Hệ thống chùa huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
1. Lí do chọn đề tài
Văn hoá làng xã có một vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình hình
thành và phát triển nền văn hoá dân tộc. Chùa lại là nhân tố phổ biến góp
phần tạo nên hệ thống văn hoá làng xã truyền thống của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam. Những ngôi chùa như một phần không thể thiếu trong bức
tranh về làng quê chúng ta xưa và nay.
Việt Nam là nước nông nghiệp nên hệ thống chùa luôn gắn bó mật thiết
với đời sống tinh thần của mỗi người dân nông thôn. Nó không chỉ có vị trí
đặc biệt trong văn hoá làng mà còn tác động sâu sắc, toàn diện đến nhiều mặt
của xã hội cổ truyền. Chùa với người Việt không chỉ là không gian tôn giáo,
nơi phục vụ các hoạt động thờ cúng, tâm linh mà còn là một nơi sinh hoạt
cộng đồng, là nơi in dấu những thiết chế lâu đời. Dân gian có câu “đất vua -
chùa làng - phong cảnh bụt” là vì thế. Do vậy, đã từ lâu chủ đề này trở thành
đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội, trong đó có khoa học
lịch sử.
Hiện nay, dưới tác động của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn, diện mạo của thôn làng, xóm ngõ . có nhiều biến đổi. Trong quá
trình hội nhập, những yếu tố văn hoá ngoại quốc đang có xu thế lấn át và làm
mai một đi những yếu tố văn hoá cổ truyền. Vậy làm thế nào để chọn lọc, giữ
gìn và phát huy được các giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống, trong đó có
hệ thống chùa làng. Đây là vấn đề đang được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội
ta quan tâm. Đặc biệt là các nhà nghiên cứu khoa học xã hội.
Từ lâu hệ thống chùa Việt Nam nói chung và hệ thống chùa ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ nói riêng đã được các nhà nghiên cứu đề cập đến. Tuy
nhiên, tìm hiểu đề tài này ở một địa phương cụ thể thì chưa có nhiều, nhất là
các địa phương khu vực trung du miền núi lại càng ít hơn. Thái Nguyên là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
tỉnh nằm ở trung tâm của khu vực trung du miền núi phía Bắc, cửa ngõ nối
liền với vùng châu thổ Bắc Bộ, là địa bàn chuyển tiếp giữa miền núi và đồng
bằng. Việc đi sâu nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết hệ thống chùa làng ở
đây do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên chưa được quan tâm
sâu sắc.
Chính vì vậy, qua luận văn thạc sĩ của mình, chúng tôi mong muốn
được tìm hiểu toàn diện và đầy đủ hơn vấn đề còn bỏ trống đó. Việc nghiên
cứu có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống tinh thần của người dân địa phương
nói riêng và nhân dân tỉnh Thái Nguyên nói chung, nhằm góp thêm những
hiểu biết về ngôi chùa ở vùng trung du miền núi phía Bắc, thấy được sự giao
thoa văn hoá giữa đồng bằng và miền núi trong tiến trình lịch sử.
Chọn đề tài “Hệ thống chùa huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên” làm
luận văn Thạc sĩ, bản thân tôi là người địa phương cũng như mọi người dân
địa phương khác có nhu cầu hiểu biết về đời sống văn hoá tinh thần của người
dân quê hương qua hệ thống chùa làng và mong muốn những truyền thống tốt
đẹp của quê hương sẽ luôn được phát huy trong cuộc sống hiện tại.
96 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2259 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hệ thống chùa huyện Phú Bình tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a
tìm lại được những giá trị văn hóa mang bản chất truyền thống của từng vùng.
Phong tục tập quán trong đời sống người dân Phú Bình trong quá trình
tồn tại và phát triển đã chịu nhiều tác động văn hóa khác nhau: từ miền đồng
bằng lên, từ miền núi cao xuống. Trong đó, Phật giáo và ngôi chùa thờ Phật
đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít các tập tục dân
gian của địa phương đến nay vẫn còn tồn tại.
Ở Phú Bình, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng của tín ngưỡng
thờ Phật khá nhiều. Song ở đây, tác giả chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến
trong đời sống hằng ngày của người dân địa phương.
Tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sinh và bố thí:
Về ăn chay, không riêng ở Phú Bình, mà hầu như tất cả người Việt
Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát
từ quan niệm Từ bi của Phật giáo. Vì khi đã trở về với Phật pháp, mỗi người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
68
Phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới căn bản là không sát sinh hại
vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài. Trong hành động lời nói và ý nghĩa,
người Phật tử phải thể hiện lòng từ bi. Điều không thể có được khi con người
còn ăn thịt, còn uống máu chúng sinh. Để đạt được mục đích đó, người Phật
tử phải dùng đến phương pháp ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn chay
trường, còn Phật tử tại gia còn nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ.
Nhiều người dân Phú Bình, đặc biệt là các cụ cao niên, cả Phật tử lẫn
người không phải Phật tử cũng theo tục lệ đặc biệt này. Họ ăn chay mỗi tháng
hai ngày, là ngày mùng một và ngày rằm mỗi tháng. Có người ăn mỗi tháng
bốn ngày là ngày 01, 14, 15 và 30, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29. Có
người ăn mỗi tháng sáu ngày là những ngày mùng 08, 14, 15, 23, 29 và 30
(nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 28, 29). Có người phát tâm ăn chay mỗi
tháng mười ngày là ngày 01, 08, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30 (nếu tháng
thiếu thì ăn vào ngày 27, 28, 29). Cũng có nhiều người phát nguyện ăn chay
suốt cả tháng (thường là tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng giêng, tháng
bảy và tháng mười) hay cả năm. Các nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất
hợp vệ sinh và không kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên nguời dân
huyện Phú Bình dù không phải là Phật tử cũng thích ăn chay, và tập tục này
đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội từ xưa đến nay.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng
sinh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng nơi đây. Đến ngày rằm
và mùng một, người ta thường hay mua chim, cá,... để đem về chùa chú
nguyện rồi đi phóng sinh. Người dân ở đây cũng thích làm phúc bố thí và sẵn
sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn, vào các ngày lễ hội họ tập trung về
chùa. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình
thức trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
69
cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảng sống
gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc lá lành đùm lá rách.
Tập tục cúng rằm, mùng một và đi lễ:
Theo đúng truyền thống, tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc
vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ
tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự
cảm ứng với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập. Đây là ngày
trong sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bồ tát và
ngày Sám hối, người tín đồ về chùa để tham dự lễ Sám hối, cầu nguyện bỏ ác
làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng là những ngày Trưởng
tịnh, Sám hối, Ăn chay là xuất phát từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa.
Ngoài việc đi Chùa Sám hối, ở nhà vào ngày rằm và mùng một, người
dân Phú Bình cũng sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng tam bảo và tổ
tiên ông bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá cố và cụ thể
hóa hành vi tu tâm dưỡng tính của họ.
Bên cạnh việc đi chùa Sám hối vào ngày rằm, mùng một, người dân ở
đây còn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như
ngày rằm tháng giêng (Kỳ yên), rằm tháng tư (Phật đản) và rằm tháng bảy (lễ
Vu lan). Đây là một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống
người Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, cũng như nhiều nơi khác, đi viếng
chùa cũng tùy thuộc vào mục đích và quan niệm của mỗi người. Cánh cửa
chùa ở vùng đất trung du này bao giờ cũng rộng mở đối với thập phương bá
tánh, nhất là các ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian (tết Nguyên Đán)
hoặc những ngày kỷ niệm lớn của lịch sử dân tộc (giỗ tổ Hùng Vương). Vào
những ngày này, đông đảo các tầng lớp nhân dân, các giới trong huyện và các
địa phương lân cận qui tụ về đây. Những hình ảnh đó đã góp phần tạo nên bản
sắc và nét đẹp văn hóa của các ngôi chùa Phú Bình. Trong số những người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
70
đến lễ chùa đó, không phải ai cũng đến đây vì lý do tín ngưỡng thuần túy.
