Luận văn Hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn truyền hình

HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ TRONG PHỎNG VẤN TRUYỀN HÌNH (Khảo sát từ góc độ lịch sự - Trên ngữ liệu Đài phát thanh - Truyền hình tỉnh Thái Nguyên) Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC Mã số: 60.22.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC 1. Lý do chọn đề tài: 1.1. Ngữ dụng học - chuyên ngành mới của Ngôn ngữ học - nghiên cứu ngôn ngữ trong sử dụng, trong quan hệ với ngữ cảnh. "Xương sống" của Ngữ dụng học là lí thuyết về hành động ngôn ngữ. Việc nghiên cứu tiếng Việt dưới góc độ sử dụng ngôn ngữ trong thực tế đã được quan tâm từ nhiều thập kỷ nay và sớm trở thành một ngành nghiên cứu khoa học. Nó quan tâm đến việc vì sao việc truyền đạt nghĩa không chỉ phụ thuộc vào chức năng ngữ học cũng như ngữ pháp, từ vựng của người nói và người nghe mà còn phụ thuộc vào ngữ cảnh của phát ngôn, hiểu biết về vị thế của các nhân vật hữu quan và ý đồ giao tiếp của người nói. Chính vì vậy, trong những năm gần đây việc nghiên cứu hành động ngôn ngữ đã thu hút được nhiều sự quan tâm, nhất là các hành động ngôn ngữ riêng biệt như hành động cam kết, điều khiển, bộc lộ v.v . Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu chuyên sâu về sự phối hợp các hành động ngôn ngữ trong thực hiện một mục đích giao tiếp lớn hơn, trong đó có các hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn. 1.2. Phỏng vấn trên các phương tiện thông tin đại chúng nói chung và trên truyền hình nói riêng giữ một vị trí quan trọng, góp phần thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu những tấm gương tiêu biểu, những phát minh, những cách làm mới, giáo dục và phổ biến kiến thức, phát triển văn hóa, quảng cáo và các dịch vụ khác .v.v . Cùng với các thể loại báo chí khác, phỏng vấn là một bước quan trọng trong quá trình đưa tin, trong đó, hành động ngôn ngữ là một mắt xích quan trọng trong phỏng vấn. Nếu phóng viên, biên tập viên hay người dẫn chương trình không thể diễn đạt ý nghĩ của mình một cách rõ ràng, rành mạch, thì hiệu quả đem lại từ cuộc phỏng vấn chắc chắn sẽ không cao. Phỏng vấn là một loại hình báo chí phổ biến, nó xuất hiện ngay từ khi nghề báo mới ra đời. Trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay, thể loại phỏng vấn ngày càng có ý nghĩa quan trọng vì nó có khả năng khai thác thông tin một cách khách quan và chân thực nhất. Cùng với đó, báo chí là loại hình sử dụng ngôn ngữ để phục vụ đời sống xã hội, có tác dụng định hướng dư luận và được coi là một trong những chuẩn mực về ngôn ngữ để mọi người học và làm theo, qua đó góp phần quan trọng trong việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Vì vậy, việc sử dụng ngôn ngữ, nhất là thực hiện các hành động ngôn ngữ một cách linh hoạt để vừa đạt được mục đích thông tin tuyên truyền vừa đảm bảo tính lịch sự trong phỏng vấn đối với người xem truyền hình là cần thiết. 1.3. Với vai trò là cơ quan ngôn luận của Đảng bộ, chính quyền, là diễn đàn của nhân dân các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, Đài Phát thanh - Truyền hình Thái Nguyên trong quá trình hình thành và phát triển cũng luôn đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới về nội dung và hình thức, trong đó có việc đổi mới về các phương pháp và kỹ năng phỏng vấn. Trong hầu hết các chương trình phát sóng hàng ngày, những chương trình liên quan đến phỏng vấn chiếm một thời lượng đáng kể. Để thực hiện những chương trình như vậy, mỗi phóng viên, biên tập viên, người dẫn chương trình luôn phải quan tâm, nghiên cứu đến các lĩnh vực khác nhau, trong đó có việc tìm hiểu về chuẩn ngôn ngữ cũng như các hành vi ngôn ngữ phi lời. Mặc dù các chương trình phỏng vấn luôn được chuẩn bị hết sức công phu (đặc biệt là những cuộc phỏng vấn trong các chương trình truyền hình trực tiếp), tuy nhiên nội dung mỗi cuộc phỏng vấn cũng còn những hạn chế nhất định, trong đó có hạn chế về thực hiện hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến phép lịch sự. Từ những lý do trên đây, chúng tôi chọn nghiên cứu về "Đặc điểm hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn truyền hình" làm đề tài của luận văn. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi không khảo sát một cách toàn diện tất cả những vấn đề liên quan đến các hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn truyền hình mà chỉ đề cập đến những khia cạnh liên quan đến tính lịch sự của các hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn truyền hình. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .4 1. Lý do chọn đề tài 4 2. Lịch sử vấn đề 6 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .8 5. Phương pháp nghiên cứu .8 6. Ý nghĩa của đề tài 9 7. Bố cục của luận văn .9 Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT .11 1.1. Khái quát về hành động ngôn ngữ 11 1.1.1. Khái niệm hành động ngôn ngữ (hành vi ngôn ngữ, hành động phát ngôn) 11 1.1.2. Phân loại hành động ngôn ngữ 11 1.1.2.1. Tiêu chí phân loại của J. Austin .11 1.1.2.2. Tiêu chí phân loại của T. Searle .12 1.1.2.3. Tiêu chí phân loại của D. Wunderlich, F. Recanati, K. Bach và R.M. Harnish 14 1.1.3. Điều kiện thực hiện hành động ngôn ngữ .15 1.1.3.1. Điều kiện nội dung mệnh đề 15 1.1.3.2. Điều kiện chuẩn bị .15 1.1.3.3. Điều kiện chân thành .16 1.1.3.4. Điều kiện căn bản 16 1.2. Khái quát về lịch sự .16 1.2.1. Lịch sự quy ước 16 1.2.2. Lịch sự chiến lược 17 1.2.2.1. Quan điểm của R. Lakoff .20 1.2.2.2. Quan điểm của J. N. Leech .21 1.2.2.3. Quan điểm của P. Brown và S. C. Lenvinson 22 1.2.3. Lịch sự trong giao tiếp của người Việt 24 3. Hành động ngôn ngữ và lịch sự 30 3.1. Hành động ngôn ngữ thỏa mãn tính lịch sự .30 3.2. Hành động ngôn ngữ không thỏa mãn tính lịch sự 30 4. Phỏng vấn và phỏng vấn truyền hình .30 4.1. Khái niệm về phỏng vấn 31 4.2. Phỏng vấn truyền hình .32 4.3. Đặc điểm cơ bản của phỏng vấn truyền hình 35 4.4. Yếu tố lịch sự trong phỏng vấn truyền hình 35 Chương 2: HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ THỎA MÃN TÍNH LỊCH SỰ TRONG PHỎNG VẤN TRUYỀN HÌNH 37 2.1 Hành động xưng hô .37 2.1.1 Hình thức xưng hô 42 2.1.2. Thành phần tham gia .42 2.2. Hành động chào, cảm ơn, chúc tụng 43 2.2.1. Hành động chào 43 2.2.2. Hành động cảm ơn, chúc tụng 46 2.3. Hành động khen .51 2.3.1. Vài nét về hành động khen .51 2.3.2. Một số đề tài khen trong phỏng vấn .51 Tiểu kết .55 Chương 3: HÀNH ĐỘNG NGÔN NGỮ KHÔNG THỎA MÃN TÍNH LỊCH SỰ TRONG PHỎNG VẤN TRUYỀN HÌNH 56 3.1 Hành động hỏi .56 3.1.1. Khái niệm hành động hỏi 56 3.1.2. Những yếu tố và mức độ đe dọa thể diện trong hành động hỏi 58 3.1.2.1. Những yếu tố trong hành động hỏi 58 3.1.2.2. Mức độ đe dọa thể diện của hành động hỏi .58 3.2. Hành động yêu cầu, đề nghị 64 3.2.1. Khái niệm hành động yêu cầu, đề nghị 64 3.2.2. Những yếu tố và mức độ đe dọa thể diện trong các hành động yêu cầu, đề nghị .65 3.3. Hành động chê 66 3.3.1. Khái niệm hành động chê 66 3.3.2. Những yếu tố và mức độ đe dọa thể diện trong hành động chê 67 3.3.2.1. Những yếu tố trong hành động chê nhằm đe dọa thể diện 67 3.3.2.2. Mức độ đe dọa thể diện trong hành động chê 68 3.4. Hành động phi ngôn ngữ 71 3.4.1. Khái niệm hành động phi ngôn ngữ 71 3.4.2. Những yếu tố và mức độ đe dọa thể diện trong hành động phi ngôn ngữ 72 3.5. Những biện pháp để giảm thiếu hiệu lực đe dọa thể diện khi phỏng vấn 74 3.5.1. Sử dụng biểu thức rào đón 74 3.5.2. Sử dụng hành động ngôn ngữ gián tiếp .76 3.5.3. Các biện pháp khác 78 Tiểu kết 81 KẾT LUẬN 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO .85

