Luận văn Hệ thống BHXH ở Việt Nam hiện nay- Thực trạng và giải pháp

Đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách, chế độ BHXH là xu thế vận động tất yếu của ngành BHXH Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang hình thành. BHXH, với vai trò phòng tránh rủi ro cho người lao động, là một lĩnh vực mang tính kinh tế, xã hội và nhân văn cao. Điều đó đòi hỏi đổi mới BHXH cũng cần vận động theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao tính xã hội và nhân văn. Nâng cao hiệu quả kinh tế của BHXH có nghĩa là đào tạo quản lý và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động hiện có để nâng cao năng suất và hiệu quả công việc, tránh lãng phí và thất thoát; tinh giản bộ máy, đổi mới mô hình tổ chức hoạt động của bộ máy để giảm chi cho hoạt động của bộ máy, giảm sự chồng chéo và nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy; nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ BHXH trong hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, Nâng cao tính xã hội và nhân văn của BHXH là làm cho BHXH được phổ biến rộng rãi hơn, đến được với nhiều người lao động hơn, có mức độ "bao phủ" rộng rãi hơn, giảm được chi phí đóng góp của các bên tham gia, tăng mức hưởng cho người lao động nhờ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Nâng cao tính xã hội và nhân văn của BHXH còn được thể hiện ở chỗ làm cho BHXH phong phú hơn; các chính sách, chế độ về BHXH ngày càng hoàn thiện hơn Với quan điểm đó, qua quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn khẳng định một số kết quả chủ yếu sau đây: 1. Trên phương diện lý thuyết, chúng tôi đã cố gắng hệ thống hoá được những lý luận cơ bản có liên quan đến BHXH và hệ thống BHXH. Đó là lý luận về bản chất và tính tất yếu khách quan của BHXH; nguyên tắc vận hành của hệ thống BHXH, cơ chế tổ chức và các mô hình tổ chức BHXH, ưu nhược điểm và xu hướng phát triển của chúng trong điều kiện tri thức hoá, toàn cầu hoá kinh tế. 2. Từ những nghiên cứu chuyên sâu về kinh nghiệm tổ chức, hoạt động và vận hành của hệ thống BHXH của một số nước trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của Thailand, Philippines, Malaysia, Hàn Quốc, luận văn đã chỉ ra được một số kinh nghiệm tốt có thể vận dụng ở Việt Nam. 3. Từ việc phân tích xu hướng vận động của nền kinh tế, luận văn đã chỉ ra được tác động của xu hướng phát triển kinh tế đến hệ thống BHXH và những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với hệ thống BHXH trong các giai đoạn phát triển. 4. Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống BHXH ở Việt Nam hiện nay liên quan đến mô hình tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của các cấp quản lý, đội ngũ cán bộ và trình độ đội ngũ cán bộ, cơ chế vận hành của hệ thống BHXH, tình hình tham gia BHXH, thực hiện các chế độ BHXH, tình hình thu chi, quản lý thu chi BHXH, cân đối và tăng trưởng quỹ, xây dựng hệ thống chính sách chế độ , luận văn đã chỉ ra những hạn chế đáng lưu ý của hệ thống BHXH Việt Nam, đồng thời phân tích những nguyên nhân dẫn đến các mặt hạn chế đó.

doc123 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1552 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hệ thống BHXH ở Việt Nam hiện nay- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc được tự tổ chức thực hiện BHXH bổ sung cho người lao động theo những nội dung nằm ngoài phạm vi giới hạn của hệ thống BHXH do nhà nước lập ra. - Phải đổi mới cơ chế quản lý BHXH theo hướng tăng cường hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH nhằm làm giảm các khoản đóng góp của các bên tham gia BHXH, giảm bớt sự bao cấp của ngân sách nhà nước, đồng thời tăng cường hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam theo những nguyên tắc phổ biến của thị trường BHXH khu vực và thế giới nhằm làm giảm các khoản đóng góp của các bên tham gia BHXH, giảm bớt sự bao cấp của ngân sách nhà nước. Thực tế hoạt động BHXH ở các nước trên thế giới cho thấy hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH thực hiện rất hiệu quả. Rõ ràng, nguồn tiền thu được từ đóng góp BHXH của các bên tham gia là rất lớn, nếu được sử dụng có hiệu quả để đầu tư sinh lời, chắc chắn rằng gánh nặng của nhà nước và các bên tham gia về đóng góp cho BHXH sẽ được giảm bớt. Hoạt động BHXH phải là hoạt động trên cơ sở lấy thu bù chi, cân đối thu chi song chi phí cho hoạt động của bộ máy phải ở mức thấp nhất, hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ hoạt động có hiệu quả nhất, các bên tham gia BHXH phải đóng BHXH ở mức thấp nhất. Về mối quan hệ giữa BHXH với tiền lương, cần lựa chọn mức độ quan hệ cho phù hợp với tính chất hoạt động và sự biến động của từng lĩnh vực trong nền kinh tế thị trường. Với viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang do nhà nước trả lương từ ngân sách thì có thể thực hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa BHXH với mức lương cá nhân và quỹ lương của đơn vị, cơ quan. Đối với khu vực sản xuất - kinh doanh và lao động độc lập thì phải lựa chọn quan hệ mềm dẻo, khi chưa thể kiểm soát được tiền lương và thu nhập của khu vực này. - Phải đổi mới BHXH Việt Nam theo hướng hình thành một mô hình bảo đảm đầy đủ các chính sách, chế độ trợ cấp phòng tránh rủi ro cho người lao động, bảo đảm tối đa quyền của người lao động trên cơ sở quy định hiện hành của pháp luật. Điều đó có nghĩa là phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ của BHXH Việt Nam, làm cho nó ngày càng hoàn thiện phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và với những bước chuyển lớn của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những chế độ BHXH mới cần được đưa ra và bổ sung kịp thời; những chính sách chế độ đang thực hiện, nếu có khiếm khuyết, cần được nghiên cứu, chỉnh sửa và bổ sung cho phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế. - Chuyển hệ thống BHXH hiện hành sang hệ thống BHXH mới phải được thực hiện dần dần theo những bước đi và biện pháp quá độ thích hợp. Trước hết cần phải tách phần ưu đãi ra khỏi các chế độ trợ cấp BHXH; phần ưu đãi sẽ do ngân sách nhà nước trả bằng một loạt trợ cấp ưu đãi còn phần BHXH do BHXH trả. Sau đó mới tiếp tục xử lý các vấn đề đối với người đang nghỉ việc hưởng trợ cấp BHXH đối với công nhân viên chức đang làm việc và đã có thời gian vào biên chế nhà nước từ hàng chục năm nay. Với các vấn đề khác như chuyển đổi mô hình tổ chức, đổi mới tổ chức cán bộ, v. v… cũng cần phải tiến hành từng bước. - Chính sách BHXH là một bộ phận trong tổng thể các chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước. Đổi mới chính sách BHXH phải gắn liền với sự thay đổi đồng bộ các chính sách kinh tế - xã hội khác. Trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay, các chính sách vĩ mô do Nhà nước đưa ra phải là hệ thống đồng bộ, vì các chính sách này có liên quan chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, sự thay đổi của chính sách này có thể kéo theo sự thay đổi của các chính sách