Một số người chỉ đơn giản muốn đi xem lễ hội hoặc thích chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của chùa chiền. Nhưng khi đã hội nhập vào bầu không khí trang nghiêm
họ cũng thấy mình trở nên đĩnh đạc và trầm tĩnh hơn, đây là cơ hội giúp họ
quay về với truyền thống, với tâm linh và đạo Phật.
Nghi thức tang ma, cưới hỏi:
Tang ma, cưới hỏi là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt.
Về tang ma, theo phong tục của người Việt Nam, mỗi vùng, mỗi dân
tộc lại có những nghi thức khác nhau. Huyện Phú Bình có 14 dân tộc anh em
chung sống xen kẽ nhưng người Kinh chiếm số đông hơn cả (hơn 90% dân
số). Do đó, ảnh hưởng của ngôi chùa thờ Phật trong nghi thức tang ma ở đây
khá rõ nét. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua đời, thân quyến
đến chùa thỉnh nhà sư về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi là làm ma
chay). Thông thường các nghi thức trong tang lễ được diễn ra tuần tự như sau:
(1) Nghi thức nhập liệm người chết; (2) lễ phát tang; (3) lễ tiến linh (cúng
cơm); (4) khóa lễ kỳ siêu cho hương linh; (5) lễ cáo Triều Tổ (cáo tổ tiên ông
Bà trước giờ di quan); (6) lễ di quan và hạ huyệt; (7) Đưa lư hương, long vị,
hình vong về nhà hoặc chùa; (8) lễ an sàng; (9) cúng thất (tụng Kinh cầu siêu
và cúng cơm cho hương linh trong bảy tuần gồm 49 ngày, mỗi tuần cúng một
lần); (10) lễ tiểu tường (giáp năm, sau ngày hương linh mất một năm); (11) lễ
đại tường (lễ xả tang, sau ngày hương linh qua đời ba năm).
Ở một số gia đình không theo đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia
chủ mến chuộng đạo Phật và vì Phật giáo xưa nay vẫn gần gũi với truyền
thống dân tộc nên cũng mời nhà sư ở chùa đến tụng kinh cầu siêu cho hương
linh và tổ chức tang lễ giống như những tín đồ theo đạo Phật. Nhìn chung, tập
tục tang ma tại Phú Bình chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của
Phật giáo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
71
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo và ngôi chùa ở Phú Bình tỏ
ra ít phức tạp hơn. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ theo tín
ngưỡng Phật giáo, thường đến các ngôi chùa ở đây khấn nguyện cho mối
lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến ngày cưới hỏi, họ được
hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ "hằng thuận quy y" trước khi rước dâu.
Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được chư tăng khuyên dạy một số nguyên
tắc đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc sống mới. Tuy nhiên,
những nghi thức này đang ngày càng mai một đi trong cuộc sống hiện đại.
Các phong tục tập quán khác:
Chùa và tín ngưỡng thờ Phật còn ảnh hưởng đến nhiều tập tục khác của địa
phương như tập tục đốt vàng mã, coi ngày giờ, cúng sao hạn, xin xăm, bỏi quẻ...
Đây đều là những tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt Nam nói chung.
3.1.3. Chùa với lễ hội dân gian của các làng xã Phú Bình
3.1.3.1. Vài nét về lễ hội dân gian gắn với ngôi chùa của người Việt
Cho đến nay có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về lễ hội. Trong
cuốn Lễ hội cổ truyền, Phan Đăng Nhật cho rằng: “Lễ hội là một pho lịch sử
khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những lớp phong tục, tín ngưỡng, văn hóa, nghệ
thuật và cả các sự kiện xã hội – lịch sử quan trọng của dân tộc”.
Một số tác giả khác lại đưa ra khái niệm về lễ hội như sau: “Hội và lễ
hội là một sinh hoạt văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam chúng ta. Hội và lễ
hội có sức hấp dẫn, lôi cuốn các tầng lớp trong xã hội để trở thành một nhu
cầu, một khát vọng của nhân dân trong nhiều thập kỷ” [1, 16].
Theo chúng tôi, lễ hội – lễ và hội là hai phạm trù hợp nhất thành một
sinh hoạt văn hóa cộng đồng hoàn chỉnh.
