DẪN NHẬP 
1. Lý do chọn đề tài 
Giao tiếp là hoạt động đặc trưng của con người, là cách thức để các cá nhân trong cộng 
đồng gắn kết và phát triển. Trong xã hội hiện đại, giao tiếp ngày càng đóng vai trò quan trọng. Cùng 
với sự phát triển không ngừng của các liên ngành và một số phân ngành ngôn ngữ học như Ngôn 
ngữ học tâm lý, Ngôn ngữ học xã hội, Ngôn ngữ học tri nhận, Ngữ dụng học v.v , việc nghiên cứu 
những vấn đề liên quan đến giao tiếp trở thành một yêu cầu cấp thiết không chỉ của lý thuyết các 
ngành khoa học mà còn của nhu cầu thực tế. Hành động bác bỏ là một trong những hành động giao 
tiếp phổ biến và thông dụng của con người. Nó thúc đẩy tính hiệu quả và chuyển tải mong muốn đạt 
được một nhu cầu nào đó trong giao tiếp. Do đó, nghiên cứu loại hành động này sẽ có nhiều ý nghĩa 
thực tiễn và lý luận hữu ích để nghiên cứu các vấn đề khác có liên quan của hoạt động giao tiếp. 
Mặt khác, xã hội càng phát triển, các mối quan hệ giao tiếp liên nhân ngày càng trở nên 
phong phú về nội dung, phức tạp về cấu trúc, đa dạng về hành vi, đòi hỏi mỗi một cá nhân cần phải 
biết cách vận dụng để xử lý khéo léo các nguồn thông tin được tiếp nhận. Bên cạnh hành động chấp 
thuận, đồng tình được sử dụng một cách dễ dàng, tự nhiên, hành động bác bỏ lại chứa đựng nhiều 
yếu tố tinh tế, phức tạp. Đây là hành động giao tiếp cần thiết trong các cuộc hội thoại; nắm vững và 
sử dụng nhuần nhuyễn những hành động ngôn từ này sẽ giúp người giao tiếp đạt được hiệu quả giao 
tiếp cao hơn. 
Vấn đề nghiên cứu hành động bác bỏ thực ra không còn quá mới mẻ. Đã có một số công 
trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn mang tính chất riêng lẻ, chỉ 
xuất hiện rải rác trong những công trình nghiên cứu về ngữ pháp học, ngữ dụng học. Trên cơ sở sự 
quan tâm sẵn có đối với đề tài, thực trạng nghiên cứu hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu 
toàn diện về vấn đề này, chúng tôi đã chọn hành động bác bỏ tiếng Việt làm đề tài cho luận văn cao 
học. 
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chúng tôi là những hành động bác bỏ được sử dụng trong 
môi trường giao tiếp bằng ngôn ngữ, trong hội thoại giữa người và người. Để củng cố thêm những 
nhận định và tính xác thực, chúng tôi sử dụng hệ thống dữ liệu trong các văn bản hội thoại hiện đại, 
các tác phẩm truyện ngắn, truyện dài của một số tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, môi trường 
giao tiếp không chỉ đơn thuần liên quan tới yếu tố ngôn ngữ, mà còn có thể xuất hiện một số yếu tố 
phi ngôn ngữ khác như điệu bộ, cử chỉ, hành động nên những hành động thể hiện nhận định hoặc 
hành động bác bỏ phi lời cũng là đối tượng nghiên cứu bổ sung của chúng tôi. 
Do giới hạn của đề tài, chúng tôi không đi sâu vào việc đi tìm đặc trưng văn hóa trong hành 
động bác bỏ, hay đối chiếu hành động bác bỏ giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau mà chỉ tập 
trung chủ yếu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu những phương thức, phương tiện bác bỏ đặc trưng 
được sử dụng phổ biến trong tiếng Việt. Ngoài ra, chúng tôi cũng cố gắng đi tìm một quan niệm 
thống nhất về hành động bác bỏ vốn đang ít nhiều gây tranh cãi trong giới ngôn ngữ học ngày nay. 
3. Lịch sử vấn đề 
Trước khi đi vào tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề hành động bác bỏ, chúng tôi không thể 
không đề cập đến lịch sử nghiên cứu hành động ngôn ngữ - tiền đề lý thuyết quan trọng nhất của đối 
tượng nghiên cứu. 
Lý thuyết hành động ngôn từ, hay còn gọi là lý thuyết hành động lời nói được đánh cột mốc 
ra đời kể từ công trình nghiên cứu “Những cơ sở lý thuyết của ký hiệu” (1938) của nhà ký hiệu học 
Mỹ Charles W. Morris. Lần đầu tiên ông đã xem xét ký hiệu trên ba bình diện: Kết học, Nghĩa học 
và Dụng học (tức Ngữ dụng học). Tuy nhiên, Ngữ dụng học chỉ phát triển rực rỡ trong vòng ba thập 
niên gần đây. Sự phát triển của nó kéo theo sự phát triển của các lý thuyết mới như Lý thuyết hành 
động ngôn từ. 
Nếu Morris là người khởi xướng những tiền đề nghiên cứu thì chính John L.Austin là người 
đã xây dựng nền móng cho lý thuyết hành động ngôn từ với công trình được công bố sau khi ông 
qua đời hai năm “How to do things with words”. Tên gọi của công trình đã hé mở cho chúng ta thấy 
lý thuyết hành động ngôn từ chính là lý thuyết về các hoạt động ngôn ngữ, trong đó, tác giả đã điều 
chỉnh lại một cách sâu sắc mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói vốn được tách bạch từ thời của 
Ferdinand de Saussure. 
Hành động bác bỏ được Austin xếp vào lớp lớn thứ năm trong năm lớp lớn: 1. Phán xét; 2. 
Hành xử; 3. Cam kết; 4. Ứng xử; 5. Bày tỏ. Ông coi bác bỏ, cũng như khẳng định, phủ định, giải 
thích, minh họa, báo cáo, luận điểm là những hành động dùng để trình bày các quan niệm, dẫn dắt 
các lập luận, giải thích từ ngữ, đảm bảo sự quy dẫn. Sự phân loại này, ngay chính Austin cũng cảm 
thấy còn có những điều không thỏa mãn, có chỗ chồng chéo, có chỗ mơ hồ không rõ ràng. Searle 
bằng cách bổ sung thêm tiêu chí về nội dung, lại phân chia hành động bác bỏ này vào lớp thứ ba 
được gọi là lớp chi phối, song song với các hành động như mệnh lệnh, thách thức, hỏi, yêu cầu, đề 
nghị v.v 
Từ thời Aristotle, hành động phủ định, bác bỏ đã được chú ý nghiên cứu, nhưng dưới góc 
nhìn của của Triết học và Logic học. Phải đến những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, hành động 
bác bỏ mới được xem như một trong những đối tượng nghiên cứu của Ngữ dụng học- một phân 
ngành của Ngôn ngữ học và dần được đề cập trong các công trình nghiên cứu độc lập. 
Panfilov trong công trình Grammar and Logic đã tiến hành khảo sát hành động phủ định 
theo hướng logic-cú pháp và nhận định sự phủ định như một hiện tượng ngôn ngữ phổ quát. A. M. 
Peshkovsij là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ câu phủ định toàn bộ và phủ định bộ phận. Ông cho 
rằng câu phủ định toàn bộ là câu mà vị ngữ bị phủ định, câu phủ định bộ phận là câu mà những bộ 
phận khác bị phủ định. 
Tại Việt Nam, trước đó trong ngôn ngữ học truyền thống, câu biểu thị hành động bác bỏ 
được xem như một dạng câu song song bên cạnh những dạng như miêu tả, khẳng định, trần thuật , 
đôi khi nó được đồng nhất với câu phủ định. Lúc bấy giờ, câu chỉ được đánh giá là đúng hay sai về 
mặt ngữ nghĩa theo tiêu chuẩn logic, và được phân tích chủ yếu dựa trên cơ sở cấu trúc hoặc những 
khái niệm về chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ v.v Những trợ từ, tiểu từ bị xem nhẹ và được coi 
là những từ hư. Vì thế, những dạng câu như: 
- Con ở nhà. 
- Con ở nhà chứ bộ. 
- Con ở nhà mà. 
đều được coi là đồng nhất về cấu trúc và ngữ nghĩa. Do đó, các công trình nghiên cứu về hành động 
bác bỏ theo quan điểm này hầu không có nhiều ý nghĩa, vì phần đông các câu có hành động bác bỏ, 
hoặc bị đồng nhất vào những kiểu cấu trúc nhất định, hoặc không được nghiên cứu đến. Sau này, 
khi đối tượng nghiên cứu được tiếp cận dưới những nền tảng lý thuyết mới của logic học, ngữ dụng 
học, hành động bác bỏ dần được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. 
Hầu hết các công trình ngữ pháp, ngữ nghĩa trong giới Việt ngữ học đều đề cập ít nhiều đến 
một đối tượng rất gần gũi và có khi thống nhất với hành động bác bỏ là câu phủ định. Từ Trần 
Trọng Kim, Lê Văn Lý, Hoàng Tuệ, Nguyễn Đức Dân, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê tới 
Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thị Hai đều đề cập đến đối tượng nghiên cứu 
này. 
Công trình nghiên cứu có ý nghĩa lý thuyết quan trọng phải kể đến là bài viết “Phủ định và 
bác bỏ” của Nguyễn Đức Dân đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 1-1983 và sau này được đề cập hoàn 
chỉnh hơn trong công trình Logic- Ngữ nghĩa- Cú pháp. Tác giả là người đầu tiên có xu hướng xác 
định ranh giới giữa phủ định và bác bỏ, phần nào phá bỏ thế nhập nhằng trước đây về hai loại hành 
động này. Các tác giả khác, với những cách tiếp cận khác nhau, ít nhiều đề cập đến những mặt đa 
diện về phương thức và cách thức của loại hành động này. Tiêu biểu có Hành động từ chối trong 
tiếng Việt hiện đại của Nguyễn Thị Hai, Cách biểu hiện hành động từ chối lời cầu khiến bằng các 
phát ngôn lảng tránh của Trần Chi Mai. Một số khác lại chú trọng vào việc nghiên cứu chiến lược 
dùng trong giao tiếp như Một số chiến lược phản bác thường dùng trong tiếng Việt của Nguyễn 
Quang Ngoạn, Một số kiểu hồi đáp tích cực của hành vi chê của Nguyễn Thị Hoàng Yến. Đi theo 
con đường đối chiếu có các tác giả như Dương Bạch Nhật, Siriwong Hongsawan. Nếu Dương Bạch 
Nhật chỉ tiến hành đối chiếu một khía cạnh nhỏ của hành động bác bỏ (khía cạnh lịch sự trong từ 
chối lời mời) thì Siriwong Hongsawan trong bài báo “Đối chiếu hành động bác bỏ gián tiếp thông 
qua hàm ý trong giao tiếp tiếng Thái và tiếng Việt” đã chủ trương đi sâu nghiên cứu phương thức 
bác bỏ bằng hàm ý, cụ thể ở đây là đối chiếu giữa tiếng Thái và tiếng Việt. 
