1. Lý do chọn đề tài
1.1 Về phương diện khoa học
Trong di sản văn hoá của các dân tộc Việt Nam, kho tàng văn hoá của
các dận tộc thiểu số rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc đều có những nét
văn hoá, phong tục, tập quán riêng tạo nên sự khác biệt, đặc trưng của mỗi
vùng, miền. Riêng vùng Việt Bắc từ xưa tới nay, có rất nhiều di sản văn hoá
khác nhau, trong đó phải kể đến những làn điệu trữ tình mượt mà làm đắm say
không biết bao nhiêu tâm hồn chàng trai cô gái như Hát Then, Sli, Lượn cọi,
Khắp Cọi, Hát Iếu của dân tộc Tày ở Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên
Quang, Hà Giang, Yên Bái . Hát Iếu là hình thức sinh hoạt văn hoá đặc trưng
vốn có của người Tày ở huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Hát Iếu còn ít người
biết tới. Do vậy, việc Sưu tầm, nghiên cứu, bảo tồn, kế thừa và phát huy những
giá trị của Hát Iếu là sự trăn trở của nhiều người có tâm huyết với việc giữ gìn
bản sắc văn hoá dân tộc.
Thực tế từ trước tới nay, Hát Iếu của người Tày Bắc Quang đã được một
số người sưu tầm và dịch với số lượng còn rất hạn chế, chưa có sự quan tâm,
nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa học về mặt giá trị nội dung và nghệ thuật.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiến hành điền dã và sưu tầm
những bài Hát Iếu lưu truyền trong dân gian với số lượng đáng kể.
1.2. Về phương diện thực tiễn
Hát Iếu là một loại hình dân ca độc đáo của người Tày ở Bắc Quang - Hà
Giang trong sinh hoạt văn hoá, văn nghệ quần chúng, gắn bó sâu sắc với đời
sống của làng quê nơi đây từ xưa tới nay. Nghiên cứu những nét cơ bản về giá
trị nội dung và nghệ thuật của Hát Iếu trong đời sống văn hoá dân gian của
người Tày ở địa phương Bắc Quang - Hà Giang sẽ góp phần khẳng định, gìn
giữ, bảo lưu và phát huy nét đẹp truyền thống vốn có của dân tộc Tày ở Bắc
Quang - Hà Giang nói riêng, các dân tộc thiểu số của Việt Nam nói chung trên
con đường tìm về với bản sắc cội nguồn dân tộc.
Xuất phát từ phương diện khoa học, thực tiễn nêu trên chúng tôi tiến
hành tìm hiểu “Hát Iếu của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang - Những đặc
điểm nội dung và nghệ thuật” trong đề tài luận văn nghiên cứu của mình.
Hoàn thành công trình này còn là nguyện vọng của chúng tôi, người con của
tộc người Tày mong muốn được khám phá, tôn vinh những giá trị văn hoá có
sức sống bền bỉ của dân tộc mình.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài . 3
2. Lịch sử vấn đề. . 4
3. Mục đích nghiên cứu . 8
4. Nhiệm vụ nghiên cứu . 8
5. Đối tượng nghiên cứu 8
6. Phạm vi nghiên cứu . 8
7. Phương pháp nghiên cứu. . 9
NỘI DUNG . 11
Chương 1. Một số vấn đề lý luận và thực tế - Cơ sở tìm hiểu hát Iếu ở
Bắc Quang - Hà Giang. 11
1.1 Tổng quan về tộc người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. 11
1.1.1. Vài nét về cộng đồng người Tày ở Hà Giang. 11
1.1.2. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế - xã hội và đời sống văn hoá của
người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. 12
1.2 Khái quát về Lượn 20
1.2.1 Khái niệm “Lượn”: . 20
1.2.2. Khái niệm Hát Iếu 22
1.2.3. Nguồn gốc của Hát Iếu . 23
1.3. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang. . 27
1.3.1. Hát Iếu trong đời sống văn hoá của người Tày ở Bắc Quang - Hà Giang. . 27
1.3.2. Khảo sát, phân loại . 28
1.3.3. Hình thức diễn xướng trong Hát Iếu. 33
Tiểu kết. 46
Chương 2. Nội dung cơ bản của hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang 47
2.1. Hát Iếu là những lời bày tỏ tình yêu trong buổi đầu gặp gỡ. 47
2.1.1. Hát Iếu là những lời tỏ tình thiết tha, chân thành, nồng thắm. 47
2.1.2. Hát Iếu là những lời giao ước, kết duyên tình cảm sâu nặng. 53
2.1.3. Hát Iếu là những lời chia tay xót xa, day dứt giữa những người yêu nhau. . 58
2.2. Hát Iếu là những lời bày tỏ cách ứng xử trong tình yêu, ca ngợi cuộc sống. 62
2.2.1. Hát Iếu là những lời trách móc bạn tình nhẹ nhàng, thâm thuý. 62
2.2.2. Hát Iếu là những lời đối đáp nhanh trí, thông minh và dí dỏm. . 65
2.2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống, thiên nhiên gần gũi giàu đẹp . 70
2.3. Hát Iếu là những lời ca ngợi Đảng, Bác và cuộc sống mới. . 74
2.3.1. Hát Iếu là những lời ca ngợi, bày tỏ niềm vui từ khi có Đảng và Bác Hồ 75
2.3.2. Hát Iếu là những lời ca ngợi cuộc sống hòa bình, xây dựng chủ nghĩa
xã hội. 80
Tiểu kết . 84
Chương 3. Những đặc điểm nghệ thuật tiêu biểu của hát Iếu ở Bắc Quang
- Hà Giang 86
3.1. Thể thơ trong Hát Iếu. . 86
3.1.1. Thể thơ tự do 86
3.1.2. Thể thơ thất ngôn. 90
3.2. Các biện pháp tu từ sử dụng trong Hát Iếu. . 93
3.2.1. Biện pháp tu từ so sánh 93
3.2.2. Biện pháp điệp ngữ tu từ (công thức trùng điệp) 101
3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật trong Hát Iếu. 106
3.3.1. Thời gian nghệ thuật 106
3.3.2. Không gian nghệ thuật . 113
Tiểu kết: 123
KẾT LUẬN 125
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 128
PHỤ LỤC .
166 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2020 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hát Iếu ở Bắc Quang Hà Giang - Những đặc điểm nội dung và nghệ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng rộng lớn.Vì đặc
điểm ấy mà các bản làng của ngƣời Tày luôn có sự giao lƣu, hoà hợp cùng
nhau sinh sống, phát triển cộng đồng. Hát Iếu là làn điệu dân ca đƣợc sinh ra
trở thành “món ăn tinh thần”, thành “nguồn vốn tri thức” vô cùng cần thiết
trong các cuộc Iếu giao duyên hằng đêm của họ. Đây là lời ca ca ngợi tiếng Iếu
của các chàng trai cô gái cất lên trong không gian tĩnh lặng, ấm áp bên bếp lửa
nhà sàn ấm nồng:
Đêm xuống khắp làng trên
Đêm xuống khắp mƣờng dƣới
Đêm xuống có trăng rằm
Họ yêu nhau khắp chốn.
[40.Tr.4]
Không gian bản mƣờng hiện lên trong tiếng ca Iếu với hình ảnh khang
trang, rộng lớn, bề thế. Đó là vẻ đẹp của những cánh đồng bao la, là con đƣờng
hoa rải khắp mặt đƣờng, là không khí sôi nổi, háo hức trong mỗi ngày hội Lồng
116
Tồng xuân đến…Không gian bản làng đã đi vào từng câu hát giao duyên, từng
nhịp đập trái tim của biết bao chàng trai cô gái chập chững bƣớc vào buổi ban
đầu yêu thƣơng. Không những thế bản làng còn là những nét đẹp trong sắc thái
văn hoá truyền thống của ngƣời Tày. Ở đó còn là không gian sinh hoạt gần gũi
thân thuộc gắn kết mỗi cá nhân với gia đình, với dòng họ, với cả bản mƣờng
mà đứng đầu là các già làng, trƣởng bản, sinh sống theo phƣơng thức tự quản
rất đặc thù. Đây là lời ngợi ca của chàng trai làm khách khi đến mƣờng bạn:
Bản ngƣời lớn thật lớn
Mƣờng ngƣời rộng thật rộng
Mƣờng ngƣời sinh đất đai trù phú
[4.Tr.15]
Trong bƣớc chân ngỡ ngàng của chàng trai khi tới mƣờng bạn, một
không gian rộng lớn, không gian bốn chiều mở ra trƣớc mắt chàng trai vừa thực
vừa mộng. Đó là không gian của “bổn phƣơng” có rồng chầu uốn khúc, có bách
hổ chầu phục, đặc biệt là có bách hoa nở lai láng, có núi kéo bốn phía xung
quanh…: Tốc tông pi chầm tông bổn phƣơng
Tốc mƣờng pi chầm mƣờng bản ta
Mƣờng cần rộc au nhan thổ đa
Tứ phƣơng luồng chàu mà uổn khúc
Hựu bạch hổ chàu phục bằng chăng
Mƣờng cần phoa trải thơn quảng đạng
Bách va nở lai cáng bằng an
Van vụ tập hai hàng lao sao
Pù thung kẻo xung quanh bách vận
Tử bức tông nặm phuân tốc lồng
Mƣờng cần mì luồng va uẩn khúc
Đông kéng tây bấu thiểu sắc tàng
ỷ nhƣ boóc tàng an thinh trự
(Rơi xuống mƣờng anh xem mƣờng bốn phƣơng
117
Rơi xuống mƣờng anh ngắm mƣờng bản lạ
Mƣờng ngƣời rộng bao la
Tứ phƣơng rồng về chầu uốn khúc
Có Bách Hổ chầu phục về mƣờng
Mƣờng ngƣời về rải thơm quảng đại
Bách hoa nở lai láng bằng an
Vạn vật tụ hai hàng lao xao
Núi cao kéo xung quanh bách vận
Bốn phƣơng mƣa thuận gió hoà
Mƣờng ngƣời có cầu vồng uốn khúc
Đông và tây rất nhiều đƣờng đi
Y nhƣ hoa rải khắp mặt đƣờng).