Dù ai đi đâu về đâu
Hội làng đã mở rủ nhau ta về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
72
Câu ca dao đã chứng tỏ rằng các lễ hội có một vai trò quan trọng trong
đời sống của nhân dân.
Lễ hội ở nước ta rất đa dạng và phong phú. Theo thống kê của các nhà
nghiên cứu văn hóa dân gian, Việt Nam có gần 500 lễ hội cổ truyền lớn, nhỏ
trải rộng khắp đất nước trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mỗi lễ hội mang
một nét tiêu biểu và giá trị riêng, nhưng bao giờ cũng hướng tới một một đối
tượng linh thiêng cần được suy tôn như những vị anh hùng chống ngoại xâm,
những người có công dạy dỗ truyền nghề, chống thiên tai, diệt trừ ác thú, giàu
lòng cứu nhân độ thế... Với tư tưởng uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người
trồng cây, ngày hội diễn ra sôi động bằng những sự tích, công trạng, là cầu
nối giữa quá khứ với hiện tại, làm cho thế hệ trẻ hôm nay hiểu được công lao
tổ tiên, thêm tự hào về truyền thống quê hương, đất nước của mình. Đặc biệt,
lễ hội ở nước ta gắn bó với làng xã, địa danh, vùng đất như một thành tố
không thể thiếu vắng trong đời sống cộng đồng nhân dân.
Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt có nhiều lễ hội, mà lễ hội
Chùa là chiếm tỷ lệ cao hơn hết. Nét đẹp văn hóa của ngôi chùa được thể hiện
qua các lễ hội. Có thể nói, cho đến nay chưa có tôn giáo nào có sức ảnh
hưởng lớn đến các lễ hội ở Việt Nam như Phật giáo. Hằng trăm lễ hội ở Việt
Nam phần đông là lễ hội Phật giáo gắn liền với ngôi chùa. Lễ hội Phật giáo đã
gắn bó, hòa quyện với quần chúng đến độ nó trở thành lễ hội của dân gian,
mang tính đại đồng. Đi hành hương chiêm bái thánh tích, tham gia vào các lễ
hội đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của người dân Việt. Mọi người, ở
mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, không phân biệt tôn giáo, quốc tịch đều tham gia
lễ hội.
Hằng năm, hàng trăm lễ hội Phật giáo được diễn ra. Ngoài những lễ hội
chung như Vu Lan, Khánh Đản, ở các địa phương còn có những lễ hội đặc thù
gắn liền với những danh lam. Miền Nam có lễ hội Bà Đen (Linh Sơn Tiên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
73
Thạch tự), lễ hội chùa Bà núi Sam. Miền Trung có lễ hội chùa Núi (Bình
Định), lễ hội Quan Âm (Non Nước)… Miền Bắc có lễ hội chùa Dâu, chùa
Keo, chùa Hương. . .
Thông thường, lễ hội gồm hai phần: Phần lễ va phần hội. Phần lễ liên
quan đến nghi thức cúng tế. Đó là sự tỏ lòng thành kính, tri ân đối với đấng
thiêng liêng Phật Thánh, bậc tiền hiền có nhiều công trạng. Phần hội có múa
tứ linh, hát chèo hát dân ca, kể hạnh… là những hình thức mang đậm bản sắc
văn hóa dân gian sinh động.
Đi hành hương, tham quan lễ hội cũng là trở về với thiên nhiên và nguồn
cội tâm linh. Nhìn chung, các lễ hội Phật giáo gắn liền với những ngôi chùa nổi
tiếng đã mang đậm và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và Phật giáo, đồng thời
trở thành một phần tất yếu của đời sống tâm linh hướng thượng.
"Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông”
Điều cần nhấn mạnh là qua các lễ hội, nhân dân đã thể hiện được
những đặc trưng tín ngưỡng của mình, thể hiện được những quan niệm sống,
quan niệm ứng xử và đạo đức, phong tục, tập quán cùng những khát vọng
trong cuộc sống. Lễ hội cũng là dịp để con người gần gũi nhau, cảm thấy
được sống giữa không khí chan hòa, đùm bọc nhau. Trong khi cùng cúi đầu
dâng hương trước một bàn thờ, một pho tượng, hay cùng nhau hát một bài
hát, chơi một trò chơi, người ta đã nói với nhau lời giao ước vì một sự gắn bó
bền lâu.
