nặng nhớ thương vò võ cô quạnh của
người ở xa quê.
Như vậy, trong hai câu này tình đã lấn cảnh. Cảnh mở
là phương tiện bên ngoài để nói tâm trạng, cảm xúc,
nỗi lòng.
- Ở câu thơ thứ bảy “Hàn y xứ xứ thôi đao xích”, sách
nhận xét hai câu cuối
ở bản dịch với
nguyên tác có gì khác
biệt?
- Học sinh liên
tưởng, suy luận, phát
biểu.
Hoạt động 3: Hướng
dẫn học sinh củng
cố bài
- Thực chất Thu
hứng là gì?
Mùa thu, cảnh thu,
tình thu được thể
hiện như thế nào?
giáo khoa Văn 10 dịch là chỗ nào cũng rộn ràng dao
thước để may áo rét, còn Nguyễn Công Trứ dịch câu
trên là Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước. Phần dịch
nghĩa thêm chữ rộn ràng (thường dùng chỉ sự vui
tươi) đã làm thay đổi âm hưởng của bài thơ, Lạnh
lùng giục kẻ tay dao thước thì càng không rõ nghĩa,
chưa nói là đã làm mất ý nghĩa may áo rét. Như vậy,
cả phần dịch nghĩa lẫn dịch thơ đều thoát khỏi nguyên
bản quá xa. Nghĩa đủ của câu này là Khắp nơi dao
thước may áo rét.
- Trời dần về tối (mộ), tiếng chày đập áo nghe càng
dồn dập nhấn mạnh thêm hoàn cảnh lo rét, chống rét
của người dân khi thu qua, đông tới. Thơ thời Đường,
tiếng chày đập áo có sức gợi cảm lớn. Thơ Lí Bạch:
“tiếng đập áo của muôn nhà” có thể làm cho người
chinh phụ xao xuyến nghĩ tới người thân nơi “quan
ải”, “nghe tiếng chày đêm” có thể “sáng mai đầu bạc
phau” vì “mỗi tiếng chày lên xuống là thêm một sợi
tóc trắng như tơ” (Bạch Cư Dị). Cảnh chiều thu thành
Bạch Đế, tiếng chày đập áo nghe dồn dập càng khơi
dậy trong lòng nỗi thương nhớ khôn nguôi. Đây là nỗi
thổn thức riêng của Đỗ Phủ, cũng là tâm trạng chung
của biết bao kẻ xa quê trong thời loạn lạc hay vì lí do
nào đó phải xa nhà.
► Củng cố bài
- Mùa thu cây cối điêu linh, núi non hiu hắt, sóng rợn,
mây đùn, khí lạnh nơi thành cao, ải xa, với người xa
quê thì mùa thu lại càng buồn. Chiều thu buồn ở thành
Bạch Đế xứ Quỳ Châu đã làm cho nhà thơ tuôn thêm
dòng lệ cũ bởi ông đang trong cảnh xa quê, lận đận
gian truân giữa tuổi 53 – 54. Đó là nội dung chủ yếu
của bài Thu hứng.
- Giáo viên cho học
sinh đọc thêm một số
bài thơ thu khác của
Đỗ Phủ: (Thu hứng:
bài 2, bài 4).
- Mùa thu ở đây không được mĩ lệ, thi vị hóa mà là vẽ
lên bằng cả nỗi lòng của người tha phương phiêu bạt.
Thu hiện lên với vẻ dữ dằn, khổ ải của con người và
xã hội thời loạn lạc, li tán. Đây là bức tranh cảnh, tình
hài hoà, có phần hùng tráng sóng vọt tận mây, mây sà
tận đất nhưng đượm buồn.
3.3.2. Đối với ba bài tự học có hướng dẫn (tiết 51)
Yêu cầu:
- Kiến thức – tư tưởng:
+ Hiểu được chủ đề - cảm hứng chủ đạo và nét đặc sắc về hình thức thể hiện
tiêu biểu trong từng bài.
+ Qua ba bài thơ, hiểu thêm giá trị thơ Đường.
- Tích hợp với các bài thơ Đường đã học.
- Rèn kĩ năng tự học, tự tìm hiểu giá trị của tác phẩm thơ trữ tình qua hệ thống sách
giáo khoa.
Chuẩn bị của giáo viên và học sinh:
- Các cuốn sách: Thơ Đường tập 1, 2.
- Phóng to tranh ảnh Hoàng Hạc lâu.
- Chân Dung, tranh ảnh, những tư liệu về: Vương Duy, Thôi Hiệu, Vương Xương
Linh.
Thiết kế dạy – học:
Hoạt động 1: Hướng dẫn tự đọc – hiểu từng bài thơ
● Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu)
- Giáo viên hỏi: Cho biết tên tác giả, tên những người dịch, nhận xét thể thơ trong
nguyên tác và trong các bản dịch?
Định hướng trả lời:
- Tác giả Thôi Hiệu (704 – 754) – nhà thơ Đường nổi tiếng, cùng thời với Lí Bạch.
- Những người dịch: Tản Đà dịch thành thơ lục bát, một trong những bản dịch được
hâm mộ nhất. Khương Hữu Dụng dịch theo thể thơ nguyên tác: thất ngôn bát cú
Đường luật.
- Giáo viên hỏi tiếp: Em hiểu gì về hoàn cảnh sáng tác bài thơ? Có thể kể lại truyền
thuyết Phí Văn Vi, chỉ rõ vị trí lầu Hoàng Hạc?
Định hướng trả lời:
Lầu Hoàng Hạc là một di tích văn hóa nổi tiếng nằm ở bờ bắc Trường Giang, thuộc
phía Tây Nam huyện vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc (Trung Quốc). Truyền thuyết kể rằng,
xưa có chàng Phí Văn Vi buồn vì thi hỏng, lang thang trên bãi Anh Vũ, bên bờ
Trường Giang. Bỗng có con hạc vàng đáp xuống, Phí Văn Vi cưỡi hạc bay lên trời.
Người đời sau xây ngôi lầu làm kỷ niệm, gọi là lầu Hoàng Hạc. Thôi Hiệu và nhiều
nhà thơ khác đến thăm, cảm hứng đề thơ.
Người đương thời và đời sau đều xem bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu là
đệ nhất (Nghiêm Vũ). Hay đến mức, thi tiên Lí Bạch phải viết:
“Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu”
(Trước mắt có cảnh không nói được
Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu)
- Giáo viên hỏi: Nên chia bố cục bài thơ làm mấy phần và nhận xét?
Định hướng trả lời:
Có thể chia bài thơ làm hai phần. Bốn câu thơ đầu đề cập trực tiếp đến nguồn gốc,
tên gọi và định vị lầu Hoàng Hạc ở phương diện thời gian. Phần này chủ yếu nói
chuyện xưa - nay; còn – mất. Bốn câu sau định vị lầu trong không gian, miêu tả thiên
nhiên và trực tiếp biểu hiện tâm trạng.
- Giáo viên hỏi: Theo em, chủ đề và cảm hứng chủ đạo của bài thơ là gì?
Định hướng trả lời:
Xác định điều này không dễ.
- Đó là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh đẹp nơi lầu Hoàng Hạc.
- Kết đọng nỗi sầu hoài cổ, nhớ quê xa.
Gợi trong lòng người đọc sự ngỡ ngàng, bâng khuâng, nỗi nhớ, nỗi buồn trong trẻo,
sâu thẳm.
- Học sinh tự đọc lại bài thơ nguyên tác và bản dịch, tự lắng nghe và ngẫm nghĩ.