Vấn đề của lập luận và lịch sự cũng được khá đông các nhà nghiên cứu quan tâm như 
Nguyễn Đức Dân, Lê Thị Kim Đính, Lê Tô Thúy Quỳnh, Dương Bạch Nhật, Nguyễn Như Ý, 
Nguyễn Thị Hoàng Yến Ngoài các công trình dưới dạng sách, báo, tạp chí, một số luận án, luận 
văn cao học viết về bác bỏ, lập luận, lịch sự cũng đã xuất hiện. 
Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy, hành động bác bỏ không phải là một đề tài mới mà đã 
được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận ở các góc độ cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công 
trình nào xem xét hành động này một cách toàn diện dưới góc độ Ngữ dụng học, và tìm hiểu đầy đủ 
những phương thức và phương tiện biểu hiện hành động này. Đó cũng chính là cơ sở để chúng tôi 
quyết định bắt tay vào thực hiện đề tài. 
4. Các phương pháp nghiên cứu 
Để thực hiện đề tài, ngoài những thủ pháp, phương pháp nghiên cứu khoa học chung như 
thu thập ngữ liệu, phân loại ngữ liệu , luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau. 
- Phương pháp phân tích ngữ dụng học. Trên cơ sở nguồn dữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến 
hành thao tác phân tích từng cơ sở dữ liệu về các mặt như mục đích phát ngôn, hành động 
ngôn từ, hình thức biểu hiện, ngữ cảnh v.v nhằm đem lại những nhận định có tính xác thực 
và khái quát nhất của từng vấn đề. Đây cũng là cơ sở giúp chúng tôi tiến hành xây dựng các 
biểu thức bác bỏ thông qua hệ thống dữ liệu thu thập được. 
- Phương pháp miêu tả. Vì đối tượng nghiên cứu là dạng hành động ngôn từ phổ biến và tồn 
tại trong giao tiếp, do đó trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phải tiến hành mô tả các dạng 
hành động bác bỏ từ hiện tượng tới bản chất, những nội dung rút ra từ miêu tả sẽ là cơ sở để 
chúng tôi xây dựng các tiêu chí phân loại cũng đồng thời giúp chúng tôi giải thích, minh họa 
cho các nhận định của mình. 
- Phương pháp so sánh - đối chiếu. Chúng tôi tiến hành so sánh - đối chiếu trên cơ sở dữ liệu 
và giữa các quan điểm nghiên cứu. Đối với dữ liệu, chúng tôi tiến hành đối chiếu từng dữ 
liệu với nhau, hoặc giữa nhóm dữ liệu này với nhóm dữ liệu khác, từ đó tìm ra những điểm 
khác biệt hoặc tương đồng về hình thức hoặc nội dung, trên cơ sở đó có thể rút ra các nhận 
định cần thiết. Việc đối chiếu bổ sung với một số hành động bác bỏ của các nền văn hóa khác 
cũng là một cách thức để chúng tôi đi tìm bản sắc riêng trong hành động bác bỏ của tiếng 
Việt. 
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 
a) Ý nghĩa khoa học 
- Vận dụng những thành tựu về lý thuyết ngữ dụng học nói chung và lý thuyết hành động ngôn 
từ, lý thuyết hội thoại, lý thuyết lập luận nói riêng vào việc khảo sát một hành động ngôn từ 
cụ thể là hành động bác bỏ trong tiếng Việt. 
- Xác định rõ khái niệm bác bỏ, phân biệt với các hành động ngôn từ khác trong giao tiếp. 
- Kết quả của luận văn có thể góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý thuyết như phương thức 
bác bỏ, mối quan hệ giữa hành động bác bỏ với vấn đề lập luận, vấn đề lịch sự. 
b) Ý nghĩa thực tiễn 
- Luận văn có thể là tài liệu hỗ trợ cho quá trình học và dạy tiếng Việt trong nhà trường. 
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo về các chiến thuật trong giao tiếp, về hành động bác bỏ. 
- Hệ thống cứ liệu, tuy không đồ sộ về quy mô, nhưng đã được chọn kỹ lưỡng để người đọc có 
thể hình dung về các phương thức, cách bác bỏ khác nhau trong tiếng Việt. 
- Tư liệu và nội dung của luận văn này, có thể là tài liệu tham khảo cho các công trình khác 
liên quan về ngữ dụng học, đặc biệt là các công trình có liên quan tới hành động bác bỏ. 
6. Bố cục của luận văn 
Luận văn bao gồm 133 trang chính văn, một danh mục các tài liệu tham khảo và tài liệu 
trích dẫn, một phụ lục gồm 70 trang. Phần nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương. 
Chương Một có tiêu đề Những cơ sở lý thuyết. Trong chương này, luận văn trình bày ba 
vấn đề lớn: lý thuyết hành động ngôn từ; lý thuyết hội thoại; tổng quan về hành động bác bỏ bao 
gồm các tiêu chí phân biệt bác bỏ và phủ định, khái niệm, mục đích của hành động bác bỏ. 
Chương Hai có tiêu đề Hành động bác bỏ trong tiếng Việt và vấn đề lịch sự, vấn đề lập 
luận. Chương này nghiên cứu về mối quan hệ qua lại giữa bác bỏ và lịch sự, bác bỏ và lập luận, 
cách thức để tăng hiệu quả và thể hiện sự lập luận cũng như lịch sự trong bác bỏ. 
Chương Ba có tiêu đề Phương thức, phương tiện biểu hiện của hành động bác bỏ trong 
tiếng Việt. Chương này nghiên cứu về những phương thức thực hiện hành động bác bỏ, và các 
phương tiện hình thức và biểu thức được sử dụng để bác bỏ.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
111 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2605 | Lượt tải: 4
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hành động bác bỏ trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyển chuyển và thể hiện tính nhân dân nhất. Nó không 
chịu bó buộc, khuôn mẫu bởi bất cứ phong cách nói năng nào. Do đó, nó dễ dàng sử dụng nhiều vốn 
từ đa dạng mà nó thu nhận được. Thứ hai, bản thân môi trường sử dụng ngôn ngữ quy định cách 
thức lựa chọn chất lượng ngôn ngữ. Đó là lý do vì sao trong những ngữ cảnh càng hành chính, 
nghiêm túc, trịnh trọng càng đòi hỏi sự rõ ràng, khúc chiết, đơn nghĩa và hầu như ít sử dụng thành 
ngữ, tục ngữ. Lý do thứ ba xuất phát từ đặc trưng của các cụm từ này. Đó là những cụm cố định có 
chứa nhiều yếu tố tỉnh lược, dễ dàng tri nhận với những đối tượng trong cùng cộng đồng nhưng lại 
không dễ tri nhận với người ở ngoài cộng đồng đó, do đó, nó làm hạn chế khả năng phổ biến ra 
những ngữ cảnh lớn khác. 
Ví dụ 98 
Bố: Thằng Linh xin được việc làm ở Sở rồi đấy. 
Con: Con ông cháu cha mà bố. 
Nếu một người nước ngoài chưa được học tiếng Việt, chưa được lý giải về cụm từ cố định 
“con ông cháu cha”, người ta sẽ không hiểu tại sao đứa con lại nói vậy với bố mình. Dù có hiểu ở 
bề mặt ngôn ngữ, người ta cũng sẽ thắc mắc tại sao con lại là con ông, cháu là là cháu cha trong khi 
quan hệ tương hỗ phổ biến là con-cha, cháu-ông. 
Trong kho tàng ngôn ngữ Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có không ít đoạn hội thoại mượn 
hình thức tục ngữ, thành ngữ, châm ngôn… để tạo lập hành động bác bỏ. 
Ví dụ 99 
- Ông chủ nhà mày có vẻ tốt nhỉ. 
- Ôi dào, lão ấy là người vắt cổ chày ra nước đấy. 
Phương thức này góp phần làm phong phú hoạt động giao tiếp, diễn tả tinh tế hơn sắc thái 
hiện thực và thể hiện rõ nét hơn tâm tư, tình cảm của người thực hiện hành động bác bỏ. Do trạng 
thái tình cảm tiêu cực hay tích cực đã được phản ánh khá rõ nét trong bản thân các cụm từ cố định 
này, nên trong một số trường hợp, chỉ bản thân thông báo được tạo nên từ yếu tố vật chất này cũng 
đã mang ý nghĩa bác bỏ, mà không cần thêm một yếu tố ngôn ngữ nào khác. 
 3.2.3. Dùng các liên từ, từ ngữ tình thái, cảm thán 
Trong hệ thống từ vựng, các liên từ là lớp từ chiếm số lượng rất khiêm tốn, chúng đóng vai 
trò như một thứ “nhựa” gắn kết các yếu tố của phát ngôn lại với nhau, nhằm biểu đạt một sắc thái ý 
nghĩa nào đó. Ngoài ra còn có những trợ từ, thán từ mang ý nghĩa tình thái có khả năng tạo các sắc 
thái nghĩa tình thái cho câu. 
Hệ thống các loại từ này thường hay được sử dụng trong hội thoại đời thường, không được 
phổ biến trong môi trường giao tiếp hành chính, công vụ. Khi được sử dụng như một yếu tố cấu 
thành nên hành động bác bỏ, nó có tác dụng gia tăng hiệu quả cho hành động bác bỏ đó. 
Ví dụ 100 
Hoàng Việt: - Sau một năm tìm hiểu và củng cố lại xí nghiệp, hôm nay mùng 1 tháng 2 năm 1980, 
chúng tôi sẽ trình bày với các đồng chí kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới của xí 
nghiệp. Người trực tiếp soạn thảo phương án là kĩ sư Lê Sơn. Đồng chí Sơn trình bày đi! 