3.1.3.2. Chùa với lễ hội dân gian của các làng xã Phú Bình
Phú Bình là một huyện có bề dày lịch sử - văn hóa với nhiều lễ hội
được tổ chức thường niên. Vào ngày lễ hội, nhân dân các làng xã, già trẻ, gái
trai đi làm ăn sinh sống ở đâu cũng nhớ ngày để về dự.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
74
Chùa ở huyện Phú Bình nói riêng và chùa Việt Nam nói chung luôn
luôn gắn liền với các lễ hội, góp phần làm cho văn hoá địa phương thêm hấp
dẫn, đặc sắc. Cũng như các địa phương khác, ngày lễ và hội chùa được quy
định hàng năm theo âm lịch. Các ngày lễ hội đều được ghi trong hương ước
của làng xã.
Hầu hết các ngôi chùa trong hệ thống chùa Phú Bình đều duy trì thờ
vào ngày sóc, ngày vọng – tức ngày mùng 1 và ngày rằm (lịch trăng) hàng
tháng. Vào những ngày này, các cụ cao tuổi trong làng luân phiên cúng lễ lên
chùa. Người dân trong thôn xã cũng biện lễ oản, thành tâm cúng Phật với lòng
từ bi, nhân ái, hướng thiện. Các ngày tuần tiết gồm 3 ngày chính đán (tết
Nguyên đán), Đoan Dương (5/5), Thượng Nguyên (Rằm tháng Giêng), Trùng
Thập (10/10), Hạ điền, Thượng điền thì tùy theo từng lễ, từng năm mà biện lễ
to nhỏ khác nhau ở cả đình và chùa. Những lễ tiết này đã thành tục lệ lâu đời.
Như hương ước xã Nô Dương, tổng Đức Liên năm 1942 viết: “Đình, đền và
chùa thì mỗi tháng mùng một và hôm rằm có lệ Sóc vọng, đều lễ chay là oản,
chuối hay là xôi, chuối. Ở đền thì các kỳ lão, ở đình thì các đinh giai, còn ở
chùa thì các cụ bà. Lệ này đều có ruộng công xã, ai cấy thì phải làm tuần Sóc
vọng ấy”[38,6].
Mỗi ngôi chùa ở Phú Bình đều có một ngày lễ chính được tổ chức
long trọng hơn cả. Chùa Ha, chùa Úc Sơn, chùa Lềnh, chùa Lảo … có lễ
chính vào Rằm tháng Giêng – gọi là lễ Thượng nguyên hay lễ Kỳ yên- Thiên
quan tích phúc để cầu trời ban phúc lành. Tết Thượng nguyên (tết nguyên
tiêu) vào đúng Rằm tháng Giêng - ngày trăng tròn đầu tiên của năm. Tết này
tổ chức tại chùa chiền, vì Rằm tháng Giêng còn là ngày vía của Phật tổ.
Thành ngữ "Lễ Phật quanh năm không bằng Rằm tháng Giêng" xuất phát từ
đó. Vào ngày lễ này, ở đình thì dùng bằng xôi gà, ở chùa dùng bằng oản
chuối. “Tháng Giêng – ngày 15 làng tôi có lệ ở chùa, gọi là lệ Thượng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
75
nguyên ở chùa, chỉ có các cụ ông và cụ bà ra dự lễ. Lệ ấy mỗi nhà phải góp
một cỗ chay để đãi khách thập phương” [38,1]. “Đêm hôm rằm tháng Giêng
đồng dân thái ông lão gia già trẻ gái giai ra chùa đêm hôm ấy ra chùa làm lễ
Thượng nguyên. Đến sang hôm sau, tức ngày 16 đồng dân có lệ hội vật, lại
đến ngày mồng 3 tháng 4 làm lễ hạ điền….. lễ Thượng điền … lệ tư văn…..”
[31,1]. Lễ thu hút đông đảo người dân địa phương và các vùng phụ cận. Sau
khi đi chùa mọi người về nhà họp mặt cúng gia tiên và ăn cỗ. Lễ và hội tại
chùa đồng thời cũng là hội làng truyền thống của thôn, xã bản địa.