- Giáo viên hỏi: Theo em, tác giả có tả kĩ lầu Hoàng Hạc hay không? Có sự đối lập
nào xuất hiện trong bài thơ?
Định hướng trả lời:
- Viết về lầu Hoàng Hạc mà không tả cụ thể ngôi lầu ra sao, chủ yếu tả khung cảnh
chung quanh, đám mây trắng, bãi cỏ Anh Vũ, hàng cây Hán Dương, dòng Trường
Giang. Đó là nét riêng và dụng ý của tác giả.
- Có sự đối lập: quá khứ – hiện tại; mất – còn; cõi tiên – cõi trần; vô hạn của vũ trụ –
hữu hạn của đời người; không gian thực và không gian tâm tưởng.
- Cảnh đẹp nhưng lòng buồn.
- Giáo viên hỏi: Có ý kiến cho rằng, chữ sầu ở cuối bài đã kết đọng cảm hứng của bài
thơ. Ý kiến em?
- Học sinh thảo luận.
Định hướng trả lời:
- Đúng vậy, cả bài thơ chữ nào, câu nào cũng bâng khuâng, man mác một niềm buồn
thương, nhung nhớ. Nhớ người xưa đi mất hút không bao giờ trở về, đám mây trắng
chơi vơi, ngọn khói sóng buổi chiều trên dòng sông rộng gợi nỗi sầu nhớ quê hương.
- Huy Cận, khi viết bài thơ nổi tiếng Tràng Giang cũng chịu ảnh hưởng của hai câu
kết trong bài Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu, mặc dù cảm xúc hai người không hoàn toàn
giống nhau:
“Lòng quê dờn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
- Giáo viên chốt lại toàn bài: Với khả năng vận dụng linh hoạt luật thơ, sáng tạo hình
ảnh và ngôn ngữ, Thôi Hiệu đã tạo nên giá trị hàm súc cho bài thơ. Chỉ tám câu thơ
bảy chữ, tác giả không chỉ nhắc đến truyền thuyết, nguồn gốc, vị trí lầu Hoàng Hạc
trong không gian – thời gian thực và không gian – thời gian ảo mà còn thể hiện được
những vấn đề triết lí nhân sinh có ý nghĩa, gợi nhiều liên tưởng cho người đọc. Tâm
trạng nuối tiếc, sự suy tư của tác giả trước sự mất còn, giữa hiện tại và quá khứ, giữa
cái vô hạn của vũ trụ mênh mông với sự hữu hạn của đời người đã gợi lên những liên
tưởng về hiện thực xã hội. Đó vừa là những trăn trở về cuộc đời, vừa là tấm lòng tha
thiết đối với quê hương. Và vượt lên tất cả là tấm lòng trân trọng những giá trị tốt đẹp
của quá khứ, từ đó trân trọng những điều tốt đẹp của cuộc sống hiện tại. Những ý
nghĩa nhân văn tốt đẹp ấy, bài thơ thể hiện khao khát và ước mơ về một cuộc sống có
nhiều điều tốt đẹp bởi đó là giá trị thực của cuộc sống.
● Khuê oán (Vương Xương Linh)
- Giáo viên hỏi: Cho biết tên tác giả, đề tài của văn bản?
- Học sinh dựa vào tiểu dẫn sách giáo khoa 10 trang 161 trả lời tiểu sử tác giả. Đề tài
biên tái (Chiến tranh biên giới trong thơ Đường khá phổ biến: Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch
Cư Dị)
- Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bản phiên âm và hai bản dịch; nhận xét, so sánh về
thể loại giữa nguyên tác với hai bản dịch.
Định hướng trả lời:
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Bản dịch thơ lục bát (Tản Đà), theo thể loại nguyên tác (Nguyễn Khắc Phi).
- Giáo viên hỏi: Diễn biến tâm trạng của người vợ trẻ trong bài thơ như thế nào? Phân
tích rõ tâm trạng và chuyển đổi tâm trạng của nàng trong từng câu thơ. Vì sao có sự
chuyển đổi đó?
- Học sinh phân tích, phát biểu.
Định hướng trả lời
+ Câu 1:
Bất tri sầu: không biết buồn, rất vô tư. Vì sao? Vì tuổi trẻ, vì chung giấc mộng công
danh với chồng, hi vọng chồng sẽ được phong hầu ban tước sau này.
+ Câu 2:
Ngày xuân trang điểm đẹp đẽ, bước lên lầu ngắm cảnh. Đó là công việc hàng ngày
của người phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ.
Tuy nhiên lên lầu (đăng cao) là để nhìn xa, để giải bày, bộc bạch tâm sự. Đến đây,
hình như trong tâm hồn của thiếu phụ không còn hoàn toàn vô tư nữa.
+ Câu 3:
Hốt kiến – dương liễu sắc
Nàng chợt nhìn sắc liễu bên đường – màu xanh của thiên nhiên, mùa xuân, tuổi trẻ,
cũng là màu của li biệt.
Câu thứ ba có tác dụng là cái cầu, cái cớ, cái bản lề khép mở bất ngờ mà tự nhiên để
chuyển đổi tâm trạng của con người.
+ Câu 4:
- Từ hốt kiến chuyển sang hối giao một cách hợp lý. Tâm trạng bộn bề, nỗi lòng đau
đớn, người thiếu phụ hối hận đã để chồng đi tòng quân mong lập công danh để tuổi
xanh trôi đi trong cô đơn, nàng hốt hoảng khi nghĩ về số phận chông chênh của chồng
nơi chiến trận xa xôi, lập được công danh thì ít mà tính mạng bị nguy hiểm lại nhiều.
- Sau hối là oán.
Oán gì? Oán cái ấn phong hầu, chiến tranh phi nghĩa khiến vợ chồng nàng phải chia
lìa không biết đến bao giờ. Rõ ràng, diễn biến tâm trạng của thiếu phụ trong bài thơ
là: bất tri sầu – hốt – hối – oán mà nguyên nhân – nguyên cớ trước mắt là màu dương
liễu; nguyên nhân sâu xa là ấn phong hầu, chiến tranh phi nghĩa.
- Giáo viên hỏi: Em có liên hệ đến đoạn thơ nào cũng viết về đề tài này trong chương
trình Ngữ văn Trung học cơ sở?
- Học sinh nhớ lại, trình bày.
Định hướng trả lời:
Chinh phụ ngâm khúc – Đặng Trần Côn (người dịch Đoàn Thị điểm). Đoạn trích Sau
phút chia li: (...Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu; Thà khuyên chàng đừng chịu
tước phong chính là bắt nguồn từ bài thơ Khuê oán này).
● Điểu minh giản (Vương Duy)
- Giáo viên hỏi: Nêu những nét chính về tác giả Vương Duy?
- Học sinh dựa vào tiểu dẫn sách giáo khoa 10 trang 163 trả lời tiểu sử tác giả. Chú ý
những nét chính sau:
+ Phái Sơn thủy điền viên trong lịch sử thơ Đường (giai đoạn thịnh Đường) mà
Vương Duy là một đại diện xuất sắc.
+ Thơ ông trang nhã, bình đạm, trong thơ có họa.
- Học sinh đọc văn bản: phần phiên âm , các bản dịch.
- Giáo viên hỏi: Bài thơ tả cảnh gì? Nét đặc sắc của bức tranh phong cảnh trong bài
thơ như thế nào? Trạng thái tâm hồn nhà thơ khi ấy ra sao?
- Học sinh lắng nghe, suy nghĩ, lần lượt trả lời.