[40.Tr.45]
Bên cạnh không gian “bản mƣờng”, không gian gia đình với những ngôi
nhà cũng xuất hiện nhiều trong Hát Iếu, đây có lẽ là ngôi nhà mơ ƣớc trong lời
ca của nhân vật trữ tình:
Nhà nhỏ nhà bốn bức
Nhà to nhà giàu sang
Nhà rồng nhà chính chuyên
Mƣời hai gian nhà đều rải khắp
Bậc cửa sổ bọc vàng
Cột nhà vẽ nhiều chữ
Xà nhà vẽ rồng phƣợng vảy vàng
Mái nhà khéo lợp ngói
Hai bên mới nối nhiều tiền bạc
Trƣớc nhà có vƣờn hoa
Nút lạt buộc tựa cầu vồng
Nút mây buộc tựa rồng cuốn.
[4.Tr.40]
118
Ngay từ khi mới gặp nhau chàng trai ngƣời Tày đã gửi lời tỏ tình mơ ƣớc
đƣợc gắn bó nhƣ con chim chích bay về “năng táng kíc rƣờn nàng”, “chắp pioai
giàn” và mong muốn lớn nhất là đƣợc bay vào ngồi “ năng giƣờng chang rƣờn
noọng”:
Lừ đảy thêm lừ đáy
Nộc chích la mƣa chắp pioai thích
Ƣớc lừ đảy mừa năng táng kích rƣờn nàng
Chíp la mừa chắp pioai giàn
Ƣớc lừa vằn pi đảy mừa năng giƣờng chang rƣờn nọng.
Làm sao đƣợc làm sao
Làm sao đƣợc nhƣ con chim chích
Bay về đậu cuối “thích” nhà em
Chim chích đậu cuối giàn
Ƣớc sao bay vào nhà em đƣợc).
[8.Tr.56]
Có thể nói qua lời ca của chàng trai ta thấy không gian sinh hoạt quen
thuộc đối với ngƣời Tày là không gian của nhà sàn, mà “Táng kích” hay “Thích
ma” là nơi gẫn gũi nhất trong cuộc sống sinh hoạt thƣờng nhật của họ. “Táng
kích” là nơi trang trọng ở gian trên cùng, gần cửa sổ của nhà sàn có thể nhìn
ngắm ra không gian rộng lớn ở phía trƣớc. Đó là nơi chỉ có khách quý, những
ngƣời cao tuổi, đàn ông mới đƣợc ngồi trên đó.
Đặc biệt hơn trong lời tỏ tình khéo léo của chàng trai ví “nọng” nhƣ
chính ngôi nhà của mình nên chàng muốn gắn bó suốt đời và không muốn đi
tìm ai hơn nữa. Ngôi nhà hiện lên vừa cao, vừa xa vừa gần và dƣờng nhƣ đã trở
thành biểu tƣợng trong tâm thức của ngƣời Tày:
Nhà anh ở trên trời
Vợ anh ở trên mây
Tất cả còn trông chờ em đó
119
Nhà anh tựa thân em
Vợ anh tựa bóng em
Cho anh đi tìm ai hơn nữa.
[8.Tr.50]
Cũng trong ngôi nhà, tình yêu chân chính mới đƣợc khẳng định và đón
nhận:
Áo chàm tay xanh thắm
Anh đứng trƣớc bàn tổ nhà em,
Cha mẹ em mới gọi anh là rể
Áo chàm xen lụa vàng
Anh đứng giữa nhà em,
Thì em mới gọi anh là ngƣời chung thuỷ.
[8.Tr.56]
Ngoài ra chúng tôi còn tập hợp đƣợc thêm hình ảnh về con đƣờng (76/
216) bài sử dụng hình ảnh “con đƣờng”. Đó là một không gian vừa rộng mở
vừa khái quát, rộng mở vì ta bắt gặp trên con đƣờng sinh hoạt quen thuộc đó là
những ngả đƣờng trải rộng, quanh co, lắt léo nhƣng cuối cùng mọi ngả đƣờng
đều hội tụ, trở về lối đi chính duy nhất để vào đƣợc bản. Nhân vật “pi” (chàng
trai) muốn đi vòng qua quãng đƣờng vừa xa xôi vừa cách trở ấy đế bày tỏ nỗi
lòng của mình. Anh mƣợn không gian rộng lớn của con đƣờng để cho anh
đƣợc: “Phác tôi én nhạn mừa nòn”, “Tôi luồng mừa tó nả chảu”, anh muốn qua
những con đƣờng dài, quanh co ấy để thành đôi én nhạn, đôi rồng cùng em
sánh bƣớc:
Tham thíp qué tàng tạu, cảu thíp qué tàng tom
Tham thíp thong tàng ngạ ba mà cáp
Tàng hăƣ tàng mừa me, qué hăƣ qué mừa tiên
Tàng hăƣ tàng chính tuyên khảu bản
Hẳƣ pi phác tôi én nhạn mừa nòn
120
Hẳƣ pi phác tôi luồng còn mừa tó nả chảu”…
(Ba mƣơi ngả đƣờn vòng, chín mƣơi ngả đƣờng quanh
Ba mƣơi hai ngã ba đƣờng gặp nhau
Đƣờng nào về quê mẹ, đƣờng nào đƣờng lên tiên
Đƣờng nào là đƣờng chính nhất vào bản
Cho anh gửi đôi nhạn về cùng
Cho anh gửi đôi rồng về ở).
[40.Tr.26]
Cũng có lúc không gian của con đƣờng hiện lên là không gian thực gần gũi,
song con đƣờng cũng chứa đựng tâm trạng, cảm nhận, sự đánh giá của con ngƣời:
Đƣờng ngƣời rải cây nứa ống dài
Đƣờng ngƣời rải cây piao ống đẹp
Đƣờng ngƣời rải cây gai chọc chân
Đƣờng ngƣời rải đá đi bị vấp.
[4: 68]
Từ không gian sinh hoạt trong lời ca Iếu, ít nhiều chúng ta hiểu thêm
đƣợc phần nào về phong tục tập quán, nếp sinh hoạt văn hoá truyền thống và
quan niệm về cuộc sống của ngƣời Tày nơi đây. Họ luôn gắn bó thân thiết với
bản làng, gia đình, dòng tộc, yêu quý nếp sống, sinh hoạt văn hoá cộng đồng,
Cuộc sống của họ cũng chân chất, thực tế không hề triết lí, suy tƣởng cao
xa. Họ vui với cảnh nghèo nàn, những thành quả mình tạo lập và mơ ƣớc cảnh
thanh bình, cốt sao có thể yêu thƣơng gắn bó, đoàn kết. Tâm hồn họ sáng lên vẻ
đẹp chân thực, mộc mạc, bình dị nhƣ cuộc sống trong lành mà họ vốn có.
3.3.2.2. Không gian thiên nhiên
Thiên nhiên rộng lớn, gần gũi với cuộc sống của đồng bào miền núi là
không gian của cảnh vật ven rừng, bờ suối, núi đồi rộng lớn đến không gian
của sinh sống của tự nhiên là bƣớm, là chim, là hoa…Những không gian ấy đã
trở nên thân thiết và quen thuộc từ bao đời nay. Mang trong mình vẻ đẹp của tự
121
nhiên phong phú và đa dạng, không gian thiên nhiên đã trở thành đối tƣợng để
con ngƣời đối chiếu, bộc lộ tâm trạng trong những bài Hát Iếu. Và xuyên suốt
trong những lời ca ấy là không gian thiên nhiên gần gũi với đồng bào, đậm chất
trữ tình sâu sắc:
Bƣớm trắng ơi bƣớm trắng
Bay về đậu cây đào phía trên
Cành chuyền cành đi mãi
Đôi bƣớm bay mãi về phía trƣớc
Hàng năm xuống thiên hạ chơi hoa
Mọi thứ hoa rừng bƣớm đều đến
Cùng nhau chơi hoa khắp bốn phƣơng.
[4.Tr.52]
Hát Iếu cũng nhƣ các làn điệu dân ca khác đều mang trong mình vẻ đẹp
của thiên nhiên - thiên nhiên hiện lên với đủ màu sắc chân thật nhƣ nó vốn có.
Song đằng sau vẻ đẹp ấy thƣờng là nơi gửi gắm, chứa đựng tâm trạng con
ngƣời, gắn với chức năng giao duyên, thổ lộ, bày tỏ tình cảm, đặc biệt là tình
cảm đôi lứa: Hoa phặc phiền nở mặt đá cuống đen
Chiều đến có đôi ƣơng vỗ cánh
Hai tin ngƣời mặt đá mong mỏi
Hai hồn ƣớc lấy nhau chẳng đƣợc.
[4.Tr.120]
Thiên nhiên luôn đồng hành cùng con ngƣời những nỗi nhớ niềm thƣơng
tha thiết: Hoa bƣởi nở trong vƣờn trắng xoá
Hoa nở còn có chủ đứng trông
Muốn bẻ cũng lo gai
Muốn chặt cũng lo chủ nhà mắng
Cúi mặt dƣớc gốc hoa về không
Tới nhà nghĩ tới hoa càng nhớ.
