Luận văn Hát Iếu ở Bắc Quang Hà Giang - Những đặc điểm nội dung và nghệ thuật

1. Lý do chọn đề tài 1.1 Về phương diện khoa học Trong di sản văn hoá của các dân tộc Việt Nam, kho tàng văn hoá của các dận tộc thiểu số rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét văn hoá, phong tục, tập quán riêng tạo nên sự khác biệt, đặc trưng của mỗi vùng, miền. Riêng vùng Việt Bắc từ xưa tới nay, có rất nhiều di sản văn hoá khác nhau, trong đó phải kể đến những làn điệu trữ tình mượt mà làm đắm say không biết bao nhiêu tâm hồn chàng trai cô gái như Hát Then, Sli, Lượn cọi, Khắp Cọi, Hát Iếu của dân tộc Tày ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái . Hát Iếu là hình thức sinh hoạt văn hoá đặc trưng vốn có của người Tày ở huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Hát Iếu còn ít người biết tới. Do vậy, việc Sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị của Hát Iếu là sự trăn trở của nhiều người có tâm huyết với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Thực tế từ trước tới nay, Hát Iếu của người Tày Bắc Quang đã được một số người sưu tầm và dịch với số lượng còn rất hạn chế, chưa có sự quan tâm, nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa học về mặt giá trị nội dung và nghệ thuật. Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điền dã và sưu tầm những bài Hát Iếu lưu truyền trong dân gian với số lượng đáng kể. 1.2. Về phương diện thực tiễn Hát Iếu là một loại hình dân ca độc đáo của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ quần chúng, gắn bó sâu sắc với đời sống của làng quê nơi đây từ xưa tới nay. Nghiên cứu những nét cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật của Hát Iếu trong đời sống văn hoá dân gian của người Tày ở địa phương Bắc Quang - Hà Giang sẽ góp phần khẳng định, gìn giữ, bảo lưu và phát huy nét đẹp truyền thống vốn có của dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang nói riêng, các dân tộc thiểu số của Việt Nam nói chung trên con đường tìm về với bản sắc cội nguồn dân tộc. Xuất phát từ phương diện khoa học, thực tiễn nêu trên chúng tôi tiến hành tìm hiểu “Hát Iếu của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang - Những đặc điểm nội dung và nghệ thuật” trong đề tài luận văn nghiên cứu của mình. Hoàn thành công trình này còn là nguyện vọng của chúng tôi, người con của tộc người Tày mong muốn được khám phá, tôn vinh những giá trị văn hoá có sức sống bền bỉ của dân tộc mình. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 1. Lý do chọn đề tài . 3 2. Lịch sử vấn đề. . 4 3. Mục đích nghiên cứu . 8 4. Nhiệm vụ nghiên cứu . 8 5. Đối tượng nghiên cứu 8 6. Phạm vi nghiên cứu . 8 7. Phương pháp nghiên cứu. . 9 NỘI DUNG . 11 Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế - Cơ sở tìm hiểu hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. 11 1.1 Tổng quan về tộc người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. 11 1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang. 11 1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. 12 1.2 Khái quát về Lượn 20 1.2.1 Khái niệm “Lượn”: . 20 1.2.2. Khái niệm Hát Iếu 22 1.2.3. Nguồn gốc của Hát Iếu . 23 1.3. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. . 27 1.3.1. Hát Iếu trong đời sống văn hoá của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. . 27 1.3.2. Khảo sát, phân loại . 28 1.3.3. Hình thức diễn xướng trong Hát Iếu. 33 Tiểu kết. 46 Chương 2. Nội dung cơ bản của hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang 47 2.1. Hát Iếu là những lời bày tỏ tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ. 47 2.1.1. Hát Iếu là những lời tỏ tình thiết tha, chân thành, nồng thắm. 47 2.1.2. Hát Iếu là những lời giao ước, kết duyên tình cảm sâu nặng. 53 2.1.3. Hát Iếu là những lời chia tay xót xa, day dứt giữa những người yêu nhau. . 58 2.2. Hát Iếu là những lời bày tỏ cách ứng xử trong tình yêu, ca ngợi cuộc sống. 62 2.2.1. Hát Iếu là những lời trách móc bạn tình nhẹ nhàng, thâm thuý. 62 2.2.2. Hát Iếu là những lời đối đáp nhanh trí, thông minh và dí dỏm. . 65 2.2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống, thiên nhiên gần gũi giàu đẹp . 70 2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi Đảng, Bác và cuộc sống mới. . 74 2.3.1. Hát Iếu là những lời ca ngợi, bày tỏ niềm vui từ khi có Đảng và Bác Hồ 75 2.3.2. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội. 80 Tiểu kết . 84 Chương 3. Những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang 86 3.1. Thể thơ trong Hát Iếu. . 86 3.1.1. Thể thơ tự do 86 3.1.2. Thể thơ thất ngôn. 90 3.2. Các biện pháp tu từ sử dụng trong Hát Iếu. . 93 3.2.1. Biện pháp tu từ so sánh 93 3.2.2. Biện pháp điệp ngữ tu từ (công thức trùng điệp) 101 3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Hát Iếu. 106 3.3.1. Thời gian nghệ thuật 106 3.3.2. Không gian nghệ thuật . 113 Tiểu kết: 123 KẾT LUẬN 125 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 128 PHỤ LỤC .

pdf166 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2020 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hát Iếu ở Bắc Quang Hà Giang - Những đặc điểm nội dung và nghệ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng rộng lớn.Vì đặc điểm ấy mà các bản làng của ngƣời Tày luôn có sự giao lƣu, hoà hợp cùng nhau sinh sống, phát triển cộng đồng. Hát Iếu là làn điệu dân ca đƣợc sinh ra trở thành “món ăn tinh thần”, thành “nguồn vốn tri thức” vô cùng cần thiết trong các cuộc Iếu giao duyên hằng đêm của họ. Đây là lời ca ca ngợi tiếng Iếu của các chàng trai cô gái cất lên trong không gian tĩnh lặng, ấm áp bên bếp lửa nhà sàn ấm nồng: Đêm xuống khắp làng trên Đêm xuống khắp mƣờng dƣới Đêm xuống có trăng rằm Họ yêu nhau khắp chốn. [40.Tr.4] Không gian bản mƣờng hiện lên trong tiếng ca Iếu với hình ảnh khang trang, rộng lớn, bề thế. Đó là vẻ đẹp của những cánh đồng bao la, là con đƣờng hoa rải khắp mặt đƣờng, là không khí sôi nổi, háo hức trong mỗi ngày hội Lồng 116 Tồng xuân đến…Không gian bản làng đã đi vào từng câu hát giao duyên, từng nhịp đập trái tim của biết bao chàng trai cô gái chập chững bƣớc vào buổi ban đầu yêu thƣơng. Không những thế bản làng còn là những nét đẹp trong sắc thái văn hoá truyền thống của ngƣời Tày. Ở đó còn là không gian sinh hoạt gần gũi thân thuộc gắn kết mỗi cá nhân với gia đình, với dòng họ, với cả bản mƣờng mà đứng đầu là các già làng, trƣởng bản, sinh sống theo phƣơng thức tự quản rất đặc thù. Đây là lời ngợi ca của chàng trai làm khách khi đến mƣờng bạn: Bản ngƣời lớn thật lớn Mƣờng ngƣời rộng thật rộng Mƣờng ngƣời sinh đất đai trù phú [4.Tr.15] Trong bƣớc chân ngỡ ngàng của chàng trai khi tới mƣờng bạn, một không gian rộng lớn, không gian bốn chiều mở ra trƣớc mắt chàng trai vừa thực vừa mộng. Đó là không gian của “bổn phƣơng” có rồng chầu uốn khúc, có