Định hướng trả lời:
Bài thơ tả cảnh đêm xuân trong khe núi.
+ Câu 1: Hoa quế nhỏ li ti, rụng khe khẽ mà mà người cũng nghe được chứng tỏ đêm
phải rất yên tĩnh, lòng người cũng rất yên tĩnh, tập trung mới nghe được âm thanh cực
nhỏ như vậy. Cảnh và người thật hòa hợp.
+ Câu 2: Trực tiếp tả cảnh đêm xuân trong núi vắng vẻ. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên
núi vắng mùa xuân lại càng tĩnh mịch hơn.
+ Câu 3: Trăng lên làm gì có tiếng động thế mà lại làm cho chim núi giật mình. Cũng
là vì đêm quá yên lặng.
+ Câu 4: Những tiếng kêu khe khẽ của chim núi vì sợ hãi vào lúc trăng lên lại càng
chứng tỏ đêm tĩnh lặng đến vô cùng.
Không gian ở hai câu sau đã có sự thay đổi, có sự xuất hiện của âm thanh
(tiếng chim núi) và ánh sáng (ánh trăng). Nhưng ánh sáng và âm thanh càng làm nổi
bật hơn sự tĩnh lặng của đêm.
Sự tĩnh lặng của đêm xuân và sự bình yên thanh thản của tâm hồn con người.
Đó là tiếng đêm xao động tâm hồn bình yên. Nét đặc sắc là lấy cái động để tả cái
tĩnh. Bức tranh bằng âm thanh độc đáo.
- Giáo viên hỏi: So sánh cách lấy cái động để tả cái tĩnh trong các bài thơ đã học?
- Học sinh gợi nhớ, phát biểu.
Định hướng trả lời:
Bài Tĩnh dạ tư (Lí Bạch) – đêm trăng sáng yên lặng lại nhớ cố hương, lấy cái
cử đầu, đê đầu, tả cái đêm yên tĩnh của trăng và nỗi buồn xa quê của tác giả.
Bài Thu điếu (Nguyễn Khuyến) lấy cái sóng gợn tí, lá đưa vèo, cá đâu đớp
động để tả cái yên tĩnh của mùa thu và lòng người ngắm cảnh.
Hoạt động 2: Hướng dẫn tự rút ra bài học chung cho cả ba bài
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phải tự nhận ra được những điều sau:
+ Những điểm giống và khác nhau về nội dung và hình thức biểu đạt.
+ Kết luận rút ra nhận xét về giá trị phong phú của thơ Đường.
Hoạt động 3: Bài tập nâng cao
- Giáo viên cho học sinh thảo luận nhóm bài tập sau:
“Thơ Đường lấy cái có (hữu) để nói cái không có (vô) hoặc ngược lại. Qua các bài
thơ Đường vừa học, các em hãy phân tích điều đó”.
Định hướng trả lời:
Trong thơ Đường, chúng ta bắt gặp nhiều mối quan hệ thật sinh động. Đó là quan hệ
giữa “tiên” và “tục”, giữa quá khứ và hiện tại trong “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu.
Đó là quan hệ giữa động và tĩnh, giữa sáng và tối trong “Khe chim kêu” của Vương
Duy. Ngoài những mối quan hệ này, ta còn bắt gặp sự đối lập giữa cái “chẳng biết
sầu” để nhấn mạnh cái sầu trong “Nỗi oán của người phòng khuê” của Vương Xương
Linh. “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” của Lí Bạch đã tạo
ra mối quan hệ đối lập giữa cái có và cái không.
- Cái có được gợi ra từ không gian, thời điểm, địa điểm. Có tháng ba tiết xuân hoa nở,
có dòng sông sương khói bàng bạc, có nơi đến gợi bao vẻ đẹp của phồn hoa đô hội,
có bầu trời xanh biết ngút tầm mắt. Tất cả để làm rõ cái không có. Đó là cánh buồm
mất hút. Người bạn đã đi xa, để lại trong lòng cả hai một nổi cô đơn.
- Cánh buồm cô lẻ mất hút, hòa nhập vào nền trời xanh biếc trong hút tầm mắt là cái
không có để nhấn mạnh cái có. Đó là người đưa tiễn. Nhờ thơ đang đứng trên lầu cao
dõi theo cánh buồm đưa bạn tới chân trời.
- Cái mênh mông vô tận của không gian là cái có để diễn tả cái không có (không nói
ra). Đó là sự lẻ loi, cô đơn, nhỏ bé của kiếp người.
3.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
Xuất phát từ yêu cầu giáo dục và thực trạng dạy học văn trong nhà trường phổ
thông hiện nay, chúng tôi mạnh dạn nêu lên một số giải pháp và kiến nghị như sau:
Việc dạy học thơ Đường trong nhà trường phổ thông cần phải xác định một
quan điểm giáo dục toàn diện. Xuất phát từ yêu cầu của giáo dục phổ thông để chúng
ta cần xác định một quan niệm đúng đắn trong việc giảng dạy thơ Đường. Trước hết
giáo viên dạy Văn cần phải ý thức được tầm quan trọng, ý nghĩa văn hóa và giáo dục
của thơ Đường để tránh quan niệm cho rằng thơ Đường không ảnh hưởng gì đến nền
văn học trong nước cũng như không có tác dụng gì đối với cuộc sống hiện tại, cũng
không nên có tư tưởng bi quan, ngán ngại khi cho rằng “Thơ Đường khó”.
Cũng như các chuyên mục khác trong chương trình môn Văn ở trường phổ
thông, việc giảng dạy thơ Đường tất nhiên phải chú ý đến trình độ của học sinh, từ đó
tìm ra phương pháp dạy học phù hợp, để làm sao các em có thể xóa đi được những
khoảng cách quá xa giữa bản thân với không gian, thời gian lịch sử, với văn hoá,
ngôn ngữ của một dân tộc. Các bài thơ Đường đưa vào giảng dạy trong chương trình
phổ thông hiện nay là những bài thơ hay, tiêu biểu cho nội dung và thi pháp nhưng
chưa thực sự phù hợp với trình độ học sinh. Chúng tôi mạnh dạn đề xuất nên đưa thơ
Đường vào chương trình giảng dạy ở trường phổ thông phù hợp với khối lớp, chọn
lọc những bài tiêu biểu phù hợp với lứa tuổi học sinh bậc trung học cơ sở, cụ thể là
cho khối học sinh lớp 9.
Mỗi nhà thơ, nhà văn có một vai trò quan trọng, góp phần vào quá trình phát
triển một giai đoạn văn học. Vì vậy muốn có một cái nhìn tổng thể về tiến trình văn
học của một dân tộc, cần tìm hiểu về tác giả văn học. Việc tìm hiểu cuộc đời, sự
nghiệp sáng tác của nhà thơ sẽ giúp học sinh hiểu được những đóng góp to lớn của họ
đối với nền văn học cũng như rút ra được bài học về nhân cách làm người. Về phần
này chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số ý kiến như sau:
- Sách giáo khoa nên có thời gian dành cho phần học về tiểu sử tác giả, không nên gói
gọn tất cả trong một tiết học.
- Để tránh tình trạng giáo viên phải mất thời gian dạy lại những kiến thức học sinh đã
học ở lớp 7 (ví dụ: tiểu sử tác giả Lí Bạch và Đỗ Phủ), giáo viên chỉ cần nhắc lại một
cách sơ lược là đủ. Mặc dù nhắc lại sơ lược nhưng cần thiết vì vừa củng cố kiến thức
học sinh đã học ở lớp dưới vừa có liên quan trực tiếp đến bài học của các em ở lớp
10, đồng thời giáo viên cần kết hợp với nội dung khái quát giai đoạn văn học thời
Đường mà sách giáo khoa không giới thiệu giúp các em hiểu được mối quan hệ giữa
các nhà thơ với thời đại mà họ đang sống.