khác. Chính sách BHXH là một trong những chính sách nằm trong hệ thống đó, do vậy, khi đổi mới chính sách BHXH, cần đổi mới các chính sách kinh tế - xã hội có liên quan như ưu đãi xã hội, tiền lương (tiền công, việc làm, bảo hộ lao động, quản lý lao động, chăm sóc y tế v. v…). Trên cơ sở hệ thống quan điểm về đổi mới BHXH Việt Nam đã đề xuất, chúng tôi kiến nghị một số nguyên tắc đổi mới hệ thống BHXH như sau: - Đổi mới tổ chức phải phù hợp với cơ chế hoạt động của BHXH trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và điều kiện thực tế của hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam. Đây là vấn đề có tính khách quan quy định sự chuyển đổi cơ cấu tổ chức của ngành BHXH Việt Nam. Vì theo nguyên lý, cơ chế quản lý của bộ máy tổ chức quản lý phải phù hợp với cơ chế quản lý của quỹ BHXH. Theo cơ chế quản lý quỹ BHXH được hình thành do các bên đóng góp, độc lập nằm ngoài ngân sách nhà nước và theo nguyên tắc có đóng có hưởng, đóng nhiều hưởng nhiều đóng ít hưởng ít. Do đó mọi người phải có sự thay đổi căn bản về nhận thức và trách nhiệm đối với chính sách BHXH. Với cơ chế hoạt động mới của BHXH phải có định hướng để thực hiện sự đổi mới về cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH. Nhưng mặt khác còn phải căn cứ vào điều kiện thực tế của cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ để tiến hành cải cách, điều chỉnh và sắp xếp lại cán bộ sao cho phù hợp với bối cảnh thực tế và có hiệu quả. Vấn đề mấu chốt là bảo đảm sự phù hợp và hiệu quả giữa bộ máy quản lý với cơ chế quản lý mới của quỹ BHXH trong nền kinh tế chuyển đổi sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Tính phù hợp ở đây xét cả về yêu cầu khách quan và điều kiện thực tế cho phép để tiến hành sự đổi mới hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam. - Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ quản lý của BHXH Việt Nam để đổi mới cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đó ngày càng có hiệu quả cao. Đồng thời phù hợp với nội dung, phương hướng chung của cải cách hệ thống hành chính nhà nước để có cơ sở xử lý những vấn đề cụ thể về cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ của hệ thống BHXH Việt Nam. Điều căn bản của nguyên tắc này là một mặt, phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ chính sách BHXH để làm cơ sở cho việc xây dựng và kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy; mặt khác, việc đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức và đội ngũ cán bộ của BHXH Việt Nam phải đặt trong tổng thể của phương hướng cải cách hệ thống hành chính nhà nước. Về đổi mới công tác tổ chức cán bộ, việc đổi mới phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của BHXH Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển; gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách; đào tạo cán bộ dựa trên cơ sở lý luận tiên tiến và thực tiễn đất nước và thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ các cấp trong hệ thônga BHXH. - Bảo đảm sự tập trung thống nhất trong quản lý từ trung ương đến địa phương, tránh sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ: BHXH cấp tỉnh và cấp huyện thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo sự phân cấp quản lý của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam một cách chủ động, sáng tạo. Trong cùng một hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam không có sự chồng chéo, trùng lặp về nhiệm vụ giữa các cấp cũng như trong từng bộ máy quản lý, giảm khâu trung gian và số cấp quản lý không cần thiết, đơn giản hoá thủ tục giấy tờ và đổi mới phong cách làm việc và phương hướng phục vụ các đối tượng tham gia BHXH để từng bước tạo ra cơ chế phục vụ "một cửa" thuận tiện, nhanh chóng, kịp thời. Đổi mới phải bảo đảm nguyên tắc tối cao là tính hiệu lực và hiệu quả của toàn hệ thống BHXH. - Đổi mới cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ phải tiến hành từng bước, tạo tiền đề cho những bước tiếp theo, theo nguyên tắc: vừa giữ được sự ổn định cần thiết để hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam hoạt động bình thường, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, vừa tạo tiền đề khi điều kiện cho phép sẽ đổi mới một cách căn bản, toàn diện. Như vậy, đổi mới hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam cần tuân thủ nguyên tắc cơ quan này không chịu trách nhiệm về hoạch định chính sách, chế độ BHXH mà chỉ tổ chức thực thi các chính sách, chế độ BHXH theo qui định của Nhà nước. - Đổi mới trong khung quy định của pháp luật hiện hành: Đổi mới cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ của hệ thống BHXH Việt Nam đều phải dựa trên cơ sở qui định của pháp luật về thẩm quyền quyết định tổ chức của mỗi cấp và của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Mỗi chức năng quản lý phải có tổ chức thực hiện rõ ràng và theo đúng địa chỉ, không có chức năng nào không có tổ chức đảm đương; ngược lại, không có tổ chức nào không có chức năng. Nhưng không nhất thiết mỗi chức năng phải thành lập riêng một tổ chức mà có thể một tổ chức đảm nhiệm nhiều chức năng tương tự như nhau hoặc liên quan đến nhau. Cũng như vậy một chức năng không thể giao cho nhiều tổ chức, nhiều người cùng thực hiện để tránh sự chồng chéo, trùng lặp. - Đổi mới trên cơ sở đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực quản lý điều hành của đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Nguyên tắc này đòi hỏi phải dần chuẩn hoá, chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH, qua đó nâng cao năng lực thực hiện nghiệp vụ BHXH của đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý. - Đổi mới trên phương châm xây dựng bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, hạ thấp chi phí. Việc xây dựng và lồng ghép các chức năng, nhiệm vụ và các tổ chức với nhau làm cho bộ máy tổ chức của BHXH ngày càng gọn nhẹ, giảm bớt chi phí. Cơ cấu tổ chức đó sẽ tạo ra một đường đi ngắn nhất trong việc xử lý các văn bản hành chính giữa cấp trên với cấp dưới, giữa các phòng ban với nhau, thông tin trong cùng một hệ thống sẽ được cung cấp nhanh chóng, chính xác, đầy đủ, kịp thời. - Đổi mới trên cơ sở tiếp thu những kinh nghiệm tiên tiến của các nước trong khu vực và thế giới. Nguyên tắc này đòi hỏi phải nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức, hoạt động và quản lý BHXH của các nước trên thế giới, tìm ra những tồn tại, nguyên nhân của các mô hình tổ chức quản lý hoạt động BHXH và những bài học kinh nghiệm trong lĩnh vực BHXH của các quốc gia khác để tránh sai lầm; tiếp thu những tinh hoa trong hoạt động BHXH nhằm thực hiện tốt hơn hoạt động BHXH. - Đổi mới trên cơ sở tập trung nghiên cứu, chỉnh sửa, bổ sung các chính sách, chế độ BHXH, tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý các nguồn thu chi, cân đối thu chi BHXH, mở rộng phạm vi ảnh hưởng của BHXH Việt Nam. Các chính sách, chế độ về BHXH cần phải tiếp tục được nghiên cứu, chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp với nhu cầu bảo hiểm cơ bản của người lao động, phù hợp với quy định tại các công ước quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ tham gia ký kết và đặc thù của Việt Nam trong từng thời kỳ. Công việc mở rộng nguồn thu BHXH, mở rộng đối tượng tham gia BHXH cũng cần được xúc tiến để số lượng người được bảo hiểm ngày càng tăng. Vấn đề quản lý thu chi BHXH cũng cần được nâng cao hiệu quả, tránh thất thoát. 