bách hổ chầu phục, đặc biệt là có bách hoa nở lai láng, có núi kéo bốn phía xung quanh…: Tốc tông pi chầm tông bổn phƣơng Tốc mƣờng pi chầm mƣờng bản ta Mƣờng cần rộc au nhan thổ đa Tứ phƣơng luồng chàu mà uổn khúc Hựu bạch hổ chàu phục bằng chăng Mƣờng cần phoa trải thơn quảng đạng Bách va nở lai cáng bằng an Van vụ tập hai hàng lao sao Pù thung kẻo xung quanh bách vận Tử bức tông nặm phuân tốc lồng Mƣờng cần mì luồng va uẩn khúc Đông kéng tây bấu thiểu sắc tàng ỷ nhƣ boóc tàng an thinh trự (Rơi xuống mƣờng anh xem mƣờng bốn phƣơng 117 Rơi xuống mƣờng anh ngắm mƣờng bản lạ Mƣờng ngƣời rộng bao la Tứ phƣơng rồng về chầu uốn khúc Có Bách Hổ chầu phục về mƣờng Mƣờng ngƣời về rải thơm quảng đại Bách hoa nở lai láng bằng an Vạn vật tụ hai hàng lao xao Núi cao kéo xung quanh bách vận Bốn phƣơng mƣa thuận gió hoà Mƣờng ngƣời có cầu vồng uốn khúc Đông và tây rất nhiều đƣờng đi Y nhƣ hoa rải khắp mặt đƣờng). [40.Tr.45] Bên cạnh không gian “bản mƣờng”, không gian gia đình với những ngôi nhà cũng xuất hiện nhiều trong Hát Iếu, đây có lẽ là ngôi nhà mơ ƣớc trong lời ca của nhân vật trữ tình: Nhà nhỏ nhà bốn bức Nhà to nhà giàu sang Nhà rồng nhà chính chuyên Mƣời hai gian nhà đều rải khắp Bậc cửa sổ bọc vàng Cột nhà vẽ nhiều chữ Xà nhà vẽ rồng phƣợng vảy vàng Mái nhà khéo lợp ngói Hai bên mới nối nhiều tiền bạc Trƣớc nhà có vƣờn hoa Nút lạt buộc tựa cầu vồng Nút mây buộc tựa rồng cuốn. [4.Tr.40] 118 Ngay từ khi mới gặp nhau chàng trai ngƣời Tày đã gửi lời tỏ tình mơ ƣớc đƣợc gắn bó nhƣ con chim chích bay về “năng táng kíc rƣờn nàng”, “chắp pioai giàn” và mong muốn lớn nhất là đƣợc bay vào ngồi “ năng giƣờng chang rƣờn noọng”: Lừ đảy thêm lừ đáy Nộc chích la mƣa chắp pioai thích Ƣớc lừ đảy mừa năng táng kích rƣờn nàng Chíp la mừa chắp pioai giàn Ƣớc lừa vằn pi đảy mừa năng giƣờng chang rƣờn nọng. Làm sao đƣợc làm sao Làm sao đƣợc nhƣ con chim chích Bay về đậu cuối “thích” nhà em Chim chích đậu cuối giàn Ƣớc sao bay vào nhà em đƣợc). [8.Tr.56] Có thể nói qua lời ca của chàng trai ta thấy không gian sinh hoạt quen thuộc đối với ngƣời Tày là không gian của nhà sàn, mà “Táng kích” hay “Thích ma” là nơi gẫn gũi nhất trong cuộc sống sinh hoạt thƣờng nhật của họ. “Táng kích” là nơi trang trọng ở gian trên cùng, gần cửa sổ của nhà sàn có thể nhìn ngắm ra không gian rộng lớn ở phía trƣớc. Đó là nơi chỉ có khách quý, những ngƣời cao tuổi, đàn ông mới đƣợc ngồi trên đó. Đặc biệt hơn trong lời tỏ tình khéo léo của chàng trai ví “nọng” nhƣ chính ngôi nhà của mình nên chàng muốn gắn bó suốt đời và không muốn đi tìm ai hơn nữa. Ngôi nhà hiện lên vừa cao, vừa xa vừa gần và dƣờng nhƣ đã trở thành biểu tƣợng trong tâm thức của ngƣời Tày: Nhà anh ở trên trời Vợ anh ở trên mây Tất cả còn trông chờ em đó 119 Nhà anh tựa thân em Vợ anh tựa bóng em Cho anh đi tìm ai hơn nữa. [8.Tr.50] Cũng trong ngôi nhà, tình yêu chân chính mới đƣợc khẳng định và đón nhận: Áo chàm tay xanh thắm Anh đứng trƣớc bàn tổ nhà em, Cha mẹ em mới gọi anh là rể Áo chàm xen lụa vàng Anh đứng giữa nhà em, Thì em mới gọi anh là ngƣời chung thuỷ. [8.Tr.56] Ngoài ra chúng tôi còn tập hợp đƣợc thêm hình ảnh về con đƣờng (76/ 216) bài sử dụng hình ảnh “con đƣờng”. Đó là một không gian vừa rộng mở vừa khái quát, rộng mở vì ta bắt gặp trên con đƣờng sinh hoạt quen thuộc đó là những ngả đƣờng trải rộng, quanh co, lắt léo nhƣng cuối cùng mọi ngả đƣờng đều hội tụ, trở về lối đi chính duy nhất để vào đƣợc bản. Nhân vật “pi” (chàng trai) muốn đi vòng qua quãng đƣờng vừa xa xôi vừa cách trở ấy đế bày tỏ nỗi lòng của mình. Anh mƣợn không gian rộng lớn của con đƣờng để cho anh đƣợc: “Phác tôi én nhạn mừa nòn”, “Tôi luồng mừa tó nả chảu”, anh muốn qua những con đƣờng dài, quanh co ấy để thành đôi én nhạn, đôi rồng cùng em sánh bƣớc: Tham thíp qué tàng tạu, cảu thíp qué tàng tom Tham thíp thong tàng ngạ ba mà cáp Tàng hăƣ tàng mừa me, qué hăƣ qué mừa tiên Tàng hăƣ tàng chính tuyên khảu bản Hẳƣ pi phác tôi én nhạn mừa nòn 120 Hẳƣ pi phác tôi luồng còn mừa tó nả chảu”… (Ba mƣơi ngả đƣờn vòng, chín mƣơi ngả đƣờng quanh Ba mƣơi hai ngã ba đƣờng gặp nhau Đƣờng nào về quê mẹ, đƣờng nào đƣờng lên tiên Đƣờng nào là đƣờng chính nhất vào bản Cho anh gửi đôi nhạn về cùng Cho anh gửi đôi rồng về ở). [40.Tr.26] Cũng có lúc không gian của con đƣờng hiện lên là không gian thực gần gũi, song con đƣờng cũng chứa đựng tâm trạng, cảm nhận, sự đánh giá của con ngƣời: Đƣờng ngƣời rải cây nứa ống dài Đƣờng ngƣời rải cây piao ống đẹp Đƣờng ngƣời rải cây gai chọc chân Đƣờng ngƣời rải đá đi bị vấp. [4: 68] Từ không gian sinh hoạt trong lời ca Iếu, ít nhiều chúng ta hiểu thêm đƣợc phần nào về phong tục tập quán, nếp sinh hoạt văn hoá truyền thống và quan niệm về cuộc sống của ngƣời Tày nơi đây. Họ luôn gắn bó thân thiết với bản làng, gia đình, dòng tộc, yêu quý nếp sống, sinh hoạt văn hoá cộng đồng, Cuộc sống của họ cũng chân chất, thực tế không hề triết lí, suy tƣởng cao xa. Họ vui với cảnh nghèo nàn, những thành quả mình tạo lập và mơ ƣớc cảnh thanh bình, cốt sao có thể yêu thƣơng gắn bó, đoàn kết. Tâm hồn họ sáng lên vẻ đẹp chân thực, mộc mạc, bình dị nhƣ cuộc sống trong lành mà họ vốn có. 3.3.2.2. Không gian thiên nhiên Thiên nhiên rộng lớn, gần gũi với cuộc sống của đồng bào miền núi là không gian của cảnh vật ven rừng, bờ suối, núi đồi rộng lớn đến không gian của sinh sống của tự nhiên là bƣớm, là chim, là hoa…Những không gian ấy đã trở nên thân thiết và quen thuộc từ bao đời nay. Mang trong mình vẻ đẹp của tự 121 nhiên phong phú và đa dạng, không gian thiên nhiên đã trở thành đối tƣợng để con ngƣời đối chiếu, bộc lộ tâm trạng trong những bài Hát Iếu. Và xuyên suốt trong những lời ca ấy là không gian thiên nhiên gần gũi với đồng bào, đậm chất trữ tình sâu sắc: Bƣớm trắng ơi bƣớm trắng Bay về đậu cây đào phía trên Cành chuyền cành đi mãi Đôi bƣớm bay mãi về phía trƣớc Hàng năm xuống thiên hạ chơi hoa Mọi thứ hoa rừng bƣớm đều đến Cùng nhau chơi hoa khắp bốn phƣơng. [4.Tr.52] Hát Iếu cũng nhƣ các làn điệu dân ca khác đều mang trong mình vẻ đẹp của thiên nhiên - thiên nhiên hiện lên với đủ màu sắc chân thật nhƣ nó vốn có. Song đằng sau vẻ đẹp ấy thƣờng là nơi gửi gắm, chứa đựng tâm trạng con ngƣời, gắn với chức năng giao duyên, thổ lộ, bày tỏ tình cảm, đặc biệt là tình cảm đôi lứa: Hoa phặc phiền nở mặt đá cuống đen Chiều đến có đôi ƣơng vỗ cánh Hai tin ngƣời mặt đá mong mỏi Hai hồn ƣớc lấy nhau chẳng đƣợc. [4.Tr.120] Thiên nhiên luôn đồng hành cùng con ngƣời những nỗi nhớ niềm thƣơng tha thiết: Hoa bƣởi nở trong vƣờn trắng xoá Hoa nở còn có chủ đứng trông Muốn bẻ cũng lo gai Muốn chặt cũng lo chủ nhà mắng Cúi mặt dƣớc gốc hoa về không Tới nhà nghĩ tới hoa càng nhớ. [40.Tr.53] 122 Không chỉ vậy, con ngƣời khi đứng trƣớc thiên nhiên hùng vĩ dù nhỏ bé, yếu đuối nhƣng họ vẫn vững vàng cùng nhau vƣợt qua nhƣ cuộc sống