Với thời lượng (7 tiết) như hiện nay, việc dạy thơ Đường gặp nhiều khó khăn
nên cần tăng thêm số tiết dạy cho phần này khoảng 3 đến 4 tiết. Mặt khác, khi học
sinh tiếp cận với Văn học nước ngoài tất nhiên sẽ gặp những khó khăn hơn so với
Văn học Việt Nam. Để tạo tâm thế học tập, củng cố thêm những tri thức về bộ phận
Văn học nước ngoài cho học sinh, nhà trường và giáo viên cùng phối hợp tăng cường
các dụng cụ trực quan trong giờ học (ví dụ: băng, hình, tranh ảnh...); tổ chức các giờ
ngoại khóa bằng những hình thức như tổ chức cho các em sưu tầm và đọc tác phẩm,
thảo luận nhóm tại lớp, đố vui về tác giả, tác phẩm…
Hiện nay, khi dạy những bài thơ Đường, giáo viên đã chú ý đến việc phân tích
nội dung. Tuy nhiên, việc giảng dạy những bài thơ Đường phải chú ý đến những đặc
trưng thi pháp của thơ Đường.
Dạy thơ Đường là phải hiểu và dịch thật chính xác từ ngữ trong phần nguyên
tác bài thơ. Làm được điều này giáo viên giúp học sinh hiểu được nguyên tác đồng
thời cung cấp một số kiến thức về ngôn ngữ, làm phong phú thêm vốn ngôn ngữ của
các em bởi vì trong vốn từ mượn của dân tộc thì tiếng Việt mượn từ tiếng Hán nhiều
nhất. Thực tế cho thấy, có nhiều giáo viên biết rất ít về chữ Hán làm cản trở đáng kể
đến việc dạy thơ Đường cũng như dạy những tác phẩm văn học trung đại Việt Nam
viết bằng chữ Hán. Nên mở các lớp dạy chữ Hán vào chương trình bồi dưỡng thường
xuyên cho giáo viên.
Do tính chất thơ Đường là bình dị, súc tích ngắn gọn nên khi tiếp nhận thơ cần
phát hiện ra nhãn tự của bài thơ (tức là câu thơ mấu chốt mang ý nghĩa quan trong
nhất). Ví dụ bài “Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” hồn thơ là
hai câu cuối: “Cô phàm viễn ảnh bích không tận; Duy kiến Trường giang thiên tế
lưu”, hay bài “Thu Hứng” thì nhãn tự của bài thơ ở hai câu: “Tùng cúc lưỡng khai tha
nhật lệ; Cô chu nhất hệ cố viên tâm”. Đối với những bài thơ dài, giáo viên nên chọn
một đoạn ngắn để giảng sâu, kĩ chứ giảng dàn trải hết bài thơ. Chẳng hạn bài “Mao
ốc vị thu phong sở phá ca”, để thấy được tinh thần nhân đạo cao cả của Đỗ Phủ, giáo
viên nên chọn giảng sâu ở mười ba câu cuối của bài thơ.
Riêng văn học, việc đọc tác phẩm là sự phản ánh những tình cảm, ý chí, ước
vọng, động lực của tâm hồn và cùng với tiếng lòng của nhà văn thể hiện trong tác
phẩm, đọc là tiếng đồng vọng của con người trước thời đại và lịch sử. Trong quá
trình dạy học, đọc tác phẩm văn học như là một hoạt động sáng tạo mang tính thẩm
mĩ. Tình trạng học sinh đọc sai, đọc yếu hiện nay rất phổ biến, giáo viên nên hướng
dẫn phương pháp, rèn luyện năng lực đọc cho các em.
Cuối cùng, thiết nghĩ ngành giáo dục cần có sự thay đổi cách thức ra đề trong
kiểm tra, thi cử; nội dung thi không nên chỉ có phần Văn học Việt Nam mà phải bổ
sung các tác phẩm Văn học nước ngoài (đặc biệt là thơ Đường - một bộ văn học ảnh
hưởng rất lớn đến văn học trung đại Việt Nam) để tránh tình trạng xem nhẹ mảng văn
học này, đồng thời kiểm tra đánh giá được kiến thức văn học toàn diện ở học sinh.
Phương pháp dạy học truyền thống hay hiện đại cũng đều có những đặc điểm,
ưu thế và nhược điểm riêng. Không có phương thuốc nào có thể chữa được bách
bệnh, không có phương pháp dạy học nào là chìa khóa vạn năng. Việc nghiên cứu kỹ
từng bài dạy, từng đặc điểm bộ môn và đối tượng người học để có sự phối hợp đa
dạng các phương pháp dạy học là việc cần làm ngay của mỗi giáo viên để nâng cao
chất lượng giáo dục, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
____________________
KẾT LUẬN
Tác giả Kiều Văn nhận xét: “Thơ Đường chan chứa tính nhân văn, đầy ắp tính
người, tình đời, nỗi đau, nỗi hận… Thơ Đường phản ánh số phận “thập loại chúng
sinh” trên khắp đất nước Trung Hoa thời phong kiến nhà Đường” [69, tr. 6]. Đúng
vậy, thời đại nhà Đường đã thuộc về quá khứ theo dòng chảy của thời gian, thế nhưng
những giá trị tinh thần mà nó để lại cho đất nước Trung Hoa và nhân loại sẽ trường
tồn mãi mãi. Trong nền văn hoá nhân loại, thơ Đường đã trở thành một hiện tượng
độc đáo, mỗi bài thơ là một viên ngọc quý mà khi nhìn, dù ở góc độ nào cũng thấy nó
tỏa sáng lung linh. Chính vì sự tuyệt tác của thơ Đường mà các nhà văn, nhà thơ và
các nhà nghiên cứu từ trước đến nay không ngừng tìm hiểu, nó trở thành mối quan
tâm của bao nhiêu thế hệ. Càng tìm hiểu, thơ Đường lại toát lên một sắc thái, một nội
dung độc đáo hơn, sâu sắc hơn tựa như chân trời mới cần khám phá.
Thơ Đường từ lâu được đưa vào chương trình môn Văn ở nhiều bậc học đã
phản ánh vị trí quan trong của nó. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi vấn đề giao
thoa hội nhập, toàn cầu hoá đang là mối quan tâm của toàn xã hội thì việc giảng dạy
thơ Đường ở trường phổ thông lại trở nên có ý nghĩa. Nó không chỉ giúp học sinh
cảm nhận được cái hay, cái đẹp, tính nhân văn về một thành tựu văn học xưa mà còn
giúp các thế hệ tương lai có một định hướng đúng đắn trên con đường tiếp thu tinh
hoa văn hoá của nhân loại, sáng tạo ra những cái mới tốt đẹp hơn, tự tin hơn để hoà
nhập với xu thế phát triển của thời đại.
Thế nhưng việc giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông hiện nay đang có
những thuận lợi và khó khăn chi phối. Như đã trình bày, xuất phát từ nhiều nguyên
nhân nên việc dạy học không đạt kết quả như mong đợi.
Trong các môn học, Văn học là một môn rất khó dạy. Bởi tuy người thầy giáo
dạy môn Văn học không phải là nhà văn, nhà thơ sáng tạo văn chương, nhưng họ là
những người truyền thụ văn chương, do vậy họ phải là một người có tâm hồn nghệ sĩ.