[40.Tr.53]
122
Không chỉ vậy, con ngƣời khi đứng trƣớc thiên nhiên hùng vĩ dù nhỏ bé,
yếu đuối nhƣng họ vẫn vững vàng cùng nhau vƣợt qua nhƣ cuộc sống hạnh
phúc trắc trở gian nan qua cơn bão táp rồi lại bình yên:
Ngắm đến dốc to đại ngàn
Hai bên núi đá nghiêng xuống che
Đôi ta cùng đi qua không đƣợc
Dốc nhỏ đi quanh về co
Dốc này đi uốn về khúc
Hai tay níu gốc cây to lên dốc
Leo dốc không kêu nặng kêu mệt
Dốc này leo cả đời thêm sức
Leo dốc không kêu ca
Dốc này lên bình an thiên hạ.
[4.Tr.70]
Thiên nhiên chở che cho con ngƣời song thiên nhiên cũng dữ dội và đáng
sợ, đó là không gian của những con đƣờng sâu hun hút quen thuộc nơi rừng
thiêng nƣớc độc “Đông luông thái lẻ”, “Đông ké pù phia”:
Tàng cần lộc đông luong thái lẻ
Tàng cần lộc đông ké pù phia
Mờ xít én bân mà mí đảy
(Đƣờng ngƣời rậm núi cao vực sâu
Đƣờng ngnƣời rậm núi sâu rừng già
Thuở xƣa én bay về không đƣợc)
[5.Tr.6,7]
Trong không gian mịt mù của tự nhiên tiếng gió xoáy làn mây, gầm trên
nóc, rít bên tai…tạo cho con ngƣời cảm giác sợ sệt:
Tiếng gió xoáy làn mây
Tiếng gió gầm trên nóc
123
Gió mây gầm bến thông
Gió rít trên ngọn cây
Thứ gì rát bên tai
Thức giấc giữa mịt mùng
Tiếng gió gầm trên nóc
[40.Tr.6]
Mặc dù thiên nhiên dữ dội, nhƣng có lúc không gian thiên nhiên trong lời
ca Iếu nhƣ có sự hoà hợp tâm trạng con ngƣời:
Buổi sáng trời lất phất sƣơng bay
Lòng em muốn bằng nhƣ mặt nƣớc
[40.Tr.48]
Nhƣ vậy, Không gian nghệ thuật trong Hát Iếu luôn có sự đan xen giữa
không gian sinh hoạt với không gian thiên nhiên,… nói cách khác đó là không
gian vật lý đan xen với không gian tâm lý. Qua không gian nghệ thuật này
chúng ta thấy đƣợc tâm trạng con ngƣời đƣợc bộc lộ với nhiều cung bậc, cảm
xúc khác nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú trong đời sống tình cảm; gián
tiếp bày tỏ hoàn cảnh, đời sống riêng tƣ, đời sống gia đình, bản làng và xã hội
với phong tục, tập quán, tín ngƣỡng của đồng bào Tày.
Tiểu kết:
Hát Iếu mang những đặc trƣng chung của dân ca trữ tình cả về nội dung
và hình thức nghệ thuật. Qua nghiên cứu một số phƣơng diện nghệ thuật nhƣ
thể thơ, các biện pháp tu từ nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật…
giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về giá trị Hát Iếu của địa phƣơng Bắc Quang -
Hà Giang; Cũng nhƣ đi sâu vào việc khám phá vẻ đẹp riêng của làn điệu dân ca
dân tộc Tày.
Thể thơ trong Hát Iếu là sự kế thừa thể thơ thất ngôn có khuôn phép, quy
định của dân tộc; lại vừa có sự dung nạp của thể thơ tự do, điều này đã tạo cho
lời ca Iếu có thể diễn đạt một cách sinh động và phong phú đời sống, tâm tƣ,
124
tình cảm của đồng bào Tày. Hơn nữa trong lời ca Iếu có sự đan xen, thâm nhập
giữa các yếu tố của lời nói vào lời hát nên gây đƣợc sự chú ý của ngƣời hát
cũng nhƣ ngƣời nghe. Họ đắm chìm vào lời ca để cảm nhận, lắng nghe, nắm
bắt đƣợc ý tình đƣợc thể hiện qua ngôn từ. Điều này cũng lý giải vì sao trong
khúc ca Iếu lại vắng bóng, nghèo nàn những nhạc cụ dân gian. Yếu tố, vai trò
của nhạc cụ là hầu nhƣ không có, mà nổi bật lên là vai trò của lời ca Iếu. Qua
nghiên cứu một số phƣơng diện nghệ thuật nhƣ các biện pháp tu từ điệp ngữ, so
sánh, không gian và thời gian nghệ thuật trong Hát Iếu giúp ta có cái nhìn khái
quát toàn diện về giá trị của dân ca Iếu của ngƣời Tày ở Bắc Quang - Hà Giang
và có điều kiện đi sâu vào khám phá, tìm hiểu những màu sắc riêng của Hát Iếu.
125
KẾT LUẬN
Bắc Quang là một huyện miền núi, cửa ngõ đầu tiên của Tỉnh Hà Giang,
Sau nhiều lần điều chỉnh, thay đổi địa danh địa giới các đơn vị hành chính, từ
năm 2005 đến nay huyện lại chia tách ra thành hai huyện là Bắc Quang và
Quang Bình. Mặc dù có sự thay đổi về địa vực nhƣng cƣ dân cơ bản không bị
xáo trộn. Cho đến nay, dân tộc Tày ở Bắc Quang (cũ) vẫn lƣu giữ đƣợc nhiều
nét văn hoá bản địa. Qua việc tìm hiểu Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang trên
phƣơng diện nội dung và nghệ thuật, chúng tôi nhận thấy rằng huyện Bắc
Quang của tỉnh Hà giang là một tiểu vùng văn hoá dân gian giàu bản sắc trong
đó có tiếng hát giao duyên - Hát Iếu vừa mang những nét chung vừa có nét sắc
thái địa phƣơng. Song hình thức sinh hoạt văn hoá này đang bị mai một dần.
Nhờ có sự quan tâm của Đảng và nhà nƣớc, hiện nay kho tàng văn hoá dân gian
của các dân tộc đang dần đƣợc khôi phục.
Trong điều kiện và khả năng có thể, chúng tôi tìm hiểu những giá trị nội
dung và nghệ thuật tiêu biểu của loại hình sinh hoạt văn hoá Hát Iếu và bƣớc
đầu rút ra một số kết luận sau:
1. Kho tàng văn học dân gian của dân tộc Tày vô cùng phong phú và đa
dạng, cùng là hát lƣợn nhƣng mỗi vùng, mỗi địa phƣơng, mỗi khu vực lại có
những tên gọi và giai điệu, tiết tấu khác nhau, nội dung có thể gần giống nhƣ
nhau nhƣng mỗi làng, mỗi bản lại có sự thay đổi chủ đề, chữ nghĩa để phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh giao tiếp. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang là một loại
dân ca giao duyên trữ tình đặc sắc vừa có tính dân gian vừa có tính thành văn.
Nó là văn học dân gian bởi phƣơng thức sáng tác lƣu truyền của nó là truyền
miệng và đƣợc nhuận sắc bởi tập thể. Nó là loại hình nghệ thuật diễn xƣớng
dân gian bởi sự gắn bó sâu sắc với đời sống lao động sinh hoạt của họ. Đối với
ngƣời Tày Bắc Quang cũng nhờ Hát Iếu mà bao chàng trai cô gái nên vợ, nên
chồng; cũng vì câu hát mà bao ngƣời đã có gia đình chạy theo tiếng gọi của
126
tình yêu thuở xa xƣa nhƣng không đến đƣợc với nhau. Đó còn là một làn điệu
dân ca đƣợc đúc kết từ vốn sống, vốn hiểu biết của các thế hệ xa xƣa, là kho
tàng tri thức nuôi dƣỡng tâm hồn, tình cảm, giúp cho các thế hệ con cháu không
bao giờ quên cội nguồn của dân tộc.
2. Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang mang chức năng sinh hoạt xã hội, đó
thực sự là phƣơng tiện trao đổi, bày tỏ tình yêu đôi lứa của các chàng trai cô gái
Tày với nhiều cung bậc, sắc thái tình cảm phong phú và đa dạng. Đó là tấm
chân tình thiết tha nồng thắm, lời giao ƣớc kết duyên tình cảm sâu nặng và cả
những lời chia tay day dứt xót xa trong tình yêu thuở ban đầu; Đó là những bài
học đúc kết kinh nghiệm, cách ứng xử trong tình yêu, cuộc sống. Cũng nhƣ các
loại dân ca khác, Hát Iếu còn là lời bày tỏ, là tiếng hát ngợi ca cuộc sống mới từ
khi có Đảng và Bác Hồ vĩ đại. Tiếng hát giao duyên trong Hát Iếu là tiếng ca
bày tỏ tâm hồn Tày một cách sâu sắc, nồng nàn, chân thực và phong phú. Lời
Hát Iếu cũng khái quát đƣợc quá trình nảy sinh, phát triển của tình yêu nam nữ
dựa trên quan niệm hôn nhân tự do, tiến bộ. Hát Iếu là tiếng lòng ngọt ngào
lắng sâu mà da diết đƣợc cất lên từ trái tim của những tâm hồn giàu tình nhân
ái, thiết tha tràn đầy khát vọng tình yêu, cuộc sống. Đồng thời Hát Iếu còn là
một hình thức sinh hoạt văn hoá văn nghệ hấp dẫn đáp ứng nhu cầu văn hoá
thẩm mỹ của đồng bào Tày ở đây.
3. Nghiên cứu về một số đặc điểm nghệ thuật trong Hát Iếu, chúng tôi
nhận thấy đây là một loại hình dân ca độc đáo của dân tộc Tày. Cũng giống nhƣ
dân ca của các dân tộc khác, Hát Iếu có những nét tƣơng đồng và khác biệt
trong hình thức kết cấu, thể thơ, các biện pháp tu từ hay không gian và thời
gian nghệ thuật…Tuy nhiên, trong tiếng Hát giao duyên của Hát Iếu thì lời văn
trau chuốt, giàu hình tƣợng, hấp dẫn, dễ rung cảm đƣợc lòng ngƣời do thể thơ
có sự dung nạp của thể thất ngôn - thể thơ có khuôn phép, quy định với thể thơ
tự do đã tạo nên sự đa dạng trong cách diễn đạt lời ca nghệ thuật. Hát Iếu còn
sử dụng thủ pháp ẩn dụ, so sánh ví von, không gian và thời gian mang tính
127
nghệ thuật cao. Nghiên cứu các yếu tố thuộc phƣơng diện nghệ thuật đƣợc thể
hiện trong Hát Iếu giúp ta có cái nhìn sâu sắc, thâm nhập vào tƣ duy của ngƣời
Tày để nhận biết khám phá những cái hay, cái đẹp, nét độc đáo của dân ca Iếu.
Từ đó, chúng ta có thể hiểu sâu hơn đời sống văn hoá, phong tục tập quán, nét
đẹp đặc trƣng của các làn điệu dân ca Iếu và tài nghệ của đồng bào Tày ở đây.
4.Trong suốt dòng chảy của lịch sử, từ xa xƣa đến nay Hát Iếu ở Bắc
Quang vẫn tồn tại trong cuộc sống của ngƣời dân lao động, nó ẩn chứa trong đó
là sức sống tiềm tàng mãnh liệt thể hiện niềm khao khát cuộc sống đầy đủ, ấm
no, hạnh phúc lứa đôi. Những lời ca mà chúng tôi sƣu tầm đƣợc trong sinh hoạt
dân gian của đồng bào Tày nơi đây là minh chứng sinh động cho sức sống
mãnh liệt lâu bền ấy. Đó là những giá trị, quan niệm thẩm mỹ, quan điểm nhân
sinh của đồng bào trải qua bao đời nay. Và điều diệu kỳ, sự hấp dẫn của Hát
Iếu nhƣ mạch nƣớc ngầm ngọt ngào chảy trong lòng đất vẫn âm thầm sống, vận
động trong tâm khảm của những ngƣời yêu mến thơ ca dân tộc, trong hơi thở
của tình cảm giao duyên của đôi lứa thuở ban đầu. Tuy nhiên, chƣa thể nói đề
tài đã khám phá đƣợc đầy đủ những giá trị nội dung, nghệ thuật cũng nhƣ sức
sống tiềm tàng của Hát Iếu. Song hiện nay, hình thức sinh hoạt dân ca này đang
dần vắng bóng trong đời sống dân gian. Thế hệ ngƣời có tuổi thì thuộc nhiều
lời hát hơn các thế hệ trẻ, điều này cũng do nhiều nguyên nhân, có lẽ phần
nhiều là các thế hệ trẻ bây giờ tiếp xúc và chịu ảnh hƣởng của nhiều luồng văn
hoá khác nhau, trong khi đó nền văn hoá của dân tộc mình lại không đƣợc bồi
dƣỡng. Hát Iếu cũng nhƣ nhiều loại hình văn hoá dân gian khác của dân tộc
Tày là một kho tàng giàu có đang đòi hỏi sự tìm tòi, nghiên cứu, quan tâm để
những giá trị đó có thể tồn tại ở dạng động của nó.
Vấn đề đặt ra cho các cấp chính quyền, ban ngành của địa phƣơng, nhà
nƣớc là làm sao phát huy, bảo tồn và lƣu giữ loại hình nghệ thuật này để đáp
ứng sự mong mỏi của quần chúng nhân dân đƣợc hƣởng thụ những giá trị tinh
hoa văn hoá của cha ông để lại.
128
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1992),Việt Nam văn hoá sử cƣơng, Nxb Tp HồChí Minh.
2. Bộ văn hoá và Bảo tàng Việt Bắc (1991), Một số vấn đề lịch sử Văn hoá các
dân tộc ở Việt Bắc, Bảo tàng Việt Bắc, Thái Nguyên.
3. Nguyễn Đức Bình (1998), Mấy vấn đề lớn trong nghị quyết hội nghị TW 5
về văn hoá, Tuần báo văn nghệ (34).
4. Hoàng Thị Cấp (2005), Chồm bioóc Mạ, Nxb văn hoá dân tộc, H.
5. Hoàng Thị Cấp (2007), Ra mắt bố mẹ, Hội văn học nghệ thuật tỉnh Hà Giang.
6. Nông Quốc Chấn (1967), “Hãy khơi dòng dân ca các dân tộc thiểu số”, Tạp
chí văn học (1).
7. Nông Quốc Chấn (1977), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc, Nxb Văn hoá dân
tộc, H.
8. Hoàng văn Chữ ( sƣu tầm) (2008), Iếu dân ca dân tộc Tày, chƣa xuất bản.
9. Hoàng Văn Chữ (sƣu tầm)(2008), Iếu hát thơ then, chƣa xuất bản.
10. Chu Xuân Diên ( 1981), “Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian”,
Tạp chí văn học số 5.
11. Lê Duy Đại, Triệu Đức Thanh (chủ biên), (2004), Các dân tộc ở Hà Giang,
Nhà xuất bản Thế giới.
12. Vũ Cao Đàm (1999), Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa
học xã hội.
13. Hà Minh Đức (chủ biên), (2008), Lý luận văn học (Tái bản lần thứ 9), Nxb
giáo dục, H.
14. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, H.
15. Tô Hoài (1976), “ Thực trạng vấn đề văn học thiểu số”, Tạp chí văn học số 3.
16. Hội VHNT các dân tộc thiểu số Việt Nam (1998), “ Sáng tạo và bảo tồn giá
trị văn hoá, văn nghệ các dận tộc thiểu số Việt Nam”.
129
17. Vi Hồng (2001),Thì thầm dân ca nghi lễ, Nxb Văn hoá dân tộc,
18. Vi Hồng (1976), “Vài suy nghĩ về hát Quan lang, Phong Slƣ, Lƣợn,” Tạp chí văn học, (3).
19. Vi Hồng (1979), Sli lƣợn dân ca trữ tình Tày - Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc,H.
20. Nhƣ Hoa ( 2002), Văn hoá ứng xử các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá thông
tin, H.
21. Nguyễn Chí Huyên (chủ biên), (2002), Nguồn gốc lịch sử tộc ngƣời Tày
vùng biên giới phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn học dân tộc,H.
22. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2002), Văn học dân
gian Việt Nam, Nxb Giáo dục,H.
23. Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng (chủ biên), (1994), Lễ hội truyền thống trong
đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, H.
24. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên), (1997), Kho tàng diễn xƣớng dân gian Việt
Nam, Nxb Văn hoá thông tin, H.
25. Nguyễn Xuân Kính (1992), Thi pháp ca dao, Nxb KHXH, H.
26. Nguyễn Xuân Kính (1998), Văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên cứu,
Nxb KHXH, H.
27. Hoàng Ngọc La, Hoàng Văn Toàn, Vũ Anh Tuấn ( 2002),Văn hoá dân gian
Tày, Sở văn hoá - Thông tin Thái Nguyên.
28. Đinh Trọng Lạc, (2003), 99 Phƣơng tiện và Biện pháp Tu Từ Tiếng Việt,
Nxb Giáo dục.
29. Lã Văn Lô, Hà Văn Thƣ (1984), Văn hoá Tày - Nùng, Nxb Văn hoá, H.
30. Lã Văn Lô, Đăng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lƣợc giới thiệu các nhóm dân tộc
Tày, Nùng,Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH, H.
31. Đặng Văn Lung (1997), Nghiên cứu văn hoá dân gian những lĩnh vực nghiên
cứu, Tập 1, Nxb Văn hoá dân tộc.
32. Cung Khắc Lƣợc, Lê Bích Ngân (1987), Lƣợn cọi Tày - Nùng, Nxb Văn hoá
dân tộc
33. Hoàng Minh Lƣờng (2001), “Quan niệm về nghệ thuật trong văn học cổ
130
truyền các dân tộc thiểu số”, Luận án Tiến sĩ.
34. Triệu Hữu Lý (1990), Dân ca Dao, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc,H.
35. Hoàng Tuấn Nam ( 1997), “ Ngƣời Tày Kin Chiêng”, Tạp chí nguồn Sáng , (3).
36. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện đại hội Đảng bộ toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, H.
37. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, H.
38. Trần Đức Ngôn (1990), “ Một số vấn đề lý luận chung quanh việc nghiên
cứu văn bản văn học dân gian”, Văn hoá dân gian (3), H, Trang 16-19.Tạp
chí nguồn sáng, số3.
39. Trần Đức Ngôn (2000), “Những đặc trƣng của văn bản Văn hoá dân gian” in
trong Góp phần nâng cao chất lƣợng sƣu tầm, nghiên cứu Văn học văn nghệ
dân gian, Nxb Văn hoá dân tộc, H, trang 21-37
40. Hoàng Minh Nguyệt, (2009), Một số bài Hát Iếu ở Bắc Quang - Hà Giang.
(Tài liệu sƣu tầm ).
41. Võ Quang Nhơn ((1983), Văn học dân gian các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
42. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam, Nxb Văn
học, H.
43. Nông Thị Nhình (2000), Âm nhạc dân gian các dân tộc Tày, Nùng, Dao
Lạng Sơn, Nxb dân tộc.
44. Nhiều Tác giả (1974), Từ điển Tày - Nùng - Việt, Nxb KHXH, H.
45. Nhiều tác giả (1989), Văn hoá dân gian, những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb
KHXH, H.