pdf87 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2146 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hành động ngôn ngữ trong phỏng vấn truyền hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
câu hỏi nào thì phóng viên cũng nên tuân theo nguyên tắc mà Giôn Xanetxki đã nhận định: "Câu hỏi phải thật cởi mở, trung lập và đơn giản. Những câu hỏi công khai (cởi mở, thẳng thắn) sẽ bắt đối tượng phỏng vấn phải suy nghĩ về nội dung các câu trả lời. Các câu hỏi trung lập tạo điều kiện lý tưởng để người được phỏng vấn bày tỏ quan điểm" [17, 48]. Như vậy trong phỏng vấn, hành động hỏi rất đa dạng. Có khi là các câu hỏi trực tiếp nhằm thu thập thông tin trực tiếp nhưng cũng có khi câu hỏi thực hiện hành vi gián tiếp nhằm để mỉa mai, châm biếm, nghi ngờ,... Ở nội dung này, chúng tôi sẽ tập trung khảo sát và làm rõ hành động hỏi không thỏa mãn tính lịch sự trong truyền hình. Hay nói cách khác là hành động hỏi đe dọa thể diện của đối tượng được hỏi. 3.1.2. Những yếu tố và mức độ đe dọa thể diện trong hành động hỏi 3.1.2.1. Những yếu tố trong hành động hỏi Trong phỏng vấn, hành động hỏi được coi là "linh hồn". Các câu hỏi thường nhằm thu thập thông tin và tạo ra sự liền mạch trong phỏng vấn. Có rất nhiều các câu hỏi với hình thức khác nhau. Tuy nhiên mỗi một hình thức Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 60 hỏi được đưa ra đều phụ thuộc vào nội dung, đối tượng của cuộc phỏng vấn. Đối với các vấn đề mang tính mô tả, dự định, cách thức thông thường như: nội dung của một điều luật mới ban hành, công thức nấu ăn, ... thì người phóng viên sử dụng những câu hỏi mang tính chất trung hòa. Đối với các vấn đề có tính chất riêng tư, có tính áp đặt... như tình yêu, hôn nhân, gia đình, sai phạm... thì người phỏng vấn hay sử dụng những câu hỏi mang tính chất thường được coi là câu hỏi mang tính đe dọa và những câu hỏi này vi phạm nguyên tắc lịch sự trong phỏng vấn. Căn cứ theo quan điểm của Brow và Levinson cũng như chuẩn mực văn hóa giao tiếp của người Việt và mức độ "nhạy cảm" của vấn đề, chúng tôi nhận thấy có hai nhóm đề tài có mức độ đe dọa thể diện khác nhau trong hành động hỏi. Đó là: nhóm đề tài có mức độ đe dọa thể diện cao và nhóm đề tài có mức độ đe dọa thể diện thấp. Do phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ khảo sát xung quanh một số loại phỏng vấn như: phỏng vấn điều tra, phỏng vấn chân dung và phỏng vấn thông tin để thấy được mức độ đe dọa thể diện của hành động hỏi trong phỏng vấn. Chúng tôi chọn ba loại phỏng vấn trên bởi theo chúng tôi đây là những loại phỏng vấn dễ gây ra sự đe dọa thể diện của người được phỏng vấn. Qua khảo sát và phân loại, chúng tôi có được kết quả như sau: Bảng kết quả khảo sát các hành động hỏi không thỏa mãn tính lịch sự Phỏng vấn điều tra Phỏng vấn chân dung Phỏng vấn thông tin Số lƣợng 75 83 21 Tổng số hành động hỏi 179 179 179 Tỉ lệ (%) 32.4 49.5 18.1 Qua bảng kết quả, chúng tôi thấy: phỏng vấn chân dung chứa nhiều hành động hỏi đe dọa thể diện nhất 83/179 hành động hỏi chiếm 49.5 %, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 61 phỏng vấn thông tin ít đe dọa thể diện nhất 21/179 hành động hỏi, chiếm 18.1%. Trong phỏng vấn chân dung do phải khai thác thông tin có tính chất riêng tư, cá nhân nên phóng viên sử dụng nhiều câu hỏi đe dọa thể diện người được phỏng vấn nhất. Hành động hỏi đe dọa thể diện này có thể là do người phóng viên cố tình thực hiện hoặc cũng có thể do vô tình mà đe dọa thể diện. Và vì thế hành động hỏi đe dọa thể diện xuất hiện hiện nhiều ở loại phỏng vấn này. Đối với phỏng vấn điều tra không chỉ khai thác những vấn đề có tính chất riêng tư mà còn phỏng vấn những vấn đề mang xã hội như: sai phạm, tiêu cực... và người phóng viên đóng vai trò như một điều tra viên. Do vậy hành động hỏi đe dọa thể diện ở loại phỏng vấn này ít hơn so với loại phỏng vấn chân dung. Và trong phỏng vấn thông tin ít xảy ra hành động hỏi đe dọa thể diện bởi vì đây là loại phỏng vấn không mang tính chất cá nhân đặc thù, câu hỏi chỉ nhằm làm sáng tỏ một vấn đề có tính chất đơn thuần, không ảnh hưởng trực tiếp, đương diện đến lợi ích, nhân phẩm... của người được phỏng vấn. 3.1.2.2. Mức độ đe dọa thể diện của hành động hỏi Như đã trình bày ở mục 3.1.2.1, hành động hỏi không thỏa mãn tính lịch sự trong phỏng vấn truyền hình được chia thành hai mức độ và tương ứng với nó là những đề tài riêng. a. Hành động hỏi có mức độ đe dọa thể diện cao Nhóm hành động hỏi này thường tương thích với những nhóm đề tài "nhạy cảm", mang tính chất cá nhân, riêng tư rõ nét... Hay nói cách khác nhóm đề tài này động chạm đến cái "tôi" cá nhân của người được phỏng vấn theo chiều hướng xấu. Có thể nói với nhóm đề tài này trong các cuộc phỏng vấn dễ gây những tác động ngược chiều nếu như phóng viên và người được phỏng vấn chưa tìm được sự tương thích với nhau. Trong phỏng vấn truyền Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 62 hình thì những câu hỏi như vậy thường gây ra sự gián đoạn hoặc làm cho chương trình rẽ sang một hướng khác. Và đôi khi người phóng viên lại là "nạn nhân" của chính câu hỏi mà mình nêu ra. Một số nội dung thường gặp mà câu hỏi có mức độ đe dọa thể diện cao như: - Đề tài tình yêu, gia đình, giới tính. Đây là những đề tài có mức độ đe dọa thể diện cao nhất trong các hành động hỏi không thỏa mãn tính lịch sự. Bởi lẽ những câu hỏi thuộc mảng đề tài này thường xoáy sâu và các câu hỏi tập trung vào một vấn đề có tính chất không vui như: những xung đột, rạn nứt về tình cảm trong đời sống gia đình hay tình yêu; những thông tin về người yêu hay người tình (trong quá khứ, hiện tại), những rào cản từ phía gia đình, bạn bè, những bất đồng của hai bên..., những mâu thuẫn trong đời sống vật chất; những vấn đề về quan niệm đồng tính... Có thể nói với nhóm đề tài này, người được phỏng vấn và người được phỏng vấn đều không thoải mái. Đặc biệt đối với những người nổi tiếng hoặc quan chức thì vấn đề này nhạy cảm nhất và mức độ bất hợp tác lớn nhất. Hiện nay có thể nói nhóm đề tài này trở thành điểm hút của nhiều cuộc phỏng vấn. Ví dụ: Khi phỏng vấn một nữ doanh nhân thành đạt, phóng viên xoáy sâu vào chuyện quá riêng tư trong tình cảm gia đình mặc dù nữ doanh nhân tỏ ra khó chịu: PV: Để có sự thành công hôm nay của công ty phải chăng có sự giúp đỡ từ phía người chồng trước của chị? PV: Chị có cho biết suy nghĩ của chị về việc anh giúp chị? Anh chị có nghĩ hai người sẽ về lại với nhau? Nữ doanh nhân: Quá khứ đã qua và chúng ta phải sống với hiện tại và tương lai. Tôi nghĩ cái đáng nói trong chương trình này là sự thành công của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 63 công ty tôi với sự nỗ lực của toàn thể anh chị em cán bộ, công nhân.