Bởi dạy Văn học không chỉ truyền đạt kiến thức mà chủ yếu là truyền sự rung động
trước tác phẩm. Tức là người dạy Văn là người phải có cảm xúc về tác phẩm và
truyền cảm xúc đó đến với học sinh. Muốn được như thế thì người dạy phải có sự
rung cảm sâu sắc và bằng ngôn ngữ và kĩ thuật diễn đạt làm cho học trò rung động
theo. Một giờ dạy và học Văn tốt là một giờ dạy mà qua đó, những tần số cảm thụ
cùng rung lên và tự động tác phẩm đó thấm sâu vào tâm hồn của người học và trở
thành hành trang đi suốt cuộc đời của các em.
Với quan niệm: Người thầy như là người nhóm lửa, thổi lên ngọn lửa văn
chương trong mỗi tâm hồn của những học trò, luận văn “Giảng dạy thơ Đường dưới
góc nhìn của thi pháp học” mặc dù đã có sự nổ lực trong quá trình tìm hiểu hệ
thống thi pháp thơ Đường nhằm tìm ra hướng tiếp cận, khai thác tác phẩm phục vụ
cho nhu cầu giảng dạy thể loại thơ nói chung và thơ Đường nói riêng đạt hiệu quả
hơn. Tuy nhiên, luận văn không thể không tránh khỏi những sai sót đang mong được
sự đóng góp của quý thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp.
____________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Chính, Lương Duy Thứ, Bùi Văn Ba (1971), Lịch sử văn học Trung Quốc ,
tập (2), Nxb Giáo dục Hà Nội.
2. Nguyễn Hữu Dũng (1988), Một số vấn đề cơ bản về giáo dục trung học phổ thông,
Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1997 – 2000 cho giáo viên.
3. Nguyễn Sĩ Đại (1996), Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ truyệt đời Đường,
Nxb Văn học Hà Nội.
4. Trần Thanh Đạm (1995), Dẫn luận văn học so sánh, Tủ sách Đại học Tổng hợp
Tp.HCM.
5. Trần Xuân Đề (1976), Thơ Đỗ Phủ, Nxb Giáo dục Hà Nội.
6. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục.
7. Trần Xuân Đề, Hồ Sĩ Hiệp (1997), Tinh hoa văn học Trung Quốc, Đại học Sư
phạm Tp.HCM.
8. Phạm Văn Đồng (1973), Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí
Nghiên cứu giáo dục số 11.
9. Nguyễn Văn Đường, Hoàng Dân (2003), Thiết kế bài giảng Ngữ văn THCS 7, tập
(1), Nxb Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Đường, Hoàng Dân (2006), Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10, tập (1),
Nxb Hà Nội.
11. Lê Giảng (1998), Đến với thơ Lí Bạch, Nxb Thanh niên.
12. Nguyễn Thị Bích Hải (1997), Thi pháp thơ Đường, Nxb Giáo dục.
13. Nguyễn Thị Bích Hải (2006), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa – Huế.
14. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1992), Từ điển thuật ngữ văn học,
Nxb Giáo dục Hà Nội.
15. Hồ Sĩ Hiệp (1992), Bình luận văn học, Nxb Tổng hợp Khánh Hòa.
16. Hồ Sĩ Hiệp (1995), Thơ Đường ở trường phổ thông, Nxb Văn Nghệ Tp.HCM.
17. Hồ Sĩ Hiệp (2002), Lí Bạch, Tủ sách Văn học trong nhà trường.
18. Hồ Sĩ Hiệp, Trần Xuân Đề (1978), Thơ Đường, Đại học Sư phạm Tp.HCM.
19. Nguyễn Văn Hòa (2002), Tác phẩm văn học trong nhà trường, những vấn đề trao
đổi, tập (1), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Nguyễn Trọng Hoàn, Nguyễn Đức Khuông, Lê Hồng Mai (2007), Tư liệu dạy và
học môn Ngữ văn 10, Nxb Hà Nội.
21. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục.
22. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy văn ở trường phổ thông, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
23. Trần Kiều (1997), Đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS, Tài liệu tham
khảo cho giáo viên, Viện Khoa học Giáo dục.
24. Trần Trọng Kim (1978), thơ Đường, tập (2), Nxb Văn học Hà Nội.
25. Mai Quốc Liên (2002), Những vấn đề của phương pháp giảng dạy thơ trong nhà
trường, Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, tập (29), số 1.
26. Phan Trọng Luận (1983), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, Nxb Giáo dục.
27. Phan Trọng Luận (1998), Xã hội – văn học – nhà trường, Nxb Đại học Quốc gia.
28. Phan Trọng Luận (1999), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường
phổ thông, tập (1), Nxb Giáo dục.
29. Phan Trọng Luận (1999), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường
phổ thông, tập (2), Nxb Giáo dục.
30. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt (1998),
Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Phan Trọng Luận, Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Lê A, Lê Nguyên cẩn, Đoàn
Lê Giang, Nguyễn Thị Bích Hải, Phan Thị Thu Hiền, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ
Kim Hồi, Nguyễn Xuân Lạc, Đặng Ngọc Lệ, Trần Đức Ngôn, Lê Trường
Phát, Vũ Dương Quỹ, Trần Nho Thìn (2007), Ngữ văn 10, tập (1), Nxb Giáo
dục.
32. Phan Trọng Luận, Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Lê A, Nguyễn Thái Hòa, Đỗ
Kim Hồi, Nguyễn Xuân Nam, Vũ Dương Quỹ, Đặng Đức Siêu, Trần Nho
Thìn, Lương Duy Thứ, Đoàn Thị Thu Vân (2007), Ngữ văn 10, tập (2), Nxb
Giáo dục.
33. Lê Nguyễn Lưu (2007), Đường thi tuyển dịch, quyển (1), Nxb Thuận Hóa.
34. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục.
35. Trần Đồng Minh (2000), Học tốt văn học 10, Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM.
36. Nguyễn Xuân Nam (1992), Làm quen với thơ Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Lê Đức Niệm (1995), Diện mạo thơ Đường, Nxb Văn hóa Thông tin.
38. Lê Đức Niệm (1993), Thơ Đường, Nxb Khoa học Xã hội – Nxb Cà Mau.
39. Phan Ngọc (1990), Đỗ Phủ, nhà thơ dân đen, Nxb Đà Nẵng.
40. Nguyễn Thế Nữu (1999), Thơ Đường bình chú, Nxb Hội Nhà Văn.
41. Nguyễn Khắc Phi (1987), Văn học Trung Quốc, tập 2, Nxb Giáo dục.
42. Nguyễn Khắc Phi (1999), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 10, Nxb Giáo
dục.
43. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung
Quốc qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục.
44. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1996), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà Nẵng.
45. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Bùi
Mạnh Nhị, Nguyễn Quang Ninh, Đỗ Ngọc Thống (2003), Ngữ văn 6, tập (1),
Nxb Giáo dục.
46. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử,
Nguyễn Văn Long, Nguyễn Quang Ninh, Đỗ Ngọc Thống (2003), Ngữ văn 6,
tập (2), Nxb Giáo dục.
47. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Đỗ
Kim Hồi, Nguyễn Văn Long, Bùi Mạnh Nhị, Lê Xuân Thại, Đỗ Ngọc Thống
(2007), Ngữ văn 7, tập (1), Nxb Giáo dục.
48. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Đỗ
Kim Hồi, Nguyễn Văn Long, Bùi Mạnh Nhị, Đỗ Ngọc Thống (2004), Ngữ
văn 7, tập (2), Nxb Giáo dục.
49. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử,
Lê A, Diệp Quang Ban, Hồng Dân, Bùi Mạnh Hùng, Lê Quang Hưng, Lê
Xuân Thại, Đỗ Ngọc Thống, Trịnh Thị Thu Tiết, Phùng Văn Tửu (2005), Ngữ
văn 8, tập (1), Nxb Giáo dục.
50. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử,
Lê A, Diệp Quang Ban, Hồng Dân, Đỗ Kim Hồi, Bùi Mạnh Hùng, Lê Quang
Hưng, Lê Xuân Thại, Lã Nhâm Thìn, Đỗ Ngọc Thống, Phùng Văn Tửu
(2005), Ngữ văn 8, tập (2), Nxb Giáo dục.
51. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Diệp
Quang Ban, Hồng Dân, Bùi Mạnh Hùng, Lê Quang Hưng, Lã Nhâm Thìn, Đỗ
Ngọc Thống, Trịnh Thị Thu Tiết, Phùng Văn Tửu (2006), Ngữ văn 9, tập (1),
Nxb Giáo dục.
52. Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Đình Sử, Lê
A, Diệp Quang Ban, Lê Quang Hưng, Lê Xuân Thại, Đỗ Ngọc Thống, Phùng
Văn Tửu (2006), Ngữ văn 9, tập (2), Nxb Giáo dục.
53. Ngô Văn Phú (2001), Thơ Đường ở Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn.
54. Vũ Dương Quỹ, Lê Bảo (2002), Tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ
thông, những con đường khám phá, tập (1), Nxb Giáo dục.
55. Vũ Tiến Quỳnh (1990), Lí Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị, Nxb Khánh Hòa.
56. Vũ Tiến Quỳnh (1995), Phê bình, bình luận văn học, Nxb Văn nghệ Tp.HCM.
57. Trần Trọng San (1990), Kim Thánh Thán phê bình thơ Đường, Trường Đại học
Tổng Hợp Tp.HCM.
58. Trần Trọng San (1990), Thơ Đường, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM.
59. Nguyễn Quốc Siêu (1998), Thơ Đường bình giảng, Nxb Giáo dục.
60. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Tài liệu giảng dạy cao học, Đại
học Sư phạm Tp.HCM.
61. Trần Đình Sử (1998), Môn văn, thực trạng và giải pháp, Báo Văn nghệ, số 7, tr.5
– 7.
62. Trần Đình Sử, Hồng Dân, Nguyễn Đăng Mạnh, Đỗ Ngọc Thống, Chu Xuân Diên,
Nguyễn Bích Hà, Đỗ Việt Hùng, Phạm Luận, Nguyễn Đăng Na, Bùi Mạnh
Nhị, Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Hoàng Tuyên, Lưu Đức Trung (2006), Sách
giáo viên Ngữ văn 10, tập (1), Nxb Giáo dục.
63. Hoàng Trung Thông, Trương Chính (1962), Thơ Đỗ Phủ, Nxb Văn Học Hà Nội
64. Trương Đình Tín (2003), Đường thi tuyển dịch, Nxb Thuận Hóa.
65. Duy Tính (năm 2007), Những sáng tác chết người, Báo Pháp Luật Tp. HCM, Số
114.
66. Lê Ngọc Trà (2002), Văn chương và vấn đề dạy văn trong trường phổ thông, Tạp
chí Khoa học, Đại học Sư phạm Tp.HCM, tập (29), số 1.
67. Lê Ngọc Trà (2005), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ.
68. Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Khóa VIII Đảng Cộng
sản Việt Nam (1997), Nxb Chính trị Quốc gia, tr.41.
69. Kiều Văn (2004), Thơ Đường, Nxb Thanh Niên.
70. Trịnh Xuân Vũ (2002), Phương pháp dạy học văn ở bậc phổ thông, Nxb Đại học
Quốc gia Tp.HCM.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Hình ảnh một số nhà thơ nổi tiếng thời Đường
Tượng Hạ Tri Chương
Chân dung Đỗ Phủ Chân dung Thôi Hiệu
Chân dung Lí Bạch
Chân dung Vương Duy
Phụ lục 2. Một số địa danh liên quan đến các nhà thơ thời Đường
Nhà của Lí Bạch ở Miên Châu
Nhà của Lí Bạch ở Thành Đô
Mộ của Lí Bạch ở Thanh Sơn
Cố hương của Lí Bạch ở thị trấn Giang Dầu
Thảo đường Đỗ Phủ tại Thành Đô
Viện bảo tàng thảo đường Đỗ Phủ
Đằng Vương các
Hoàng Hạc lâu
Nhạc Dương lâu
Cảnh đẹp Dương Châu
Bức tranh thơ “Nhuận oán” của Vương Xương Linh
Bức tranh Vọng nguyệt của Vương Duy
Phụ lục 3. Nguyên văn chữ Hán các bài thơ Đường trong chương trình phổ
thông
ĐIỂU MINH GIẢN 鸟鸣涧
(Vương Duy 王 维)
人闲桂花落
夜静春山空
月出惊山鸟
时鸣在涧中
____________________
HOÀNG HẠC LÂU 黄 鹤 楼
(Thôi Hiệu 崔 灏)
昔 人 已 乘 黄 鹤 去
此 地 空 悠 黄 鹤 楼
黄 鹤 一 去 不 复 返
白 云 千 载 空 悠 悠
晴 川 历 历 汉 阳 树
芳 草 妾 妾 鹦 鹉 州
日 暮 乡 关 何 处 是
烟 波 江 上 使 人 愁
HOÀNG HẠC LÂU TỐNG MẠNH HẠO NHIÊN CHI QUẢNG LĂNG
黄 鹤 楼 送 孟 浩 然 之 广陵
(Lí Bạch 李白)
故人西 辞黄鹤楼
烟花三 月下杨州
孤帆远影碧空尽
惟见长江天际流
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ 回 乡偶 书
(Hạ Tri Chương 夏 知章)
少小离家老大回
乡音无改纂毛推
儿童相见不相识
笑问客从何处来
KHUÊ OÁN 闺 怨
(Vương Xương Linh 王唱龄)
闺中少妇不知愁
春日凝妆上翠楼
忽见陌头杨柳色
悔教夫婿觅封候
____________________
MAO ỐC VI THU PHONG SỞ PHÁ CA
茅屋为秋风所破歌
(Đỗ Phủ 杜甫)
八月秋高风怒号
卷我屋上三重茅
茅飞度江酒江郊
高者挂挂长林消
下者飘转沉塘幼
南村群童欺我老无力
忍能对面为盗贼
公然抱茅入竹去
唇焦口燥呼不得
归来依仗自叹息
俄顷风定云墨色
秋天漠漠向昏黑
布衾多年冷似铁
骄儿恶卧踏里裂
床床屋漏无干处
雨脚如麻未断约
自经丧乱少睡眠
长夜沾湿何由沏
安得广度千万间
大屁天下寒士俱欢颜
风雨不动安如山
呜呼!何时眼前突兀见此屋
吾庐独破受冻死亦足。
PHONG KIỀU DẠ BẠC 枫 桥 夜 泊
(Trương Kế 张 继)
月 落 乌 啼 霜 满 天
江 枫 鱼 火 对 愁 眠
姑 苏 城 外 寒 山 寺
夜半 钟声 到 客 船
____________________
THU HỨNG 秋兴
(Đỗ Phủ 杜 甫)
玉 露 凋 伤 枫 树 林
巫 山 巫 夹 气 萧 森
江 间 波 浪 兼 天 涌
塞 上 风 云 接 地 荫
丛 菊 两 开 他 日 泪
孤 舟 一 系 姑 园 心
寒 依 处 处 崔 刀 尺
白 帝 城 高 急 幕 砧
TĨNH DẠ TƯ 静 夜 思
(Lí Bạch 李白)
床 前 明 月 光
疑 是 地 上 爽
举 头 望 明 月
低 头 思 故 乡
____________________
VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ 望 垆山 瀑布
(Lí Bạch 李白)
日照香炉生紫烟
遥看瀑布挂前川
飞流直下三千尺
疑是银河落九 天
Phụ lục 4: Tổng hợp các kết quả điều tra
Tổng hợp kết quả điều tra giáo viên cấp trung học cơ sở
Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời Số lượng Tỉ lệ
Theo anh (chị), việc phân phối
thơ Đường trong chương trình đã
hợp lý chưa?