3. 1. 2- Về định hướng phát triển BHXH Việt Nam Trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mọi người đều có quyền bình đẳng trong lao động và hưởng thụ, đều có cơ hội phát triển. BHXH cần thực hiện "sự bảo vệ xã hội" cho người lao động. Vì vậy, BHXH phải có những mục tiêu phát triển mới để đáp ứng nhu cầu của xã hội. 3. 1. 2. 1- Hoàn thiện các cơ sở pháp lý và bảo đảm về pháp lý Định hướng chính là: - Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các chế độ, chính sách BHXH. Cần khẩn trương triển khai nghiên cứu và tiến tới ban hành bộ Luật BHXH nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của người tham gia BHXH; thực hiện có hiệu quả chính sách an sinh xã hội của Nhà nước. - Tăng cường những quyền lực cần thiết của Nhà nước thông qua các chế tài pháp lý cho BHXH Việt Nam trong việc quản lý nhà nước về BHXH, nhất là công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách BHXH, nhằm bảo đảm mọi qui định có liên quan được thực hiện đầy đủ, đúng đắn, kịp thời, có hiệu quả. 3. 1. 2. 2- Mở rộng đối tượng và hình thức tham gia BHXH Ngoài hình thức bắt buộc, cần triển khai thực hiện hình thức BHXH tự nguyện đã được qui định trong bộ Luật Lao động. Ngành BHXH phải cố gắng thu hút tất cả các đối tượng lao động thuộc các thành phần kinh tế tham gia BHXH. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH góp phần làm lành mạnh thị trường lao động. Hiện nay nước ta có khoảng 39 triệu người trong độ tuổi lao động, nhưng số người tham gia BHXH chỉ trên 4 triệu người, chiếm khoảng 10%. Đa số người lao động ở những khu vực không có quan hệ lao động hoặc ở các đơn vị có dưới 10 lao động chưa được tham gia BHXH, mặc dù nhiều người trong số họ có nhu cầu. Tuy nhiên, việc mở rộng đối tượng như thế nào cần phải nghiên cứu kỹ. Có thể mở rộng đối tượng theo một số hướng tới đây: Đối với hình thức bắt buộc: mở rộng thêm cho những người lao động trong các doanh nghiệp có dưới 10 lao động, lao động tại các hợp tác xã, trang trại… để giảm rủi ro giảm hoặc mất nguồn thu nhập cho người lao động, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người lao động. Đối với hình thức tự nguyện: áp dụng hình thức tự nguyện cho người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và những người lao động độc lập. Do tính chất lao động của họ đa dạng và thu nhập khó kiểm soát, cần có cách thức tổ chức linh hoạt, mức đóng góp có thể dựa trên cơ sở tiền lương tối thiểu hoặc mức thu nhập trung bình. Trước mắt, có thể thực hiện một số chế độ cần thiết đối với người lao động (hưu trí, tử tuất, ốm đau), rồi dần dần thực hiện tất cả các chế độ BHXH. Hình thức tự nguyên chỉ là giải pháp tình thế, về lâu dài BHXH phải áp dụng bắt buộc đối với tất cả người lao động. 3. 1. 2. 3- Hoàn thiện hệ thống chính sách chế độ BHXH Cần sớm nghiên cứu triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam như đã quy định trong bộ Luật Lao động. Đây là chế độ BHXH cần thiết, đã được nhiều nước trên thế giới làm và Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm của họ. Cần từng bước nghiên cứu bổ sung thêm 3 chế độ trợ cấp khác được quy định tại Công ước 102 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) là trợ cấp gia đình, trợ cấp tàn tật và trợ cấp mất người nuôi dưỡng. Các chế độ này trước hết cần được luật hoá, sau đó triển khai nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và cách thức vận dụng các chế độ này vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện các chính sách, chế độ về BHXH hiện hành như chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp con, v. v… 3. 1. 2. 4- Mở rộng quan hệ của BHXH Việt Nam Mở rộng mối quan hệ mật thiết giữa BHXH Việt Nam với các cơ quan hữu quan, với các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương cùng phối hợp để thực hiện chính sách BHXH ngày càng tốt hơn. Thiết lập và mở rộng quan hệ của BHXH Việt Nam với BHXH các nước nhằm sớm hội nhập với hệ thống BHXH trong khu vực và trên thế giới. Hợp tác quốc tế nên và cần được tiến hành theo một số hướng quan trọng: Trao đổi kinh nghiệm của ngành; Đào tạo đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ quản lý; Gia nhập các hiệp hội nhằm hỗ trợ nhau trong các lĩnh vực cùng quan tâm. 3. 1. 2. 5- Nâng cao năng lực và hiệu lực điều hành của bộ máy quản lý Bộ máy quản lý cần tinh giản gọn nhẹ, đa chức năng trên cơ sở quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận, mối quan hệ và quy chế làm việc của cả hệ thống. Từ đó có thể tiết kiệm được chi phí quản lý. Nâng cao năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực quản lý. Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính trong hoạt động, quản lý BHXH. Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và hệ thống tin học phù hợp, đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành. Để thực hiện những mục tiêu phát triển BHXH, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân ngành BHXH còn cần đến sự phối hợp của tất cả các cấp, các ngành liên quan và sự hỗ trợ của Nhà nước. 3. 1. 2. 6- Nâng cao năng lực quản lý thu, chi BHXH, tăng cường các nguồn thu BHXH Cần nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ trong quản lý các nguồn thu và các khoản chi BHXH, tránh hiện tượng giấy tờ giả, tránh thất thoát. Tăng cường kiểm tra việc thực hiện thu chi BHXH, có chế tài đủ mạnh để xử phạt các trường hợp vi phạm chính sách, chế độ về BHXH. Mở rộng hoạt động tuyên truyền BHXH với hình thức và nội dung phong phú nhằm nâng cao hiểu biết và nhận thức của người lao động đối với BHXH, từ đó tăng các nguồn thu cho BHXH. 3. 1. 2. 7- Nâng cao năng lực hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Tăng cường khai thác các lĩnh vực đầu tư tăng trưởng quỹ, đầu tư có hiệu quả các nguồn thu BHXH. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chính sách vĩ mô thúc đẩy việc tăng trưởng kinh tế, lành mạnh hoá môi trường đầu tư, tăng sức hút của môi trường đầu tư ở Việt Nam, qua đó thúc đẩy việc đầu tư tăng trưởng quỹ. Nâng cao năng lực quản lý điều hành hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. 3. 2- Giải pháp phát triển hệ thống BHXH Việt Nam 3. 2. 1- Giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam 3. 2. 1. 