Lê Sơn (ngần ngại): Tôi ư?... Nhưng tôi tưởng…đây chỉ là đề án tôi trình bày riêng với anh, bởi 
trên thực tế…không thực hiện được… 
(42-tr.56) 
Ví dụ 101 
Thủy Tiên vẫn hồn nhiên: 
- Kẹo sinh nhật của em đó! Em nhờ Thường…mua giùm! 
Đến đây, Đạt như không nén nối. Anh kêu lên: 
- Trời ơi, ai lại đãi sinh nhật bằng thứ kẹo xoàng xĩnh này! Em có điên không? 
(11-tr.156-157) 
Những ví dụ trên đây có sự tham gia của những liên từ như nhưng; từ, ngữ chỉ tình thái, 
cảm thán như “Trời ơi, những, cả, còn gì, ư” làm gia tăng mức độ sửng sốt và bất ngờ của các nhân 
vật phát ngôn, qua đó kéo theo sự gia tăng mức độ phản đối những thông tin vừa được tiếp nhận. 
Không phải tất cả các liên từ đều có thể tham gia vào hành động bác bỏ. Chỉ những liên từ 
phản ánh các quan hệ đối lập nhau mới được lựa chọn. Ở đó, liên từ sẽ đảm nhận vai trò chuyển tải 
quan hệ đối lập giữa nhận định được nêu và một nhận định khác trái chiều và gián tiếp thực thi hành 
động bác bỏ. 
 Ví dụ 102 
Laica hất đầu: 
- Canh đúng lúc ông bà chủ ngồi vào bàn ăn, mày chồm lên chân họ. Thế nào mày cũng được 
một món gì đó. 
Nói xong, Laica chồm hai chân lên chiếc ghế trống và ngoái đầu nhìn tôi: 
- Như thế này này. 
Tôi ngờ vực: 
- Nhưng tao đã thấy mày làm thế bao giờ đâu. Thậm chí đến nhà tao, mày không hề nhúng 
mõm vào một món nào. 
(12-tr.63) 
Đây là cuộc đối thoại đã được nhân hóa của hai chú chó. Từ “nhưng” đã kết nối hai lượt lời 
kế nhau lại với nhau, thành một thông báo có quan hệ mâu thuẫn, nghịch chiều. Chính sự mâu thuẫn 
này đã biến đổi vế sau của thông báo (tức lời nhân vật tôi) thành một câu bác bỏ 
3.2.4. Dùng hình thức câu nghi vấn 
Hiện tượng hỏi lại thường xuất phát từ nhiều nguyên nhân: người ta không nghe rõ câu hỏi; 
không hiểu câu hỏi; hỏi để trì hoãn thời gian tìm câu trả lời… Vấn đề đặt ra với chúng tôi là làm thế 
nào phân định dạng hỏi lại nào là dùng để bác bỏ, dạng hỏi lại nào dùng đơn thuần để tìm kiếm 
thông tin. 
So sánh hai ví dụ sau đây. 
Ví dụ 103 
Nguyễn lay Lê: 
- Dậy, mồng một Tết rồi! Mười giờ rồi! Dậy mà ăn cái Tết tinh thần với đời! 
Bị động mạnh, Lê cựa. Anh nhăn nhó cái mặt ngái ngủ, ngóc cổ lên, nhìn nhà cửa, nhìn bạn bè, 
nhìn xung quanh. Rồi không biết nghĩ thế nào, anh lại nằm xuống, kéo chăn kín gáy, đáp: 
- Ăn Tết tinh thần là cái cóc khô gì, chúng mày? 
(20-tr.414) 
Ví dụ 104 
Mẹ: Sáng nay con đã xay gạo rồi phải không? 
 Con: Mẹ nói xay gạo khi nào hả mẹ? 
Câu hỏi vặn này đã làm một hành động bác bỏ song song vào 2 sự vật, hành động dựa theo 
nghĩa biểu đạt của câu đề nghị. Câu của Nguyễn có những nội dung như sau: 
(1) Nguyễn cho rằng có tồn tại một cái Tết tinh thần (cái Tết không cần đến những hình 
thức đặc trưng về vật chất như gạo nếp, bánh chưng, pháo nổ v.v…) 
(2) Nguyễn muốn Lê dậy để đón “Tết tinh thần” cùng Nguyễn. 
Hành động bác bỏ song song tương ứng thông qua một câu hỏi của Lê: 
Bác bỏ 1: Hỏi vặn Tết tinh thần là gì -> gián tiếp phủ nhận không có cái tết nào là Tết tinh thần cả, 
họ đang sống mà không có Tết (thể hiện cực cấp qua cụm từ “là cái cóc khô gì”) 
Bác bỏ 2: Là hệ quả của bác bỏ thứ nhất, vì Lê bác bỏ “Tết tinh thần”, nên bác bỏ luôn hành động 
đón Tết. 
Trong khi đó, câu hỏi vặn ở ví dụ hai không phải là một câu bác bỏ, mà chỉ là một yêu cầu 
thông tin đơn thuần. Mặc dù thực tế khi hỏi câu hỏi, người con chưa xay gạo, nhưng mục đích chính 
không phải là anh ta phủ nhận điều đó, mà đưa ra một dấu hiệu nghi vấn là anh ta chưa nghe mẹ dặn 
như vậy. 
Trần Trọng Kim trong tài liệu “Việt Nam văn phạm” (bản in lần thứ 8, mục 5) cũng nói rõ 
“những câu theo hình thức nghi vấn chính là những câu phủ định rất mạnh”. Trương Văn Chình, 
Nguyễn Hiến Lê cũng đồng tình và cho các từ như sao, nào, đâu là “những phó từ ý kiến, vừa diễn 
tả ý kiến, vừa diễn tả ý phủ định”. Ý kiến của các tác giả khác cũng có nhiều điểm tương đồng như 
vậy. 
3.2.5. Dùng các cặp từ trái nghĩa 
Đây là hình thức bác bỏ khá đơn giản, và thường bắt gặp trong tình huống có nội dung đơn 
giản, không cần nhiều sự lý giải. Ở hình thức này, người thực hiện hành động bác bỏ sẽ sử dụng các 
từ ngữ có ý nghĩa trái chiều với đặc tính, nhận định được nêu để tạo thành câu bác bỏ. Đặc biệt 
trong các cuộc đối thoại của trẻ con, chúng ta thấy hay xuất hiện phương thức bác bỏ này. 
Ví dụ 105 
Hai đứa bé nói chuyện với nhau 
X: Con búp bê của tớ đẹp. 
Y: Xấu 
 X: Đẹp 
Y: Xấu 
… 
Những câu chuyện theo kiểu này có thể tiếp diễn đến vô chừng, và có khi cả buổi, và chỉ bị 
ngắt quãng do yêu tố ngoại cảnh tác động. Ví dụ, bố mẹ gọi về nhà, ví như em bé kia chịu thua vì 
em này nói to quá, nhanh quá… Hạn chế của hình thức này là hiệu quả bác bỏ không cao, người 
tham gia mất nhiều thời gian, công sức nhưng lại khó bảo vệ được chính kiến của mình. Do đó, trẻ 
con hay sử dụng nó vì tính đơn giản, dễ dàng mà không cần quan tâm đến mặt hạn chế của nó, đồng 
thời mặt hạn chế này cũng không ảnh hưởng gì đến toàn bộ quá trình diễn ngôn của chúng. 
Yếu tố trái nghĩa được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả trái nghĩa thang độ, trái nghĩa 
lưỡng phân, trái nghĩa nghịch đảo… 
Ví dụ 106 
Hai đứa trẻ giành nhau đồ chơi 
X: Của anh chứ. 
Y: Của em chứ. 
Đặc trưng của dạng bác bỏ này là sự phong phú của số lần bác bỏ, và sự giản tiện của những 
chứng cứ xác thực. Đích ngôn trung được hướng đến ở đây cũng không nhằm bác bỏ ý kiến của 
người mà chủ yếu là bảo vệ ý kiến của mình. 
3.2.6. Dùng từ ngữ so sánh 
Trong hành động bác bỏ, đôi khi người ta không cần sử dụng các từ trực tiếp bác bỏ, biểu lộ 
thái độ bác bỏ mà có thể sử dụng hàm ý bác bỏ. Trong một số trường hợp, sức mạnh bác bỏ của 
hàm ý còn lớn hơn nhiều so với các hình thức bác bỏ khác, làm sáng rõ hơn nguyên do của việc bác 
bỏ. Sử dụng phương thức so sánh cũng là một hình thức bác bỏ bằng con đường của hàm ý. 
So sánh thể hiện ở hai bình diện. Đó có thể là thao tác so sánh hiển ngôn, trong đó nổi rõ lên 
cả đối tượng so sánh và đối tượng được so sánh. 
Ví dụ 107 
A: Ông còn khỏe mà. 
B: Tôi như ngọn đèn lay lắt trước gió rồi. 
 Trong đoạn đối thoại này, cả hình ảnh so sánh và hình ảnh được so sánh đều được biểu hiện 
rõ và liên kết với nhau thông qua từ chỉ so sánh “như”. Việc đưa một hình ảnh so sánh có những đặc 
tính trái ngược với đặc tính được mong đợi (hoặc vốn có) của hình ảnh được so sánh sẽ tạo cơ sở 
biểu hiện cho hành động bác bỏ. Đích ngôn trung của nhân vật B là muốn khẳng định sức khỏe đã 
kém rồi, do đó, gián tiếp bác bỏ nhận định của A khi A cho rằng B vẫn còn khỏe lắm. 
Đó cũng có thể là so sánh ngầm, tức sự tương ứng được thiết lập ngầm giữa hai đối tượng 
và được hai bên tham gia đối thoại tri nhận mà không có sự tham gia của các từ trực tiếp chỉ sự so 
sánh. 
Ví dụ 108 
A: Nó thật quá đáng, tôi sẽ cho nó một trận. 
B: Châu chấu mà đòi đá voi. 
Ở ví dụ này, dường như câu trả lời của B có vẻ không liên quan gì tới nhận định mà A đưa 
ra. Chiếu trên góc nhìn từ ngữ, câu hỏi và câu đáp không có sự tương ứng đồng thanh. Sự thống 
nhất chỉ xảy ra khi đích ngôn trung của câu đáp được nhìn dưới góc độ hàm ý. Với vốn tri nhận 
ngôn ngữ tiếng Việt cùng với trạng thái song song của hai sự tình được nêu trong cặp đối thoại, 
người nghe sẽ buộc phải tạo nên một cặp liên tưởng song song: Nó-voi và Tôi-châu chấu. Sự liên 
tưởng song hành, cùng với những từ ngữ phủ định phụ trợ như từ “mà” sẽ làm rõ nghĩa hàm ý và 
hiện thực hóa dạng thức bác bỏ trong đối thoại. 