hạnh phúc trắc trở gian nan qua cơn bão táp rồi lại bình yên: Ngắm đến dốc to đại ngàn Hai bên núi đá nghiêng xuống che Đôi ta cùng đi qua không đƣợc Dốc nhỏ đi quanh về co Dốc này đi uốn về khúc Hai tay níu gốc cây to lên dốc Leo dốc không kêu nặng kêu mệt Dốc này leo cả đời thêm sức Leo dốc không kêu ca Dốc này lên bình an thiên hạ. [4.Tr.70] Thiên nhiên chở che cho con ngƣời song thiên nhiên cũng dữ dội và đáng sợ, đó là không gian của những con đƣờng sâu hun hút quen thuộc nơi rừng thiêng nƣớc độc “Đông luông thái lẻ”, “Đông ké pù phia”: Tàng cần lộc đông luong thái lẻ Tàng cần lộc đông ké pù phia Mờ xít én bân mà mí đảy (Đƣờng ngƣời rậm núi cao vực sâu Đƣờng ngnƣời rậm núi sâu rừng già Thuở xƣa én bay về không đƣợc) [5.Tr.6,7] Trong không gian mịt mù của tự nhiên tiếng gió xoáy làn mây, gầm trên nóc, rít bên tai…tạo cho con ngƣời cảm giác sợ sệt: Tiếng gió xoáy làn mây Tiếng gió gầm trên nóc 123 Gió mây gầm bến thông Gió rít trên ngọn cây Thứ gì rát bên tai Thức giấc giữa mịt mùng Tiếng gió gầm trên nóc [40.Tr.6] Mặc dù thiên nhiên dữ dội, nhƣng có lúc không gian thiên nhiên trong lời ca Iếu nhƣ có sự hoà hợp tâm trạng con ngƣời: Buổi sáng trời lất phất sƣơng bay Lòng em muốn bằng nhƣ mặt nƣớc [40.Tr.48] Nhƣ vậy, Không gian nghệ thuật trong Hát Iếu luôn có sự đan xen giữa không gian sinh hoạt với không gian thiên nhiên,… nói cách khác đó là không gian vật lý đan xen với không gian tâm lý. Qua không gian nghệ thuật này chúng ta thấy đƣợc tâm trạng con ngƣời đƣợc bộc lộ với nhiều cung bậc, cảm xúc khác nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú trong đời sống tình cảm; gián tiếp bày tỏ hoàn cảnh, đời sống riêng tƣ, đời sống gia đình, bản làng và xã hội với phong tục, tập quán, tín ngƣỡng của đồng bào Tày. Tiểu kết: Hát Iếu mang những đặc trƣng chung của dân ca trữ tình cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Qua nghiên cứu một số phƣơng diện nghệ thuật nhƣ thể thơ, các biện pháp tu từ nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật… giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về giá trị Hát Iếu của địa phƣơng Bắc Quang - Hà Giang; Cũng nhƣ đi sâu vào việc khám phá vẻ đẹp riêng của làn điệu dân ca dân tộc Tày. Thể thơ trong Hát Iếu là sự kế thừa thể thơ thất ngôn có khuôn phép, quy định của dân tộc; lại vừa có sự dung nạp của thể thơ tự do, điều này đã tạo cho lời ca Iếu có thể diễn đạt một cách sinh động và phong phú đời sống, tâm tƣ, 124 tình cảm của đồng bào Tày. Hơn nữa trong lời ca Iếu có sự đan xen, thâm nhập giữa các yếu tố của lời nói vào lời hát nên gây đƣợc sự chú ý của ngƣời hát cũng nhƣ ngƣời nghe. Họ đắm chìm vào lời ca để cảm nhận, lắng nghe, nắm bắt đƣợc ý tình đƣợc thể hiện qua ngôn từ. Điều này cũng lý giải vì sao trong khúc ca Iếu lại vắng bóng, nghèo nàn những nhạc cụ dân gian. Yếu tố, vai trò của nhạc cụ là hầu nhƣ không có, mà nổi bật lên là vai trò của lời ca Iếu. Qua nghiên cứu một số phƣơng diện nghệ thuật nhƣ các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh, không gian và thời gian nghệ thuật trong Hát Iếu giúp ta có cái nhìn khái quát toàn diện về giá trị của dân ca Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang và có điều kiện đi sâu vào khám phá, tìm hiểu những màu sắc riêng của Hát Iếu. 125 KẾT LUẬN Bắc Quang là một huyện miền núi, cửa ngõ đầu tiên của Tỉnh Hà Giang, Sau nhiều lần điều chỉnh, thay đổi địa danh địa giới các đơn vị hành chính, từ năm 2005 đến nay huyện lại chia tách ra thành hai huyện là Bắc Quang và Quang Bình. Mặc dù có sự thay đổi về địa vực nhƣng cƣ dân cơ bản không bị xáo trộn. Cho đến nay, dân tộc Tày ở Bắc Quang (cũ) vẫn lƣu giữ đƣợc nhiều nét văn hoá bản địa. Qua việc tìm hiểu Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang trên phƣơng diện nội dung và nghệ thuật, chúng tôi nhận thấy rằng huyện Bắc Quang của tỉnh Hà giang là một tiểu vùng văn hoá dân gian giàu bản sắc trong đó có tiếng hát giao duyên - Hát Iếu vừa mang những nét chung vừa có nét sắc thái địa phƣơng. Song hình thức sinh hoạt văn hoá này đang bị mai một dần. Nhờ có sự quan tâm của Đảng và nhà nƣớc, hiện nay kho tàng văn hoá dân gian của các dân tộc đang dần đƣợc khôi phục. Trong điều kiện và khả năng có thể, chúng tôi tìm hiểu những giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu của loại hình sinh hoạt văn hoá Hát Iếu và bƣớc đầu rút ra một số kết luận sau: 1. Kho tàng văn học dân gian của dân tộc Tày vô cùng phong phú và đa dạng, cùng là hát lƣợn nhƣng mỗi vùng, mỗi địa phƣơng, mỗi khu vực lại có những tên gọi và giai điệu, tiết tấu khác nhau, nội dung có thể gần giống nhƣ nhau nhƣng mỗi làng, mỗi bản lại có sự thay đổi chủ đề, chữ nghĩa để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh giao tiếp. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang là một loại dân ca giao duyên trữ tình đặc sắc vừa có tính dân gian vừa có tính thành văn. Nó là văn học dân gian bởi phƣơng thức sáng tác lƣu truyền của nó là truyền miệng và đƣợc nhuận sắc bởi tập thể. Nó là loại hình nghệ thuật diễn xƣớng dân gian bởi sự gắn bó sâu sắc với đời sống lao động sinh hoạt của họ. Đối với ngƣời Tày Bắc Quang cũng nhờ Hát Iếu mà bao chàng trai cô gái nên vợ, nên chồng; cũng vì câu hát mà bao ngƣời đã có gia đình chạy theo tiếng gọi của 126 tình yêu thuở xa xƣa nhƣng không đến đƣợc với nhau. Đó còn là một làn điệu dân ca đƣợc đúc kết từ vốn sống, vốn hiểu biết của các thế hệ xa xƣa, là kho tàng tri thức nuôi dƣỡng tâm hồn, tình cảm, giúp cho các thế hệ con cháu không bao giờ quên cội nguồn của dân tộc. 2. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang mang chức năng sinh hoạt xã hội, đó thực sự là phƣơng tiện trao đổi, bày tỏ tình yêu đôi lứa của các chàng trai cô gái Tày với nhiều cung bậc, sắc thái tình cảm phong phú và đa dạng. Đó là tấm chân tình thiết tha nồng thắm, lời giao ƣớc kết duyên tình cảm sâu nặng và cả những lời chia tay day dứt xót xa trong tình yêu thuở ban đầu; Đó là những bài học đúc kết kinh nghiệm, cách ứng xử trong tình yêu, cuộc sống. Cũng nhƣ các loại dân ca khác, Hát Iếu còn là lời bày tỏ, là tiếng hát ngợi ca cuộc sống mới từ khi có Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Tiếng hát giao duyên trong Hát Iếu là tiếng ca bày tỏ tâm hồn Tày một cách sâu sắc, nồng nàn, chân thực và phong phú. Lời Hát Iếu cũng khái quát đƣợc quá trình nảy sinh, phát triển của tình yêu nam nữ dựa trên quan niệm hôn nhân tự do, tiến bộ. Hát Iếu là tiếng lòng ngọt ngào lắng sâu mà da diết đƣợc cất lên từ trái tim của những tâm hồn giàu tình nhân ái, thiết tha tràn đầy khát vọng tình yêu, cuộc sống. Đồng thời Hát Iếu còn là một hình thức sinh hoạt văn hoá văn nghệ hấp dẫn đáp ứng nhu cầu văn hoá thẩm mỹ của đồng bào Tày ở đây. 3. Nghiên cứu về một số đặc điểm nghệ thuật trong Hát Iếu, chúng tôi nhận thấy đây