[Chƣơng trình truyền hình trực tiếp: Giao lƣu khởi nghiệp dành cho thanh niên sinh viên] Hay khi phỏng vấn một nghệ sĩ về đề tài tình yêu. Sự đe dọa thể diện sẽ là cao nhất nếu những câu hỏi xoáy sâu vào những góc khuất mà người được phỏng vấn không muốn nói đến. Hiện nay vấn đề giới tính rất được quan tâm. Với tốc độ phát triển, hội nhập mạnh mẽ như hiện nay thì những luồng tư tưởng ngoại cũng theo dần vào trong đời sống văn hóa người Việt. Tuy nhiên những luồng tư tưởng phong kiến cũng như nền văn hóa Việt đã ăn sâu vào trong đời sống xã hội, đời sống văn hóa cho nên khi phỏng vấn về vấn đề này các đối tác của cuộc phỏng vấn sẽ chưa có sự thoải mái. Và đôi khi dù vô tình hay hữu ý thì những câu hỏi xung quanh vấn đề này có mức độ đe dọa thể diện người được phỏng vấn rất cao. Ví dụ (3): MC: Được biết chị hiện nay đang làm phó Tổng Giám độc Công ty cổ phần tập đoàn Tân Cương Hoàng Bình, rồi tham gia công tác xã hội. Vậy chị sắp xếp công việc như thế nào để chăm lo đến gia đình, con cái?[Chƣơng trình tọa đàm "Doanh nhân Thái Nguyên thời ký hội nhập] - Những đề tài mang tính thời sự, chính trị Những câu hỏi thuộc mảng đề tài này thường xuất hiện trong phỏng vấn điều tra. Đặc biệt với những vấn đề về quản lí, những vấn đề vi phạm đạo đức cũng như trách nhiệm của cán bộ, công chức hoặc những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng của người dân thì những câu hỏi có mức độ đe dọa thể diện cao. Qua các cuộc phỏng vấn, phóng viên có thể hỏi trực tiếp vấn đề mà không bị chi phối bởi các tác nhân khác dù câu hỏi đó có động chạm đến người có chức vụ cao. Những câu hỏi thuộc mảng đề tài này thường đe dọa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 64 thể diện trực diện và ở mức độ rất cao. Thể diện dương tính của người được phỏng vấn lúc này bị tổn hại sâu sắc. Ví dụ: Kính thưa các bác lãnh đạo, hiện nay hầu hết khí thải, chất thải của các nhà máy, xí nghiệp đang được thải trực tiếp ra ngoài môi trường mà chưa được qua xử lý nên ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của con người và môi trường sống. Vậy các bác nghĩ sao về thực trạng này và có những biện pháp gì không để cứu lấy môi trường sống của chúng ta? [Chƣơng trình truyền hình diễn đàn "Trẻ em với các mục tiêu vì trẻ em" năm 2009] Tuy nhiên cũng phải nhận thấy rằng, trong những mảng đề tài này cũng rất cần sử dụng những câu hỏi mang tính chất đe dọa thể diện cao. Bởi lẽ một trong những yêu càu trong nghề làm bào là đưa tin đúng sự thật và nêu vấn đề kịp thời. b. Những đề tài có mức độ đe dọa thể diện thấp Bên cạnh những mảng đề tài có mức độ đe dọa thể diện cao thì có cả những đề tài có mức độ đe dọa thể diện thấp. Những câu hỏi này thường không mang tính gay gắt, quyết liệt và đi sâu vào đời sống riêng tư của cá nhân nào đó. Chẳng hạn cũng trong phỏng vấn về đề tài tình yêu, người được phỏng vấn tỏ ra khá vui vẻ với câu hỏi mang tính chất cá nhân như: hỏi về sở thích, về những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ,... Hay trong phỏng vấn điều tra, khi hỏi quan chức về vấn đề mang tính chức vụ quyền hạn trong quản lí thì thường hành động hỏi này ít gây ra đe dọa thể diện cao.... Ví dụ: Thưa bác, học sinh bỏ học đang là vấn đề nhức nhối hiện nay. Tuy trong 2 năm học gần đây tỷ lệ học sinh bỏ học đã giảm những vẫn để lại hậu quả nặng nề cho bản thân các em và cho tương lai của đất nước. Cháu rất muốn biết trong thời gian tới ngành giáo dục có những định hướng kế hoạch và giải pháp gì để ngăn chặn việc học sinh bỏ học và giúp trẻ em bỏ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 65 học quay lại trường? [Chƣơng trình truyền hình diễn đàn " Trẻ em với các mục tiêu vì trẻ em" năm 2009] Như vậy, qua việc tìm hiểu về hành động hỏi không thỏa mãn tính lịch sự chúng tôi thấy: hành động hỏi đe dọa thể diện cao là những hành động gây tổn hại đến thể diện của người được phỏng vấn. Hành động hỏi đe dọa thể diện thường tập trung ở một số mảng đề tài khai thác về đời sống cá nhân, về những vấn đề mang tính chất tiêu cực... Và trong hành động hỏi này chia ra làm hai mức độ đe dọa thể diện khác nhau là: hành động hỏi đe dọa thể diện cao và hành động hỏi đe dọa thể diện thấp. Sự phân biệt hai mức độ này chỉ mang tính chất tương đối và nó phụ thuộc vào cách nhìn nhận vào các đối tác trong cuộc phỏng vấn và theo dõi phỏng vấn. Chúng tôi phân biệt hai mức độ trên nhằm chỉ ra cái gốc tận cùng và ý đồ của người phóng viên trong khi phỏng vấn. Điều này thể hiện thái độ, trách nhiệm cũng như bản lĩnh của người phóng viên. Đồng thời nó góp phần giúp phóng viên tránh được những ảnh hưởng không có lợi trong phỏng vấn. Những đề tài khó khai thác mới là lãnh địa thể hiện bản lĩnh, tài năng của người phóng viên 3.2. Hành động yêu cầu, đề nghị 3.2.1. Khái niệm hành động yêu cầu, đề nghị Theo lí thuyết ngôn ngữ thì hành động yêu cầu thuộc nhóm các kiểu hành động cầu khiến. Trong Dụng học Việt ngữ, tác giả Nguyễn Thiện Giáp đã nhận định: "Cầu khiến là hành động mà người nói sử dụng để khiến người nghe làm cái gì đó" [10, 48]. Theo đó hành động này thể hiện ở những câu mà nhờ chúng mà người nói khiến cho người nghe làm một việc gì đó. Thuộc nhóm các hành động này là các hành động như: đề nghị, yêu cầu, cho phép, ra lệnh, mời mọc, rủ rê, thỉnh cầu, khuyên, cấm đoán,..... Trong phỏng vấn truyền hình, phóng viên cũng sử dụng rất nhiều những hành động yêu cầu, đề nghị. Trong mối quan hệ với lịch sự thì nhóm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 66 hành vi này được xếp vào nhóm có mức độ đe dọa thể diện. Khảo sát hành động yêu cầu, đề nghị có trong tư liệu chúng tôi đã thu được một số lượng khá lớn những phát ngôn có hình thức yêu cầu, đề nghị có hình thức ngắn và sắc thái gay gắt, mỉa mai... Ví dụ: Trên dải đất hình chữ S này, ở đâu cũng có những người mẹ, người vợ đã và đang âm thầm gánh chịu đỗi đau của chiến tranh, song không phải ai cũng có được sự chia sẻ gánh đỡ như cô Hảo. Xin được cảm ơn câu chuyện của Cô, và trong câu chuyện của mình, một việc làm tri ân với người đã khuất được Cô Hảo hé mở , một người bạn được cô nhắc đến với việc làm rất đáng trân trọng. Và bây giờ QV và CB cùng gặp gỡ với người đã được nhắc đến trong câu chuyện. Thưa Chú, trong câu chuyện vừa rồi Cô Hảo nhắc tới Chú với một việc làm hết sức cảm động và đáng trân trọng. Xin được hỏi Chú, tâm trạng cũng như suy nghĩ của Chú khi quyết định mang hạnh phúc đến với Cô Hảo? [Chƣơng trình truyền hình "Âm vang Trƣờng Sơn"] 3.2.2. Những yếu tố và mức độ đe dọa thể diện trong các hành động yêu cầu, đề nghị Trong giao tiếp nói chung và trong phỏng vấn nói riêng rất hay sử dụng những câu yêu cầu, đề nghị. Tuy nhiên do phạm vi đề tài chúng tôi chỉ khảo sát những hành động yêu cầu, đề nghị có tính chất đe dọa thể diện người được phỏng vấn. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy số lượng phát ngôn có hành động yêu cầu, đề nghị đe dọa thể diện thường tập trung ở nhóm đối tượng nghệ sĩ và quan chức. Số liệu cụ thể như sau: F1 F2 F3 Số lượng 12 30 66 Tổng số 102 102 102 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 67 Bảng thống kê trên cho thấy, hành động yêu cầu, đề nghị xuất hiện nhiều nhất ở nhóm đối tượng phỏng vấn là nghệ sĩ và quan chức. Tuy nhiên xét về nội dung của những hành động yêu cầu, đề nghị trên phương diện đe dọa thể diện thì ở nhóm F1 và F3 thì mức độ đe dọa thể diện cao hơn. Ví dụ: + NL: T.. Bàn thắng của Hải Hòa là bàn thắng đầu tiên của đội tuyển nữ Thái Nguyên góp phần động viên tinh thần của toàn đội thi đấu khởi sắc hơn. Bạn Hải Hòa có thể cho biết quyết tâm của bạn và đồng đội trong những trận đấu tới không? [Chƣơng trình giao lƣu Tuổi trẻ Thái Nguyên với bóng đá nữ Việt Nam] + Thưa chú Thi, trong những năm tháng mở đường Trường Sơn, bộ đội công binh được ví như Tường đồng, vách sắt, là những người trực tiếp mở hàng nghìn km đường lớn nhỏ để vận tải hàng hoá cũng như phục vụ hành quân chiến đấu trên toàn tuyến . Tuy nhiên, đối với chú Thi – một người lính công binh, lại là 1 trường hợp khá đặc biệt, chú đã 2 lần được phong tặng danh hiệu dũng sỹ diệt Mỹ, đặc biệt đã có lần trực tiếp tiêu diệt phi công Mỹ. Chú có thể nói rõ hơn về trường hợp đặc biệt này? [Chƣơng trình giao lƣu Tuổi trẻ Thái Nguyên với bóng đá nữ Việt Nam] Đối với nhóm đối tượng là phỏng vấn là quan chức thì mức độ đe dọa thể diện là thấp hơn. Bởi lẽ cũng giống như hành động chê sẽ nói ở sau, hành động yêu cầu, đề nghị đe dọa thể diện được khuyến cáo là ít dùng. 3.3. Hành động chê 3.3.1. Khái niệm hành động chê Trên phương diện hành vi ngôn ngữ, Austin (1962) xếp hành vi chê thuộc nhóm ứng xử, còn Searle (1975) lại xếp vào nhóm hành vi Biểu cảm. Còn trên phương diện lịch sự, Brown và Levinson quan niệm hành vi chê thuộc nhóm hành vi đe dọa thể diện cao. Tác giả Hoàng Thị Hải Yến khẳng định: "Hành vi chê được SP1 thực hiện khi SP1 nhận xét đánh giá về X. X có Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 68 thể là vật, việc, đặc điểm thuộc SP1 (người nói) hoặc SP2 (ngươi tiếp nhận) hoặc của ngôi thứ 3 nào đó đã tồn tại trước khi xảy ra hành vi chê. Theo SP1 nghĩ thì X xấu hoặc chưa đạt tiêu chuẩn. SP1 tỏ thái độ không hài lòng về X và nói cho SP2 biết ý kiến của mình về X". [31, 25] Trong hoạt động giao tiếp, hành động chê nhằm nhiều mục đích khá nhau như: chê để răn dạy, chê để từ chối, chê để kết tội, chê để hạ thấp người khác,... Theo đó hành động chê là một hành vi đe dọa thể diện rất cao nên người nói cần có sự thận trọng cần thiết khi thực hiện hành vi này. Trong phỏng vấn truyền hình, hành động chê cũng là một hành động có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra cuộc phỏng vấn thành công, tránh sự tẻ nhạt, xáo rỗng. Hành động này chủ yếu được dùng để giúp người phóng viên phát hiện, khám phá những mảng tối, góc khuất ẩn hiện sau sự vật, sự việc hoặc của nhân vật và đưa ra trước công chúng. Như vậy hành động chê góp phần lật đi lật lại vấn đề và làm cho cuộc phỏng vấn có chiều sâu hơn. Và trên khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy hành động chê xuất hiện với tần số cao với đối tượng là văn nghệ sĩ. Các đối tượng khác hành động chê được sử dụng nhưng mức độ không cao. 3.3.2. Những yếu tố và mức độ đe dọa thể diện trong hành động chê 3.3.2.1. Những yếu tố trong hành động chê nhằm đe dọa thể diện Hành động chê được thực hiện thông qua các vận động của người phóng viên và nó có một số yếu tố chi phối như: người phỏng vấn, nội dung phỏng vấn, cách thức phỏng vấn, .... Qua khảo sát, thống kê và phân loại hành động chê trong ngữ liệu, chúng tôi có được bảng kết quả sau: Bảng 2: Bảng kết quả khảo sát hành động chê trong ba nhóm tư liệu khảo sát (đối tượng nghệ sĩ, quan chức và đối tượng khác) F1 F2 F3 Số lượng 43 25 71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 69 Tổng lượt lời 138 138 138 Tỷ lệ (%) 29.1 17.3 54.6 Qua bảng số liệu, chúng ta có thể khẳng định hành động chê xuất hiện nhiều nhất trong phỏng vấn các đối tượng khác nhau 71/ 138, chiếm 54,6% ; trong các cuộc phỏng vấn mà đối tượng là người nghệ sĩ 25/138 lượt, chiếm17,3%;Và hành động này xuất hiện trung bình trong các cuộc phỏng vấn với những đối tượng là quan chức. Lí giải điều này là vì: các đối tượng được phỏng vấn trong các chương trình truyền hình ở cấp địa phương như Đài Truyền hình Thái Nguyên thì thường tập trung phỏng vấn các đối tượng khác nhau trong đời sống xã hội. Các mảng đề tài thuộc về phỏng vấn đối tượng là nghệ sĩ và quan chức phần lớn ít sử dụng hành động chê. Một số biểu thức của hành động chê trong phỏng vấn truyền hình. Theo khảo sát các hành động chê trong ngữ liệu, chúng tôi thấy: chủ ngữ của phát ngôn không ở ngôi thứ nhất và thường là số ít; biểu thức ở lời không sử dụng động từ ngữ vi và đây là biểu thức chê nguyên cấp. Biểu thức có dạng: X - V, trong đó X là cái bị chê, V là vị từ biểu thị nội dung chê. Ví dụ: Thưa Bác... học sinh bỏ học đang là vấn đề nhức nhối hiện nay. Tuy trong 2 năm học gần đây tỷ lệ học sinh bỏ học đã giảm nhưng vẫn để lại hậu quả nặng nề cho bản thân các em và cho tương lai của đất nước. Cháu rất muốn biết trong thời gian tới ngành giáo dục có những định hướng kế hoạch và giải pháp gì để ngăn chặn việc học sinh bỏ học và giúp trẻ em bỏ học quay lại trường.[Trẻ em Thái Nguyên với các bác lãnh đạo tại diễn đàn "Trẻ em với các mục tiêu vì trẻ em" tỉnh Thái Nguyên năm 2009] Trên cơ sở xác định các yếu tố của hành động chê như đối tượng, đề tài, cách thức.. chúng tôi xác định các mức độ đe dọa trong hành động chê. 3.3.2.1. Mức độ đe dọa thể diện trong hành động chê Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 70 a. Mức độ đe dọa thể diện trong hành động chê đối với cái bị chê Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy cái bị chê trong hành động chê rất đa dạng. Đó có thể là người, là vật, là việc... Đối tượng thường bị chê nhiều nhất trong các đối tượng khảo sát là nghệ sĩ. Bên cạnh đó đối tượng bị chê là quan chức cũng khá nhiều. Những nội dung chê thường là: trách nhiệm quản lí chưa tốt, giải quyết vấn đề chưa hợp lí.... Quan chức trong cuộc phỏng vấn gặp phải câu chê thường im lặng hoặc trả lời sau khi suy xét cẩn thận. Ví dụ: Trạm y tế ở các xã, phường chưa có được sự tin tưởng của nhiều người dân trong việc khám và điều trị các bệnh thông thường. Còn ở một số bệnh viện tuyến huyện thậm chí cả tuyến tỉnh, thái độ phục vụ của các y bác sĩ hoặc hách dịch với người bệnh nhất là đối với người nghèo khổ. Thưa ông, trong thời gian tới, vấn đề này được giải quyết như thế nào, để người bệnh tin tưởng hơn vào các cơ sở y tế của địa phương? [Chƣơng trình đối thoại của trẻ em Thái Nguyên với các Bác lãnh đạo tại diễn đàn "Trẻ em với các mục tiêu vì trẻ em" tỉnh Thái Nguyễn năm 2009] Ngoài ra trong các cuộc phỏng vấn đối với những người thuộc nhiều đối tượng khác, người phóng viên cũng rất hay dùng những câu chê nhằm kích thích và khai thác sâu nội dung. Tuy nhiên, nhiều khi người được phỏng vấn coi đây là sự đe dọa và bất hợp tác. Trong các cuộc phỏng vấn thì hành động chê được sử dụng khá nhiều nhằm hướng vào đối tượng là vật hoặc là việc đang được đề cập đến. Theo đó thì vật bị chê thường là những sản phẩm mang tính chất hàng hóa như: băng đĩa nhạc, bộ phim, trang phục, vật sở hữu, .... Tuy nhiên có thể nói đây hành động chê hướng đến đối tượng là vật trên mà đặc băng đĩa nhạc, bộ phim... thì chính là chê chủ thể người được phỏng vấn. Bởi lẽ đây là sản phẩm mang bản Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 sắc, tài năng của nghệ sĩ. Chính vì thế hành động chê này là sự đánh giá tiêu cực đối với tài năng, trình độ của người nghệ sĩ... Như vậy có thể nói thông qua việc chê vật, việc thì đồng thời hướng đến đối tượng là chủ thể sáng tạo ra chúng. Và như thế mức độ đe dọa thể diện người được phỏng vấn rõ nét. Theo đó thì những người của công chúng, những người “làm dâu trăm họ” như nghệ sĩ và quan chức dễ bị đe dọa thể diện nhất. b. Mức độ đe dọa thể diện trong hành động chê đối với nội dung chê Theo lí thuyết ngôn ngữ thì những vị từ trong biểu thức chê nguyên cấp thường thể hiện ý nghĩa tiêu cực. Trong phỏng vấn, những dấu hiệu thể hiện tiêu cực này được hiện thực bằng những cấu trúc mang tính phủ định, cấu trúc mang sắc thái tiêu cực như: Sử dụng các từ phủ định (không, chưa, chẳng...) trong câu. Sử dụng các động từ tính từ mang sắc thái tiêu cực kết hợp với từ chỉ mức độ cao (rất, quá, lắm...) như: Ví dụ: Theo NL nghĩ thì những sáng tác mang tính chất để đời khiến cho người đọc, người nghe cảm thấy nhớ lâu như bài thơ “ Thái Nguyên- thành phố tháng 10” chắc chắn không nhiều. Vậy ông sau bài thơ này, ông đã có thêm sáng tác mới nào về TPTN không? [Diễn đàn VHNT tháng 10] Qua tìm hiểu chúng tôi nhận thấy đối tượng văn nghệ sĩ thường là những người bị chê theo những cấu trúc trên. Riêng đối với đối tượng là quan chức thì hành động chê không thực hiện trực tiếp mà nó được biểu hiện gián tiếp thông qua hành động khác. Ví dụ: Hiện nay ở Võ Nhai vẫn còn nhiều trẻ em bị suy dinh dưỡng đặc biệt là TE của các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa do các bà mẹ ít được tiếp cận thông tin, không có kiến thức nuôi dưỡng trẻ. Chúng cháu rất muốn biết ngành y tế có những biện pháp gì để giúp cho TE vùng sâu, vùng xa của Võ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 Nhai không còn bị suy dinh dưỡng?[ Chƣơng trình đối thoại của trẻ em Thái Nguyên với các Bác lãnh đạo tại diễn đàn "Trẻ em với các mục tiêu vì trẻ em" tỉnh Thái Nguyễn năm 2009] Đây là một nguyên tắc mà người phỏng vấn nên tránh trong các cuộc phỏng vấn quan chức. Như vậy, hành động chê nhằm nhiều mục đích khác nhau. Hành vi này chủ yếu để thăm dò thái độ, phản ứng hoặc làm rõ vấn đề nào đó gây xôn xao dư luận chứ không vì mục đích cá nhân. Và hành động chê đe dọa thể diện biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau và tùy theo những yếu tố quy định trong mỗi cuộc phỏng vấn mà các mức độ đe dọa khác nhau. Đối với người được phỏng vấn là giới văn nghệ sĩ thì mức độ đe dọa thể diện của hành vi chê cao. Đối với những đối tượng khác thì mức độ đe dọa thể diện được đánh gia ở mức độ trung tính. Và đối với đối tượng là quan chức thì hành vi chê đe dọa thể diện được khuyến cáo đối với phóng viên là nên tránh. 3.4. Hành động phi ngôn ngữ 3.4.1. Khái niệm hành động phi ngôn ngữ Theo lý thuyết Ngôn ngữ học, thì giao tiếp là trao đổi, tiếp xúc với nhau. Hoạt động giao tiếp đòi hỏi phải có những nhân tố sau: người phát (người nói người viết) và người nhận (người nghe, người đọc), bối cảnh giao tiếp, nội dung giao tiếp, nội dung thông tin, kênh thông tin và sự phản hổi. Theo đó có nhiều loại phương tiện truyền tin như: thông tin được giao tiếp trên trang in (viết), buổi phát thanh, truyền hình... Trong giao tiếp hội thoại, phương tiện truyền tải thông tin không chỉ là ngôn từ mà còn là những phương tiện khác. Theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp thì "bên cạnh những phương tiện bằng lời còn có những yếu tố phi lời" [10, 91] và như vậy "ngoài phương tiện bẳng lời để chuyển tải thông tin, người ta dùng điệu bộ, cử chỉ làm phương tiện bổ sung: vỗ tay, nheo mắt, cúi đầu, nhếch mép, lắc đầu, gật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 đầu, vỗ vai, ôm ấp..." [10, 92]. Có thể gọi các phương tiện thể hiện đó là hành vi ngôn ngữ phi lời. Và để việc truyền tải thông tin có sức tác động mạnh mẽ, chúng ta nên dùng hành vi phi ngôn ngữ. Trong lĩnh vực báo chí nói chung và phỏng vấn truyền hình nói riêng, việc giao tiếp giữa phóng viên và người được phỏng vấn phần lớn là đương diện. Cho nên trong giao tiếp người phóng viên không chỉ nói bằng giọng của mình mà còn bằng toàn bộ cơ thể. Những hành động phi ngôn ngữ của người phóng viên như: gật đầu, nheo mắt, cười tươi... đều có những tác động đến người được phỏng vấn. Đôi khi những hành động phi ngôn ngữ của phóng viên lại có ý nghĩa lớn trong sự thành công của cuộc phỏng vấn. Và hành động phi ngôn ngữ cũng được xếp vào những hành động không thỏa mãn tính lịch sự. Hay nói cách khác hành động này cũng gây ra sự đe dọa thể diện cho người được phỏng vấn. Trong hành động này các cử chỉ như: mắt, gương mặt, cử chỉ, đầu, tư thế... đều có khả năng đe dọa thể diện của người được phỏng vấn. 3.4.2. Những yếu tố và mức độ đe dọa thể diện trong hành động phi ngôn ngữ Trong phỏng vấn truyền hình, bên các hành vi ngôn ngữ mang tính chất đe dọa thể diện cao thì các hành vi phi ngôn ngữ cũng được xếp vào nhóm các hành vi đe dọa thể diện. Bởi lẽ phỏng vấn truyền hình phóng viên và người được phỏng vấn giao tiếp đương diện với nhau. Những hành động của các đối tác đều gây ra những tác động đến người đối diện. Có thể nói các hành động phi ngôn ngữ này tương thích với những nhóm đề tài mang tính chất cá nhân, nhạy cảm. Có thể đưa ra một số biểu hiện thuộc hành động phi ngôn ngữ đe dọa thể diện như: ánh mắt, gương mặt, cử chỉ, tư thế, điệu bộ, phát âm... Đặc biệt đối với đối tượng phỏng vấn là nghệ sĩ và quan chức thì bất kể những hành động "lạ" nào của phóng viên cũng sẽ gây ra phản ứng mang tính chất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 "tự vệ" ở họ. Trong một chương trình truyền hình, người phóng viên không nhất thiết chỉ đứng ở vị trí sân khấu mà có thể đi xuống chỗ khán giả và phỏng vấn. Điều này có thể làm tăng hiệu lực lịch sự nhưng đôi khi vô hình chung đe dọa thể diện của người được phỏng vấn vì đối tượng phỏng vấn chưa được chuẩn bị. Ví dụ: (Quay khán giả, MC2 rời sân khấu xuống khu vực khán giả) MC 1: Thưa quý vị và các bạn, trong hội trường của chúng ta ngày hôm nay có rất nhiều cổ động viên đến từ ba trường đại học. Xin hỏi cổ động viên của trường ĐH Khoa học, các bạn đang ở đâu? Xin hay giơ cao những băng rôn, khẩu hiệu của các bạn cho chúng tôi được nhìn rõ hơn? [Chƣơng trình cuộc thi tìm hiểu kiến thức "Sinh viên với môi trƣờng"] Tóm lại, những hành động phi ngôn ngữ có mức độ đe dọa thể diện âm tính. Có thể nói những hành động này có tính chất kéo theo sau các hành động ngôn ngữ không thỏa mãn tính lịch sự. Và nó góp phần tạo nên toàn cảnh cuộc phỏng vấn trong đó có sự tương liên giữa hành động nói năng và hành động vận động. 3.4.2.1. Những yếu tố đe dọa thể diện trong hành vi phi ngôn ngữ Khảo sát tư liệu chúng tôi nhận thấy: những yếu tố đe dọa thể diện trong hành động ngôn ngữ trong các cuộc phỏng vấn khá cao. Và trong ba nhóm đối tượng chúng tôi khảo sát là: nhóm đối tượng nghệ sĩ, nhóm đối tượng quan chức và nhóm đối tượng khác thì các hành vi