3.2.7. Dùng ngữ điệu 
Chúng tôi quyết định xem đây là một hình thức phản ánh bác bỏ riêng biệt, vì nó mang 
những đặc trưng riêng không giống với những hình thức bác bỏ khác. Thứ nhất, nó mang hình thức 
của một câu “phi bác bỏ”, tức một câu đồng tình. Thứ hai, nó không dùng các từ trực tiếp, gián tiếp, 
liên tưởng tương ứng, nghịch chiều… để thể hiện sự bác bỏ. Thứ ba: nó mượn những yếu tố vật chất 
của ngôn ngữ để bộc lộ ý đồ của mình và không cần phải có thêm sự tham gia của các yếu tố cử chỉ, 
nét mặt, do đó, không thể xếp nó vào cùng dạng với phương thức cử chỉ. 
Bản thân ngữ điệu trong tiếng Việt cũng có ý nghĩa riêng. Khi kéo dài bộ phận cuối của một 
từ mang tính chất tích cực (có lợi, làm cho người nghe sung sướng, thích được nghe, thích đặc tính 
đó được gán cho bản thân như xinh, dễ thương, hiền, đẹp, vui v.v…) thì sẽ tạo nên một ý nghĩa tiêu 
cực, bác bỏ chính tính tích cực ấy. Nói cách khác là biến đổi nghĩa từ thành tiêu cực. Trong một số 
trường hợp đặc biệt, ngữ điệu kéo dài có thể mang ý nghĩa đồng ý, chỉ sự vui mừng, ngạc nhiên tột 
độ, tuy nhiên, trường hợp này ít phổ biến hơn nhiều. Người ta có xu hướng sử dụng các từ cảm thán 
 đi kèm để diễn tả hơn. Khi kéo dài một từ mang tính chất tiêu cực (có hại, người nghe không thích 
tiếp nhận, không muốn bị gán vào người như xấu, keo, bẩn…) thì nó đẩy yếu tố tiêu cực đó lên cực 
cấp. Nói cách khác, sự kéo dài giọng chủ yếu mang ý nghĩa làm xấu hóa ý nghĩa từ. 
Ví dụ 109 
Vợ hỏi chồng: Anh ơi, em mặc cái đầm này có đẹp không? 
Chồng liếc nhìn và đáp: Đẹp p p p p p. 
Hiển nhiên người vợ phải hiểu là câu hỏi nhằm lôi kéo sự ủng hộ của chồng đã không thành 
công, người chồng không cho chiếc đầm này là đẹp, cụ thể hơn, còn có ý chê chiếc đầm. Chỉ có một 
người vợ ngốc nghếch mới không nhận ra sự bác bỏ sâu xa của chồng thông qua việc ngân dài từ 
“đẹp”. 
Hành động ngân dài giọng ở phía cuối từ là một hành động bác bỏ khá đặc biệt của tiếng 
Việt. Điều này có thể xuất phát một phần từ chính đặc trưng ngôn ngữ của tiếng Việt: ngôn ngữ đơn 
lập. Trong khi ở các ngôn ngữ biến hình, có trọng âm từ như tiếng Anh, việc kéo dài giọng, nếu có 
xảy ra thì luôn rơi vào từ mang trọng âm. Do đó, sẽ không tự nhiên khi người Anh nói Beautiful ul 
ul ul, cũng như người Việt nói Xinhhhhhhhhhh đẹp trong khi cách kéo dài giọng ngược lại lại được 
chấp nhận (beau eau eautiful). 
3.2.8. Dùng cử chỉ 
Chúng tôi xem đây như là một hình thức bác bỏ trong hội thoại vì tuy hành động bác bỏ sử 
dụng các yếu tố phi ngôn ngữ, nhưng vẫn đảm bảo những đặc trưng cơ bản cấu thành nên hội thoại: 
các vai giao tiếp, có ngôn ngữ, có các lượt lời (trong đó có một lượt lời im lặng). Bác bỏ bằng cử chỉ 
thực hiện bằng hai hình thức sau. 
3.2.8.1. Bằng ngôn ngữ hình thể 
Tuy là một hành động giao tiếp phi ngôn ngữ, nhưng hành động cử chỉ cũng có những mã 
riêng cho từng cộng đồng người, buộc các cộng đồng khác muốn sử dụng hoặc hiểu được cử chỉ ấy 
cũng phải thông qua giai đọan học hỏi để tránh sự nhầm lẫn. Những hành động bác bỏ bằng cử chỉ 
thông thường là lắc đầu, khua tay, mắt lim dim…Tuy nhiên, xu hướng này có thể trái ngược tại một 
số quốc gia. Cụ thể, lắc đầu là cách thể hiện sự đồng ý của người Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, khua tay là 
cách tranh thủ sự đồng tình của người Ý… 
Ví dụ 110 
Nhân viên: Thưa giám đốc, có cô A kiếm giám đốc. 
 Giám đốc: (khoát tay, lắc đầu) 
Trong tình huống trên, cô nhân viên tự hiểu rằng thông báo của mình đã được xử lý bằng 
cách bác bỏ. Do đó, cô không cần phải hỏi thêm bất cứ điều gì về mệnh lệnh vừa rồi nữa. 
Ngôn ngữ hình thể không chỉ đơn thuần là các động tác riêng lẻ kết hợp với nhau. Trong 
một số trường hợp, đó là những tín hiệu chuyên chở nghĩa mang tính hệ thống và liên kết chặt chẽ 
với nhau, có khả năng biểu thị những nội dung phức tạp. Chẳng hạn trường hợp những người câm 
giao tiếp với người bình thường, do không phát ra tín hiệu âm thanh được, nên họ buộc phải sử 
dụng những tín hiệu giao tiếp nhờ vào chuyển động của cơ thể như giao tiếp bằng các ngón tay. 
Thông qua một mã chung mà hai bên đối thoại có thể hiểu được thông điệp của nhau và có khả năng 
thực hiện và tiếp nhận các hành động bác bỏ. 
3.2.8.2. Bằng biểu cảm của khuôn mặt 
Đây là một cử chỉ bác bỏ khá thường gặp trong cuộc sống, cũng là một cách thức thăm dò ý 
kiến của những người tham gia đối thoại. Trong tranh luận, hùng biện, người ta hay đề cập tới chiến 
thuật đọc suy nghĩ của người tham gia, có những dấu hiệu chỉ ra sự quan tâm, hưởng ứng. Ngược 
lại, có những dấu hiệu thể hiện sự bác bỏ, không đồng tình như bĩu môi, nhíu mày, nhăn trán, đổi 
hướng nhìn v.v… 
Vấn đề đặt ra ở đây là khi nào người ta lại sử dụng những hình thức phi ngôn ngữ này. 
Chúng tôi nhận thấy, họ sử dụng nó khi họ không muốn nói hoặc không nên nói. 
(1) Không muốn nói - Thế chủ động của người thực hiện hành động bác bỏ. 
Ví dụ 111 
Mãi một lúc lâu, Thủy Tiên mới lên tiếng phá tan sự im lặng. Cô hỏi bằng giọng buồn rầu: 
- Bộ Thường giận Thủy Tiên lắm hả? 
- Không, không! Tôi có giận gì Thủy Tiên đâu! – Thường lật đật phủ nhận. 
- Nếu không tại sao Thường nói vậy? 
Nghe Thủy Tiên hỏi tới, Thường lại càng lúng túng. Anh im lặng lắc đầu một cách máy móc. 
(11-tr.177-178) 
Ở ví dụ này, nhân vật Thường đang rơi vào một trạng thái tâm lý không bình thường, đang 
sống giữa những giằng xé, mâu thuẫn, băn khoăn nội tâm. Do đó, anh ta không muốn biểu lộ bất cứ 
 một nhận định nào của mình rõ ràng bằng lời mà chỉ bằng nội tâm bên trong. Đó là một phản ứng 
tâm lý hết sức bình thường của con người khi ở trong một tâm trạng như vậy. 
(2) Không nên nói - Thế bị động của người thực hiện hành động bác bỏ. 
Có những tình huống trong đó người thực hiện bác bỏ cảm thấy chiến thuật bác bỏ tốt nhất 
là bác bỏ bằng sự im lặng, vì mọi điều được nói ra, đều có thể dẫn tới những kết quả không hay. 
Ví dụ 112 
Cô giáo: Lớp ta học thuộc bài hết rồi phải không? 
Học sinh: Im lặng (cúi đầu). 
 Trong trường hợp cậu học sinh chưa học thuộc bài lắm, cậu sẽ buộc phải thể hiện thái độ 
trung hòa và cúi đầu để tránh đối thoại với cô giáo, cũng là cách thức ngầm thể hiện nhận định của 
cô giáo chưa hoàn toàn chính xác. Vì nếu cậu thừa nhận rằng có, có thể cô giáo sẽ bắt cậu trả bài. 
Ngược lại, nếu cậu trả lời không, thì chính cậu đã chủ động tự đưa mình vào thế bí, bị cô giáo phê 
bình. 
3.2.9. Dùng sự im lặng 
Người ta nói im lặng là vàng, còn trong hành động ngôn ngữ, im lặng đôi khi có những giá 
trị riêng mà không một từ ngữ nào có thể lập tức thay thế ngay được. Có một hiện tượng có vẻ mâu 
thuẫn nhưng lại hay xảy ra trong hành động ngôn ngữ. Đó là ý nghĩa của sự im lặng. Tùy vào từng 
ngữ cảnh, mà người ta có thể hiểu im lặng là sự bác bỏ hay là sự đồng ý. Và kỳ lạ hơn, là thường 
trong từng hoàn cảnh cụ thể, mọi người trong phạm vi đối thoại đều ngầm hiểu được hành động im 
lặng ấy sẽ biểu thị cho hành động đồng tình hay bác bỏ. 
Có một quy luật tuy không tuyệt đối, nhưng cũng mang tính tương đối về mối quan hệ giữa 
hành động im lặng trong bác bỏ với tâm thế người bác bỏ. Thông thường, với những hành động có 
tính đe dọa cao về thể diện, người ta thường im lặng theo tuyến chủ động. Nghĩa là tự bản thân cảm 
thấy tốt hơn hết là không nên phản đối bằng lời. Mặt khác, trong một số trường hợp, khi bị thúc ép 
và bị ảnh hưởng sâu sắc đến tính mạng, quyền lợi, cần phải giữ một bí mật nào đó, và người ta buộc 
phải giữ ý kiến phản bác bằng cách im lặng. 