là một loại hình dân ca độc đáo của dân tộc Tày. Cũng giống nhƣ dân ca của các dân tộc khác, Hát Iếu có những nét tƣơng đồng và khác biệt trong hình thức kết cấu, thể thơ, các biện pháp tu từ hay không gian và thời gian nghệ thuật…Tuy nhiên, trong tiếng Hát giao duyên của Hát Iếu thì lời văn trau chuốt, giàu hình tƣợng, hấp dẫn, dễ rung cảm đƣợc lòng ngƣời do thể thơ có sự dung nạp của thể thất ngôn - thể thơ có khuôn phép, quy định với thể thơ tự do đã tạo nên sự đa dạng trong cách diễn đạt lời ca nghệ thuật. Hát Iếu còn sử dụng thủ pháp ẩn dụ, so sánh ví von, không gian và thời gian mang tính 127 nghệ thuật cao. Nghiên cứu các yếu tố thuộc phƣơng diện nghệ thuật đƣợc thể hiện trong Hát Iếu giúp ta có cái nhìn sâu sắc, thâm nhập vào tƣ duy của ngƣời Tày để nhận biết khám phá những cái hay, cái đẹp, nét độc đáo của dân ca Iếu. Từ đó, chúng ta có thể hiểu sâu hơn đời sống văn hoá, phong tục tập quán, nét đẹp đặc trƣng của các làn điệu dân ca Iếu và tài nghệ của đồng bào Tày ở đây. 4.Trong suốt dòng chảy của lịch sử, từ xa xƣa đến nay Hát Iếu ở Bắc Quang vẫn tồn tại trong cuộc sống của ngƣời dân lao động, nó ẩn chứa trong đó là sức sống tiềm tàng mãnh liệt thể hiện niềm khao khát cuộc sống đầy đủ, ấm no, hạnh phúc lứa đôi. Những lời ca mà chúng tôi sƣu tầm đƣợc trong sinh hoạt dân gian của đồng bào Tày nơi đây là minh chứng sinh động cho sức sống mãnh liệt lâu bền ấy. Đó là những giá trị, quan niệm thẩm mỹ, quan điểm nhân sinh của đồng bào trải qua bao đời nay. Và điều diệu kỳ, sự hấp dẫn của Hát Iếu nhƣ mạch nƣớc ngầm ngọt ngào chảy trong lòng đất vẫn âm thầm sống, vận động trong tâm khảm của những ngƣời yêu mến thơ ca dân tộc, trong hơi thở của tình cảm giao duyên của đôi lứa thuở ban đầu. Tuy nhiên, chƣa thể nói đề tài đã khám phá đƣợc đầy đủ những giá trị nội dung, nghệ thuật cũng nhƣ sức sống tiềm tàng của Hát Iếu. Song hiện nay, hình thức sinh hoạt dân ca này đang dần vắng bóng trong đời sống dân gian. Thế hệ ngƣời có tuổi thì thuộc nhiều lời hát hơn các thế hệ trẻ, điều này cũng do nhiều nguyên nhân, có lẽ phần nhiều là các thế hệ trẻ bây giờ tiếp xúc và chịu ảnh hƣởng của nhiều luồng văn hoá khác nhau, trong khi đó nền văn hoá của dân tộc mình lại không đƣợc bồi dƣỡng. Hát Iếu cũng nhƣ nhiều loại hình văn hoá dân gian khác của dân tộc Tày là một kho tàng giàu có đang đòi hỏi sự tìm tòi, nghiên cứu, quan tâm để những giá trị đó có thể tồn tại ở dạng động của nó. Vấn đề đặt ra cho các cấp chính quyền, ban ngành của địa phƣơng, nhà nƣớc là làm sao phát huy, bảo tồn và lƣu giữ loại hình nghệ thuật này để đáp ứng sự mong mỏi của quần chúng nhân dân đƣợc hƣởng thụ những giá trị tinh hoa văn hoá của cha ông để lại. 128 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1992),Việt Nam văn hoá sử cƣơng, Nxb Tp HồChí Minh. 2. Bộ văn hoá và Bảo tàng Việt Bắc (1991), Một số vấn đề lịch sử Văn hoá các dân tộc ở Việt Bắc, Bảo tàng Việt Bắc, Thái Nguyên. 3. Nguyễn Đức Bình (1998), Mấy vấn đề lớn trong nghị quyết hội nghị TW 5 về văn hoá, Tuần báo văn nghệ (34). 4. Hoàng Thị Cấp (2005), Chồm bioóc Mạ, Nxb văn hoá dân tộc, H. 5. Hoàng Thị Cấp (2007), Ra mắt bố mẹ, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Giang. 6. Nông Quốc Chấn (1967), “Hãy khơi dòng dân ca các dân tộc thiểu số”, Tạp chí văn học (1). 7. Nông Quốc Chấn (1977), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc, Nxb Văn hoá dân tộc, H. 8. Hoàng văn Chữ ( sƣu tầm) (2008), Iếu dân ca dân tộc Tày, chƣa xuất bản. 9. Hoàng Văn Chữ (sƣu tầm)(2008), Iếu hát thơ then, chƣa xuất bản. 10. Chu Xuân Diên ( 1981), “Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian”, Tạp chí văn học số 5. 11. Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (chủ biên), (2004), Các dân tộc ở Hà Giang, Nhà xuất bản Thế giới. 12. Vũ Cao Đàm (1999), Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học xã hội. 13. Hà Minh Đức (chủ biên), (2008), Lý luận văn học (Tái bản lần thứ 9), Nxb giáo dục, H. 14. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, H. 15. Tô Hoài (1976), “ Thực trạng vấn đề văn học thiểu số”, Tạp chí văn học số 3. 16. Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), “ Sáng tạo và bảo tồn giá trị văn hoá, văn nghệ các dận tộc thiểu số Việt Nam”. 129 17. Vi Hồng (2001),Thì thầm dân ca nghi lễ, Nxb Văn hoá dân tộc, 18. Vi Hồng (1976), “Vài suy nghĩ về hát Quan lang, Phong Slƣ, Lƣợn,” Tạp chí văn học, (3). 19. Vi Hồng (1979), Sli lƣợn dân ca trữ tình Tày - Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc,H. 20. Nhƣ Hoa ( 2002), Văn hoá ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, H. 21. Nguyễn Chí Huyên (chủ biên), (2002), Nguồn gốc lịch sử tộc ngƣời Tày vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn học dân tộc,H. 22. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2002), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục,H. 23. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên), (1994), Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, H. 24. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), (1997), Kho tàng diễn xƣớng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, H. 25. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Nxb KHXH, H. 26. Nguyễn Xuân Kính (1998), Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb KHXH, H. 27. Hoàng Ngọc La, Hoàng Văn Toàn, Vũ Anh Tuấn ( 2002),Văn hoá dân gian Tày, Sở văn hoá - Thông tin Thái Nguyên. 28. Đinh Trọng Lạc, (2003), 99 Phƣơng tiện và Biện pháp Tu Từ Tiếng Việt, Nxb Giáo dục. 29. Lã Văn Lô, Hà Văn Thƣ (1984), Văn hoá Tày - Nùng, Nxb Văn hoá, H. 30. Lã Văn Lô, Đăng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lƣợc giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng,Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH, H. 31. Đặng Văn Lung (1997), Nghiên cứu văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu, Tập 1, Nxb Văn hoá dân tộc. 32. Cung Khắc Lƣợc, Lê Bích Ngân (1987), Lƣợn cọi Tày - Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc 33. Hoàng Minh Lƣờng (2001), “Quan niệm về nghệ thuật trong văn học cổ 130 truyền các dân tộc thiểu số”, Luận án Tiến sĩ. 34. Triệu Hữu Lý (1990), Dân ca Dao, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc,H. 35. Hoàng Tuấn Nam ( 1997), “ Ngƣời Tày Kin Chiêng”, Tạp chí nguồn Sáng , (3). 36. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H. 37. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, H. 38. Trần Đức Ngôn (1990), “ Một số vấn đề lý luận chung quanh việc nghiên cứu văn bản văn học dân gian”, Văn hoá dân gian (3), H, Trang 16-19.Tạp chí nguồn sáng, số3. 39. Trần Đức Ngôn (2000), “Những đặc trƣng của văn bản Văn hoá dân gian” in trong Góp phần nâng cao chất lƣợng sƣu tầm, nghiên cứu Văn học văn nghệ dân gian, Nxb Văn hoá dân tộc, H, trang 21-37 40. Hoàng Minh Nguyệt, (2009), Một số bài Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. (Tài liệu sƣu tầm ). 