phi lời xuất hiện không đồng đều đối với từng nhóm đối tượng. Sau khi khảo sát và phân loại chúng tôi có được kết quả như sau: Bảng 4: Bảng kết quả khảo sát hành vi phi ngôn ngữ đe dọa thể diện F1 F2 F3 Số lượng 55 74 60 Tổng lượt lời 189 189 189 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 Tỷ lệ (%) 29 39 31 Từ bảng số liệu trên, có thể rút ra nhận xét như sau: Tỷ lệ hành động phi ngôn ngữ trên tổng số lượt lời ở ba nhóm tư liệu lớn: Ở nhóm 1 là 29%, nhóm 2 là 39%, nhóm 3 là 31%. Giống như hành động trên ở nhóm 1 nhiều hơn so với hai nhóm còn lại. Hầu hết các hành động phi ngôn ngữ trong phạm vi tư liệu khảo sát đều tập trung ở hành động hỏi ở bề mặt nhưng hiệu lực lại ở các hành động khác. Và trong số các nhóm đối tượng được khảo sát thì đối với nhóm đối tượng nghệ sĩ phóng viên sử dụng nhiều hành vi phi ngôn ngữ hơn cả. Các hành vi phi ngôn ngữ như: 3.5. Những biện pháp để giảm thiếu hiệu lực đe dọa thể diện khi phỏng vấn Trong quá trình các đối tác tham gia phỏng vấn không thể không tránh khỏi những đụng độ dễ dẫn đến những đựng độ có khả năng làm tổn hại đến thể diện của người được phỏng vấn. Do vậy để giảm thiểu những khả năng làm tổn hại đối tượng giao tiếp thì người phỏng vấn cần phải dùng một số biện pháp giảm thiểu hiệu lực đe dọa thể diện. Có thể kể đến một số biện pháp dùng để giảm thiểu hiệu lực đe dọa sau: dùng biểu thức rào đón, dùng hành động ngôn ngữ gián tiếp và dùng các biện pháp khác. 3.5.1. Sử dụng biểu thức rào đón Biểu thức rào đón là một trong số những yếu tố có tác dụng gia tăng tính lịch sự của phát ngôn và được xếp vào nhóm thỏa mãn tính lịch sự. Rào đón là mộ hiện tượng khá phức tạp và tinh tế. Trong phát ngôn có một số yếu tố từ ngữ có tính chất chuyên dụng thực hiện chức năng rào đón được gọi là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 biểu thức rào đón. Từ góc độ ngữ dụng học, Brown và Levinson (1990) cho rằng: các dấu hiệu rào đón được xem xét theo lực ngôn trung và theo nguyên tắc hội thoại của Grice. Theo đó, các dấu hiệu rào đón được chia thành: các dấu hiệu rào đón được mã hóa trong tiểu từ và các dấu hiệu rào đón trạng ngữ mệnh đề. Theo nguyên tắc hội thoại của Grice thì các dấu hiệu rào đón được phân chia theo bốn tiêu chí: Phương châm về chất, phương châm về lượng, phương châm về cách thức và phương châm về quan hệ. Và mối quan hệ giữa các dấu hiệu rào đón với phép lịch sự có sự tương liên khác nhau. Ở đây chúng tôi chỉ xét những dấu hiệu rào đón có tính tính lịch sự thường gặp trong phỏng vấn. Ví dụ: Là một giám đốc trẻ. Thưa Anh Nguyễn Ngô Quyết – Anh đánh giá như thế nào về yếu tố người chủ Doanh nghiệp trong kinh doanh?[Tọa đàm "Doanh nhân Thái Nguyên thời kỳ hội nhập"]. Ví dụ: Văn Đồng: Thưa nhà báo Hồng Hà, trong cuộc đời làm báo của mình ông đã viết rất nhiều. Vậy có tác phẩm nào trong thời gian làm báo kháng chiến ở Việt Bắc mà ông còn nhớ?[Chƣơng trình truyền hình trực tiếp "Hội ngộ nơi cội nguồn"] Trên cơ sở trên chúng tôi khảo sát và nhận thấy trong cư liệu thống kê có hai loại biểu thức rào đón chính là những biểu thức rào đón nhấn mạnh độ tin cây và biểu thức rào đón giảm nhẹ độ tin cậy của thông tin. Các biểu thức rào đón nhấn mạnh độ tin cậy thường được sử dụng như một phương tiện đảm bảo mức độ tin cậy của thông tin được đưa ra. Bởi lẽ khi một phát ngôn thiếu trung thực được công bố trên phương tiện thông tin đại chúng thì ảnh hưởng đến thể diện của người phỏng vấn. Vì thế, những dấu hiệu rào đón sẽ làm tăng chắc chắn, tin cậy cho nội dung phát ngôn. Và trong những biểu thức rào đón có sự phân tầng. Có những biểu thức mang tính chắc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 chắn cao như: chắc chắn, rõ rằng, căn cứ vào...; có những biểu thức mang tính không chắc chắn cao nhưng được số đông chấp nhận. Ví dụ: Lệ Hằng : Xin cảm ơn chú Sắt với những câu chuyện thật cảm động và sự tri ân đối với đồng đội năm xưa. Còn bây giờ QV và CB cùng chúng tôi trò chuyện với Cô Vũ Thị Hảo là vợ của LS Phạm Văn Thái. Thưa Cô, thời gian trôi qua đã lâu, thế nhưng với cô chắc chắn sẽ không bao giờ quên ngày chú Thái lên đường nhập ngũ, khi đó hoàn cảnh của gia đình cô chú như thế nào? [Chƣơng trình truyền hình "Âm vang Trƣờng Sơn] Có thể nói trong phỏng vấn truyền hình nhờ có biểu thức rào đón này mà các hành động có khả năng đe dọa thể diện cao giảm thiểu được mức độ đe dọa thể diện của đối tượng được phỏng vấn. Từ đó giúp cho cuộc phỏng vấn diễn ra thuận lợi bớt tính căng thẳng, khó chịu... 3.5.2. Sử dụng hành động ngôn ngữ gián tiếp GS. Đỗ Hữu Châu nói về hành vi ngôn ngữ gián tiếp như sau: "Một hành vi được sử dụng gián tiếp là hành vi trong đó người nói thực hiện một hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác" [3, 146]. Như vậy, trong giao tiếp, khi người giao tiếp trực tiếp sử dụng một hành động (hành vi) ở lời A để nhằm chính vào hiệu quả ở lời A thì đó là hành động ngôn ngữ được dùng theo lối trực tiếp còn khi hành động ở lời A được sử dụng những lại nhằm hiệu quả ở một hành động ở lời B thì đó là hiện tượng sử dụng hành động ngôn ngữ gián tiếp. Trong phỏng vấn truyền hình, bên cạnh những câu hỏi mang tính chất trực tiếp thì còn có những hành động ngôn từ được thực hiện với hành vi ngôn ngữ gián tiếp. Những hành động gián tiếp này làm giảm thiểu mức độ gay gắt mà những hành vi ngôn ngữ thuộc nhóm đe dọa thể diện gây ra. Đó là những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 hành động hỏi có hiệu lực gián tiếp là thỉnh cầu hoặc hành động cầu khiến có hiệu lực gián tiếp là chê.... Ví dụ: Hiện nay việc phát triển kinh tế của Võ Nhai còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện tự nhiên, trình độ khoa học kỹ thuật mà đời sống nhân Võ Nhai vẫn đang bước đi những bước chậm chạp. Từ kinh tế chậm phát triển kéo theo nhiều vấn đề xã hội đặc biệt là vấn đề các bạn không có điều kiện đến trường còn cao như các xã: Sảng Mộc, Nghinh Tường, Thần Sa… Thưa các Bác lãnh đạo vấn đề chúng cháu quan tâm là chúng ta có những biện pháp gì để giúp các bạn đó có điều kiện đến trường mà không phải nghỉ học giữa chừng? [Chƣơng trình truyền hình diễn đàn "Trẻ em với các mục tiêu về trẻ em 2009] Qua khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy có 189 hành động ngôn ngữ xuất hiện. Và cấu trúc gián tiếp ước lệ: "có thể... (không)" xuất hiện 24 lần. Cấu trúc này làm cho hành vi hỏi có hiệu lực gián tiếp là hành vi thỉnh cầu, cầu khiến. Ngoài ra còn có một số cấu trúc khác không điển hình như: hỏi để khẳng định, hỏi để chê, cầu khiến để hỏi... Ví dụ: Trẻ em hôm nay được sống trong gia đình, được yêu thương, chăm sóc, được sự đùm bọc của cha mẹ, thầy cô. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có một số trẻ em phải sống trong sự sao nhãng, thiếu quan tâm của cha mẹ. Nguyên nhân chủ yếu mà chúng cháu biết là do cha mẹ vô tâm, thờ ơ với con cái, có thể do cha mẹ bận làm ăn hoặc điều kiện kinh tế gia đình khó khăn... Trẻ em bị sao nhãng quan tâm thường tự ti, mặc cảm, sống khép mình trước tập thể và rất dễ dẫn đến việc sa sút trong học tập, thậm chí bỏ đi lang thang, bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội. Chúng cháu mong các cơ quan liên quan cần có những biện pháp để giảm bớt tình trạng trẻ em bị sao nhãng, thiếu quan tâm để trẻ em có thể phát triển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 toàn diện và để cha mẹ quan tâm đến con cái nhiều hơn.