Ngoài các ngày lễ lớn trên, một số ngôi chùa ở Phú Bình thờ thần ngay
trong điện thờ Phật, theo kiểu “tiền Phật, hậu Thần”. Vì vậy mà ngoài những
lễ hội của nhà chùa tổ chức, một số ngôi chùa trong huyện còn tổ chức hội
làng cũng tại chùa để tế rước Thành hoàng làng tuy Thành hoàng được thờ tại
đình làng, nhưng đình thường được xây dựng gần chùa và khi rước Thành
hoàng làng, thường rước từ đình sang chùa rồi lại rước lại đình. Ngoài ra,
những ngày lệ ở đình, ở chùa cũng sắp mâm lớn để cúng Phật.
Ngoài việc thường xuyên mở cửa đón du khách, hàng năm chùa kết
hợp với đình còn tổ chức các ngày lễ lớn. Dưới đây điểm qua các lễ của một
số chùa:
Chùa Lềnh (xã Tân Đức) có các ngày lễ:
- Ngày 10 tháng Giêng: Lễ hội truyền thống tổ chức các trò chơi
- Ngày 15 tháng Giêng: Lễ Thượng nguyên, cầu may để mùa màng được tươi
tốt
- Ngày 10 tháng 3: Ngày giỗ Cha (ngày giỗ Tổ Hùng Vương)
- Ngày 8 tháng 4: Ngày lễ Phật đản
- Ngày 15 tháng 7: Ngày xá tội vong nhân
- Ngày 20 tháng 8: Ngày giỗ Mẫu
- Ngày 12 tháng 9: Lệ làng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
76
- Ngày 23 tháng 12: Lễ Tất niên
Chùa Lảo (xã Nga My) có các ngày lễ:
- Ngày 2 tháng 3: Lễ Hạ điền
- Ngày 10 tháng 4: cúng Thần Nông
- Ngày 12 tháng 8: Lễ Thượng điền
- Ngày 12 tháng 10: Dâng lễ lên thần mùa thu hoạch
Chùa Hản (xã Tân Đức) có các lễ:
- Ngày 15 tháng Giêng: Lễ Thượng nguyên, nhân dân trong làng thi nấu cỗ.
- Ngày 1 tháng 4: Lễ vào hè, cầu phúc cho 3 tháng hè mưa thuận gió hòa, làm
ăn phát đạt.
- Ngày 1 tháng 7: Lễ ra hè, kết thúc 3 tháng hè tốt lành
- Ngày 23 tháng 12: lễ Tất niên, chốt lại một năm an lành, tốt đẹp.
Chùa An Mỹ (xã Tân Đức) có các lễ hội:
- Ngày 8 tháng Giêng: 3 cửa đình An Mỹ, Phục Hổ, Phi Long tổ chức rước lễ
về nghè Mẫu, cùng nhau tế lễ xong rồi dân làng lại rước về đình và chùa của
các làng, làm lễ cúng thần thánh, cúng Phật.
- Ngày 12 tháng 9: ngày lệ làng, ngày tụ hội của các thế hệ về quê cha đất tổ
để tưởng nhớ quê hương.
- Ngày Rằm tháng Giêng: ba cửa chùa tổ chức lễ hội Thượng nguyên
- Ngày 16 tháng Giêng: tế trời đất, trừ kẻ gian
- Ngày 18 tháng 4: lệ xuống đồng để nhân dân cày cấy
- Ngày 4 tháng 5: việc sự hương tử
- Ngày 14 tháng 7: Lễ Thượng điền
- Ngày 12 tháng 8: lệ Cáo từ
- Ngày 12 tháng 9: việc sự lệ thần, cả xã kỳ phú xướng ca
Bên cạnh phần lễ, trong phần hội, các nam thanh nữ tú tổ chức hát giao
duyên, tham gia các trò chơi dân gian như đá cầu, chọi gà, kéo co, đấu vật, cờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
77
người, cờ bàn. Ngày nay, song song với các trò chơi truyền thống, hội còn kết
hợp với các trò chơi rèn luyện sức khỏe hiện đại như thi đấu cầu lông, bóng
đá, bóng chuyền. Các cụ già đánh cờ, nhâm nhi chén chè mời khách cùng
tham gia, trai tráng thi đấu võ thuật.