41. Võ Quang Nhơn ((1983), Văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. 42. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam, Nxb Văn học, H. 43. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày, Nùng, Dao Lạng Sơn, Nxb dân tộc. 44. Nhiều Tác giả (1974), Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb KHXH, H. 45. Nhiều tác giả (1989), Văn hoá dân gian, những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb KHXH, H. 46. Nhiều tác giả (1990), Văn hoá dân gian, những phƣơng pháp nghiên cứu, Nxb KHXH, H. 47 Nhiều Tác giả (1992), Các dân tộc Tày - Nùng ở Viêt Nam, Viện văn học dân tộc,H. 48. Nhiều Tác giả (1993), Văn hoá dân gian Cao Bằng, Hội văn nghệ Cao Bằng 131 49. Nhiều Tác giả (1998), Văn hoá dân gian, Sở văn hoá thông tin Yên Bái. 50. Lục văn Pảo (sƣu tầm và biên soạn), (1994), Lƣợn cọi, Nxb Văn hoá dân tộc, H. 51. Lê Trƣờng Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb GD. 52. Hoàng Phê (chủ biên), 2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng. 53. Hoàng Quyết, Triều Ân , Hoàng Đức Toàn (1996), Từ điển văn hoá cổ truyền dân tộc Tày, Nxb Văn hoá dân tộc,H. 54. Hoàng Văn Trụ (1997), Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB VHDT, H.5 55. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại - Bộ GD & ĐT - Vụ giáo viên - H. 56. Trần Đình Sử (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, H. 57. Sở văn hoá thông tin Việt Bắc, (1974), Bƣớc đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt Bắc, Nxb Việt Bắc. 58. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày, nguồn gốc, quá trình phát triển và thi pháp thể loại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 59. Ngô Đức Thịnh (1990), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb văn hoá dân tộc. 60. Trần Ngọc Thêm (1997), cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H. 61. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam ( In lần thứ 4 Có sửa chữa và bổ sung), Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 62. Lâm Tiến (1995), Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb văn hoá dân tộc. 63. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục. 64. Nông Quốc Tuấn (2006), Văn hoá phi vật thể dân tộc Tày - Đề tài thuộc khuôn khổ Dự án: “Sƣu tầm cấp thiết di sản văn hoá về con ngƣời và cộng đồng gắn với môi trƣờng sinh thái nhân văn vùng lòng hồ thuỷ điện Tuyên Quang”, Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam, Bộ văn hoá thông tin. 132 65.Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Giang, (2001), Hà Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891 - 2001), Nxb Chính trị Quốc gia. 66. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (quyển 3),(1992). Tổng tập văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam, Nxb KHXH, H. 67. Trần Quốc Vƣợng chủ biên (2005), Cơ Sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H. 68. Phạm thu Yến, (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, H. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 133 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1. MỘT SỐ BÀI HÁT IẾU TIÊU BIỂU CỦA NGƢỜI TÀY BẮC QUANG - HÀ GIANG 1. Những bài Hát Iếu “Định rƣờn” (định duyên) Chài: Giờ khuất cần thôi khảu rụ páy giờ rạu Cần thôi bâm đế chiềng pân rụ páy Nhắc bâm óc hỏng hóng là pi so toan Nhắc bâm óc hỏng chang là vằn pi so lỉn Vằn nạy pi dú rƣờn khau vài nà chả Chắng hăn báo thíp hả mà mƣờng Mự nay pi khen mạ nà đon Chắng hăn thao tỏn thào mà tô Giờ nạy pi so đọc thố cón chàu Khuyên mất là vằn pi khuyên mắƣ Khuyên au nặm pắn pí khửn bâm Khuyên au noọng khình châm khăm nạy Khuyên đảy pi chăng khuyên ăn Vằn pi khuyên ăn buốp lai chà Khuyên ăn qua lai chặng. Chủ rƣờn ới chủ rƣờn Chủ rƣờn năng bấu sôi bấu dục Sôi dục thao táng bản khan Lan sôi dục thao táng mƣờng khan lả. Mạy pàu răng mừa thọn lai rac thao lác Răng mừa thọn lai chăƣ Hẳƣ pi pảu cằm hăƣ thúc toọng Hẳƣ pi phọng cằm chăƣ chắng thúc tâm Mƣa pân noọng khình châm chắng toọng Vằn noọng khan mà bấu lo phua noọng đá Phua noọng đá vằn pi khác têm moằƣ nhá mừa van Khảu thay téng bâm tòng vàn Mừa lôi mừa lội thâng hỏng chang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 134 Mừa vàn thang hỏng hóng Phua noọng thƣ cằm nọi cằm ón Tó rà và páo noọng lƣơng nga cứ lỉn. Chập boóc lỉn đởi boóc thắc Không chập lầm lỉn đởi lầm thắc thi Chuc lừ boóc quá tri là thôi lỉn đởi Căn thắc chặp cà va bấu lo pân Mí lỉn đƣởi căn thắc thi cà va bấu lo pân rƣờn Pân lƣờn là vằn pi còi tả Pân mả là vằn pi còi doàng Bấu lo pi chèo tàng chèo noọng Đăm đếch dú táng bản pi đay Đăm đản dú táng mƣờng pi đay Chụ loàn rƣơng dú táng sử pi đay Vằn pi bấu pân rằm đảy pét Bấu pân kép đảy nem. Lỉn là lỉn chặp mòn bƣơn tham chuc lừ mòn quá thí là thôi Nhình khay pác: Chíp mừng lan xo páy Ngoáy nả lan xo chiềng Lan xo chiềng mừa po đế lả chiềng me cuông lƣờn Lan chiềng mừa quan viên quỷ chức Cằm lan ủa bấu thúc bấu pân Bất nhân lan mà thần chốn nạy Chiêm đếch nọi lan mí đảy tạu cằm yếu khổ lai Giờ đay lan xo pản cằm khôn kéng cằm ngoan tó nả lảu Cằm lan tốc nƣa lảu nhà khua Thảu ké năng dƣờng nƣa dá tách Chiêm đếch lan páyđảy học thách nọi lài luộc páy thông Giờ nạy lan mà thông so lọi Cằm lan ủa tằng tơi lý long Chăng pân lấm may mòn lƣờng thán téng chạu Chiêm đếch vằn lan bấu đảy học cằm iếu khổ lai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 135 Thíp giờ chắng đảy giờ nạy moac Pác giờ chắng đảy giờ nạy đay Giờ đay nọng khay pác Giờ moác noọng khay khò Khay khò đƣởi lƣờng thang noọng vọng. Trai: (Giờ tuất nhà cơm xong chƣa đấy Tất cả đã dọn xong mâm bàn chƣa đấy Sắp mâm ra gian trái cho anh xin thƣa Nhắc mâm ra gian giữa cho anh xin hát Hôm nay anh chăn trâu ruộng mạ Đƣợc thấy gái mƣời lăm đến mƣờng Hôm nay anh chăn trâu đồng cao Đƣợc thấy gái đƣờng xa đến trọ Cho anh xin mở sổ trƣớc giờ Xin rồi anh xin tiếp Xin dòng nƣớc xoáy tròn Lên tận mâm cơm nhỏ Xin rồi tôi anh xin tiếp Xin cô noọng tối nay Về nhà chồng cho kịp Xin đƣợc anh mới xin Họ hàng anh xin nhé. Xin đi rồi xin lại Tiếng anh nhƣ xơ mƣớp Nhiều chặng đƣờng anh xin Đón em về cho kịp Chủ nhà ơi chủ nhà Chủ ngồi trên uống nƣớc Con gái ngƣời đẹp quá Tiếng thơm lan khắp làng. Cây vầu nào nhiều rễ Cây vầu nào nhiều măng Cho anh thổi phép màu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 136 Nói những lời chân thật Khi nào noọng đổi ý Là ngày trả lời anh Chồng có mắng nhiều lời Anh xin đi tạ lỗi Tạ lỗi tận giữa nhà Têm trầu đến anh van Đến khi chồng hết giận Chúng mình đến với nhau Hoa đất và hoa xuân Không thành thì gần chút Mai sau hoa quá thì Còn đâu yêu đƣợc nữa Mới gặp đâu thành duyên Chắc gì thành nhà cửa Anh hát ca trong lòng Đừng sọ anh hại noọng Đêm xuống khắp làng