[ Chƣơng trình truyền hình diễn đàn "Trẻ em với các mục tiêu về trẻ em 2009] Có thể nói các hành vi ngôn ngữ gián tiếp trên đã giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện đối với những đối tượng được phỏng vấn. Hay nói cách với các hành vi ngôn ngữ gián tiếp này phóng viên làm "dịu hóa" hay "mềm hóa" các hành vi ngôn ngữ trực tiếp đe dọa thể diện cao. 3.5.3. Các biện pháp khác Ngoài hai biện pháp điển hình dùng để giảm thiểu hiệu lực đe dọa khi phỏng vấn thì còn có rất nhiều các biện pháp khác. Tuy không điển hình như hai biện pháp trên nhưng những biện pháp này cũng có những đóng góp đắc lực cho việc giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện của người được phỏng vấn. Có thể kể đến một số biện pháp như: dùng tiểu từ tình thái; dùng biệt ngữ, tiếng lóng; dùng phép lặng.... Tiểu từ tình thái là những từ không có chức năng ngữ pháp nhưng lại có giá trị biểu cảm cao. Do vậy đối với phép lịch sự thì tiểu từ tình thái xác định ranh giới lịch sự khá rõ nét. Tuy nhiên để xác định việc sử dụng tiểu từ tình thái nào là lịch sự thì cần dựa vào hoàn cảnh giao tiếp, người tham gian giao tiếp. Trong phỏng vấn truyền hình, do giao tiếp đương diện trực tiếp nên các từ khẩu ngữ rất dễ xen vào lời của các đối tác. Khảo sát tư liệu chúng tôi nhận thấy tiểu từ tình thái xuất hiện với số lượng khá nhiều những không đồng đều nhau. Và các tiểu từ tình thái tập trung nhiều trong các bài phỏng vấn với giới văn nghệ sĩ và các đối tượng khác. Do phạm vi luận văn chúng tôi chỉ trình bày một số tiểu từ tình thái điển hình. Tiểu từ tình thái "nhỉ" làm giảm thiểu mức độ gay gắt và làm tăng mức độ thân mật trong các câu hỏi. Tiểu từ "chứ" đừng cuối câu thường được dùng cho loại câu hỏi mang tính chất chất vấn. Tuy nhiên mức độ đe dọa thể diện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 của hành vi hỏi này được giảm thiểu nhờ tiểu từ "chứ" bởi vì kéo gần khoảng cách giữa các đối tác tham gia phỏng vấn. Ví dụ: MC 2: Vâng, những điểm số đầu tiên của trường bạn, xin hỏi các bạn trường ĐH Nông Lâm, các bạn có hài lòng với điểm số như vậy chứ? Xin mời điểm số dành cho phần thi hùng biện của đội tuyển trường ĐH Nông lâm…. [Hội thi sinh viên với môi trƣờng]. Dùng biệt ngữ, tiếng lóng cũng là một biện pháp giản thiểu mức độ đe dọa thể diện trong phỏng vấn truyền hình. Bởi vì một trong những chiến lược quan trọng của là xác định cái chung giữa người nói và người nghe bằng những hình thức ngôn ngữ cho là "cùng hội cùng thuyền". Và biệt ngữ, tiếng lóng thỏa mãn điều đó. Nhờ đó mà những đối tác tham gia phỏng vấn có được tiếng nói chung. Đây là một yêu cầu khá nhạy cảm bởi không phải người phóng viên nào cùng nắm được những "cái gu" của từng đối tượng mình phỏng vấn. Tuy nhiên nhóm biệt ngữ, tiếng lóng đã góp phần làm cho các cuộc thoại diễn ra được thuận lợi hơn khi phóng viên tạo ra được sự tương đồng giữa mình và người được phỏng vấn. Qua tìm hiểu tư liệu, chúng tôi đưa ra một số nhóm biệt ngữ, tiếng lóng được sử dụng phổ biến như: Trong đề tài tình yêu - gia đình có rất nhiều cách nói khác nhau. Những từ ngữ này có thiên hướng nghiêng về tính khẩu ngữ cao và tạo nên sự thân mật trong quá trình phỏng vấn. Ví dụ: Xin chào 2 chị - những vị khách đầu tiên trong chương trình hôm nay. Trước hết xin được trò chuyện với chị Trần Thị Bích đến từ huyện Phú Bình . Và cho phép chúng tôi được gọi chị bằng cái tên mà bà con nơi đây dành cho chị - Hai giỏi. Có lẽ đối với 1 người phụ nữ ở nông thôn hiện nay đang phải gánh vác rất nhiều công việc từ việc đồng áng đến chăm lo gia đình, nuôi dạy con cái và rất bận rộn. Vậy tại sao chị lại tự nguyện làm cộng tác viên dân số - 1 công việc mà chắc chắn không phải bao giờ cũng dễ dàng, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 suôn sẻ? [ Chƣơng trình "Tuyên dƣơng cán bộ dân số tiêu biểu tỉnh Thái Nguyên 2009] Có thể nói đề tài tình yêu - gia đình có nhiều biệt ngữ, tiếng lóng nhất. Điều này sẽ làm giảm hiệu lực đe dọa thể diện bởi lẽ đây là nhóm đề tài có mức độ đe dọa thể diện cao nhất. Dùng biệt ngữ, tiếng lóng người phóng viên đã tạo ra được "niềm tin" cho người được phỏng vấn trong quá trinh cuộc phỏng vấn. Bởi lẽ người được phỏng vấn rất cần và rất muốn có được một chỗ dựa tự tin để tham gia cuộc phỏng vấn - nhất là đối với vấn đề mang tính nhạy cảm dễ gây bực bội, khó chịu như đã nói. Dùng phép lặng. Trong ngôn ngữ nói, phép lặng chính là hiện tượng đột nhiên ngừng lời trong khi nói năng. Trong từng phạm vi thì phép lặng có thể hiểu theo nhiều chiều. Tuy nhiên ở luận văn này, chúng tôi tập trung vào phép lặng trong mối quan hệ với lịch sự trong giao tiếp đương diện mà cụ thể là trong phỏng vấn truyền hình. Trong quá trình phỏng vấn, phép lặng có thể được phóng viên sử dụng linh hoạt. Có thể là lời báo hiệu một lời nói tiếp sau có nguy có đe dọa thể diện cao, cũng có thể cách tạo khoảng trống và để gợi ý cho người được phỏng vấn. Ví dụ: Văn Đồng : Trong phóng sự vừa rồi tôi có nhớ 1 chi tiết là mức phụ cấp của 1 CTV Dân số như chị là 50.000 đồng . Chị nghĩ thế nào về mức phụ cấp này đối với công tác dân số? [Chƣơng trình "Tuyên dƣơng cán bộ dân số tiêu biểu tỉnh Thái Nguyên 2009] Xét từ góc độ lịch sự thì phép lặng có vài trò làm giảm nhẹ mức độ đe dọa thể diện. Đó chính là những tính hiệu có tính chất thông báo để người được phỏng vấn suy nghĩ và suy ý. Tóm lại, có rất nhiều những biện pháp được sử dụng để bù đắp hay giảm hiệu lực đe dọa thể diện khi phỏng vấn. Mỗi một biện pháp có những ưu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 thế vượt trội trong việc giúp cho phóng viên có sự mềm mại trong quá trình phỏng vấn những vấn đề "nhạy cảm", có tính chất gay gắt và ảnh hưởng lớn đối với thể diện người được phỏng vấn. * Tiểu kết: Trên đây là những hành động ngôn ngữ không thỏa mãn tính lịch sự trong phỏng vấn truyền hình. Trong đó, ở lượt lời trao, hành động hỏi thường đóng vai trò là hành động chủ hướng, đi kèm theo nó là một loạt các hành động phụ thuộc và thành phần mở rộng có tác dụng tăng cường hay giảm thiểu mức độ đe dọa thể diện của hành động hỏi. Hành động phụ thuộc đi kèm hành động hỏi có tác dụng làm giảm mức độ lịch sự của phát ngôn là hành vi chê. Chê kết hợp với hỏi tạo thành nhóm hành động vi phạm tính lịch sự trong phỏng vấn. Thực chất hành động hỏi trong phỏng vấn rất đa dạng, bao gồm hỏi trực tiếp và hỏi gián tiếp, không chỉ để lấy thông tin mà còn có hỏi - mỉa, hỏi - chế giễu. Việc xác định mức độ lịch sự của một phát ngôn không hề đơn giản lại dễ chịu ảnh hưởng bởi cách nhìn chủ quan của người nghiên cứu nên trong phạm vi luận văn chúng tôi chỉ khảo sát mối quan hệ giữa đề tài hỏi và mức độ lịch sự. Hành động chê, yêu cầu đề nghị, xuất hiện trong phỏng vấn là không nhiều và hình thức chủ yếu thường là gián tiếp. Các hành động ngôn ngữ gián tiếp xuất hiện khá nhiều trong những trường hợp giảm tính lịch sự. Và để khắc phục những hành động ngôn ngữ không thỏa mãn tính lịch sự này thì người phóng viên có thể sử dụng những biện pháp làm giảm sự đe dọa thể diện như: dùng biểu thức rào đón, dùng phép lặng... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 KẾT LUẬN So với phỏng vấn báo chí thông thường, phỏng vấn truyền hình có được ưu thế vượt trội vì thông tin đến với khán giả sống động, sắc nét hơn với hình ảnh và âm thanh thật. Tác động của thông tin là trực diện và có tính thuyết phục cao hơn nhiều. Ví như, người ta phải mất tới cả vài trăm chữ để miêu tả giây phút xúc động của một nhân vật, thì chỉ cần một ánh mắt, nét biểu cảm trên mặt hay giọt nước mắt lăn dài trên má cũng đủ để cho khán giả cảm nhận hết được tâm trạng của nhân vật. Đấy là ở phương diện cách thức truyền tải thông tin, còn cách thức xử lý thông tin, phỏng vấn truyền hình cũng có những khác biệt rất căn bản. Với thời lượng phát sóng có hạn và hàng triệu khán giả đang xem chương trình, không thể cứ để “tự do” cho người nói “phiêu” mãi với những cảm xúc của mình, xa với chủ đề đang bàn tới. Mặt khác, thông tin được tiếp nhận ngay và trực tiếp nên không thể có thời gian chỉnh sửa nội dung lẫn câu chữ. Bởi vậy nên những câu hỏi đặt ra trong khi phỏng vấn phải được gọt rũa rất cẩn thận và phải sát với nội dung. Trừ khi dụng ý của đạo diễn để buối phỏng vấn ngẫu hứng còn thông thường phải được phát triển theo cấu trúc định sẵn. Người phỏng vấn phải đặt mình vào vị trí khán giả xem khán giả cần gì ở nhân vật, để từ đó có những câu hỏi hay, trúng đích. Việc tìm hiểu kỹ nhân vật và nội dung phỏng vấn là căn cứ để có những câu hỏi hay, thú vị, sát với chủ đề. Điều này cũng để đảm bảo cho chương trình không bị “cháy” khi có bất cứ sự cố gì xảy ra. Đặc biệt là những chương trình trực tiếp, sự cố là chuyện xảy ra thường xuyên và gần như không thể tránh khỏi dù có chuẩn bị kỹ đến mấy. Chính vì vậy, mỗi phóng viên, biên tập viên cần phải trang bị được cho mình một vốn hiểu biết rộng rãi trên rất nhiều lĩnh vực. Điều này sẽ giúp các phóng viên khi thực hiện phỏng vấn sẽ tạo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 được cho người được phỏng vấn tâm lý thoải mái nhất như là một cuộc chuyện trò tâm sự bình thường… Đối với những chủ đề "nóng", phóng viên giỏi phải biết dùng thủ thuật để giải hay là “gài” đối tượng, hỏi những thông tin có vẻ chẳng ăn nhập đến chủ đề tế nhị. Dần dần, khi “đối tượng” đã say sưa và nói ra những điều cần biết, đến lúc phát hiện ra thì đã muộn rồi. Làm được điều này rất khó, ngoài sự thông minh, hiểu biết nhiều khi cũng cần có cả yếu tố may mắn nữa. Bản lĩnh của phóng viên còn được thể hiện rất rõ khi phỏng vấn những đối tượng VIP, đó là các nguyên thủ quốc gia hay các ngôi sao nổi tiếng … Phần lớn họ không có nhiều thời gian nên các câu hỏi đưa ra phải thực sự sắc sảo và chính xác. Nếu phóng viên non tay rất dễ bị các nhân vật dẫn dụ theo câu chuyện của họ. Phải luôn luôn xác định rõ xem mình cần gì và không được để cho nhân vật quá phiêu với những câu chuyện của mình nếu câu chuyện đó không thực sự hấp dẫn và không phục vụ cho nội dung cần hỏi. Cuộc phỏng vấn được đánh giá là thành công khi phóng viên làm chủ được tình hình từ đầu đến cuối và đem lại cho khán giả những thông tin hấp dẫn, thú vị, độc đáo. Phỏng vấn truyền hình là một nghệ thuật mà ở đó có sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố khách quan âm thanh, ánh sáng, địa điểm… (trang thiết bị được chuẩn bị tốt thì cuộc phỏng vấn sẽ tốt hơn) và yếu tố chủ quan: sự nhanh nhạy, bản lĩnh, tố chất và cả ngoại hình của người phỏng vấn. Khi nhìn vào một chương trình, sự duyên dáng, thanh lịch của người dẫn sẽ ngay lập tức bắt mắt người xem mặc dù có thể họ chưa biết nội dung cuộc phỏng vấn đó. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Diệp Quang Ban (2005), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H. 2. Bộ Văn hóa - Thông tin: Quy chế phỏng vấn trên báo chí ( thực hiện từ 10 - 10 -2002). 3. Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học - Tập 2, Nxb Giáo dục, H. 2006. 4. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 2001 5. Nguyễn Đức Dân, Ngôn ngữ báo chí những vấn đề cơ bản, Nxb Giáo dục. 2007 6. Nguyễn Đức Dân, Ngữ dụng học - tập 1, Nxb Giáo dục, H. 2001. 7. Nguyễn Văn Dững ( Chủ biên), Hữu Thọ, Nguyễn Thị Thoa, Lê Thị Thanh Xuân, Tác phẩm báo chí - tập 2, Nxb Lý luận chính trị, H, 2006. 8. Nguyễn Văn Dững, Đối tượng tác động của báo chí, tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2004. 9. Nguyễn Thị Đan, Bước đầu tìm hiểu cấu trúc hội thoại, cuộc thoại, đoạn thoại, Luận văn thạc sỹ, ĐH Sư phạm Hà Nội, 1994. 10. Nguyễn Thiện Giáp, Dụng học Việt ngữ, Nxb ĐH Quốc gia, H. 2000. 11. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết, Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, H 2007. 12. Vũ Quang Hào, Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đại học Quốc gia, H. 2001. 13. Dương Thị Tuyết Hạnh, Cấu trúc của tham thoại ( trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại, Luận văn thạc sỹ, ĐH Sư phạm Hà Nội, 1999. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 14. Đỗ Doãn Hoàng, 27 phóng sự xã hội, Nxb Lao động, H. 2004. 15. Nguyễn Đức Hoạt, Dấu chỉ phép lịch sự trong câu cầu khiến tiếng Việt. (Politeness markers in Vietnamese requests), Bản tóm tắt luận án tiến sĩ, ĐH Monash, Melbuorne, Australia, 1995. 16. Vũ Thị Thanh Hương, Khái niệm thể diện và ý nghĩa đối với việc nghiên cứu ứng xử ngôn ngữ, Tạp chí ngôn ngữ, số 1, 2002. 17. Đinh Văn Hường, Các thể loại báo chí thông tấn, nxb ĐHQG, H, 2006. 18.Lương Văn Hy (chủ biên), Ngôn từ, giới và nhóm xã hội từ thực tiễn tiếng Việt, NXB GD,H. 19. Sally Adams và Wynford Hicks, Kỹ năng phỏng vấn dành cho các nhà báo, Nxb Thông tấn, H. 2007, Nguyễn Xuân Hồng dịch. 20. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hòa, Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, H. 2002. 21. Phạm Thị Tuyết Minh, Lịch sự và vi phạm nguyên tắc lịch sự trong phỏng vấn báo chí, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội, 2007. 22. Trần Quang: Nghệ thuật làm phỏng vấn, tạp chí Người làm báo, số tháng 3 - 2002. 23. Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang, Cơ sở lý luận báo chí truyền thông, Nxb ĐH Quốc gia, H.2005. 24. Tạ Ngọc Tấn ( Chủ biên), Tác phẩm báo chí, Nxb, Giáo dục, H. 1995. 25. Dương Tú Thanh, Cặp thoại trong giao tiếp mua bán hiện nay, Luận văn thạc sỹ, ĐH Sư phạm Hà Nội, 1994 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 26. Phạm Thị Thành, Nghi thức lời nói tiếng Việt hiện đại qua các phát ngôn chào, cảm ơn, xin lỗi, Luận án Phó tiến sỹ, ĐH Sư phạm Hà Nội, 1995 27. Vũ Thị Bảo Thơ, Bước đầu tìm hiểu tham thoại, cặp thoại trong phỏng vấn báo chí, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, ĐHSP Hà Nội, 2009. 28. Hoàng Thị Hải Yến, Hành vi chê với biểu thức phát ngôn và tham thoại tiếp nhận chê, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, ĐHSP HN, 2000. 29. Nguyễn Như Ý - Chủ biên, Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb GD, HN, 1998.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV2010_SP_NguyenAnhTuan.pdf