46. Nhiều tác giả (1990), Văn hoá dân gian, những phƣơng pháp nghiên cứu,
Nxb KHXH, H.
47 Nhiều Tác giả (1992), Các dân tộc Tày - Nùng ở Viêt Nam, Viện văn học dân
tộc,H.
48. Nhiều Tác giả (1993), Văn hoá dân gian Cao Bằng, Hội văn nghệ Cao Bằng
131
49. Nhiều Tác giả (1998), Văn hoá dân gian, Sở văn hoá thông tin Yên Bái.
50. Lục văn Pảo (sƣu tầm và biên soạn), (1994), Lƣợn cọi, Nxb Văn hoá dân tộc, H.
51. Lê Trƣờng Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb GD.
52. Hoàng Phê (chủ biên), 2001), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung tâm
từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
53. Hoàng Quyết, Triều Ân , Hoàng Đức Toàn (1996), Từ điển văn hoá cổ
truyền dân tộc Tày, Nxb Văn hoá dân tộc,H.
54. Hoàng Văn Trụ (1997), Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB VHDT, H.5
55. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại - Bộ GD & ĐT
- Vụ giáo viên - H.
56. Trần Đình Sử (1998), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, H.
57. Sở văn hoá thông tin Việt Bắc, (1974), Bƣớc đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt
Bắc, Nxb Việt Bắc.
58. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày, nguồn gốc, quá trình phát triển và thi
pháp thể loại, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
59. Ngô Đức Thịnh (1990), Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, Nxb
văn hoá dân tộc.
60. Trần Ngọc Thêm (1997), cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
61. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam ( In lần thứ 4 Có
sửa chữa và bổ sung), Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
62. Lâm Tiến (1995), Văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb văn
hoá dân tộc.
63. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân gian,
Nxb Giáo dục.
64. Nông Quốc Tuấn (2006), Văn hoá phi vật thể dân tộc Tày - Đề tài thuộc
khuôn khổ Dự án: “Sƣu tầm cấp thiết di sản văn hoá về con ngƣời và cộng
đồng gắn với môi trƣờng sinh thái nhân văn vùng lòng hồ thuỷ điện Tuyên
Quang”, Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam, Bộ văn hoá thông tin.
132
65.Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân uỷ ban nhân dân Tỉnh Hà Giang, (2001), Hà
Giang 110 năm đấu tranh, xây dựng và phát triển (1891 - 2001), Nxb Chính
trị Quốc gia.
66. Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (quyển 3),(1992). Tổng tập văn học các dân tộc
ít ngƣời ở Việt Nam, Nxb KHXH, H.
67. Trần Quốc Vƣợng chủ biên (2005), Cơ Sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
68. Phạm thu Yến, (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục, H.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
133
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. MỘT SỐ BÀI HÁT IẾU TIÊU BIỂU CỦA NGƢỜI
TÀY BẮC QUANG - HÀ GIANG
1. Những bài Hát Iếu “Định rƣờn” (định duyên)
Chài:
Giờ khuất cần thôi khảu rụ páy giờ rạu
Cần thôi bâm đế chiềng pân rụ páy
Nhắc bâm óc hỏng hóng là pi so toan
Nhắc bâm óc hỏng chang là vằn pi so lỉn
Vằn nạy pi dú rƣờn khau vài nà chả
Chắng hăn báo thíp hả mà mƣờng
Mự nay pi khen mạ nà đon
Chắng hăn thao tỏn thào mà tô
Giờ nạy pi so đọc thố cón chàu
Khuyên mất là vằn pi khuyên mắƣ
Khuyên au nặm pắn pí khửn bâm
Khuyên au noọng khình châm khăm nạy
Khuyên đảy pi chăng khuyên ăn
Vằn pi khuyên ăn buốp lai chà
Khuyên ăn qua lai chặng.
Chủ rƣờn ới chủ rƣờn
Chủ rƣờn năng bấu sôi bấu dục
Sôi dục thao táng bản khan
Lan sôi dục thao táng mƣờng khan lả.
Mạy pàu răng mừa thọn lai rac thao lác
Răng mừa thọn lai chăƣ
Hẳƣ pi pảu cằm hăƣ thúc toọng
Hẳƣ pi phọng cằm chăƣ chắng thúc tâm
Mƣa pân noọng khình châm chắng toọng
Vằn noọng khan mà bấu lo phua noọng đá
Phua noọng đá vằn pi khác têm moằƣ nhá mừa van
Khảu thay téng bâm tòng vàn
Mừa lôi mừa lội thâng hỏng chang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
134
Mừa vàn thang hỏng hóng
Phua noọng thƣ cằm nọi cằm ón
Tó rà và páo noọng lƣơng nga cứ lỉn.
Chập boóc lỉn đởi boóc thắc
Không chập lầm lỉn đởi lầm thắc thi
Chuc lừ boóc quá tri là thôi lỉn đởi
Căn thắc chặp cà va bấu lo pân
Mí lỉn đƣởi căn thắc thi cà va bấu lo pân rƣờn
Pân lƣờn là vằn pi còi tả
Pân mả là vằn pi còi doàng
Bấu lo pi chèo tàng chèo noọng
Đăm đếch dú táng bản pi đay
Đăm đản dú táng mƣờng pi đay
Chụ loàn rƣơng dú táng sử pi đay
Vằn pi bấu pân rằm đảy pét
Bấu pân kép đảy nem.
Lỉn là lỉn chặp mòn bƣơn tham
chuc lừ mòn quá thí là thôi
Nhình khay pác:
Chíp mừng lan xo páy
Ngoáy nả lan xo chiềng
Lan xo chiềng mừa po đế lả chiềng me cuông lƣờn
Lan chiềng mừa quan viên quỷ chức
Cằm lan ủa bấu thúc bấu pân
Bất nhân lan mà thần chốn nạy
Chiêm đếch nọi lan mí đảy tạu cằm yếu khổ lai
Giờ đay lan xo pản cằm khôn kéng cằm ngoan tó nả lảu
Cằm lan tốc nƣa lảu nhà khua
Thảu ké năng dƣờng nƣa dá tách
Chiêm đếch lan páyđảy học thách nọi lài luộc páy thông
Giờ nạy lan mà thông so lọi
Cằm lan ủa tằng tơi lý long
Chăng pân lấm may mòn lƣờng thán téng chạu
Chiêm đếch vằn lan bấu đảy học cằm iếu khổ lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
135
Thíp giờ chắng đảy giờ nạy moac
Pác giờ chắng đảy giờ nạy đay
Giờ đay nọng khay pác
Giờ moác noọng khay khò
Khay khò đƣởi lƣờng thang noọng vọng.
Trai:
(Giờ tuất nhà cơm xong chƣa đấy
Tất cả đã dọn xong mâm bàn chƣa đấy
Sắp mâm ra gian trái cho anh xin thƣa
Nhắc mâm ra gian giữa cho anh xin hát
Hôm nay anh chăn trâu ruộng mạ
Đƣợc thấy gái mƣời lăm đến mƣờng
Hôm nay anh chăn trâu đồng cao
Đƣợc thấy gái đƣờng xa đến trọ
Cho anh xin mở sổ trƣớc giờ
Xin rồi anh xin tiếp
Xin dòng nƣớc xoáy tròn
Lên tận mâm cơm nhỏ
Xin rồi tôi anh xin tiếp
Xin cô noọng tối nay
Về nhà chồng cho kịp
Xin đƣợc anh mới xin
Họ hàng anh xin nhé.
Xin đi rồi xin lại
Tiếng anh nhƣ xơ mƣớp
Nhiều chặng đƣờng anh xin
Đón em về cho kịp
Chủ nhà ơi chủ nhà
Chủ ngồi trên uống nƣớc
Con gái ngƣời đẹp quá
Tiếng thơm lan khắp làng.
Cây vầu nào nhiều rễ
Cây vầu nào nhiều măng
Cho anh thổi phép màu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
136
Nói những lời chân thật
Khi nào noọng đổi ý
Là ngày trả lời anh
Chồng có mắng nhiều lời
Anh xin đi tạ lỗi
Tạ lỗi tận giữa nhà
Têm trầu đến anh van
Đến khi chồng hết giận
Chúng mình đến với nhau
Hoa đất và hoa xuân
Không thành thì gần chút
Mai sau hoa quá thì
Còn đâu yêu đƣợc nữa
Mới gặp đâu thành duyên
Chắc gì thành nhà cửa
Anh hát ca trong lòng
Đừng sọ anh hại noọng
Đêm xuống khắp làng trên
Đêm xuống khắp mƣờng dƣới
Đêm xuống có trăng rằm
Họ yêu nhau khắp chốn
Đêm xuống có trăng rằm
Tay cầm hoa nắm nem
Thƣơng thì thƣơng ngay nhé
Tình ai sắp quá thì
Gái hát đáp lời:
Chắp tay tôi xin nhé
Ngoảnh mặt tôi xin trình
Xin trình quan, quý tử
Lời không thổi mà thành
Lấy thân mình để ngỏ
Từ nhỏ không biết hát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
137
Xin nói lời đón đƣa
Đừng cƣời tôi nói
Đừng trách lời tôi xin
Tôi đâu nào nói thách
Thông tỏ hết mọi đƣờng
Đến giờ tôi xin hát
Nói cả đời không hết
Nhƣ chỉ tằm đƣa nôi
Từ nhỏ không biết Iếu
Mƣời giờ mới có một giờ
Trăm giờ mới chọn đƣợc
Giờ này em xin đáp lời
Bắp chuối ơi mở ra
Cất giọng mọi ngƣời hiểu.