Ví dụ 113 
- Đây là đứa làm việc cùng mày phải không? 
- (im lặng) 
 Dù muốn thì người bị hỏi cũng không dám đưa ra một câu trả lời bằng đối thoại. Lý do bắt 
nguồn từ sự suy ý tâm lý của bên hỏi. Nếu bên bác bỏ vội vã trả lời, bên nêu có thể nghi ngờ sự xác 
thực, bởi hành động rất nhanh nhảu và kiên quyết của anh ta. 
Bác bỏ bằng hình thức im lặng thường xảy ra khi người thực hiện hành động bác bỏ đang bị 
một áp lực tâm lý nào đó khiến họ có khả năng nhưng không thể sử dụng những yếu tố ngôn ngữ 
như bình thường. Đó có thể là áp lực tự than, cũng có thể do ngoại cảnh tác động. 
3.2.10. Dùng hình thức ngắt lời 
Hành động ngắt lời là một hành động thể hiện tính đe dọa thể diện rất cao so với các hành 
động khác. Ngắt lời để bác bỏ còn tạo mức độ đe dọa cao hơn. Do đó, ngữ cảnh nơi hành động này 
phát sinh cũng có những điểm đặc trưng riêng. Cách ngắt lời thường đi theo hai xu hướng. 
3.2.10.1. Ngắt lời tích cực 
Sự ngắt lời- biểu hiện của hành động bác bỏ không làm tổn hại, trái lại, còn gây ích lợi cho 
người bị bác bỏ. Hay nói cách khác, đích lợi ích trong hành động này hướng về phía người tiếp nhận 
lời bác bỏ khi thông báo về những sự tình đặc biệt, là điều mà cả đôi bên đối thoại không mong 
muốn, bất đắc dĩ phải đề cập tới. 
Ví dụ 114 
Trũi ngập ngừng: 
- Nghĩa là…Nghĩa là.. ta tìm thứ gì tạm ăn cho sống được. Em có đôi càng…anh… 
Tôi ngắt lời: 
- Thôi anh hiểu bụng chú rồi. Chú nghĩ rằng không nhẽ anh em ta lại chịu chết lênh đênh cả như 
thế này, mà phải cứu sống lấy một. Chú định để anh ăn thịt chú, chú chịu hy sinh cho anh sống. 
(26-tr.61) 
Ở hình thức này, cả hai bên đối thoại đều lưu ý đến thể diện của đối phương và giảm thiểu 
quyền lợi cái tôi của mình. Do đó tính chất bác bỏ ở đây cũng mang ý nghĩa khác, đó là bác bỏ điều 
hại cho người và khẳng định điều thiệt về mình. 
3.2.10.2. Ngắt lời tiêu cực 
 Ngược với cách ngắt lời tích cực, hành động ngắt lời được cho là tiêu cực vì không hướng 
tới người tiếp nhận, mà hướng về phía người thực hiện hành động bác bỏ nhằm bảo vệ điều “lợi” 
của họ. 
Ví dụ 115 
- Thưa sếp, tôi làm việc rất tốt, tháng này tôi muốn đề nghị sếp…(tăng lương). 
- Việc gì thì để sau đi, tôi đang bận lắm, công ty còn khó khăn, còn nhiều việc phải làm. 
Đối ngược với tình huống trên, ở tình huống này, khi người thực hiện hành động bác bỏ 
“nhận biết”, “tiên đoán” trước được việc người nói sẽ nói ra điều bất lợi cho mình, họ sẽ tìm cách 
ngắt lời hoặc tạo ra những tình huống trong đó người nói sẽ không thể nói trọn vẹn được yêu cầu, đề 
nghị của mình nữa. Trường hợp ví dụ trên đây, tại giai đoạn giữa của quá trình diễn ngôn, vì đoán 
trước được là người nhân viên sẽ đề nghị tăng lương, lúc đó ông sẽ khó đưa ra lời từ chối. Vì vậy, 
ông đã ngắt ngang lời người nhân viên trước khi cậu ta kịp đề cập vào nội dung chính, và bác bỏ 
một cách hiệu quả: vừa cứu mình khỏi thế bí, khỏi phải giải thích lý do cho quyết định của mình, 
vừa làm người nhân viên e ngại không dám đưa ra đề nghị một lần nữa. 
Chúng tôi dựa trên cơ sở của tính lịch sự trong giao tiếp (tức mức độ lịch sự càng cao khi 
người ta tính toán mối thiệt hại cho người tiếp nhận càng thấp) chứ không phải nội dung giao tiếp để 
phân chia hai thái cực tích cực và tiêu cực ở các cách thức thực hiện bác bỏ. Do đó, kể cả những 
trường hợp hành động ngắt lời của người thực hiện bác bỏ được phần đông người nghe ủng hộ, 
chẳng hạn, luật sư ngắt lời khai vô lý của bị cáo, thì chúng tôi cũng cho hành động này nằm trong 
bình diện tiêu cực theo tiêu chí trên. 
3.3. BIỂU THỨC BÁC BỎ TIẾNG VIỆT 
So với các hành động ngôn từ như nghi vấn, cầu khiến, cảm thán…, hành động bác bỏ có 
những đặc trưng riêng, có sự phong phú về nội dung, hình thức và có sự giao thoa với các hành 
động kể trên, ngoài ra, trong câu bác bỏ, các hình thức được sử dụng linh hoạt, không gò bó, cố 
định. Do đó, chúng tôi gặp không ít khó khăn trong quá trình xử lý ngữ liệu và tìm ra những dạng 
thức tiêu biểu của bác bỏ. 
Biểu thức 1 
X: (khẳng định A) 
Y: chẳng/đâu/nào có/mà lại/chả dại mà/không A 
 Biểu thức này dùng từ ngữ bác bỏ trực tiếp. Hình thức bác bỏ này rất dễ nhận dạng, và cũng 
có cấu trúc khá đơn giản. Người ta thường sử dụng các từ ngữ chỉ ý bác bỏ đi kèm theo một ý kiến, 
nhận định cần bác bỏ. Vị trí của các từ biểu thị ý bác bỏ rất linh hoạt phụ thuộc vào đặc trưng ý 
nghĩa và hình thức được quy định của từng đơn vị từ. Do đó, nó có thể đứng đầu, giữa hoặc cuối 
nhận định để trực tiếp bác bỏ nhận định ấy. Cũng có khi nhận định không được nhắc lại trong hành 
động bác bỏ mà chỉ thể hiện thông qua các từ biểu thị ý bác bỏ. Kết hợp cùng cấu trúc lượt lời tuần 
tự với sự tiếp nối ý trong suốt quá trình diễn ngôn tạo thành hành động bác bỏ. 
Ví dụ 116 
Mẹ: Con đi chơi cả chiều nay phải không? 
Con: Đâu có ạ. 
Biểu thức 2 
X: (khẳng định) A 
Y: (khẳng định) B 
Chuyển đề tài: còn gọi là lối nói vòng vo. Chuyển đề tài bao gồm cùng một bản chất đề tài, 
nhưng thể hiện dưới một hình thức hoàn toàn khác hoặc một góc nhìn khác hẳn so với quan điểm 
của người đưa ra đề nghị. 
Có hai cách chuyển đề tài. 
Chuyển đề tài trong nội bộ thông tin đề nghị. 
Biểu thức 2.1 
X: (khẳng định) A 
Y: Không phải A 
Ví dụ 117 
- Thưa chú, khi nào làm việc, chú cứ bảo cháu. 
- Cháu uống nước đi. Chú nói ngay để cháu yên tâm. Cháu sẽ không phải làm cái việc ngồi 
mẫu cho chú vẽ đâu. 
Quan điểm của người cháu: công việc là công việc. Đích ngôn trung nhắm tới là khi nào sẽ 
làm việc. Câu trả lời của người chú đi chệch đích ngôn trung đấy, nói về việc phải làm hay không 
làm. Hàm ý của người chú, đấy là công việc vất vả, và việc từ chối cháu làm việc không phải là điều 
 gì không may, mà là một điều rất may mắn cho người cháu (thể hiện qua cụm từ không phải). Đây 
là cách bác bỏ giúp giải tỏa tâm lý cho người tiếp nhận hành động bác bỏ. 
Biểu thức 2.2 
X: (khẳng định) A 
Y: B 
Chuyển đề tài bên ngoài nội dung thông tin. B ở đây có thể là một câu chuyện có liên quan 
ít nhiều đến A, cũng có thể là một nội dung chêm, xen vu vơ bên ngoài, không liên quan gì tới A mà 
chỉ là một câu nói lảng tránh trọng tâm, để biểu thị ý không muốn tiếp nhận đề nghị. Đặc trưng hình 
thức của dạng biểu thức này là không dùng các từ ngữ là dấu hiệu chỉ sự bác bỏ, câu bác bỏ có tính 
chất của một câu thông báo sự tình. 
Ví dụ 118 
- Mày cho tao mượn ít tiền. 
- Thôi chết, tháng này công ty chưa trả lương làm sao mà sống đây. 
Việc đưa ra một sự tình không liên quan, hoặc theo hướng lảng tránh đích nhận định vừa 
tiếp nhận, chính là một cách thức nhằm ngầm thông báo cho đối tượng về hành động bác bỏ của 
mình. 
Biểu thức 3 
X: (khẳng định) A 
Y: Thôi, B cũng được 
Những hành động bác bỏ đi theo khung này thường có tính chất tạm thời, khuyên nhủ, nhẹ 
nhàng với những nội dung bác bỏ đơn giản, ít thao tác lập luận, suy lý. 
Ví dụ 119 
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi: 
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm. 
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm: 
- Thôi để mẹ cầm cũng được. 
(48-tr.6) 
Biểu thức 4 
 Biểu thức này sử dụng hình thức hỏi để tạo hành động bác bỏ. 
Biểu thức4.1 
X: (khẳng định) A 
Y: Tôi (anh ta, nó…) mà A à?/ sao?/ư?/ A hồi nào? 