Hợp lý
Chưa hợp lý
32/77
45/77
41,6%
58,4%
Thơ Đường có nằm trong chương
trình thi học kỳ, thi tốt nghiệp và
tuyển sinh ĐHCĐ không?
Có thi HKI
Không thi
Phiếu trống
31/77
33/77
13/77
40,2%
42,9%
16,9%
Khi giảng dạy tác phẩm thơ
Đường, anh (chị) có tư tưởng xem
nhẹ hơn so với giảng dạy thi pháp
văn học trong nước không?
Có
Không
6/77
71/77
7,8%
92,2%
Nêu tên và tác giả của các bài thơ
Đường mà anh (chị) giảng dạy
theo chương trình.
Hiểu sai
Không
13/77
64/77
16,9%
83,1%
Theo anh (chị), có bài thơ Đường
nào không phù hợp với chương
trình học của học sinh không?
Phù hợp
Không phù hợp
Không có ý kiến
40/77
30/77
7/77
51,9%
39%
9,1%
Theo anh (chị), thơ Đường có nên
đưa vào giảng dạy ở trường
THCS không?
Nên
Không nên
66/77
11/77
85,7%
14,3%
Thông thường, anh (chị) dạy thơ
Đường theo:
Bản phiên âm
Bản dịch thơ
Phiên âm và dịch
thơ
19/77
28/77
30/77
24,7%
36,4%
38,9%
Trong giảng dạy thơ Đường, anh
(chị) thường đặt trọng tâm khai
thác:
Nội dung
Nghệ thuật
Nội dung và nghệ
thuật
29/77
20/77
28/77
37,7%
25,9%
36,4%
Qua quan sát, anh (chị) cho biết
tâm lý của học sinh khi tiếp cận
Thích thú
Bình thường
24/77
49/77
31,2%
63,6%
thơ Đường. Không thích 4/77 5,2%
Để chuẩn bị cho một tiết dạy thơ
Đường, thông thường anh (chị)
quan tâm theo thứ tự ưu tiên nào
trong các nội dung sau đây?
Nội dung chung
Điển tích
Nghệ thuật
Lời bình
Hình ảnh minh họa
301/998 điểm
226/998 điểm
224/998 điểm
130/998 điểm
117/998 điểm
30,2%
22,7%
22,4%
13,0%
11,7%
Theo anh (chị), việc học thơ
Đường có giúp ích gì cho học
sinh trong việc cảm thụ văn học
trong nước không?
Có ích
Không có ý kiến
70/77
7/77
90,9%
9,1%
Theo anh (chị), thơ Đường có ảnh
hưởng đến văn học Việt Nam
không?
Có ảnh hưởng
Không ảnh hưởng
Không có ý kiến
74/77
0/77
3/77
96,1%
0%
3,7%
Việc giảng dạy thơ Đường trước
1975 và hiện nay có gì khác?
Giống nhau
Khác nhau
21/77
56/77
27,3%
72,7%
Những bài thơ Đường nào trong chương trình giảng dạy
mà anh (chị) thích?
Tĩnh dạ tứ (Lí Bạch)
Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương)
Vọng lư sơn bộc bố (Lí Bạch)
Mao ốc vị thu phong (Đỗ Phủ)
32/83
23/83
18/83
10/83
38,6%
27,7%
21,6%
12,1%
Những bài thơ Đường nào ngoài chương trình giảng dạy
mà anh (chị) thích?
Thạch hào lại (Đỗ Phủ)
Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu)
Tuyệt cú (Đỗ Phủ)
Hành lộ nan (Lí Bạch)
Hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng
(Lí Bạch), Phong kiều dạ bạc (Lí Bạch), Tương tiến tửu
(Lí Bạch), Đăng u châu đài ca (Triều Tử Ngang).
14/37
11/37
5/37
3/37
4/37
37,8%
29,7%
13,5%
8,1%
10,8%
- Tổng số phiếu: 77 phiếu.
- Số đơn vị khảo sát: 12 trường (quận 6: 10 trường, quận 3: 2 trường) và 1 Phòng
Giáo dục. Trong đó:
+ Quận 3: Trường THCS Hai Bà Trưng (2 phiếu), Lê Quí Đôn (1 phiếu)
+ Quận 6: Trường THCS Phú Định (10 phiếu), Nguyễn Văn Luông (5 phiếu),
Đoàn Kết (13 phiếu), Phan Bội Châu (1 phiếu), Nguyễn Đình Chiểu (1 phiếu), BT (8
phiếu), Hậu Giang (6 phiếu), Lam Sơn (13 phiếu), Phạm Đình Hổ (9 phiếu), Văn
Thân (7 phiếu); Phòng Giáo dục quận 6 (1).
_____________________
Tổng hợp kết quả điều tra giáo viên cấp trung học phổ thông
Nội dung câu hỏi Nội dung trả lời Số lượng Tỉ lệ
Theo anh (chị), việc phân phối
thơ Đường trong chương trình
đã hợp lý chưa?
Hợp lý
Chưa hợp lý
18/38
20/38
47,4%
52,9%
Thơ Đường có nằm trong
chương trình thi học kỳ, thi tốt
nghiệp và tuyển sinh ĐHCĐ
không?
Có thi HKI
Không thi
11/38
27/38
29%
71%
Khi giảng dạy tác phẩm thơ
Đường, anh (chị) có tư tưởng
xem nhẹ hơn so với giảng dạy
thi pháp văn học trong nước
không?
Có
Không
20/38
18/38
52,6%
26,4%
Nêu tên và tác giả của các bài
thơ Đường mà anh (chị) giảng
dạy theo chương trình.
Nêu sai
Nêu đúng
0/38
38/38
0%
100%
Theo anh (chị), có bài thơ
Đường nào không phù hợp với
chương trình học của học sinh
không?
Phù hợp
Không phù hợp
15/38
23/38
39,5%
60,5%
Theo anh (chị), thơ Đường có
nên đưa vào giảng dạy ở trường
Nên
Không nên
33/38
5/38
86,8%
13,2%
THPT không?
Thông thường, anh (chị) dạy thơ
Đường theo:
Bản phiên âm
Bản dịch thơ
Phiên âm và dịch thơ
15/38
7/38
16/38
39,5%
18,4%
42,1%
Trong giảng dạy thơ Đường,
anh (chị) thường đặt trọng tâm
khai thác:
Nội dung
Nghệ thuật
Nội dung và nghệ
thuật
14/38
10/38
14/38
36,8%
26,3%
36,8%
Qua quan sát, anh (chị) cho biết
tâm lý của học sinh khi tiếp cận
thơ Đường.