Tuộng piặc nhình chài
Nhình:
Thân pi mà chặu noọng thắm viêc chặu páy đay nai
Vằn pi mà thoai noọng thắm viêc thoai páy đảy tuộng noọng so tuộng
Piặc hăn tôi cáy đăm lạ lác hẳƣ mà
Đảy hăn báo táng xạ la loác hăƣ mà
Ca hẳƣ noọng phằn đăm rụ chắc
Rụ là pi dú phƣơng bắc mà thâng
Khuyên ăn pi khứn dƣơng ngân đối noọng
Khuyên nhắc dớ khuyên nháy
Khuyên đảy vằn noọng chắng khuyên au
Dá hẳƣ nọong khửn pù khau nắc nƣơi.
Cáy bản tấp pích chúa khăn là khăn
Cáy thuốn tá the lằng mà loạn
Khan mà dớ khan mà pi ơi
Khan mà noọng khan giá
Mí lo cằm pi cá tốc tôm
Bấu lo khoăn khình châm tốc đắc
Khần bấu lo mìa pí đá
Noọng khác nhém mần nhá mừa vàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
138
Kim ngân lót bâm pàn mừa lội
Mừa lội tặt hóng chang
Mừa vàn tặt hóng hỏng
Phác căn hẳƣ pi cá tón au
Dá hẳƣ noọng vọng than nắc nƣới.
Đối đáp trai gái
Gái:
Anh về sớm gặp noọng bận việc sớm.
Anh về muộn bận việc chƣa chào đƣợc em
Thoạt nhìn thấy đôi gà đen lạ hoắc tới chào
Thoạt nhìn thấy trai lạ hoắc đến thăm
Thứ lỗi cho noọng chăn đen nên không biết
Chắc là anh ở phƣơng bắc tới chăng
Chắc là anh tới Dƣơng Ngân với noọng
Nói đi rồi nói lại
Nếu thƣa đƣợc noọng mới dám thƣa
Để noọng lên núi cao nhẹ nhàng
Gà nhà vỗ cánh gáy là gáy
Gà rừng trốn nơi ngủ về tới
Trả lời đi trả lời đi anh
Thƣa rồi noọng thƣa lại
Không sợ lời anh rơi vãi
Không sợ hồn anh xiêu lạc
Không sợ vợ anh ghen
Noọng sẽ têm trầu về xin
Kim ngân lót mâm vàng về lỗi
Về lỗi tận gian trong
Về xin tận gian giữa
Gửi lời cho anh ơi đón lấy.
Chớ để noọng buồn than đau đớn.
Chài:
Chiêm đếch tàng khêm may po me mí páo
Tàng lín chu va đáo po me mí thon
Chống vạy pi mừa thon đắy thay
Thon đáy pi còi váy tao mà
Noọng mắƣ mí chê là coi kết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
139
Từ bé đƣờng chỉ thêu cha mẹ không bảo
Đƣờng yêu đƣơng bố mẹ không cho
Chống gậy anh đến hoạc với thầy
Học đƣợc anh sẽ lại quay về
Nếu noọng không chê ta sẽ kết đôi.
Nhình:
Nhƣợc lăng pi mì rƣờn đoạn gía
Tàng lín pi chắng va chạm va ƣơn va nái.
Nhƣợc bằng anh có gia đình rồi thôi
Đƣờng yêu anh mới nói đi nói lại thêm lời
Chài:
Thíp ơn thêm giạ bái ơn cần
Ơn mừa noọng khình châm đáp lại
Thân pi nhằng chắng thon thói
Đếch nọi chắng thon cằm lừ
Giám kết bạn đối noọng khao tó ké.
Mƣời ơn, thêm xin lại cảm ơn ngƣời
Ơn về noọng có lời đáp lại
Thân anh chƣa có nơi chốn nào
Còn trẻ quá chƣa biết nói lời hay lời đẹp
Dám kết duyên với noọng đến tận già nua.
Nhình:
Cú tin đé lín la nhang pa nọi tin thí
Noọng tặt hẳƣ pi mừa chầm rƣờn mắƣ tơi cố là chầm.
Bƣớc chân đi chơi xuân, bƣớc chân chầm chậm
Noọng mở đƣờng anh về nhà mới là mừng
Chài:
Pi mịn tắc heo pài
Pi chai tắc heo hé
Khảm pi nay chắng còi đảy thé tẳng rƣờn
Chú rƣờn chắng lặp poại khầm tháy
Khảu đông pay chầm chọn đáy tham thíp lằm
Chắng đáy lằm mạy me
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
140
Khẳm đông ké quén nộc nu
Hẳm mạy dú tềng pù lâm luật pịa khoan bán thâng thân
Chú rƣờn nghị taolăng chắng ngứn
Chắng pay vân lac lan dú sẳƣ sáng mà hƣa
Nhắc mạy khứn tông kừa bắc bong
pích cáy thàm pác mạ mòng xong
Thau me kéng thau cón khứn tắng.
Năm ngoái tốc mái nhà
Năm kìa tốc trái sau
Sang năm nay mới xem đƣợc ngày dựng nhà
Ở nhà mới mài dao thật sắc
Vào rừng lựa chặt cây
Vào rừng già đuổi chuột, đuổi chim
Chặt cây trên đồi cao bằng dao bằng rìu
Ở nhà nghĩ đằng sau thấy ngán
Mới đi nhờ ngƣời lạ về hộ
Nhấc cây lên nơi bằng đục đẽo
Cánh gà vỗ võ ngựa khua vang
Cột cái cùng cột nhỏ dựng lên.
2. Một số bài Hát Iếu “Phặt phòng”(dậy sóng)
Khẳm khắc
Khẳm khắc loọng búa bẳng mạy quân
Bƣơn hăn nả luc cần bƣơn bấu
Bƣơn hăn nả chụ cáu bƣơn đai
Tông bạn mọ tông lai thíp hả
Tông bạn mà hăn nả khào bang
Cổm hua lồng giƣờng chang là dú
Lọi lọi mọ tôi thú thiểu kha
Tôi thú thiểu kha cụng mọ thoong thinh là thiếu bạn
Bƣơn nay chắc bƣơn hâng mèng lọong
Mèng loọng pắn săử sảng đua nòn
Nặm phioa tốc mƣa mon pân pế
Chắc pân mạy pân thế mí tông
Tông khảu nả luc cần tông bấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
141
Thƣơng căn phác cằm pián mà là.
Khẳm khắp gọi trong ống cây quân
Biết thấy mặt con ngƣời không nhỉ
Thoáng thấy mặt bạn thoáng không
Mong bạn nhƣ mong trăng giữa tháng
Ngóng bạn chẳng thấy bạn xinh tƣơi
Cúi mặt xuống giữa đƣờng ta ở
Trơ trọi nhƣ chiếc đũa lẻ đôi
Chiếc đũa lẻ đôi nhƣ đôi ta lẻ bạn
Tháng này biết tháng gì ve gọi
Ve gọi quanh chiếc gối ta nằm
Nƣớc mắt rơi gối hoa nhƣ bể
Biết mối tình dang dở không yêu
Yêu theo một con ngƣời hút bóng
Thƣơng nhau đƣa nỗi vắng về ta
Hoa “mạ”
Hoa “mạ” nở trên núi cọng vàng,
Anh yêu em giữa mùa hoa nở.
Bƣớc chân rời tay nhau quên ngay.
Đêm ngày anh còn nhớ hay không nhớ,
Quen nhau từng nét ở em buồn.
Buồn lắm ở mỗi ngƣời một bản,
Gió thổi tàu lá héo bâng khuâng.
Buồn lắm ở mỗi ngƣời một mƣờng,
Gió thổi bức thƣ tình khó tới.
Bióc mặn
Bióc mặn phống khuồn băƣ chắn nhot
Tổn công lọi co bióc pân đuông
Noọng tao au cần táng mƣờng mà lit
Tả điêu pi nòn vin phiác mƣơi
Đảy soỏng noọng chê cuôi nả múng
Pi chắc pi mí giám toan
Chắc noọng giam vằn pi mí giảm kết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
142
Hoa mận
Hoa mận nở xen lá xen ngọn,
Tốn công chắp cánh hoa thành bông.
Em lại thấy ngƣời khác mƣờng đến gõ,
Bỏ mình anh nằm vắng phơi sƣơng.
Đƣợc soỏng em chê sọt mặt bủng,
Anh biết chẳng dám yêu.
Biết em giam lòng anh chẳng dám hƣớng.
Mèng loọng
Đông luông đảy nghìn thiêng mèng loọng
Toọng pi bấu lìa noọng thắc giờ
Điếp căn mắc thảy thân tờ khát
Thƣơng căn ná chắc piai mừa rƣờn.
Ve gọi
Rừng đua rộn tiếng ve than vọng,
Anh chẳng muốn vắng em một giờ.
Nhớ nhau trong lòng thêm vƣơng vấn,
Thƣơng nhau chẳng muốn bƣớc về nhà.
Cằm thắng
Hom mí quá bióc khảu
Hom quả mí quá bióc va miài
Phai phai mí lừm càm noọng thắng
Thíp pi nặm nhằng ắng đăƣ chăƣ.
Lời dặn
Thơm chi bằng hoa lúa,
Thơm dịu chẳng qua nhị hoa nhài.
Dù chết không quên lời em dặn,
Mƣời năm nƣớc còn ứ trong tim.
3. Một số bài hát“Iếu Tạ” (Iếu đố) và “Iếu sỏi"(Iếu Kháy)
Nặc kể lừa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
143
Thức lăng tƣợng chƣợc phẳn chƣợc phƣa
Thức lăng tƣợng bàn cờ phá mác
Thức lăng tƣợng bàn hạc tiêm nhàu
Thức lăng tƣợng quân chàu quyét nặm
Thức lăng tƣợng bản khẳm cần ynh
Thức lăng tƣợng làng lình che đét
Thức lăng tƣợng quét nặm thiên lý pay mà
Thức lăng tƣợng quét nặm phòng ba pay tao
Thúc bấu lả thúc bấu
Thúc bấu noọng còi páo còi toan
Bấu thúc noọng còi toan pay lỉn lại
Hẳƣ pi dú cửa đại đảy ơn.