Người ta sử dụng các trợ từ, tiểu từ, đại từ nghi vấn thêm vào A nguyên bản tạo thành câu 
bác bỏ mang hình thức hỏi. Thực chất những câu hỏi này có khi đơn thuần là câu hỏi tu từ, cũng có 
khi là dạng câu hỏi hỏi nhằm mục đích làm cho người bị hỏi suy nghĩ về câu trả lời và vấn đề bất 
khả thi của việc trả lời. 
Ví dụ 120 
Nhỏ Kim Hà, lớp phó trật tự, đứng trong hang, liếc tôi: 
- Bạn Huy đánh lộn trong sân trường nghen! Tôi trừ điểm thi đua à! 
Tôi cãi. 
- Tôi rượt chơi chớ tôi đánh lộn hồi nào? 
(6-tr.18) 
Dưới góc độ tu từ học, câu hỏi biểu thị tâm lý ngạc nhiên, sửng sốt của người thực hiện 
hành động bác bỏ. 
Ví dụ 121 
Tôi vặn lại: 
- Vậy sao hôm trước tao…liếc sơ bài của thằng Bảy một chút mày lại làm khó làm dễ? Tại mày 
mà tổ mình mới tụt hạng đó, mày biết không? 
- Sao lại là tao? Đó là tại mày không chịu học hành đàng hoàng. Muốn cho tổ tiến bộ thì mỗi 
người phải cố học chứ đâu phải bày trò gian lận. Giúp đỡ nhau học tập không có nghĩa là cho 
bạn mình cóp-pi! 
(6-tr.64-65) 
Biểu thức 4.2 
X: (khẳng định) A 
Y: A’? A’’? A’’’? (A’ + A’’ +A’’’…= A) 
 Người nêu bác bỏ sử dụng hình thức hỏi theo chuỗi bằng cách ngắt nhỏ những yếu tố hạt 
nhân của nhận định cần bác bỏ. Nó thường bộc lộ thái độ bất ngờ, ngạc nhiên cực độ của người bác 
bỏ với vấn đề vừa tiếp nhận. 
Ví dụ 122 
- Tại tôi không muốn để ông đi, mà ông cũng không đi được, vì tôi biết ông rồi. Không ai tin 
ông nữa đâu. Bởi vì ông là người thụt két, ông có biết không? 
- Tôi? Thụt két? Thưa cụ? 
(20-tr.382) 
Biểu thức 4.3 
X: (khẳng định) A 
Y: A làm gì/để làm gì? A để B à? 
Người bác bỏ đặt nhận định vào trong những cảnh huống nghi vấn không thể thực hiện 
được, hoặc những vấn đề khó khăn mà câu trả lời hầu như không thể tìm ra. 
Ví dụ 123 
- Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy. 
- Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao? Hôm ấy mày mà không đi, 
tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu. 
(51-tr.172) 
Những dạng hình thức này rất thích hợp dùng để biểu thị tính vô lý của nhận định hay thái 
độ mỉa mai của người bác lời. 
Ví dụ 124 
- Nhưng mà lỡ nó chơi bời phá của thì em tính núi cũng phải hết. 
- Ồ! Nhiều ông quan giàu lắm, chú không rõ à? Các ông ấy có hàng dãy nhà ở Hà Nội, không 
kể tiền gửi nhà băng, đồn điền, và ruộng nương ở nhà quê nữa. Con cháu phá mấy đời cho 
hết. Vả lại mình gả làm gì cho mấy đứa phá gia? 
(21-tr.617-618) 
Biểu thức 4.4 
X: (khẳng định) A 
 Y: Sao?/Sao cơ?/Gì cơ? 
Người đáp thực hiện hành động bác bỏ bằng những thông điệp ngắn, chủ yếu bao gồm các 
từ, ngữ chỉ ý nghi vấn. Do tính chất liên tiếp của lượt lời, nên nội dung bác bỏ không cần phải lặp 
lại mà sẽ được đôi bên ngầm hiểu thông qua lượt lời trước đó. 
Những hành động bác bỏ nằm trong khuôn khổ biểu thức này, thường đi kèm với sắc thái 
sửng sốt, ngạc nhiên của người thực hiện hành động bác bỏ. 
Ví dụ 125 
Một bữa xe dừng ở ngã tư chợ, em rời khỏi cabin lau kính xe trong lúc anh Tìm Nội và ông Buồn 
bốc dỡ những thùng hàng. Chợ trưa đông ruồi, ít người. Thưa thớt vài người đàn ông để trần đánh 
bài, gần đó có mấy chị bỏ sạp tụm lại tỉa chân mày, nhổ tóc. Một người thanh niên dáng vẻ u ám, 
gầy nhom ghé lại, thì thầm: 
- Em tưởng bỏ tôi dễ dàng như bỏ một con chó sao? 
Và một chị gục xuống, trong âm thanh róng riết kinh hoàng. Máu chị phun ra thành vòi từ mũi dao 
xuyên qua ngực. 
(www.evan.vnexpress.net) 
Biểu thức 5 
X: (khẳng định) A 
Y: A hoặc B 
Chúng tôi gọi đây là những biểu thức lựa chọn. Hình thức là lựa chọn nhưng nội dung 
không phải đưa ra sự lựa chọn vì hướng lựa chọn đã được sắp đặt sẵn theo ý đồ của người thực hiện 
hành động bác bỏ. 
Có ba biểu thức nhỏ chỉ ý bác bỏ bằng lựa chọn như sau 
Biểu thức 5.1 
X: (khẳng định) A 
Y: Hoặc A, hoặc B 
Ví dụ 126 
Anh công an nói với tội phạm: 
- Hoặc anh khai ra để được giảm nhẹ tội, hoặc chúng tôi sẽ tăng án phạt vì tội cố ý che giấu. 
 Đây là dạng khung lựa chọn ít bộc lộ tính đe dọa hay điều kiện nhất vì nó không thể hiện ý 
ràng buộc như dạng thức “Nếu…thì”, “Muốn…thì phải…”. Tuy nhiên, để xác định chính xác mức 
độ căng thẳng của các lựa chọn phải dựa vào nội dung, nội hàm bên trong của các lựa chọn ấy. 
Biểu thức 5.2 
X: (khẳng định) A 
Y: Muốn A (thì) phải B 
Nội dung B mang tính chất là một điều kiện cần bắt nuộc phải có để thực hiện A. Điều kiện 
này trái với mong muốn của X, hoặc bất khả thi với X, do đó gián tiếp bác bỏ luôn yêu cầu A của X. 
Ví dụ 127 
Quan Công hỏi: 
- Ngươi không cho ta qua cửa quan phải không? 
Khổng Tử nói sẵng: 
- Muốn đi phải để cả già trẻ lại đây làm con tin. 
(40-tr.443-444) 
Biểu thức 5.3 
X: (khẳng định) A 
Y: (Nếu) A thì B 
Nội dung B không phải là một điều kiện cần, trái lại, là một hệ quả nặng nề hơn, có mức độ 
thiệt hại gấp nhiều lần hơn, nếu thực hiện A. Do đó, không chấp nhận hệ quả B nghĩa là không chấp 
nhận nhận định A. 
Ví dụ 128 
Tôi bật cười bảo lão: 
- Sao cụ lo xa thế? Cụ còn khỏe lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc 
chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại? 
- Không, ông giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì lúc chết lấy gì mà lo liệu? 
(48-tr.43) 
Biểu thức 6 
X: (khẳng định) A 
Y: còn B, hãy C 
 Chúng tôi không xếp biểu thức này vào như một dạng của biểu thức lựa chọn- bác bỏ vì B, 
C không phải là hệ quả, không phải là điều kiện, không đưa ra lựa chọn mà chỉ là gạt bỏ thẳng 
thừng tính vô lý, có hại của A và thay thế luôn bằng B. Hay nói cách khác, người thực hiện hành 
động bác bỏ đã định sẵn hướng bác bỏ cho người tiếp nhận theo một đích ngôn trung khác trước. 
Ví dụ 129 
Hoàn thuộc loại người rất dễ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp bên ngoài. Tiếng Anh gọi đó là “face – eater”. 
Năm nó 15 tuổi, nó từng thẳng thắn đứng trước anh hàng xóm rất đẹp trai mà rằng: “Em rất thích 
gương mặt của anh!”. May phước cho nó (hay là cho anh ta), anh hàng xóm cũng là người chững 
chạc đàng hoàng. Anh ta xoa đầu nó mà rằng: “Em còn bé, hãy lo học trước đã!”. 
(38-tr.128) 
Biểu thức 7 
Chúng tôi gọi đây là dạng bác bỏ nhiều lần nhằm bày tỏ ý cương quyết vì cả hai bên tham 
gia đối thoại đều lần lượt thực thi hành động bác bỏ. 
X: (khẳng định) A 
Y: (phủ định) A 
Y: phủ định [ (phủ định) A] 
X: phủ định { phủ định [ (phủ định) A] } 
. . . 
Ví dụ 130 
Hắn cười ầm ĩ: 
- Đốc tờ, đốc tờ. Thôi đi, tôi lại các ông đốc tờ cả nón…Tôi bất cần đến các ông đốc tờ, tôi chỉ 
cần tiền thôi. Tôi cứ đi dạy học. 
- Thế mà cũng nói… 
- Chứ không à? Chỉ ba hôm nữa là tôi đi. 
- Không đi nữa! 
- Cứ đi. 
- Cứ đi là cứ thế nào. Tôi có để cho mình đi, tôi chết. 
(20-tr.124-125) 
 Diễn giải ví dụ theo biểu thức trên đây như sau: 
- X: khẳng định chuyện sẽ đi dạy học. 
- Y: bác bỏ hiệu lực câu nói. 
- X: khẳng định lại, thêm thông tin “Chỉ ba hôm nữa là tôi đi”. 
- Y: bác bỏ lại dự định trên. 
- X: khẳng định lại là vẫn sẽ đi. 
- Y: bác bỏ mạnh mẽ bằng điều kiện “Tôi có để cho mình đi, tôi chết”. 
Số lần bác bỏ lặp lại dường như không hạn chế trong hội thoại nhưng do bị quy định bởi 
khả năng ghi nhớ, tri nhận và đặc trưng của hoạt động giao tiếp mà bác bỏ hai lần phổ biến nhất, 
càng nhiều lần trở lên càng hiếm gặp hơn, và càng có nguy cơ tạo thành những tranh cãi dai dẳng 
không đáng có. 