1- Hoàn thiện tổ chức của Hội đồng Quản lý Trên cơ sở Hội đồng Quản lý hiện có, việc đổi mới cần tập trung vào một số điểm: Thứ nhất, các bên tham gia BHXH đóng góp BHXH cho quỹ BHXH, vì vậy họ có quyền trong việc quản lý BHXH và có quyền tham gia vào Hội đồng Quản lý. Trên cơ sở đó, Hội đồng Quản lý cần có đủ đại diện của Nhà nước , người lao động, người sử dụng lao động. Hiện nay, trong Hội đồng quản lý có: Đại diện của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Đại diện của Bộ Tài chính. Đại diện Bộ Y tế. Đại diện Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Như vậy, cần bổ sung thêm vào cơ cấu Hội đồng quản lý đại diện của chủ sử dụng lao động, gồm đại diện của Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và đại diện của Liên minh các hợp tác xã Việt Nam. Do tính chất pháp lý của các quyết định do Hội đồng quản lý đưa ra, trong cơ cấu Hội đồng, số lượng thành viên của các bên tham gia phải như nhau. Do vậy, khi trong Hội đồng quản lý, đại diện của Nhà nước gồm 4 người (đại diện Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam), thì đại diện của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động (VCCI và Liên minh HTX) cũng cần mỗi bên 4 người. Chủ tịch Hội đồng do đại diện của Nhà nước nắm giữ, do Nhà nước vừa thực hiện quản lý nhà nước đối với BHXH, vừa là đại diện của chủ sử dụng lao động (sử dụng cán bộ công chức và lực lượng vũ trang), vừa là bên đóng góp BHXH nhiều nhất. Phó Chủ tịch Hội đồng nên có hai nguời (tăng thêm một so với quy định tại Nghị định số 100/2002/NĐ- CP), một là đại diện của người lao động, một là đại diện của người sử dụng lao động. Trên cơ sở những đề xuất nêu trên, cần sửa lại Điều 5 của Nghị định số100/2002/NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ như sau: Quy định tại Nghị định 100/2002/NĐ- CP Đề xuất sửa đổi Điều 5. Cơ cấu Hội đồng quản lý 1. Hội đồng quản lý gồm đại diện của Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Thành viên Hội đồng quản lý đại diện cho cơ quan mình tham gia vào công tác của Hội đồng quản lý, thảo luận, biểu quyết về các công việc của Hội đồng quản lý. 2. Hội đồng quản lý có Chủ tịch, 01 Phó Chủ tịch và các thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Điều 5. Cơ cấu Hội đồng quản lý 1. Hội đồng quản lý gồm đại diện của: Nhà nước gồm đại diện của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ tài chính và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam (4 người). Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam gồm 4 người. Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam và Liên minh các hợp tác xã Việt Nam, mỗi bên 2 người. Thành viên Hội đồng quản lý đại diện cho cơ quan mình và bên tham gia BHXH do mình đại diện để tham gia vào công tác của Hội đồng quản lý, thảo luận, biểu quyết về các công việc của hội đồng quản lý. 2. Hội đồng quản lý có 01 Chủ tịch là đại diện của nhà nước ; 01 Phó Chủ tịch là đại diện của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và 01 Phó Chủ tịch là đại diện của người sử dụng lao động. Việc lựa chọn các Chủ tịch, Phó Chủ tịch dựa trên kết quả bầu cử của Hội đồng trên cơ sở đề xuất của các bên. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch, các Phó chủ tịch và các thành viên Hội đồng trên cơ sở đề nghị của các bên tham gia. Thứ hai, cần xác định rõ vị trí, chức năng của Hội đồng quản lý trong điều kiện chuyển đổi cơ cấu các thành viên của Hội đồng. Chế độ làm việc của Hội đồng quản lý trong điều kiện chuyển đổi cơ cấu thành viên Hội đồng cũng cần xem xét, cân nhắc lại cho phù hợp. Trên cơ sở những quy định tại Nghị định số100/2002/NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ, chúng tôi đề nghị: - Bổ sung, sửa đổi Tiết 3, Điều 4 "Nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam", cụ thể như sau: Quy định tại Nghị định 100/2002/NĐ- CP Đề xuất sửa đổi Điều 4. Nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam … 3. Thông qua chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam, kế hoạch dài hạn, 5 năm về thực hiện chính sách, chế độ BHXH và các đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH do Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam (sau đây gọi là Tổng Giám đốc) xây dựng để Tổng Giám đốc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; giám sát, kiểm tra Tổng Giám đốc thực hiện chiến lược, kế hoạch đề án sau khi được phê duyệt. … Điều 4. Nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam … 3. Xây dựng và thông qua chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam, kế hoạch dài hạn, 5 năm về thực hiện chính sách, chế độ BHXH và các đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH trên cơ sở các phương án do đại diện các bên tham gia BHXH xây dựng và đệ trình. Giám sát, kiểm tra Tổng Giám đốc thực hiện chiến lược, kế hoạch đề án sau khi được phê duyệt. … Bổ sung vào Tiết 3, Điều 6 "Chế độ làm việc của Hội đồng Quản lý như sau (phần in nghiêng gạch chân): 3. Các cuộc họp của Hội đồng quản lý phải có ít nhất hai phần ba thành viên Hội đồng quản lý tham dự nhưng số lượng đại diện tham dự của các bên phải như nhau. Nghị quyết của Hội đồng phải được đa số thành viên Hội đồng quản lý dự họp biểu quyết tán thành. Trường hợp số phiếu như nhau, nghị quyết của buổi họp sẽ nghiêng về bên có Chủ tịch Hội đồng quản lý biểu quyết. Những vấn đề chưa thống nhất ý kiến giữa các thành viên Hội đồng quản lý thì Chủ tịch Hội đồng quản lý báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. 3. 2. 1. 2- Hoàn thiện tổ chức của Bộ máy điều hành BHXH Việt Nam Trước mắt, cần nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp do vấn đề bảo hiểm thất nghiệp đã được đề cập đến trong bộ Luật Lao động sửa đổi bổ sung năm 2002 (nội dung của chính sách này chúng tôi sẽ đề xuất sau). Sau khi các văn bản này được ban hành, trong cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam cần có sự thay đổi về tổ chức. Có 2 phương án: Phương án 1: Vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức của hệ thống BHXH như hiện nay (được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 100/2002/NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ và Quyết định số 1620/2002/QĐ- BHXH- TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương) nhưng bổ sung thêm nhiệm vụ nghiên cứu, quản lý bảo hiểm thất nghiệp cho các bộ phận chức năng. Phương án 2: Cơ cấu BHXH cũng như chức năng nhiệm vụ của các bộ phận thuộc bộ máy điều hành vẫn giữ nguyên như hiện nay, thành lập thêm bộ phận bảo hiểm thất nghiệp . Chúng tôi kiến nghị nên chọn phương án 1, vì nếu phương án này được thực hiện sẽ giảm bớt chi phí hành chính, tránh được sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, tránh được sự gia tăng biên chế trong tổ chức của BHXH Việt Nam. Về điều chỉnh bộ máy quản lý điều hành nói chung, có một số điểm chính cần phải tiếp tục đổi mới là: - Làm rõ hơn vị trí pháp lý của Tổng Giám đốc, quy định rõ hơn những trường hợp nào thì Tổng Giám đốc được tự quyết định và tự chịu trách nhiệm, trường hợp nào cần xin ý kiến của Hội đồng quản lý. Cũng cần quy định rõ trường hợp nào thì Tổng Giám đốc được quyết định với tư cách Tổng Giám đốc, trường hợp nào được quyết định với tư cách thành viên Hội đồng quản lý. - Cần phân định rõ hơn chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của từng Phó Tổng Giám đốc với tư cách giúp việc Tổng Giám đốc. Quan điểm của chúng tôi là, do Phó Tổng Giám đốc được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm thì chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Tổng Giám đốc cũng cần được Thủ tướng chính phủ quy định trên cơ sở đề xuất của Hội đồng quản lý và Tổng Giám đốc. - Tiếp tục đổi mới bộ máy giúp việc theo yêu cầu tinh gọn, trên cơ sở xác định lại tổng số các chức năng quản lý của bộ máy giúp việc; từ đó phân công lại chức năng và xây dựng lại cơ cấu tổ chức hợp lý hơn theo nguyên tắc "mỗi chức năng quản lý cần có tổ chức đảm nhiệm nhưng không nhất thiết mỗi chức năng phải thành lập riêng một tổ chức, một tổ chức có thể đảm nhiệm một số chức năng gần nhau hoặc liên quan đến nhau". Cùng với việc đổi mới cơ cấu tổ chức phải coi trọng và hoàn thiện quy chế làm việc, trong đó quy định rõ quy chế chủ trì và phối hợp công tác giữa các bộ phận của bộ máy. Về việc đổi mới bộ máy điều hành BHXH cấp địa phương, chúng tôi kiến nghị một số phương án sau: Phương án 1: Tiếp tục giữ bộ máy điều hành như hiện nay, nhưng phải tinh giản đội ngũ cán bộ quản lý điều hành theo hướng: tại địa phương có ít đối tượng tham gia BHXH sẽ giảm số cán bộ BHXH. Thực hiện theo cách này chúng ta sẽ tinh giản được khá nhiều cán bộ BHXH ở các tỉnh, huyện hiện còn chưa phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh, còn có ít người tham gia BHXH. Phương án 2: Tiếp tục giữ bộ máy điều hành cấp tỉnh như hiện nay, nhưng giảm bớt các đơn vị cấp huyện. Nên căn cứ vào địa bàn quản lý mà nhóm các quận, huyện, thị lại với nhau. Mỗi một nhóm khoảng 4 - 5 huyện tập hợp thành một cụm và có cơ sở BHXH cấp cụm. Riêng tại tỉnh lỵ, nơi đặt trụ sở của BHXH tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), các nghiệp vụ BHXH sẽ do BHXH tỉnh (thành phố) thực hiện… Phương án này cho phép nâng cao năng lực và hiệu lực của quản lý, giảm đáng kể lực lượng cán bộ BHXH, giảm chi cho hoạt động của bộ máy (tương tự như cách tổ chức của Thailand). Phương án 3: Nên tổ chức BHXH thành BHXH vùng theo các vùng kinh tế, không tổ chức BHXH theo tỉnh, thành phố nữa như kinh nghiệm của Philippines. Mỗi tỉnh sẽ đặt một BHXH tỉnh trực thuộc BHXH vùng. Loại bỏ BHXH cấp huyện. Do địa bàn các tỉnh của Việt Nam nhỏ, việc đi lại không còn nhiều khó khăn như trước nên biện pháp này có thể áp dụng. Biện pháp này cho phép tiết kiệm tối đa nhân công, giảm đáng kể chi phí cho bộ máy. Thực ra, trong 3 phương án trên, nếu thực hiện phương án 1 sẽ có độ "an toàn" cao nhất vì như vậy sẽ không có sự xáo trộn lớn, không gây phản ứng. Thực hiện phương án 2 sẽ có mô hình BHXH gần tương tự như Thailand, tuy có gây một số phản ứng nhưng có thể khắc phục được, hiệu quả thu được vẫn cao. Còn phương án 3 đòi hỏi một sự cải cách, không những đối với ngành BHXH mà còn là đối với các ngành chức năng khác. Các tỉnh sẽ có những phản ứng nhất định, nhiều khi là phản ứng lớn nếu thực hiện phương án này. Trong điều kiện hiện tại, phương án 3 không có tính khả thi. Quan điểm của chúng tôi là chọn phương án 2. Phương án này có thể cho phép tránh trùng lặp về chức năng nhiệm vụ giữa BHXH tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) và BHXH của quận, huyện, thị, thành phố trực thuộc tỉnh, vừa giúp cho việc tinh giản bộ máy, giảm chi phí cho hoạt động của bộ máy. Ngoài ra, khi cơ cấu lại tổ chức, cũng cần nghiên cứu, sắp xếp lại bộ máy giúp việc như cách đã đề cập đối với bộ máy cấp trung ương nhằm bảo đảm bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, tránh sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ. 3. 2.2- Giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Xuất phát từ quan điểm và nguyên tắc đổi mới đội ngũ cán bộ đã được trình bầy ở mục 1. 1 của chương 3, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: a) Trước mắt, cần thành lập chuyên ngành đào tạo riêng về BHXH, đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ BHXH ở trình độ cao đẳng - đại học nhằm đào tạo và đào tạo bổ sung cho ngành BHXH. Thực tế, BHXH là một ngành hẹp, do vậy nếu cơ sở đào tạo do BHXH Việt Nam thành lập và quản lý sẽ không hiệu quả. Chuyên ngành này nên đặt ở trường Cao đẳng Lao động - Xã hội, trường có truyền thống và đào tạo lâu năm về BHXH, đang sắp được nâng cấp thành Đại học Lao động - Xã hội. Hiện nay, trường Cao đẳng Lao động - Xã hội đang dự kiến và có kế hoạch xây dựng nội dung chương trình đào tạo cho chuyên ngành BHXH mới này. b) Cần thực hiện chuẩn hoá trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ càn bộ của cả hệ thống BHXH, theo đó có quy định cụ thể phải có bằng cấp về BHXH mới được làm công tác BHXH và phải đặt ra một giai đoạn chuyển tiếp. Sau khi chuyên ngành BHXH được thành lập, các cán bộ BHXH phải được học và cấp bằng của chuyên ngành đào tạo này mới được tiếp tục thực hiện nghiệp vụ BHXH. c) Phải xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ của các chức danh trong ngành BHXH Việt Nam. Tiêu chuẩn này cần phải chỉ rõ mỗi chức danh cần làm được gì, có hiểu biết gì, có kỹ năng gì… Tiến hành rà soát đội ngũ cán bộ trên cơ sở so sánh với tiêu chuẩn để xác định những kiến thức và kỹ năng còn thiếu. Từ đó xây dựng nội dung chương trình đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thông qua các lớp đào tạo ngắn hạn. Nhiệm vụ tổ chức đào tạo này do Trung tâm đào tạo thuộc BHXH Việt Nam đảm nhận. Giảng viên của các lớp đào tạo này phải là những giảng viên có kinh nghiệm, có nghiệp vụ sư phạm tốt, am hiểu sâu về BHXH. d) Hằng năm tổ chức các lớp trao đổi kinh nghiệm về hoạt động BHXH cho cán bộ ngành BHXH. Những kinh nghiệm tiên tiến cần được phổ biến lại cho cán bộ BHXH ở các địa phương, cơ sở. e) Thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo và trao đổi kinh nghiệm hoạt động BHXH với các nước trong khu vực và thế giới. 3. 2.3- Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BHXH Để bộ máy BHXH hoạt động hiệu quả, cần có khung pháp lý hoàn thiện về BHXH. Do vậy, cần áp dụnh một số giải pháp sau: Ban hành Luật BHXH. Hiện nay mới chỉ có các văn bản pháp quy dưới luật qui định về chế độ, chính sách BHXH. Dự thảo luật BHXH đã được các cơ quan chức năng xây dựng và trình ban hành, song cho đến nay vẫn chưa được ban hành. Cần sớm ban hành Luật BHXH bởi vì Luật BHXH ra đời sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động BHXH phát triển. Kiện toàn hệ thống pháp luật về tổ chức, quản lý, quy chế tài chính, xây dựng qui chế vận hành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới của ngành BHXH Việt Nam. Tăng cường chức năng thanh tra, kiểm tra trên lĩnh vực BHXH của BHXH Việt Nam. Cần tăng chế tài trong trường hợp vi phạm và tái vi phạm các quy định về BHXH. 3. 