Đố thuyền
Thức gì tựa dây sắn dây bừa
Thức gì tực bàn cờ trong vƣờn quả
Thức gì tựa bàn hạc têm trầu
Thức gì tựa quân mình quét nƣớc
Thức nào tựa bản thẳm ngƣời xa
Thức gì tựa chiếc muôi che nắng
Thức gì tựa quét nƣớc thiên lý đi về
Thức gì tựa mƣa gió phong ba bão bùng
Không phải, có phải không
Nếu đúng noọng khẽ nói, khẽ khuyên răn
Nếu đúng noọng sẽ đến chơi nơi này
Để anh tựa cửa đại hàm ơn.
Đáp:
Chƣợc lừa tƣợng chƣợc phẳn chƣợc phƣa
Hua lừa tƣợng bàn cờphá mác
Chang lừa tƣợng bàn hạc tiêm nhàu
Dầm lừa tƣợng quân chàu quét nặm
Thau lừa tƣợng bản khẳm cần ynh
Pài lừa tƣợng làng lình che đét
Thao lừa tƣợng quét nặm thiên lý pay mà
Quát lừa tƣợng quét nặm phòng ba pay tao
Thúc bấu lả thúc bấu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
144
Thúc bấu noọng còi páo còi toan
Bấu thúc noọng còi toan pay lỉn lại
Hẳƣ pi dú cửa đại đảy ơn.
Giải đố thuyền
Dây buộc thuyền tựa dây sắn dây bừa
Mũi thuyền tựa bàn cờ vƣờn quả
Giữa thuyền tựa bàn hạc têm trầu
Dầm thuyền tựa quân mình quét nƣớc
Cột buồm thuyền tựa bản thẳm ngƣời xa
Mái thuyền tựa chiếc muôi che nắng
Mái chèo tựa quét nƣớc thiên lý đi về
Quạt nƣớc tựa mƣa gió phong ba
Phải không có phải không
Nếu đúng noọng khẽ nói khẽ khuyên răn
Nếu đúng noọng sẽ đến chơi nơi này
Để anh đƣợc tựa cửa đại hàm ơn
phiắc cát
Nhình:
Phiắc cát van đon thài lai poỏng
Po chài lai toọng buôn hăn
Phiắc cát van đon tắm
Po chài pay chang khăm buôn hăn.
Chài:
Phiắc cát van đon thài lai poỏng
Me nhình mì lai toọng buôn hăn
Phiắc cát van đin đăm
Me nhình pay chang khăm thƣa bốc
Rau cải
Gái:
Rau cải gieo đất cát nhiều dóng
Con trai lắm lòng trời oán
Rau cải gieo đất đồi
Con trai hay đi đêm trời thấy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
145
Trai:
Rau cải gieo đất cát nhiều dóng
Con gái có lắm lòng trời oán
Rau cải gieo đất đen
Con gái hay đi đêm heo bắt.
Lồng đoay
Lồm pặt khửn cốc túm hua nà
Pú gia thẳm phuc phà vạy thả
Pi nay thâng pi nả noọng pay
Thoong mừng chổm hua đoay lồng lang
Xuống thang
Gió thổi lên gốc xổ đầu thôn
Cha mẹ sắm chiếu chăn để đợi
Năm nay sang năm nữa em đi
Hai tay chống cầu thang xuống bãi.
(Ngƣời sƣu tầm: Hoàng Minh Nguyệt, ngƣời dịch: Hoàng Bình Dựng và
Hoàng Minh Nguyệt, dân tộc Tày ở Bắc Quang - Hà Giang)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
146
PHỤ LỤC 2. MỘT SỐ KHẢO SÁT VỀ HÁT IẾU TRONG ĐỜI SỐNG
VĂN HOÁ CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG.
1. Ông Hoàng Văn Chữ (74 tuổi)
Quê ở xã vĩnh phúc huyện Bắc Quang - Hà Giang, nguyên là cán bộ Ty
văn hoá Hà Tuyên nay đã nghỉ hƣu cho biết:
Hát Iếu là một loại hình dân ca độc đáo của ngƣời Tày ở Bắc Quang,
phần lớn đƣợc phân bố ở khu vực xã Đồng Yên, Xuân Giang, còn ở các xã
khác trong huyện thì ít hơn. Hát Iếu cũng kéo sang cả khu vực của Huyện Lục
Yên - Yên Bái, huyện Hàm Yên của tỉnh Tuyên Quang. Hiện nay trong dân
gian vẫn còn lƣu chuyển kho tàng nội dung vô cùng phong phú của Hát Iếu mà
chƣa ai khám phá đƣợc hết. Bản thân ông là một ngƣời công tác trong ngành
văn hoá nên ông rất tâm huyết với việc sƣu tầm, gìn giữ vốn văn hoá cổ truyền
của dân tộc mình. Ông nói, nghe đƣợc làn điệu dân ca Iếu của mình thì lòng
cảm thấy rƣng rƣng, da diết, sâu lắng; Đặc biệt là những ngƣời già khi họ sắp ,
dời khỏi cuộc sống nếu đƣợc nghe một câu Iếu cũng làm họ ấm lòng và nhắm
mắt trong nụ cƣời với cõi lòng thanh thản, nhẹ nhàng. Thế mới biết trƣớc khi
Bác Hồ ra đi còn tha thiết muốn đƣợc nghe một làn điệu dân ca, một câu hò
giọng điệu của quê hƣơng xứ sở mình đến nhƣờng nào. Theo ông Hát Iếu chủ
yếu là những lời ca giao duyên, bày tỏ tỏ nỗi lòng của các chàng trai, cô gái
Tày. Ngày xƣa, Hát Iếu thƣờng xuyên đƣợc tổ chức trên nhà sàn, khắp bản trên
mƣờng dƣới, ngƣời ta dùng lời ca Iếu theo lối đối đáp để tìm hiểu nhau, nhiều
ngƣời thành duyên vợ chồng. Ngƣời hát Iếu nhiều nhƣng ngƣời đi nghe Iếu
càng đông hơn, từ già đến trẻ ai cũng thuộc lòng hàng trăm bài hát… Đến nay
thì sinh hoạt Hát Iếu đã không còn nhƣ xƣa nữa, thi thoảng ở xã mới tổ chức
một vài cuộc hát. Ngƣời Hát và nghe hát cũng vơi đi nhiều lắm! Ông khẽ thở
dài, có lẽ trong lòng ông buồn vì điều mình vừa nói và vì ông có duyên nợ với
làn điệu quê hƣơng.
2. Bà Hoàng Thị Minh (79 tuổi),
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
147
Quê ở xã Đồng Yên, huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang. Khi đƣợc hỏi về
Hát Iếu và những vấn đề liên quan đến Hát Iếu, bà mỉm cƣời và nói: Bây giờ
già rồi không còn nhớ và thuộc nhiều bài hát nữa nhƣ trƣớc nữa, nhƣng bà vẫn
rất thích nghe hát bởi những lời ca Iếu có sức sống mãnh liệt trong tâm hồn bà.
Khi tôi bật bài hát mình ghi âm đƣợc bà im lặng lắng nghe và hát theo nhịp
điệu của bài hát. Nghe xong bà bảo Hát Iếu của dân tộc Tày ở đây không biết
có từ bao giờ, lớn lên bà đã đƣợc nghe các bà, các chị của mình hát và cũng
thuộc lòng từ bao giờ. Nội dung thì đa dạng, phong phú, chủ yếu là những lời
ca bày tỏ tình cảm, ca ngợi cuộc sống, bản làng… của các anh, các chị. Họ
cùng nhau bày tỏ tình cảm nếu mến nhau, còn không thích họ nói lời “độc” cho
nhau thật cay cú và thấm thía. Trong cuộc chơi họ còn đƣa ra những bài Iếu để
thử tài ứng đối, trí thông minh, nhạy bén qua các lời Iếu đố. Họ dùng cách nói
so sánh ví von, ẩn dụ, phóng đại, điệp từ, điệp ngữ… rất tài tình. Trong những
đêm hội làng, dịp lễ tết hay trong bản có đám cƣới, đám xin thì tất cả mọi ngƣời
lại náo nức chuẩn bị tham dự. Ngƣời nào hát giỏi, hát hay thì đƣợc nhiều ngƣời
ngƣỡng mộ và kính nể lắm. Nhƣng là ngày trƣớc thôi, bây giờ hiếm khi có dịp
nhƣ vậy.
3. Ông Hoàng Nừng (74 tuổi )
Quê ở huyện Lục Yên tỉnh Yên Bái giáp với xã Đồng Yên của huyện Bắc
Quang - Hà Giang. Ông là một ngƣời yêu mến sâu sắc làn điệu Khắp Cọi (Hát
Iếu) của dân tộc mình. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất của Khắp Cọi nên ông
am hiểu sâu sắc về nó. Ông nói Hát Iếu luôn là mạch nguồn của dân tộc Tày ta
chảy mãi ngàn năm trong lòng ngƣời yêu mến. Ông từng là một nhạc sĩ trong
quân đội, đã từng hát và sáng tác nhiều bài hát theo âm hƣởng dân ca Tày, nay
đã về hƣu nhƣng dòng suối ngọt ngào của Iếu Cọi vẫn chảy trong tâm khảm và
tiếp sức cho ông trong tuổi già, ông vẫn dạy các thế hệ con cháu mình làn điệu
dân ca của dân tộc cùng tiếng đàn tính mƣợt mà lắng sâu. Ông kể với giọng vui
vẻ, tự hào: Năm 2008 ông đi dự thi hát dân ca ở Tỉnh Cao Bằng và đoạt giải A,
ông thấy, làn điệu Hát Iếu (Khắp cọi) của dân tộc Tày quê hƣơng mình cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
148
không hề thua kém những nơi khác…Ông còn rất nhiều giải thƣởng, bằng khen
khác nữa treo trang trọng trên tƣờng trong ngôi nhà nhỏ ven thị trấn Lục Yên.