Biểu thức 8 
X: (khẳng định) Đối tượng A thì A 
Y: Khẳng định B thì B 
Những cặp hội thoại đi theo cấu trúc này có một điểm chung là mượn các từ tạo nghĩa 
khẳng định của câu khẳng định như vâng, đúng, phải, ừ…đặt trước hành động bác bỏ. 
Tiến trình bác bỏ sẽ được người nói và người nghe tri nhận như sau: 
- Giai đoạn 1: X đưa ra nhận định sai A (nhưng chưa tri nhận được nó sai). 
- Giai đoạn 2: Y đồng ý nhận định sai này, bằng một sự so sánh với nhận định sai B (Y 
phải đảm bảo rằng A phải tri nhận được nhận định sai này). 
- Giai đọan 3: X nhận ra thái độ bác bỏ A của Y thông qua việc tri nhận sự vô lý của B. 
Các câu bác bỏ thể hiện theo khung biểu thức này có nhận định nêu mang đặc trưng chung 
là tính vô lý được người bác bỏ tri nhận. Biểu thức chung này được phân tách làm hai biểu thức nhỏ 
phân chia theo tính sai của hàm ý hay của nghĩa biểu hiện như sau: 
Biểu thức 8.1 
X: (khẳng định) Đối tượng A thì A (Điều kiện: A phải vô lý) 
Y: Vâng/đúng/phải, B thì B 
Ví dụ 131 
 Có hai bà đang nói về các bà Liên Xô. 
(1)A: Cái bà Liên Xô béo, xấu ơi là xấu. 
B: Vâng, các bà thì đẹp. 
Cách thể hiện bác bỏ này cố ý đánh vào tính “chột dạ” của người nêu nhận định. Những từ 
chỉ ý khẳng định được mượn vào nhằm mục đích diễn tả sự mỉa mai, nhắc khéo ý nhị. Câu bác bỏ 
tuy ngắn gọn, ít thông tin, nhưng lại có sức nặng bác bỏ rất lớn. 
Biểu thức 8.2 
X: (khẳng định) A (Điều kiện: A phải vô lý) 
Y: Vâng/đúng/phải/ừ như B (Điều kiện: B cũng phải vô lý). 
Ví dụ 132 
Vợ: Chồng chị Sen giỏi giang quá. 
Chồng: Vâng, chị Sen cũng tháo vát chả kém. 
Cô vợ có ý khen chồng hàng xóm, đồng thời trong mắt người chồng, cô ấy có thể có hàm ý 
so sánh ngầm hai đối tượng (chồng mình và chồng người), do đó người chồng thể hiện sự đồng tình 
bằng cách thêm thông tin để tạo thành cặp song trùng vô lý. Sự vô lý chúng tôi nói tới ở đây là sự 
vô lý về mặt hàm ý, chứ không phải là sự vô lý về nội dung biểu thị. Mối quan hệ giữa hai tầng 
nghĩa và sự bác bỏ như sau: 
Vợ: Chồng chị Sen giỏi -> Hàm ý: Chồng mình không giỏi bằng. 
Chồng: Chị Sen giỏi -> Vợ mình không giỏi bằng. 
Hành động bác bỏ: Bác bỏ sự so sánh vô lý của vợ. 
Biểu thức 9 
X: (khẳng định) A 
Y: Aaaaaaaaaaaaaa (ngân dài A) 
Kéo dài ngữ điệu tạo nên nhiều mục đích thể hiện khác nhau từ ngạc nhiên, thích thú tới 
giễu cợt, mỉa mai, bác bỏ. Công thức chung của khung bác bỏ là người thực hiện bác bỏ không sử 
dụng các yếu tố trực tiếp bác bỏ, không thể hiện sự bác bỏ bằng đơn vị câu hoàn chỉnh mà dùng 
phương thức vật chất, cách thức tạo lời đặc trưng để tập trung vào một hoặc vài từ hạt nhân cần bác 
bỏ. 
Ví dụ 133 
 X: Đây là nhà tôi. 
Y: Nhà a a a a a! 
Ở ví dụ này, sự ngân dài giọng của Y bộc lộ thái độ ngạc nhiên cùng với hành động bác bỏ 
các thuộc tính đặc trưng về ý niệm nhà trong sự so sánh đối chiếu với sự vật được gọi là nhà trước 
mặt. 
Tiểu kết 
Có thể nói, hành động bác bỏ trong tiếng Việt vừa phong phú về nội dung, đa dạng về hình 
thức, gắn kết chặt chẽ với các dạng thức ngôn từ khác. Phong phú về nội dung vì hành động bác bỏ 
không chỉ nhắm đến đích nghĩa biểu hiện của câu, mà cả hàm ý, tiền giả định, thái độ phát ngôn, 
thậm chỉ cả hành động cụ thể trong giao tiếp. Có thể nói nó có khả năng bác bỏ mọi yếu tố tham gia 
vào hội thoại. Sự đa dạng về hình thức thể hiện ở chỗ hành động bác bỏ không có một hình thức nào 
nhất định, nó có thể dễ dàng mượn hình thức của các dạng câu từ nghi vấn, cảm than, cầu khiến, 
trần thuật…để làm lớp vỏ cho đích ngôn trung của mình. Cũng chính từ mối quan hệ qua lại này, 
mà người ta thấy hành động bác bỏ có khả năng gắn kết với các hoạt động ngôn từ khác như cầu 
khiến, tuyên bố, van xin, ngờ vực v.v… 
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng nhận thấy bác bỏ không mang tính lưỡng phân 
chặt chẽ, tức hoặc đúng hoặc sai mà nó còn có ranh giới trung gian đôi khi rất khó phân định. Đó là 
dạng bác bỏ nửa vời, mà chúng ta hay quen gọi dưới cái tên hành động bắt bẻ. 
 KẾT LUẬN 
Nói khái quát, hễ ở đâu có bất đồng, tranh cãi thì ở đó có bác bỏ, và sự bác bỏ xuất hiện 
trong mọi vấn đề của cuộc sống, từ những vấn đề thường nhật, đơn giản tới những vấn đề phức tạp, 
hệ thống. Có thể nói, không có một lĩnh vực nào của giao tiếp mà không có sự tồn tại của hành động 
bác bỏ ngoại trừ những vấn đề có tính chất cấm kỵ, thiêng liêng thuộc về đức tin như tôn giáo, tín 
ngưỡng… Vì nó liên quan tới yếu tố đức tin cùng sự nhạy cảm tâm linh nên hầu như chỉ tồn tại vấn 
đề của việc chấp nhận hay không chấp nhận về mặt nhận thức chứ không được thể hiện ra thành lời 
nói trong giao tiếp thông thường. Nguyên nhân sâu xa ở chỗ những thể hiện thành lời trong địa hạt 
này thường rất nguy hiểm, mang tính nhạy cảm cao và dễ dẫn đến các cuộc xung đột lớn. 
Bác bỏ là một hành động có tính phổ quát tồn tại trong giao tiếp ngôn ngữ. Bên cạnh tính 
phổ quát về phương châm, mục đích giao tiếp, nó còn có những đặc trưng văn hóa, cộng đồng, đa 
dạng về hình thức, phương thức biểu hiện. Do đó, hiểu ngôn ngữ trên bình diện ngữ nghĩa từ, câu, 
chưa chắc sẽ hiểu được nội dung xác thực của hành động và đích ngôn trung mà người nói nhắm 
tới. Nói cách khác, từ, ngữ chỉ là điều kiện cần thiết chứ không phải là điều kiện đủ để có thể tri 
nhận được đầy đủ nội dung hành động. Do đó, nếu không tính đến các yếu tố khác liên quan, hiệu 
quả giao tiếp có thể sụt giảm hoặc thất bại. 
Mức độ bác bỏ không chỉ phụ thuộc vào từng yếu tố tạo nên hành động, mà còn phụ thuộc 
vào mức độ liên kết và sử dụng các yếu tố. Do đó, khi một hành động bác bỏ có càng nhiều phương 
thức và hình thức khác nhau cùng tồn tại, cấp độ bác bỏ sẽ càng cao và ngược lại. 
Ví dụ 134 
Điểm thêm một “giây” nức nở, chị Dậu ngó con bằng cách xót xa: 
- Con sẽ ăn ở nhà cụ Nghị thôn Đoài. 
Cái Tí nghe nói giãy nảy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc: 
- U bán con thật đấy ư? Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng bán con đi, tội nghiệp. U 
để cho con ở nhà chơi với em con. 
(48-tr.28) 
Ở trích đọan này, lời “Tý” là một hành động bác bỏ rất thiết tha và quyết liệt. Nhân vật “Tý” 
đã dùng cả hình thức câu hỏi “U bán con thật đấy ư?”, hình thức van xin “Con van u, con lạy u”, cả 
ngôn ngữ cử chỉ “giãy nảy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc”…, 
 tất cả kết hợp với nhau thành một hành động phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt và làm đau lòng người 
mẹ trẻ. 
Tuy không có các tiêu chí rõ ràng để phân cấp về mức độ nhưng nhìn chung, hành động bác 
bỏ không phải luôn luôn đồng nhất mà có xu hướng nằm trong khoảng giữa của hành động bác bỏ 
tuyệt đối (biểu hiện cụ thể là bác bỏ hoàn toàn nhận định) và bác bỏ tương đối (biểu hiện cụ thể là 
lối bác bỏ nửa vời đã được phân tích ở phần 3.1.2.8). 
Người Việt có thể sử dụng các hình thức và phương thức bác bỏ phù hợp để đạt đến hiệu 
quả giao tiếp cao nhất. Tuy nhiên, hành động này có thuyết phục được đối tượng tiếp nhận hay 
không lại không hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân hành động. Có những yếu tố bên ngoài cần phải 
tính đến như quan hệ giao tiếp, nội dung sự tình… Do đó, có thể nói phương thức và hình thức phù 
hợp chỉ có hiệu quả khi đôi bên đối thoại có xu hướng tích cực tham gia giao tiếp, và cùng hướng 
tới giao tiếp trong sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhau. Còn những giao tiếp không có tính cân 
bằng giữa một bên thống trị và bên bị trị, hiệu quả bác bỏ sẽ thuộc về bên mạnh hơn, những yếu tố 
phương thức và hình thức, nếu đi ngược với mong muốn của bên thống trị, cũng sẽ vô tác dụng và 
bị lờ đi. 