trên Đêm xuống khắp mƣờng dƣới Đêm xuống có trăng rằm Họ yêu nhau khắp chốn Đêm xuống có trăng rằm Tay cầm hoa nắm nem Thƣơng thì thƣơng ngay nhé Tình ai sắp quá thì Gái hát đáp lời: Chắp tay tôi xin nhé Ngoảnh mặt tôi xin trình Xin trình quan, quý tử Lời không thổi mà thành Lấy thân mình để ngỏ Từ nhỏ không biết hát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 137 Xin nói lời đón đƣa Đừng cƣời tôi nói Đừng trách lời tôi xin Tôi đâu nào nói thách Thông tỏ hết mọi đƣờng Đến giờ tôi xin hát Nói cả đời không hết Nhƣ chỉ tằm đƣa nôi Từ nhỏ không biết Iếu Mƣời giờ mới có một giờ Trăm giờ mới chọn đƣợc Giờ này em xin đáp lời Bắp chuối ơi mở ra Cất giọng mọi ngƣời hiểu. Tuộng piặc nhình chài Nhình: Thân pi mà chặu noọng thắm viêc chặu páy đay nai Vằn pi mà thoai noọng thắm viêc thoai páy đảy tuộng noọng so tuộng Piặc hăn tôi cáy đăm lạ lác hẳƣ mà Đảy hăn báo táng xạ la loác hăƣ mà Ca hẳƣ noọng phằn đăm rụ chắc Rụ là pi dú phƣơng bắc mà thâng Khuyên ăn pi khứn dƣơng ngân đối noọng Khuyên nhắc dớ khuyên nháy Khuyên đảy vằn noọng chắng khuyên au Dá hẳƣ nọong khửn pù khau nắc nƣơi. Cáy bản tấp pích chúa khăn là khăn Cáy thuốn tá the lằng mà loạn Khan mà dớ khan mà pi ơi Khan mà noọng khan giá Mí lo cằm pi cá tốc tôm Bấu lo khoăn khình châm tốc đắc Khần bấu lo mìa pí đá Noọng khác nhém mần nhá mừa vàn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 138 Kim ngân lót bâm pàn mừa lội Mừa lội tặt hóng chang Mừa vàn tặt hóng hỏng Phác căn hẳƣ pi cá tón au Dá hẳƣ noọng vọng than nắc nƣới. Đối đáp trai gái Gái: Anh về sớm gặp noọng bận việc sớm. Anh về muộn bận việc chƣa chào đƣợc em Thoạt nhìn thấy đôi gà đen lạ hoắc tới chào Thoạt nhìn thấy trai lạ hoắc đến thăm Thứ lỗi cho noọng chăn đen nên không biết Chắc là anh ở phƣơng bắc tới chăng Chắc là anh tới Dƣơng Ngân với noọng Nói đi rồi nói lại Nếu thƣa đƣợc noọng mới dám thƣa Để noọng lên núi cao nhẹ nhàng Gà nhà vỗ cánh gáy là gáy Gà rừng trốn nơi ngủ về tới Trả lời đi trả lời đi anh Thƣa rồi noọng thƣa lại Không sợ lời anh rơi vãi Không sợ hồn anh xiêu lạc Không sợ vợ anh ghen Noọng sẽ têm trầu về xin Kim ngân lót mâm vàng về lỗi Về lỗi tận gian trong Về xin tận gian giữa Gửi lời cho anh ơi đón lấy. Chớ để noọng buồn than đau đớn. Chài: Chiêm đếch tàng khêm may po me mí páo Tàng lín chu va đáo po me mí thon Chống vạy pi mừa thon đắy thay Thon đáy pi còi váy tao mà Noọng mắƣ mí chê là coi kết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 139 Từ bé đƣờng chỉ thêu cha mẹ không bảo Đƣờng yêu đƣơng bố mẹ không cho Chống gậy anh đến hoạc với thầy Học đƣợc anh sẽ lại quay về Nếu noọng không chê ta sẽ kết đôi. Nhình: Nhƣợc lăng pi mì rƣờn đoạn gía Tàng lín pi chắng va chạm va ƣơn va nái. Nhƣợc bằng anh có gia đình rồi thôi Đƣờng yêu anh mới nói đi nói lại thêm lời Chài: Thíp ơn thêm giạ bái ơn cần Ơn mừa noọng khình châm đáp lại Thân pi nhằng chắng thon thói Đếch nọi chắng thon cằm lừ Giám kết bạn đối noọng khao tó ké. Mƣời ơn, thêm xin lại cảm ơn ngƣời Ơn về noọng có lời đáp lại Thân anh chƣa có nơi chốn nào Còn trẻ quá chƣa biết nói lời hay lời đẹp Dám kết duyên với noọng đến tận già nua. Nhình: Cú tin đé lín la nhang pa nọi tin thí Noọng tặt hẳƣ pi mừa chầm rƣờn mắƣ tơi cố là chầm. Bƣớc chân đi chơi xuân, bƣớc chân chầm chậm Noọng mở đƣờng anh về nhà mới là mừng Chài: Pi mịn tắc heo pài Pi chai tắc heo hé Khảm pi nay chắng còi đảy thé tẳng rƣờn Chú rƣờn chắng lặp poại khầm tháy Khảu đông pay chầm chọn đáy tham thíp lằm Chắng đáy lằm mạy me Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 140 Khẳm đông ké quén nộc nu Hẳm mạy dú tềng pù lâm luật pịa khoan bán thâng thân Chú rƣờn nghị taolăng chắng ngứn Chắng pay vân lac lan dú sẳƣ sáng mà hƣa Nhắc mạy khứn tông kừa bắc bong pích cáy thàm pác mạ mòng xong Thau me kéng thau cón khứn tắng. Năm ngoái tốc mái nhà Năm kìa tốc trái sau Sang năm nay mới xem đƣợc ngày dựng nhà Ở nhà mới mài dao thật sắc Vào rừng lựa chặt cây Vào rừng già đuổi chuột, đuổi chim Chặt cây trên đồi cao bằng dao bằng rìu Ở nhà nghĩ đằng sau thấy ngán Mới đi nhờ ngƣời lạ về hộ Nhấc cây lên nơi bằng đục đẽo Cánh gà vỗ võ ngựa khua vang Cột cái cùng cột nhỏ dựng lên. 2. Một số bài Hát Iếu “Phặt phòng”(dậy sóng) Khẳm khắc Khẳm khắc loọng búa bẳng mạy quân Bƣơn hăn nả luc cần bƣơn bấu Bƣơn hăn nả chụ cáu bƣơn đai Tông bạn mọ tông lai thíp hả Tông bạn mà hăn nả khào bang Cổm hua lồng giƣờng chang là dú Lọi lọi mọ tôi thú thiểu kha Tôi thú thiểu kha cụng mọ thoong thinh là thiếu bạn Bƣơn nay chắc bƣơn hâng mèng lọong Mèng loọng pắn săử sảng đua nòn Nặm phioa tốc mƣa mon pân pế Chắc pân mạy pân thế mí tông Tông khảu nả luc cần tông bấu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 141 Thƣơng căn phác cằm pián mà là. Khẳm khắp gọi trong ống cây quân Biết thấy mặt con ngƣời không nhỉ Thoáng thấy mặt bạn thoáng không Mong bạn nhƣ mong trăng giữa tháng Ngóng bạn chẳng thấy bạn xinh tƣơi Cúi mặt xuống giữa đƣờng ta ở Trơ trọi nhƣ chiếc đũa lẻ đôi Chiếc đũa lẻ đôi nhƣ đôi ta lẻ bạn Tháng này biết tháng gì ve gọi Ve gọi quanh chiếc gối ta nằm Nƣớc mắt rơi gối hoa nhƣ bể Biết mối tình dang dở không yêu Yêu theo một con ngƣời hút bóng Thƣơng nhau đƣa nỗi vắng về ta Hoa “mạ” Hoa “mạ” nở trên núi cọng vàng, Anh yêu em giữa mùa hoa nở. Bƣớc chân rời tay nhau quên ngay. Đêm ngày anh còn nhớ hay không nhớ, Quen nhau từng nét ở em buồn. Buồn lắm ở mỗi ngƣời một bản, Gió thổi tàu lá héo bâng khuâng. Buồn lắm ở mỗi ngƣời một mƣờng, Gió thổi bức thƣ tình khó tới. Bióc mặn Bióc mặn phống khuồn băƣ chắn nhot Tổn công lọi co bióc pân đuông Noọng tao au cần táng mƣờng mà lit Tả điêu pi nòn vin phiác mƣơi Đảy soỏng noọng chê cuôi nả múng Pi chắc pi mí giám toan Chắc noọng giam vằn pi mí giảm kết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 142 Hoa mận Hoa mận nở xen lá xen ngọn, Tốn công chắp cánh hoa thành bông. Em lại thấy ngƣời khác mƣờng đến gõ, Bỏ mình anh nằm vắng phơi sƣơng. Đƣợc soỏng em chê sọt mặt bủng, Anh biết chẳng dám yêu. Biết em giam lòng anh chẳng dám hƣớng. Mèng loọng Đông luông đảy nghìn thiêng mèng loọng Toọng pi bấu lìa noọng thắc giờ Điếp căn mắc thảy thân tờ khát Thƣơng căn ná chắc piai mừa rƣờn. Ve gọi Rừng đua rộn tiếng ve than vọng, Anh chẳng muốn vắng em một giờ. Nhớ nhau trong lòng thêm vƣơng vấn, Thƣơng nhau chẳng muốn bƣớc về nhà. Cằm thắng Hom mí quá bióc khảu Hom quả mí quá bióc va miài Phai phai mí lừm càm noọng thắng Thíp pi nặm nhằng ắng đăƣ chăƣ. Lời dặn Thơm chi bằng hoa lúa, Thơm dịu chẳng qua nhị hoa nhài. Dù chết không quên lời em dặn, Mƣời năm nƣớc còn ứ trong tim. 3. Một số bài hát“Iếu Tạ” (Iếu đố) và “Iếu sỏi"(Iếu Kháy) Nặc kể lừa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 143 Thức lăng tƣợng chƣợc phẳn chƣợc phƣa Thức lăng tƣợng bàn cờ phá mác Thức lăng tƣợng bàn hạc tiêm nhàu Thức lăng tƣợng quân chàu