4. Bà Vi Thị Hoà, (68 tuổi)
Quê ở xã Đồng Yên, huyện Bắc Quang - Hà Giang. Bà là một giáo viên
đã nghỉ hƣu, đồng thời cũng là một nghệ nhân Hát Iếu. Bà cho Biết: Mấy chị
em gái nhà bà ai cũng mê và biết Hát Iếu, bây giờ vẫn hát và hát hay nữa. Hiện
nay bà là chủ tịch của câu lạc bộ Hát Iếu ở xã, bà đang dạy các con, các cháu và
những ngƣời yêu thích Hát Iếu. Bà nói: Bà vui lắm, bởi trong trời đại đổi mới
nhƣ bây giờ mà vẫn có ngƣời mong đƣợc nghe và Hát Iếu. Bây giờ cảm thấy
già rồi, giọng mình không đƣợc trong và ngọt nhƣ xƣa nữa. Bà nhớ lại trƣớc
đây trong các cuộc Iếu bà là ngƣời đƣợc nhiều ngƣời chú ý nhất, đặc biệt là các
chàng trai từ bản khác tới cuộc chơi. Nhiều lúc, có ngƣời mê tiếng hát của mình
theo về đến tận nhà xin đƣợc hát cùng. Bà hăng hái kể thêm: Vừa rồi có dịp
sang bản khác thi Hát Iếu, đến đoạn hát đố bà đƣa ra những câu Iếu đố “hóc
búa” quá không ai đối lại đƣợc và họ đành chịu thua cuộc trong sự ấm ức khi ra
về. Trong một đêm Hát Iếu của dân tộc mình vui lắm, nhất là những đêm đông
lạnh giá, bên bếp lửa ấm nồng, các quan làng, trƣởng bản, tất thảy mọi ngƣời từ
già đến trẻ đều im bặt tiếng nói cƣời khi tiếng Iếu đƣợc cất lên. Họ để tâm vào
tiếng hát của các anh, các chị, rồi họ cùng vui, cùng buồn theo lời ca, tâm trạng
của ngƣời hát. Có lúc không khí đƣợc hâm nóng lên bằng những lời ngợi ca
mừng bản mƣờng, mừng cuộc sống vui tƣơi, mừng nhà mới, trông ngắm các
sự vật hiện tƣợng xung quanh cuộc sống…Da diết, đau đáu lắm! bà nói vậy.
5. Chú Hoàng Quang Luận (45 tuổi)
Quê ở xã Hùng An huyện Bắc Quang - Hà Giang nói rằng: Bản thân chú
là một thầy cúng nên với các làn điệu nhƣ Hát Iếu của dân tộc mình chú cũng
biết và hát nữa. Trƣớc đây cha của chú cũng là ngƣời say mê và sƣu tầm những
lời Iếu cổ, nhƣng do không cẩn thận nên chú đã đánh mất. Chú nói: Hát Iếu
luôn là đề tài sôi nổi, nhộn nhịp trong mỗi dịp xuân về trên bản làng của ngƣời
Tày mình. Nghe hay hát lên những giai điệu của Iếu tâm hồn mình đang bực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
149
bội, khó chịu cũng dễ xiêu lòng và nó làm cho tâm hồn mình sâu sắc hơn. Chú
khẳng định: Hát Iếu có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần và phản ánh đƣợc
những nét phong tục tập quán, đời sống của ngƣời dân Tày.
6. Chị Hoàng Liên Sơn (29 tuổi)
Quê ở xã Yên Hà Huyện Bắc Quang - Hà Giang kể lại: Mỗi khi về quê,
nếu là dịp lễ, hội thì chị lại đƣợc nghe các cụ, các bà, các chị Hát Iếu. Hay lắm!
tuy nhiều từ nghe không hiểu hết nhƣng chị thấy quê hƣơng mình có làn điệu
dân ca thật mƣợt mà, ngọt ngào, da diết tận đáy lòng. Còn các nghệ nhân hát thì
gửi tất cả nỗi lòng, hơi thở, nhịp đập của con tim mình vào từng lời ca. Qua lời
hát thấy tâm hồn con ngƣời thật phong phú, mọi cung bậc, cảm xúc đƣợc bộc
lộ. Vì thế mà những câu hát giao duyên thuở xƣa của dân tộc mình đáng trân
trọng, tự hào biết bao. Chị nghĩ nếu đƣợc bảo lƣu tốt tƣơng lai con cháu mình
còn biết, cứ nhƣ chị bây giờ còn sắp mất gốc đến nơi rồi.
7. Chị Hoàng Thị Khôn (40 tuổi)
Quê ở xã Hùng An cho biết: Từ trƣớc tới nay Hát Iếu ở địa phƣơng mình
đƣợc coi là bản sắc của dân tộc, nói đến văn hoá, văn nghệ thì Hát Iếu vẫn là
làn điệu dân ca cổ đƣợc yêu thích. Không biết từ lúc nào mà mọi ngƣời ở đây
đa phần là biết Hát Iếu, chị kể: Chính bố mẹ chồng chị trƣớc đây lấy đƣợc nhau
đƣợc là do hai ông bà thƣờng Hát Iếu giao duyên với nhau, tình yêu của họ
đƣợc xây đắp nên từ những câu hát ân tình ấy. Trƣớc đây khi về nhà chồng chị
mới đƣợc bố mẹ chồng dạy hát và bây giờ chị lại dạy cho con gái mình biết Hát
Iếu. Chị cảm thấy vui vì mình còn biết hát điệu hát của dân tộc mình.
8. Anh Hoàng Tiến Dũng (25 tuổi)
Quê ở xã Xuân Giang huyện Bắc Quang tỉnh Hà Giang cho biết: Quê
hƣơng anh phần lớn là bản làng của ngƣời Tày sinh sống ở đây từ bao đời nay,
quanh năm chỉ có ruộng đồng, cấy hái, đời sống vật chất còn nghèo nhƣng
đƣợc cái đời sống tinh thần thì không đến nỗi. Ở đây thế hệ nhƣ bọn mình vẫn
say mê những làn điệu dân ca của quê hƣơng, đặc biệt là Hát Iếu, thi thoảng
trong bản, trong xã vẫn tụ tập cùng nhau thi Hát. Ngay cả những lúc lên nƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
150
làm rẫy anh cất tiếng hát cũng khối cô ngƣỡng mộ, nhƣng chủ yếu là mình
thích hát và câu hát làm mình vơi đi nỗi vất vả, mệt nhọc thƣờng ngày. Anh
nói: Mình vẫn thích làn điệu Iếu của mình hơn là nghe nhạc trẻ thời bây giờ,
đau đầu lắm! Thật đáng trân trọng khi gặp đƣợc một tâm hồn tuổi trẻ yêu mến
làn điệu dân ca của mình trong thời buổi nền văn hoá pha tạp nhƣ hiện nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
151
PHỤ LỤC 3. MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐIỀN DÃ VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ
CỦA NGƢỜI TÀY Ở BẮC QUANG HÀ GIANG.
Một bản của ngƣời Tày ở xã Tiên Yên Bắc Quang - Hà Giang
Nhà ở của ngƣời Tày ở xã Vĩ Thƣợng huyện Bắc Quang - Hà Giang.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
152
Vào mùa ở xã Hùng An Bắc Quang - Hà Giang
Ngày cấy trên quê hƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
153
Bản của ngƣời Tày ở xã Đồng Yên - Bắc Quang - Hà Giang
Nhà ở của ngƣời Tày xã Xuân Giang Bắc Quang - Hà Giang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
154
Nhà ở của ngƣời Tày ở xã Tiên Yên Bắc Quang - Hà Giang
Ruộng lúa ở Đồng Yên Bắc Quang - Hà Giang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
155
Con đƣờng qua bản hôm nay
Mùa cam chín
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
156
Thác nƣớc trên đƣờng đi điền dã.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
157
Một văn bản Hát Iếu do nghệ nhân Vi Thị Hoà Sƣu Tầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
158
Tác giả đề tài đang ghi chép sƣu tầm Hát Iếu
Nghệ nhân dạy hát
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
159
Ảnh nghệ nhân Hát Iếu Vi Thị Hoà ở Đồng Yên Bắc Quang - Hà Giang.
Tác giả đề tài chụp ảnh cùng nghệ nhân Hát Iếu Vi Thị Hoà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
160
Tác giả nghe nghệ nhân Hát Iếu
Ảnh nghệ nhân Hoà bên góc rào vƣờn quen thuộc của ngƣời Tày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
161
Ảnh của các nghệ nhân Hát Iếu ở xã Hùng An Bắc Quang - Hà Giang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
162
Ảnh nghệ nhân Hoàng Thị Thƣ, 53 tuổi ở Hùng An Bắc Quang - Hà Giang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
163
Một cảnh trong đêm Hát Iếu
Mặc trang phục truyền thống của ngƣời Tày Bắc Quang - Hà Giang
Ghi chú: Phụ lục ảnh của Tác giả đề tài chụp khi đi điền dã: 04/ 08/ 2008
và 05/ 02/ 2009
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 148LV09_SP_VHVNHoangThiMinhNguyet.pdf