Thích thú
Bình thường
Không thích
3/38
24/38
11/38
7,9%
63,2%
28,9%
Để chuẩn bị cho một tiết dạy
thơ Đường, thông thường anh
(chị) quan tâm theo thứ tự ưu
tiên nào trong các nội dung sau
đây?
Nội dung chung
Nghệ thuật
Điển tích
Lời bình
Hình ảnh minh họa
137/453 điểm
121/453 điểm
95/453 điểm
57/453 điểm
43/453 điểm
30,2%
26,7%
21%
12,6%
9,5%
Theo anh (chị), việc học thơ
Đường có giúp ích gì cho học
sinh trong việc cảm thụ văn học
trong nước không?
Có ích
Không có ích
Không có ý kiến
33/38
2/38
3/38
86,8%
5,3%
7,9%
Theo anh (chị), thơ Đường có
ảnh hưởng đến văn học Việt
Nam không?
Có ảnh hưởng
Không ảnh hưởng
Không có ý kiến
35/38
1/38
2/38
92,1%
2,6%
5,3%
Việc giảng dạy thơ Đường trước
1975 và hiện nay có gì khác?
Giống nhau
Khác nhau
Không có ý kiến
25/38
6/38
7/38
65,8%
15,8%
18,4%
Những bài thơ Đường nào trong chương trình giảng dạy
mà anh (chị) thích?
Hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi QL (LB)
Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu)
Thu hứng (Đỗ Phủ)
Tì bà hành (Bạch Cư Dị)
30/60
15/60
7/60
5/60
50%
25%
11,67%
8,33%
Xuân Vọng (Đỗ Phủ), Khuê oán (Vương Xương
Linh), Điều minh giản (Vương Duy)
3/60
5%
Những bài thơ Đường nào ngoài chương trình giảng dạy
mà anh (chị) thích:
Đăng cao (Đỗ Phủ)
Xuân oán (Kim Xuân Tự)
Tĩnh dạ tư (Lí Bạch)
Vọng lư sơn bộc bố (Lí Bạch), Tương tiến tửu (Lí
Bạch), Hạc hành ca (Bạch Cư Dị), Tiết phụ ngâm
(Trương Tịch), Đăng u châu đài ca (Triều Tử Ngang),
Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương), Đề tích số kiến
xứ (Thôi Hộ), Lương châu (Tư Vương Hàn).
14/33
5/33
3/33
11/33
42,42%
15,15%
9,09%
33,33%
- Số phiếu: 38 phiếu.
- Số đơn vị khảo sát: 5 trường gồm: quận 3 (2 trường), quận 1 (1 trường), quận 10
(1 trường) và quận 4 (1 trường). Trong đó:
+ Quận 3: Trường THPT Lê Quí Đôn (5 phiếu), Nguyễn Thị Minh Khai (14 phiếu)
+ Quận 1: Trường THPT Lê Thánh Tôn (8 phiếu).
+ Quận 10: Trường THPT Hùng Vương (6 phiếu).
+ Quận 4: Trường THPT Nguyễn Trãi (5 phiếu).
_____________________
Tổng hợp kết quả điều tra học sinh cấp trung học cơ sở
Nội dung câu hỏi Nội dung
trả lời Số lượng Tỉ lệ
Em có thích học thơ Đường không? Có
Không
212/246
34/246
86,2%
13,8%
Nêu tên và tác giả của các bài thơ Đường
trong chương trình học mà em thích
Hiểu sai
Đúng
51/246
195/246
20,7%
79,3%
Khi đọc một bài thơ Đường, em có hiểu
nội dung và nghệ thuật qua văn bản
không?
Có
Không
Không đầy đủ
152/246
12/246
82/246
61,8%
4,9%
33,3%
Phiên âm 127/246 51,6%
Em thích học thơ Đường qua bản: Dịch thơ
Dịch nghĩa
99/246
20/246
40,2%
8,1%
So sánh thơ Đường và thơ Việt Nam, em
thấy thơ Đường:
Dễ hơn.
Khó hơn.
Như nhau.
33/246
122/246
91/246
13,4%
49,6%
37%
Em hãy nêu việc chuẩn bị bài ở nhà của
một bài thơ Đường
Có chuẩn bị
Không chuẩn bị
223/246
23/246
90,7%
9,3%
Em có thuộc bài thơ Đường nào không? Thuộc thơ
Không thuộc
186/246
60/246
75,6%
24,4%
Tên và tác giả các bài thơ Đường mà em thuộc lòng:
Vọng lư sơn bộc bố (Lí Bạch)
Tỉnh dạ tư (Lí Bạch)
Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri Chương)
Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Đỗ Phủ)
182/630
175/630
158/630
115/630
28,9%
27,8%
25,1%
18,2%
Tổng số phiếu điều tra: 246 phiếu
Trong đó: Quận 3: Trường THCS Hai Bà Trưng (101 phiếu)
Quận 6: Trường THCSBC Lam Sơn (145 phiếu)
_____________________
Tổng hợp kết quả điều tra học sinh cấp trung học phổ thông
Nội dung câu hỏi Nội dung
trả lời Số lượng Tỉ lệ
Em có thích học thơ Đường không? Có
Không
113/196
83/196
57,7%
42,3%
Nêu tên và tác giả của các bài thơ Đường
trong chương trình học mà em thích
Hiểu sai
Đúng
5/165
160/165
3%
97%
Khi đọc một bài thơ Đường, em có hiểu
nội dung và nghệ thuật qua văn bản
không?
Có
Không
Không đầy đủ
26/196
21/196
149/196
13,3%
10,7%
76%
Em thích học thơ Đường qua bản:
Phiên âm
Dịch thơ
Dịch nghĩa
84/196
91/196
21/196
42,9%
46,4%
10,7%
So sánh thơ Đường và thơ Việt Nam, em
thấy thơ Đường:
Dễ hơn.
Khó hơn.
Như nhau.
8/196
160/196
28/196
4,1%
81,6%
14,3%
Em hãy nêu việc chuẩn bị bài ở nhà của
một bài thơ Đường
Có chuẩn bị
Không chuẩn bị
179/196
17/196
91,3%
8,7%
Em có thuộc bài thơ Đường nào không? Thuộc thơ
Không thuộc
175/196
21/196
89,3%
10,7%
Tên và tác giả các bài thơ Đường mà em thuộc lòng:
Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu)
Thu hứng (Đỗ Phủ)
Hoàng hạc lâu tống tiển Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Tĩnh dạ tư (Lí Bạch)
Khuê oán (Vương Xương Linh)
Vọng lư sơn bộc bố (Lí Bạch)
Xuân hiểu (Mạnh Hạo Nhiên)
Thạch hào lại (Đỗ Phủ), Đăng cao (Đỗ Phủ), Tảo phát bạch
đế hành (Lí Bạch), Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Đỗ
Phủ), Hành lộ nan (Đỗ Phủ), Hồi hương ngẫu thư (Hạ Tri
Chương), Tuyệt cú (Đỗ Phủ), Thái liên khúc (Lí Bạch)
130/381
84/381
69/381
26/381
26/381
19/381
8/381
19/381
34,1%
22%
18,1%
6,8%
6,8%
5%
2,1%
5%
Tổng số phiếu điều tra : 196 phiếu
Trong đó: Quận 5: Trường THPT Hùng Vương (101 phiếu)
Quận 3: Trường THPT Lê Quí Đôn (95 phiếu)
_____________________
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHPPDH002.pdf