quyét nặm Thức lăng tƣợng bản khẳm cần ynh Thức lăng tƣợng làng lình che đét Thức lăng tƣợng quét nặm thiên lý pay mà Thức lăng tƣợng quét nặm phòng ba pay tao Thúc bấu lả thúc bấu Thúc bấu noọng còi páo còi toan Bấu thúc noọng còi toan pay lỉn lại Hẳƣ pi dú cửa đại đảy ơn. Đố thuyền Thức gì tựa dây sắn dây bừa Thức gì tực bàn cờ trong vƣờn quả Thức gì tựa bàn hạc têm trầu Thức gì tựa quân mình quét nƣớc Thức nào tựa bản thẳm ngƣời xa Thức gì tựa chiếc muôi che nắng Thức gì tựa quét nƣớc thiên lý đi về Thức gì tựa mƣa gió phong ba bão bùng Không phải, có phải không Nếu đúng noọng khẽ nói, khẽ khuyên răn Nếu đúng noọng sẽ đến chơi nơi này Để anh tựa cửa đại hàm ơn. Đáp: Chƣợc lừa tƣợng chƣợc phẳn chƣợc phƣa Hua lừa tƣợng bàn cờphá mác Chang lừa tƣợng bàn hạc tiêm nhàu Dầm lừa tƣợng quân chàu quét nặm Thau lừa tƣợng bản khẳm cần ynh Pài lừa tƣợng làng lình che đét Thao lừa tƣợng quét nặm thiên lý pay mà Quát lừa tƣợng quét nặm phòng ba pay tao Thúc bấu lả thúc bấu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 144 Thúc bấu noọng còi páo còi toan Bấu thúc noọng còi toan pay lỉn lại Hẳƣ pi dú cửa đại đảy ơn. Giải đố thuyền Dây buộc thuyền tựa dây sắn dây bừa Mũi thuyền tựa bàn cờ vƣờn quả Giữa thuyền tựa bàn hạc têm trầu Dầm thuyền tựa quân mình quét nƣớc Cột buồm thuyền tựa bản thẳm ngƣời xa Mái thuyền tựa chiếc muôi che nắng Mái chèo tựa quét nƣớc thiên lý đi về Quạt nƣớc tựa mƣa gió phong ba Phải không có phải không Nếu đúng noọng khẽ nói khẽ khuyên răn Nếu đúng noọng sẽ đến chơi nơi này Để anh đƣợc tựa cửa đại hàm ơn phiắc cát Nhình: Phiắc cát van đon thài lai poỏng Po chài lai toọng buôn hăn Phiắc cát van đon tắm Po chài pay chang khăm buôn hăn. Chài: Phiắc cát van đon thài lai poỏng Me nhình mì lai toọng buôn hăn Phiắc cát van đin đăm Me nhình pay chang khăm thƣa bốc Rau cải Gái: Rau cải gieo đất cát nhiều dóng Con trai lắm lòng trời oán Rau cải gieo đất đồi Con trai hay đi đêm trời thấy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 145 Trai: Rau cải gieo đất cát nhiều dóng Con gái có lắm lòng trời oán Rau cải gieo đất đen Con gái hay đi đêm heo bắt. Lồng đoay Lồm pặt khửn cốc túm hua nà Pú gia thẳm phuc phà vạy thả Pi nay thâng pi nả noọng pay Thoong mừng chổm hua đoay lồng lang Xuống thang Gió thổi lên gốc xổ đầu thôn Cha mẹ sắm chiếu chăn để đợi Năm nay sang năm nữa em đi Hai tay chống cầu thang xuống bãi. (Ngƣời sƣu tầm: Hoàng Minh Nguyệt, ngƣời dịch: Hoàng Bình Dựng và Hoàng Minh Nguyệt, dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 146 PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ KHẢO SÁT VỀ HÁT IẾU TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG. 1. Ông Hoàng Văn Chữ (74 tuổi) Quê ở xã vĩnh phúc huyện Bắc Quang - Hà Giang, nguyên là cán bộ Ty văn hoá Hà Tuyên nay đã nghỉ hƣu cho biết: Hát Iếu là một loại hình dân ca độc đáo của ngƣời Tày ở Bắc Quang, phần lớn đƣợc phân bố ở khu vực xã Đồng Yên, Xuân Giang, còn ở các xã khác trong huyện thì ít hơn. Hát Iếu cũng kéo sang cả khu vực của Huyện Lục Yên - Yên Bái, huyện Hàm Yên của tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay trong dân gian vẫn còn lƣu chuyển kho tàng nội dung vô cùng phong phú của Hát Iếu mà chƣa ai khám phá đƣợc hết. Bản thân ông là một ngƣời công tác trong ngành văn hoá nên ông rất tâm huyết với việc sƣu tầm, gìn giữ vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc mình. Ông nói, nghe đƣợc làn điệu dân ca Iếu của mình thì lòng cảm thấy rƣng rƣng, da diết, sâu lắng; Đặc biệt là những ngƣời già khi họ sắp , dời khỏi cuộc sống nếu đƣợc nghe một câu Iếu cũng làm họ ấm lòng và nhắm mắt trong nụ cƣời với cõi lòng thanh thản, nhẹ nhàng. Thế mới biết trƣớc khi Bác Hồ ra đi còn tha thiết muốn đƣợc nghe một làn điệu dân ca, một câu hò giọng điệu của quê hƣơng xứ sở mình đến nhƣờng nào. Theo ông Hát Iếu chủ yếu là những lời ca giao duyên, bày tỏ tỏ nỗi lòng của các chàng trai, cô gái Tày. Ngày xƣa, Hát Iếu thƣờng xuyên đƣợc tổ chức trên nhà sàn, khắp bản trên mƣờng dƣới, ngƣời ta dùng lời ca Iếu theo lối đối đáp để tìm hiểu nhau, nhiều ngƣời thành duyên vợ chồng. Ngƣời hát Iếu nhiều nhƣng ngƣời đi nghe Iếu càng đông hơn, từ già đến trẻ ai cũng thuộc lòng hàng trăm bài hát… Đến nay thì sinh hoạt Hát Iếu đã không còn nhƣ xƣa nữa, thi thoảng ở xã mới tổ chức một vài cuộc hát. Ngƣời Hát và nghe hát cũng vơi đi nhiều lắm! Ông khẽ thở dài, có lẽ trong lòng ông buồn vì điều mình vừa nói và vì ông có duyên nợ với làn điệu quê hƣơng. 2. Bà Hoàng Thị Minh (79 tuổi), Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 147 Quê ở xã Đồng Yên, huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Khi đƣợc hỏi về Hát Iếu và những vấn đề liên quan đến Hát Iếu, bà mỉm cƣời và nói: Bây giờ già rồi không còn nhớ và thuộc nhiều bài hát nữa nhƣ trƣớc nữa, nhƣng bà vẫn rất thích nghe hát bởi những lời ca Iếu có sức sống mãnh liệt trong tâm hồn bà. Khi tôi bật bài hát mình ghi âm đƣợc bà im lặng lắng nghe và hát theo nhịp điệu của bài hát. Nghe xong bà bảo Hát Iếu của dân tộc Tày ở đây không biết có từ bao giờ, lớn lên bà đã đƣợc nghe các bà, các chị của mình hát và cũng thuộc lòng từ bao giờ. Nội dung thì đa dạng, phong phú, chủ yếu là những lời ca bày tỏ tình cảm, ca ngợi cuộc sống, bản làng… của các anh, các chị. Họ cùng nhau bày tỏ tình cảm nếu mến nhau, còn không thích họ nói lời “độc” cho nhau thật cay cú và thấm thía. Trong cuộc chơi họ còn đƣa ra những bài Iếu để thử tài ứng đối, trí thông minh, nhạy bén qua các lời Iếu đố. Họ dùng cách nói so sánh ví von, ẩn dụ, phóng đại, điệp từ, điệp ngữ… rất tài tình. Trong những đêm hội làng, dịp lễ tết hay trong bản có đám cƣới, đám xin thì tất cả mọi ngƣời lại náo nức chuẩn bị tham dự. Ngƣời nào hát giỏi, hát hay thì đƣợc nhiều ngƣời ngƣỡng mộ và kính nể lắm. Nhƣng là ngày trƣớc thôi, bây giờ hiếm khi có dịp nhƣ vậy. 3. Ông Hoàng Nừng (74 tuổi ) Quê ở huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái giáp với xã Đồng Yên của huyện Bắc Quang - Hà Giang. Ông là một ngƣời yêu mến sâu sắc làn điệu Khắp Cọi (Hát Iếu) của dân tộc mình. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất của Khắp Cọi nên ông am hiểu sâu sắc về nó. Ông nói Hát Iếu luôn là mạch nguồn của dân tộc Tày ta chảy mãi ngàn năm trong lòng ngƣời yêu mến. Ông từng là một nhạc sĩ trong quân đội, đã từng hát và sáng tác nhiều bài hát theo âm hƣởng dân ca Tày, nay đã về hƣu nhƣng dòng suối ngọt ngào của Iếu Cọi vẫn chảy trong tâm khảm và tiếp sức cho ông trong tuổi già, ông vẫn dạy các thế hệ con cháu mình làn điệu dân ca của dân tộc cùng tiếng đàn tính mƣợt mà lắng sâu. Ông kể với giọng vui vẻ, tự hào: Năm 2008 ông đi dự thi hát dân ca ở Tỉnh Cao Bằng và đoạt giải A, ông thấy, làn điệu Hát Iếu (Khắp cọi) của dân tộc Tày quê hƣơng mình cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 148 không hề thua kém những nơi khác…Ông còn rất nhiều giải thƣởng, bằng khen khác nữa treo trang trọng trên tƣờng trong ngôi nhà nhỏ ven thị trấn Lục Yên. 4. Bà Vi Thị Hoà, (68 tuổi) Quê ở xã Đồng Yên, huyện Bắc Quang - Hà Giang. Bà là một giáo viên đã nghỉ hƣu, đồng thời cũng là một nghệ nhân Hát Iếu. Bà cho Biết: Mấy chị em gái nhà bà ai cũng mê và biết Hát Iếu, bây giờ vẫn hát và hát hay nữa. Hiện nay bà là chủ tịch của câu lạc bộ Hát Iếu ở xã, bà đang dạy các con, các cháu và những ngƣời yêu thích Hát Iếu. Bà nói: Bà vui lắm, bởi trong trời đại đổi mới nhƣ bây giờ mà vẫn có ngƣời mong đƣợc nghe và Hát Iếu. Bây giờ cảm thấy già rồi, giọng mình không đƣợc trong và ngọt nhƣ xƣa nữa. Bà nhớ lại trƣớc đây trong các cuộc Iếu bà là ngƣời đƣợc nhiều ngƣời chú ý nhất, đặc biệt là các chàng trai từ bản khác tới cuộc chơi. Nhiều lúc, có ngƣời mê tiếng hát của mình theo về đến tận nhà xin đƣợc hát cùng. Bà hăng hái kể thêm: Vừa rồi có dịp sang bản khác thi Hát Iếu, đến đoạn hát đố bà đƣa ra những câu Iếu đố “hóc búa” quá không ai đối lại đƣợc và họ đành chịu thua cuộc trong sự ấm ức khi ra về. Trong một đêm Hát Iếu của dân tộc mình vui lắm, nhất là những đêm đông lạnh giá, bên bếp lửa ấm nồng, các quan làng, trƣởng bản, tất thảy mọi ngƣời từ già đến trẻ đều im bặt tiếng nói cƣời khi tiếng Iếu đƣợc cất lên. Họ để tâm vào tiếng hát của các anh, các chị, rồi họ cùng vui, cùng buồn theo lời ca, tâm trạng của ngƣời hát. Có lúc không khí đƣợc hâm nóng lên bằng những lời ngợi ca mừng bản mƣờng, mừng cuộc sống vui tƣơi, mừng nhà mới, trông ngắm các sự vật hiện tƣợng xung quanh cuộc sống…Da diết, đau đáu lắm! bà nói vậy. 5. Chú Hoàng Quang Luận (45 tuổi) Quê ở xã Hùng An huyện Bắc Quang - Hà Giang nói rằng: Bản thân chú là một thầy cúng nên với các làn điệu nhƣ Hát Iếu của dân tộc mình chú cũng biết và hát nữa. Trƣớc đây cha của chú cũng là ngƣời say mê và sƣu tầm những lời Iếu cổ, nhƣng do không cẩn thận nên chú đã đánh mất. Chú nói: Hát Iếu luôn là đề tài sôi nổi, nhộn nhịp trong mỗi dịp xuân về trên bản làng của ngƣời Tày mình. Nghe hay hát lên những giai điệu của Iếu tâm hồn mình đang bực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 149 bội, khó chịu cũng dễ xiêu lòng và nó làm cho tâm hồn mình sâu sắc hơn. Chú khẳng định: Hát Iếu có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần và phản ánh đƣợc những nét phong tục tập quán, đời sống của ngƣời dân Tày. 6. Chị Hoàng Liên Sơn (29 tuổi) Quê ở xã Yên Hà Huyện Bắc Quang - Hà Giang kể lại: Mỗi khi về quê, nếu là dịp lễ, hội thì chị lại đƣợc nghe các cụ, các bà, các chị Hát Iếu. Hay lắm! tuy nhiều từ nghe không hiểu hết nhƣng chị thấy quê hƣơng mình có làn điệu dân ca thật mƣợt mà, ngọt ngào, da diết tận đáy lòng. Còn các nghệ nhân hát thì gửi tất cả nỗi lòng, hơi thở, nhịp đập của con tim mình vào từng lời ca. Qua lời hát thấy tâm hồn con ngƣời thật phong phú, mọi cung bậc, cảm xúc đƣợc bộc lộ. Vì thế mà những câu hát giao duyên thuở xƣa của dân tộc mình đáng trân trọng, tự hào biết bao. Chị nghĩ nếu đƣợc bảo lƣu tốt tƣơng lai con cháu mình còn biết, cứ nhƣ chị bây giờ còn sắp mất gốc đến nơi rồi. 7. Chị Hoàng Thị Khôn (40 tuổi) Quê ở xã Hùng An cho biết: Từ trƣớc tới nay Hát Iếu ở địa phƣơng mình đƣợc coi là bản sắc của dân tộc, nói đến văn hoá, văn nghệ thì Hát Iếu vẫn là làn điệu dân ca cổ đƣợc yêu thích. Không biết từ lúc nào mà mọi ngƣời ở đây đa phần là biết Hát Iếu, chị kể: Chính bố mẹ chồng chị trƣớc đây lấy đƣợc nhau đƣợc là do hai ông bà thƣờng Hát Iếu giao duyên với nhau, tình yêu của họ đƣợc xây đắp nên từ những câu hát ân tình ấy. Trƣớc đây khi về nhà chồng chị mới đƣợc bố mẹ chồng dạy hát và bây giờ chị lại dạy cho con gái mình biết Hát Iếu. Chị cảm thấy vui vì mình còn biết hát điệu hát của dân tộc mình. 8. Anh Hoàng Tiến Dũng (25 tuổi) Quê ở xã Xuân Giang huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang cho biết: Quê hƣơng anh phần lớn là bản làng của ngƣời Tày sinh sống ở đây từ bao đời nay, quanh năm chỉ có ruộng đồng, cấy hái, đời sống vật chất còn nghèo nhƣng đƣợc cái đời sống tinh thần thì không đến nỗi. Ở đây thế hệ nhƣ bọn mình vẫn say mê những làn điệu dân ca của quê hƣơng, đặc biệt là Hát Iếu, thi thoảng trong bản, trong xã vẫn tụ tập cùng nhau thi Hát. Ngay cả những lúc lên nƣơng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 150 làm rẫy anh cất tiếng hát cũng khối cô ngƣỡng mộ, nhƣng chủ yếu là mình thích hát và câu hát làm mình vơi đi nỗi vất vả, mệt nhọc thƣờng ngày. Anh nói: Mình vẫn thích làn điệu Iếu của mình hơn là nghe nhạc trẻ thời bây giờ, đau đầu lắm! Thật đáng trân trọng khi gặp đƣợc một tâm hồn tuổi trẻ yêu mến làn điệu dân ca của mình trong thời buổi nền văn hoá pha tạp nhƣ hiện nay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 151 PHỤ LỤC 3. MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐIỀN DÃ VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG. Một bản của ngƣời Tày ở xã Tiên Yên Bắc Quang - Hà Giang Nhà ở của ngƣời Tày ở xã Vĩ Thƣợng huyện Bắc Quang - Hà Giang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 152 Vào mùa ở xã Hùng An Bắc Quang - Hà Giang Ngày cấy trên quê hƣơng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 153 Bản của ngƣời Tày ở xã Đồng Yên - Bắc Quang - Hà Giang Nhà ở của ngƣời Tày xã Xuân Giang Bắc Quang - Hà Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 154 Nhà ở của ngƣời Tày ở xã Tiên Yên Bắc Quang - Hà Giang Ruộng lúa ở Đồng Yên Bắc Quang - Hà Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 155 Con đƣờng qua bản hôm nay Mùa cam chín Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 156 Thác nƣớc trên đƣờng đi điền dã. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 157 Một văn bản Hát Iếu do nghệ nhân Vi Thị Hoà Sƣu Tầm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 158 Tác giả đề tài đang ghi chép sƣu tầm Hát Iếu Nghệ nhân dạy hát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 159 Ảnh nghệ nhân Hát Iếu Vi Thị Hoà ở Đồng Yên Bắc Quang - Hà Giang. Tác giả đề tài chụp ảnh cùng nghệ nhân Hát Iếu Vi Thị Hoà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 160 Tác giả nghe nghệ nhân Hát Iếu Ảnh nghệ nhân Hoà bên góc rào vƣờn quen thuộc của ngƣời Tày Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 161 Ảnh của các nghệ nhân Hát Iếu ở xã Hùng An Bắc Quang - Hà Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 162 Ảnh nghệ nhân Hoàng Thị Thƣ, 53 tuổi ở Hùng An Bắc Quang - Hà Giang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 163 Một cảnh trong đêm Hát Iếu Mặc trang phục truyền thống của ngƣời Tày Bắc Quang - Hà Giang Ghi chú: Phụ lục ảnh của Tác giả đề tài chụp khi đi điền dã: 04/ 08/ 2008 và 05/ 02/ 2009

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf148LV09_SP_VHVNHoangThiMinhNguyet.pdf
Tài liệu liên quan