2.4- Triển khai có hiệu quả hình thức BHXH tự nguyện Hiện nay nước ta về căn bản vẫn là một nước nông nghiệp, phần lớn người lao động làm việc trong lĩnh vực này. Đây là một tiềm năng rất lớn để BHXH Việt Nam khai thác. Theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam thì mới có khoảng 10% lực lượng lao động được tham gia BHXH, trong khi đó bộ Luật Lao động đã có qui định đối với hình thức BHXH tự nguyện. Ngoài ra, Việt Nam còn có khoảng 8 - 10 triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế không chính thức mà phần lớn trong số họ có nhu cầu được hưởng BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí. Việc thực hiện hình thức BHXH tự nguyện đối với BHXH Việt Nam là rất khả thi do có sự hậu thuẫn của Nhà nước. Đối với hình thức tự nguyện, ban đầu nên thực hiện 2 hoặc 3 chế độ mà người lao động quan tâm là chế độ hưu trí, chế độ thai sản... Mức đóng góp và thời gian đóng góp có thể căn cứ trên tiền lương tối thiểu. Chế độ được hưởng có thể qui định tương tự như ở hình thức bắt buộc. Theo quan điểm của chúng tôi, không nên quy định thời gian đóng BHXH phải là đóng góp liên tục. Thực tế cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường hiện nay, những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước thường ký hợp đồng lao động ngắn hạn, họ có thể đóng góp BHXH trong một khoảng thời gian đang làm việc. Sau khi chấm dứt hợp đồng, thời gian đóng góp BHXH bị gián đoạn, và họ sẽ tiếp tục đóng BHXH khi chuyển sang làm việc tại doanh nghiệp khác, nhưng với mức đóng khác, có thể cao hơn hoặc có thể thấp hơn. Vì vậy, nên giao sổ BHXH riêng cho từng người bảo quản để họ chủ động trong việc đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH nên tính là thời gian cộng dồn cho các lần đóng BHXH. Mức đóng BHXH làm cơ sở để tính chế độ BHXH cho người lao động nên lấy theo mức bình quân gia quyền của các lần đóng BHXH. Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH không những thực hiện được sự công bằng giữa người lao động trong xã hội mà còn góp phần làm tăng quỹ đầu tư, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. 3. 2.5- Triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp đang là vấn đề mới mẻ ở nước ta. Đây cũng là trọng tâm nghiên cứu hiện nay của các bộ, ngành có liên quan như Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, BHXH Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ …Nếu chế độ bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện, các chế độ trả trợ cấp thôi việc và chế độ trợ cấp mất việc cần được bãi bỏ do tính chất cuả 2 chế độ trợ cấp này giống như chế độ trợ cấp thất nghiệp. Để triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp , cần phải xác định rõ: - Quan điểm về người thất nghiệp. - Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp . - Các nguồn hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp . - Hình thức chi trả và cách chi trả bảo hiểm thất nghiệp . Sau đây là một số kiến nghị của chúng tôi về bảo hiểm thất nghiệp . a) Quan điểm về người thất nghiệp. Có nhiều quan điểm khác nhau về thất nghiệp, song theo chúng tôi, nên hiểu khái niệm này như sau: "Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trong khoảng thời gian xác định không có việc làm, đang tìm việc làm, đã đăng ký thất nghiệp theo quy định". Cách hiểu này sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp . b) Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp . Nghiên cứu thông lệ ở các nước trong khu vực và thế giới cho thấy, quy định của các quốc gia khác nhau về điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp có nhiều nét tương đồng. Dựa trên cơ sở này, xem xét điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng tôi thấy nên quy định điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp như sau: Người lao động muốn được hưởng bảo hiểm thất nghiệp phải có đủ 5 điều kiện: - Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 24 tháng trở lên. - Đã đăng ký thất nghiệp theo quy định. - Đã nộp đơn yêu cầu trả bảo hiểm thất nghiệp . - Sẵn sàng làm việc, chấp nhận sự sắp xếp của cơ quan dịch vụ việc làm. - Đã thất nghiệp 30 ngày kể từ ngày đăng ký. c) Các nguồn hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp : Theo kinh nghiệm của một số nước, tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp khoảng 6,5 - 7% được chia đều cho người sử dụng lao động và người lao động. Ví dụ, ở Cộng hoà Liên bang Đức, người sử dụng lao động và người lao động cùng đóng với tỷ lệ 3,25%; Anh, Pháp, Hà Lan, người lao động và người sử dụng lao động đều đóng như nhau. Riêng Mỹ, Italia, người sử dụng đóng toàn bộ bảo hiểm thất nghiệp, … Tham khảo cách làm của một số nước và căn cứ vào thực tiễn của Việt Nam, chúng tôi đề nghị lấy mức lương cơ bản (lương cấp bậc hay chức vụ) hoặc tiền lương theo hợp đồng lao động của mỗi người làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp và khi hưởng thì tính trên mức lương bình quân làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp . Tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp nên lấy mức 6%, người sử dụng lao động đóng 3%, người lao động đóng 3%, phần còn lại sẽ do Nhà nước bù. Chúng tôi cũng đề nghị tỷ lệ % được hưởng là 60% với thời gian hưởng tối đa 12 tháng (như thông lệ quốc tế), không phụ thuộc thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp nhiều hay ít, sau khi đã đóng đủ thời gian quy định để hưởng trợ cấp. d) Hình thức chi trả và cách chi trả bảo hiểm thất nghiệp : Về việc chi trả bảo hiểm thất nghiệp , chúng tôi cho rằng cần chuyển việc này cho các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc ngành lao động - thương binh và xã hội ở các địa phương. Các trung tâm này cần được nối mạng Intranet trên phạm vi toàn quốc. Cần có quy định những người thất nghiệp muốn nhận trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp phải đến đăng ký tìm việc làm tại các trung tâm dịch vụ việc làm. Bằng cách đó, Nhà nước có thể nắm chính xác số người thất nghiệp vào các thời điểm khác nhau ở từng vùng, từng địa phương và trên phạm vi toàn quốc, không cần lập các trạm thông tin thị trường lao động hoặc tiến hành điều tra tổng thể trên toàn quốc để xác định tỷ lệ thất nghiệp v. v… Đây cũng là kinh nghiệm hoạt động của các quốc gia khác như Anh, Pháp, Philippines … Để trả tiền bảo hiểm thất nghiệp cho người thất nghiệp, cần có quy định mỗi người lao động có một cuốn sổ lao động. Sổ này là chứng chỉ ghi chép toàn bộ quá trình làm việc, các chế độ đã giải quyết khi chấm dứt hợp đồng lao động , quá trình đóng bảo hiểm thất nghiệp , lý do chấm dứt hợp đồng lao động. Khi chấm dứt hợp đồng lao động, người thất nghiệp đem sổ lao động đến trung tâm dịch vụ việc làm đăng ký thất nghiệp và yêu cầu được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Khi người thất nghiệp đã tìm được việc làm thì trung tâm dịch vụ việc làm ghi thời gian đã hưởng bảo hiểm thất nghiệp vào sổ và trả lại cho người lao động. Nếu hết thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp mà cả 2 bên vẫn không tìm được việc làm cho người thất nghiệp hoặc chưa hết thời hạn 12 tháng, trung tâm dịch vụ việc làm đã sắp xếp được việc làm cho người lao động nhưng người lao động vẫn không đi làm thì bảo hiểm thất nghiệp sẽ bị cắt. Trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, ngay khi người thất nghiệp tìm được việc làm, bảo hiểm thất nghiệp sẽ bị cắt. Tiền bảo hiểm thất nghiệp được trả trực tiếp hằng tháng cho người thất nghiệp. 