Hội thoại chỉ là môi trường phổ biến nhất của bác bỏ, nhưng không phải là môi trường duy 
nhất mà bác bỏ được hiện thực hóa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy bác bỏ còn 
được thể hiện dưới những dạng thức đặc biệt, có thể coi như những môi trường biến thể như hành 
động tự nói trong nội tâm và bác bỏ trong nội tâm, hành động bác bỏ cử chỉ hoặc bác bỏ lời nói 
bằng cử chỉ. Do đó, khi nghiên cứu và xác định hành động bác bỏ, cần xem xét quá trình diễn ngôn 
theo một hướng mở và linh hoạt, nhằm tránh bỏ sót những hành động bác bỏ không đi theo quy luật 
bác bỏ thông thường của cấu trúc lượt lời. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Austin J.L (1962), How to do things with words, Cambridge University press, UK. 
2. Nguyễn Phương Chi (2001) Một số ghi nhận về hành vi từ chối, Ngữ học trẻ, Hội ngôn ngữ 
học Việt Nam, Hà Nội. 
3. Nguyễn Phương Chi (2003), Một số cơ sở của các chiến lược từ chối, Ngôn ngữ số 8. 
4. Nguyễn Phương Chi (2004), Một số chiến lược từ chối thường dùng trong tiếng Việt, Ngôn 
ngữ số 3 
5. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
6. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, Ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm 
Hà Nội. 
7. Đỗ Hữu Châu (2001), Cơ sở Ngữ dụng học, Tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
8. Nguyễn Đức Dân (1987), Logic ngữ nghĩa cú pháp, Nxb Đại học và Trung học chuyên 
nghiệp, Hà Nội. 
9. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
10. Nguyễn Đức Dân (1999), Lôgích và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh. 
11. Nguyễn Đức Dân (2002), Nỗi oan thì, là, mà, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
12. Nguyễn Đức Dân (1977), Biểu thức và ngữ vi, Ngôn ngữ số 2. 
13. Nguyễn Đức Dân (1977), Lôgích và sự phủ định trong tiếng Việt, Ngôn ngữ số 3. 
14. Nguyễn Đức Dân (1983), Phủ định và bác bỏ, Ngôn ngữ số 1. 
15. Nguyễn Đức Dân, Lê Tô Thúy Quỳnh (2002), Phương pháp lập luận trong tranh cãi pháp lý, 
Ngôn ngữ số 5. 
16. Đào Mục Đích (1999), Ngôn ngữ và phương pháp lập luận (trên cứ liệu phê bình văn học 
bằng tiếng Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn 
Thạc sỹ Ngữ Văn. 
17. Lê Thị Kim Đính, (2006) Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ 
Ngữ Văn. 
18. Triệu Truyền Đống (1999) - biên sọan: Nguyễn Quốc Siêu, Phương pháp biện luận, thuật 
hùng biện, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
 19. Grice H. Paul (1975), Logic and conservation, Nxb Cole and Morgan, New York, USA. 
20. Nguyễn Thị Hai (2001), Hành động từ chối trong tiếng Việt hiện đại, Ngôn ngữ số 1. 
21. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt – Văn Việt - Người Việt, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
22. Phan Văn Hòa (1989), Phương tiện liên kết phát ngôn đối chiếu ngữ liệu Anh-Việt, Luận án 
Phó tiến sỹ. 
23. Nguyễn Văn Hương (1997), Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ 
Nguyễn Công Hoan, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Ngữ 
Văn. 
24. Lương Đình Khánh (2005), Quan hệ nghĩa giữa các phát ngôn, giá trị của từ và trong liên kết 
văn bản tiếng Việt, Ngôn ngữ số 4. 
25. Lado. R. (2002), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (Hoàng Văn Vân dịch), Nxb Đại học 
Quốc gia Hà Nội. 
26. Đinh Trọng Lạc (2001), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
27. Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Thanh 
Hóa. 
28. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ, tính quy luật của cơ chế ngôn giao, Nxb Khoa học Xã hội, 
Hà Nội. 
29. Phạm Thị Ly (2002), Tiểu từ tình thái cuối câu - một trong những phương tiện chủ yếu diễn 
đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt (đối chiếu với những phương tiện diễn đạt nghĩa tương 
ứng trong tiếng Anh), Ngôn ngữ số 2. 
30. Trần Chi Mai (2005), Cách biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến bằng các phát ngôn lảng 
tránh (Trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt), Ngôn ngữ số 1. 
31. Nguyễn Quang Ngoạn (2007), Một số chiến lược phản bác thường dùng trong tiếng Việt, 
Ngôn ngữ số 8. 
32. Huỳnh Thị Ái Nguyên (2001), Hành vi phủ định trong tiếng Anh và tiếng Việt - những trở 
ngại của người học ngoại ngữ, Ngữ học trẻ, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội. 
33. Dương Bạch Nhật (2008), Chiến lược lịch sự trung tính trong mời và từ chối lời mời trong 
tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt, Ngôn ngữ số 8. 
34. Hoàng Phê (2003), Logic – Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng. 
 35. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 
36. Hoàng Phê, Hoàng Văn Hành, Đào Thản (2002), Sổ tay dùng từ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã 
hội, Hà Nội. 
37. Hoàng Trọng Phiến (2003), Cách dùng hư từ tiếng Việt, Nxb Nghệ An. 
38. Nguyễn Phú Phong (1994), Vô định, nghi vấn và phủ định, Ngôn ngữ số 2. 
39. Lê Tô Thúy Quỳnh (2000), Ngôn ngữ và phương pháp lập luận trong tranh cãi pháp lý, 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Ngữ 
Văn. 
40. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Thử tìm hiểu hiệu lực bác bỏ trong mối quan hệ với hành vi hỏi, 
Ngôn ngữ và & Đời sống số 4. 
41. Tạ Thị Thanh Tâm (2005), Vai giao tiếp và phép lịch sự trong tiếng Việt, Ngôn ngữ số 1. 
42. Nguyễn Thị Việt Thanh (2001), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ 
Chí Minh. 
43. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận, từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng 
Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
44. Nguyễn Ngọc Tiến (1996), Cách thức biểu đạt nghĩa phủ định trong tiếng Việt, Trường Đại 
học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn đại học. 
45. Phạm Anh Toàn (2007), Từ câu nói Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau đến tính phù hợp 
trong giao tiếp, Ngôn ngữ và & Đời sống số 6. 
46. Matsumoto Y (1989), Poliness and conversational universals – observation from Japanese, 
University of London, UK. 
47. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa, dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở 
người Việt (trong sự so sánh với các dân tộc khác), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
48. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí 
Minh. 
49. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội-văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
50. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
51. Lê Anh Xuân (2006), Một cách trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh- trả lời bằng sự im 
lặng, Ngôn ngữ số 5. 
 52. Nguyễn Như Ý (1990), Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp, Ngôn ngữ số 2. 
53. Nguyễn Thị Hải Yến (2005), Hành vi từ chối lời mời của người Việt và người Nhật, Khoa 
học ngoại ngữ số 4, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. 
54. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2001), Thành phần mở rộng và các yếu tố lịch sự trong phát ngôn 
chê, Ngôn ngữ số 4. 
 TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Nguyễn Nhật Ánh (1991), Hạ đỏ, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
2. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Buổi chiều windows, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
3. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Phòng trọ ba người, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
4. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Chuyện cổ tích dành cho người lớn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
5. Nguyễn Nhật Ánh (1997), Nữ sinh, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
6. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Bàn có năm chỗ ngồi, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
7. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Bồ câu không đưa thư, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
8. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Út Quyên và tôi, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
9. Nguyễn Nhật Ánh (2006), Ông thầy nóng tính, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
10. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Những cô em gái, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
11. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Bong bóng lên trời, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
12. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Tôi là Bêtô, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
13. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Trước vòng chung kết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
14. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Cô gái đến từ hôm qua, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
15. Nguyễn Nhật Ánh, Kính vạn hoa 17, Nxb Kim Đồng, Tp. Hồ Chí Minh. 
16. Nam Cao (2006), Nam Cao tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 
17. Nam Cao (2007), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh. 
18. Tào Đình (2006), Anh trai và em gái), Nxb Hội nhà văn. 
19. J.K. Rowling (2009), Harry Potter và bảo bối tử thần, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
20. Nguyễn Công Hoan, Truyện ngắn chọn lọc - tập 2, Nxb Hội nhà văn, Tp. Hồ Chí Minh. 
21. Nguyễn Công Hoan (2006), Lá ngọc cành vàng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh. 
22. Nguyễn Công Hoan (2006), Bước đường cùng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh. 
23. Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh. 
24. Nguyễn Hiện (2008), Làng người xanh, Nxb Văn nghệ, Hà Nội. 
25. Nhiều tác giả, 1001 đêm, Nxb Văn hóa Sài Gòn, trang 12. 
 26. Tô Hoài (1996), Dế mèn phiêu lưu kí, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
27. Tô Hoài (2000), Võ sĩ bọ ngựa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
28. Khái Hưng (2006), Nửa chừng xuân, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 
29. Nguyên Hương (2009), Hoa rù rì, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
30. Lê Xuân Khoa, Đá Đỏ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.. 
31. Phạm Công Luận (1998), Chú bé Thất Sơn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
32. Macxim Gorki (2007), Thời thơ ấu, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh. 
33. Stephen Meyer (2009), Esclipe (Nhật thực), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
34. Vũ Trọng Phụng (2004), Số đỏ, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 
35. Ngô Tất Tố (2006), Tắt đèn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 
36. Nguyễn Quang Thiều (1998), Bí mật hồ cá thần, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
37. Dương Thụy (2009), Hè của cô bé mất gốc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
38. Dương Thụy (2009), Mọi cô gái đều thích hoa hồng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
39. Dương Thụy (2009), Oxford thương yêu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
40. La Quán Trung (2006), Tam Quốc Chí, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 
41. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 
42. Lưu Quang Vũ (1994), Tuyển tập kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội. 
43. Nhiều tác giả (2009), Trà sữa cho tâm hồn, Hà Nội. 
44. Nhiều tác giả (2008), Kẻ rao bán mùa thu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 
45. Nhiều tác giả (1999), Tổng tập văn học Việt Nam-tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
46. Edmond De Amicis (2003), Tâm Hồn Cao Thượng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh. 
47. Ngữ văn lớp 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
48. Ngữ văn lớp 8, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
49. Ngữ văn lớp 9, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
50. Ngữ văn lớp 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
51. Ngữ văn lớp 11, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
52. Hoa học trò số 834, 793. 
 53. VTM, số 268. 
54. Website: www.evan.vnexpress.net. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
LVNNH028.pdf