3. 2. 6- Tăng cường quản lý các nguồn thu, chi của quỹ BHXH Để tăng nguồn vốn cho đầu tư phải quản lý chặt chẽ các nguồn thu, chi của quỹ. - Đối với công tác thu BHXH: Tiến hành thu đúng, thu đủ của người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quản lý chặt chẽ số lao động và bảng lương của đơn vị, đặc biệt là đối với các đơn vị ngoài khu vực nhà nước. Đối với các đơn vị chậm đóng hoặc trốn đóng BHXH, cần thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất - kinh doanh của đơn vị để đôn đốc thu, tạo mối liên hệ hai chiều giữa cơ quan BHXH với người lao động và người sử dụng lao động, tránh tình trạng người sử dụng lao động dùng tiền đóng BHXH của người lao động sai mục đích, vừa ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, vừa gây thất thu cho quỹ BHXH. Có cơ chế thưởng thích đáng đối với các cá nhân, đơn vị có thành tích trong công tác thu BHXH. - Đối với công tác chi BHXH: Quản lý chặt chẽ đối tượng hưởng BHXH, thường xuyên tiến hành rà soát hồ sơ hưởng BHXH để phát hiện những đối tượng đã hết thời hạn hưởng, những đối tượng làm giả hồ sơ giấy tờ… tránh tình trạng chi sai đối tượng, sai chế độ chính sách. Qui trách nhiệm và có biện pháp xử phạt thích đáng đối với những đối tượng chiếm dụng hoặc để thất thoát quỹ BHXH. Đối với chi phí hoạt động sự nghiệp cần triệt để tiết kiệm. 3. 2. 7- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất Cần quan tâm đến việc đầu tư xây dựng cơ sở vất chất cho toàn bộ hệ thống, đặc biệt là trang bị công nghệ tin học hiện đại, ứng dụng các thành tựu tiên tiến của công nghệ thông tin để phục vụ cho việc quản lý đối tượng cũng như quản lý tài chính quỹ BHXH, tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Cần hiện đại hoá ngành BHXH, giúp BHXH Việt Nam hoà nhập với BHXH khu vực và trên thế giới. Tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất, tài chính và học hỏi kinh nghiệm trong công tác quản lý và điều hành quỹ BHXH. 3. 2. 8- Tăng cường công tác tuyên truyền về BHXH Cần tăng cường sự phối kết hợp với các ngành, địa phương liên quan tổ chức tuyên truyền, giáo dục thường xuyên về chính sách, chế độ BHXH với những nội dung phong phú, thiết thực để mọi người lao động, tổ chức kinh tế hiểu đầy đủ nghĩa vụ, quyền lợi khi tham gia BHXH; tạo cho họ niềm tin vào chính sách BHXH để họ không chỉ tự giác chấp hành mà còn yêu cầu, đòi hỏi được tham gia. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền như: phát tờ rơi, biểu ngữ, mở các chuyên mục trên một số tờ báo lớn và các phương tiện thông tin đại chúng khác,... Làm tốt công tác tuyên truyền sẽ tăng số lượng người tham gia BHXH góp phần làm tăng nguồn thu cho quỹ BHXH.  kết luận Đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách, chế độ BHXH là xu thế vận động tất yếu của ngành BHXH Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang hình thành. BHXH, với vai trò phòng tránh rủi ro cho người lao động, là một lĩnh vực mang tính kinh tế, xã hội và nhân văn cao. Điều đó đòi hỏi đổi mới BHXH cũng cần vận động theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao tính xã hội và nhân văn. Nâng cao hiệu quả kinh tế của BHXH có nghĩa là đào tạo quản lý và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động hiện có để nâng cao năng suất và hiệu quả công việc, tránh lãng phí và thất thoát; tinh giản bộ máy, đổi mới mô hình tổ chức hoạt động của bộ máy để giảm chi cho hoạt động của bộ máy, giảm sự chồng chéo và nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy; nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ BHXH trong hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, … Nâng cao tính xã hội và nhân văn của BHXH là làm cho BHXH được phổ biến rộng rãi hơn, đến được với nhiều người lao động hơn, có mức độ "bao phủ" rộng rãi hơn, giảm được chi phí đóng góp của các bên tham gia, tăng mức hưởng cho người lao động nhờ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Nâng cao tính xã hội và nhân văn của BHXH còn được thể hiện ở chỗ làm cho BHXH phong phú hơn; các chính sách, chế độ về BHXH ngày càng hoàn thiện hơn… Với quan điểm đó, qua quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn khẳng định một số kết quả chủ yếu sau đây: 1. Trên phương diện lý thuyết, chúng tôi đã cố gắng hệ thống hoá được những lý luận cơ bản có liên quan đến BHXH và hệ thống BHXH. Đó là lý luận về bản chất và tính tất yếu khách quan của BHXH; nguyên tắc vận hành của hệ thống BHXH, cơ chế tổ chức và các mô hình tổ chức BHXH, ưu nhược điểm và xu hướng phát triển của chúng trong điều kiện tri thức hoá, toàn cầu hoá kinh tế. 2. Từ những nghiên cứu chuyên sâu về kinh nghiệm tổ chức, hoạt động và vận hành của hệ thống BHXH của một số nước trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của Thailand, Philippines, Malaysia, Hàn Quốc, luận văn đã chỉ ra được một số kinh nghiệm tốt có thể vận dụng ở Việt Nam. 3. Từ việc phân tích xu hướng vận động của nền kinh tế, luận văn đã chỉ ra được tác động của xu hướng phát triển kinh tế đến hệ thống BHXH và những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với hệ thống BHXH trong các giai đoạn phát triển. 4. Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống BHXH ở Việt Nam hiện nay liên quan đến mô hình tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của các cấp quản lý, đội ngũ cán bộ và trình độ đội ngũ cán bộ, cơ chế vận hành của hệ thống BHXH, tình hình tham gia BHXH, thực hiện các chế độ BHXH, tình hình thu chi, quản lý thu chi BHXH, cân đối và tăng trưởng quỹ, xây dựng hệ thống chính sách chế độ …, luận văn đã chỉ ra những hạn chế đáng lưu ý của hệ thống BHXH Việt Nam, đồng thời phân tích những nguyên nhân dẫn đến các mặt hạn chế đó. 5. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển trong tương lai, luận văn đã đề xuất hệ thống các quan điểm, định hướng và giải pháp cơ bản. Một là, về quan điểm đổi mới BHXH Việt Nam. Quan điểm chung là đổi mới trên cơ sở không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của BHXH, dựa trên xu thế phát triển chung của đất nước, vận dụng những kinh nghiệm quốc tế thích hợp đối với Việt Nam. Mô hình tổ chức BHXH của Việt Nam phải là mô hình tổng hợp những tinh hoa của các nước trong khu vực và thế giới, mang đặc thù Việt Nam, bảo vệ tối ưu quyền và nghĩa vụ của những người tham gia BHXH, mang đậm nét xã hội - nhân văn đặc trưng cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, phải đổi mới nhận thức về BHXH; xây dựng hệ thống BHXH với cơ cấu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; đổi mới cơ chế quản lý BHXH theo hướng tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách nhà nước; tăng cường hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH; đổi mới BHXH Việt Nam theo hướng hình thành một mô hình bảo đảm đầy đủ các chính sách, chế độ trợ cấp phòng tránh rủi ro cho người lao động; chuyển hệ thống BHXH hiện hành sang hệ thống BHXH mới phải được thực hiện dần dần theo những bước đi và biện pháp quá độ thích hợp; đổi mới chính sách BHXH phải gắn liền với sự thay đổi đồng bộ các chính sách kinh tế - xã hội khác. Hai là, về định hướng phát triển BHXH Việt Nam: cần hoàn thiện các cơ sở pháp lý và bảo đảm về pháp lý; mở rộng đối tượng và hình thức tham gia BHXH; hoàn thiện hệ thống chính sách chế độ BHXH; mở rộng quan hệ của BHXH Việt Nam; nâng cao năng lực và hiệu lực điều hành của bộ máy quản lý; nâng cao năng lực quản lý thu, chi BHXH, tăng cường các nguồn thu BHXH; nâng cao năng lực hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Ba là, về các giải pháp phát triển hệ thống BHXH Việt Nam. Luận văn đã đề cập đến một số các giải pháp cơ bản như giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam (gồm hoàn thiện tổ chức của Hội đồng quản lý, hoàn thiện tổ chức của Bộ máy điều hành BHXH Việt Nam); giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; giải pháp về hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BHXH; giải pháp về triển khai có hiệu quả hình thức BHXH tự nguyện; giải pháp về việc triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp ; giải pháp về tăng cường quản lý các nguồn thu, chi của quỹ BHXH; giải pháp về việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và giải pháp về việc tăng cường công tác tuyên truyền về BHXH. Với đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn của Đảng và nhà nước được xác định trong các văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng, hệ thống BHXH ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh và hiệu quả trong những năm tới, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu cơ bản của người lao động về BHXH. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, song vấn đề đổi mới và hoàn thiện hệ thống BHXH là một vấn đề phức tạp. Những nghiên cứu của luận văn này mới chỉ là những nét chấm phá bước đầu, mang tính xới xáo vấn đề nghiên cứu. Để tiếp tục hoàn thiện vấn đề nghiên cứu, theo chúng tôi cần tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về những nội dung sau: - Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của nó trong điều kiện thiết lập bộ máy quản lý điều hành BHXH theo vùng kinh tế. - Nghiên cứu xây dựng nội dung, phương thức và cơ chế tổ chức thực hiện chế độ trợ cấp gia đình, trợ cấp tàn tật và trợ cấp mất người nuôi dưỡng. - Nghiên cứu xây dựng nội dung, chương trình đào tạo cử nhân đại học chuyên ngành BHXH và nội dung chương trình đào tạo sau đại học về BHXH. - Nghiên cứu mô hình đầu tư tăng trưởng hiệu quả quỹ BHXH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. - Nghiên cứu mô hình và chế độ BHXH đối với lao động khu vực kinh tế phi kết cấu và lao động nông nghiệp Việt Nam,... Những vấn đề đặt ra trên đây đòi hỏi sự phối kết hợp nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Chúng tôi tin tưởng rằng, những vấn đề đó sẽ sớm được sáng tỏ và được áp dụng vào thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và vận hành của hệ thống BHXH Việt Nam. /. Hệ thống các chú thích của luận văn. BHXH: Bảo hiểm xã hội BHXH Việt Nam: Bảo hiểm xã hội Việt Nam Danh mục tài liệu tham khảo. BHXH Việt Nam (1999), Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Chiến lược phát triển BHXH ở Việt Nam đến năm 2001". BHXH Việt Nam (1995-2002), Báo cáo tài chính các năm. BHXH Việt Nam - Ngân hàng Thế giới (1999), Tài liệu tọa đàm về "cơ chế hình thành, quản lý và sử dụng quỹ BHXH". Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1997), Hệ thống các văn bản hiện hành về lao động, việc làm, tiền lương, BHXH, NXB Thống kê. Đỗ Minh Cương và các tác giả (1996), Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia Lê Thanh Hà (2000), Bài giảng Dịch vụ việc làm, NXB Lao động - Xã hội. Trần Quang Hùng, Mạc Văn Tiến (1998), Đổi mới chính sách BHXH đối với người lao động, NXB Chính trị Quốc gia. NXB Lao động- xã hội (1995-2003), Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về chính sách BHXH. Nguyễn Kim Thái, (1997), Đề tài nghiên cứu khoa học "Đổi mới tổ chức - cán bộ của BHXH Việt Nam theo cơ chế quản lý mới". Trường Cao đẳng lao động xã hội (2001), Tập bài giảng BHXH, NXB Lao động - xã hội Trường Đại học Quốc gia, Khoa Kinh tế (1998-2003), Các bài giảng và giáo trình trong chương trình cao học kinh tế. Mục lục Trang Phần mở đầu Chương 1. Cơ sở lý thuyết và kinh nghiêm của một số nước về Bảo hiểm xã hội 1 1. 1. Những vấn đề về lý luận cơ bản về Bảo hiểm xã hội 6 1. 1. 1. Khái niệm BHXH và lịch sử phát triển 6 1. 1. 2. Sự cần thiết khách quan của BHXH và tác động của BHXH đến đời sống kinh tế - xã hội 7 1. 1. 3. Cơ chế tổ chức Bảo hiểm xã hội 12 1. 2. Kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng, phát triển và vận hành hệ thống Bảo hiểm xã hội 23 1. 2. 1. Kinh nghiệm về xây dựng và phát triển hệ thống BHXH 23 1. 2. 2. Kinh nghiệm về thiết lập cơ chế vận hành BHXH 31 Chương 2. Thực trạng của hệ thống tổ chức BHXH ở Việt Nam hiện nay 43 2. 1. Đổi mới kinh tế và những yêu cầu đang đặt ra với hệ thống BHXH ở Việt Nam 43 2.1.1 Đổi mới kinh tế và tác động đến hoạt động của hệ thống BHXH 43 2.1.2 Những yêu cầu mới đối với hệ thống BHXH 45 2. 2. Thực trạng hệ thống BHXH trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 47 2. 2. 1. Thực trạng về hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam 47 2. 2. 2. Thực trạng về đội ngũ cán bộ của BHXH Việt Nam 53 2. 2. 3. Thực trạng cơ chế vận hành của hệ thống BHXH Việt Nam 57 2. 3. Đánh giá tổng quát về hệ thống BHXH hiện có của Việt Nam 66 2. 3. 1. Những kết quả chính đã đạt được 66 2. 3. 2. Những mặt hạn chế đáng lưu ý và nguyên nhân 80 Chương 3. Kiến nghị về định hướng và giải pháp nhằm góp phần phát triển hệ thống BHXH Việt Nam trong tình hình mới 89 3. 1 Quan điểm và định hướng phát triển 89 3. 1. 1. Quan điểm phát triển hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam 89 3. 1. 2. Về định hướng phát triển BHXH Việt Nam 96 3. 2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống BHXH Việt Nam 100 3. 2. 1. Giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam 100 3. 2. 2. Giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 106 3. 2. 3. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BHXH 108 3. 2. 4. Triển khai có hiệu quả hình thức BHXH tự nguyện 108 3. 2. 5. Triển khai hình thức bảo hiểm thất nghiệp 109 3. 2. 6. Tăng cường quản lý các nguồn thu, chi của quỹ BHXH 112 3. 2. 7. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất 113 3. 2. 8. Tăng cường công tác tuyên truyền về BHXH 113 Kết luận 115 Hệ thống các chú thích của luận văn 119 Danh mục tài liệu tham khảo 120

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37189.doc
Tài liệu liên quan