Có thể nói, các lễ hội chùa nói trên ở Phú Bình đã góp phần làm cho
văn hoá địa phương thêm hấp dẫn, là dịp nhân dân được giao lưu nghỉ ngơi và
vui chơi sau những ngày lao động vất vả. Thông qua các dịp lễ hội, người dân
càng thêm gắn bó với quê hương, đồng ruộng, chia ngọt sẻ bùi, vượt qua mọi
khó khăn trong đời sống kinh tế, vun đắp đức tính cần cù sáng tạo, đoàn kết
trong lao động, trong đời sống cộng đồng; lòng yêu nước, tin yêu Đảng,
Chính phủ, góp sức xây dựng đời sống văn hóa huyện nhà phong phú sôi
động. Mặt khác, sự giao lưu văn hóa, thu hút khách du lịch cũng góp phần
phát triển kinh tế xã hội trong huyện.
Ban quản lý các ngôi chùa ở Phú Bình có nhiều nỗ lực, tâm huyết, gìn
giữ bảo vệ, tổ chức sinh hoạt văn hóa thiết thực phục vụ nhân dân sở tại và du
khách; thu hút các nguồn lực kinh phí, tôn tạo các hạng mục, phát huy giá trị
của hệ thống chùa ở đây, góp phần phát triển kinh tế xã hội địa phương, biến
mỗi ngôi chùa là một điểm du lịch - văn hóa - tâm linh thu hút ngày càng
đông đảo nhân dân cả các vùng lân cận, trong và ngoài tỉnh.
3.1.4. Chùa với truyền thống đấu tranh cách mạng của nhân dân Phú Bình
Nếu ví Thái Nguyên là vành đai áo giáp bảo vệ cho phía Bắc thủ đô thì
Phú Bình là một trong những địa bàn có vị trí trọng yếu trong vành đai đó.
Đây là vùng đất rộng án ngữ địa đầu phía Nam của tỉnh. Trong thời kỳ vận
động cách mạng tháng Tám (1939 – 1945), Trung ương Đảng, Xứ ủy Bắc kỳ
đã lấy Phú Bình làm An toàn khu, nơi đào tạo huấn luyện cán bộ quân sự,
chính trị; nơi in ấn, phát hành báo Cờ giải phóng và các tài liệu chỉ đạo phong
trào cách mạng toàn quốc của Đảng. Phú Bình cũng là điểm nối quan trọng có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
78
vị trí huyết mạch giữa căn cứ địa Việt Bắc với phong trào cách mạng ở Hà
Nội và toàn quốc. Trong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), Phú Bình
vừa là cửa ngõ phía Nam căn cứ địa Việt Bắc, vừa là nơi đứng chân của các
đơn vị bộ đội chủ lực trước khi xuống trung du, đồng bằng đi các chiến dịch;
đồng thời là cửa ngõ cung cấp các nhu cầu thiết yếu từ vùng địch hậu ra căn
cứ kháng chiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phú Bình vừa
là địa bàn cơ động của bộ đội tên lửa pháo cao xạ bảo vệ vòng ngoài thủ đô
Hà Nội và các yếu địa ở thành phố Thái Nguyên, vừa là nơi huấn luyện tân
binh bổ sung cho chiến trường, là tuyến vận chuyển quân sự khi các quốc lộ
số 1 và số 3 bị không quân Mỹ đánh phá, cắt đứt.
Với vị trí quan trọng là cái nôi cách mạng, các thế hệ người dân Phú
Bình dũng cảm kiên cường đấu tranh chống ngoại xâm, hăng hái góp sức cho
phong trào cách mạng. Ngôi chùa làng cũng không nằm ngoài những diễn
biến của vận mệnh quê hương, dân tộc.
Chùa ở Phú Bình không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của
nhân dân địa phương mà trong thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây
dựng tổ quốc, đó còn là những nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử gắn với quá
trình hình thành và phát triển phong trào cách mạng của huyện Phú Bình và
tỉnh Thái Nguyên.
Đặc biệt, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược, nhiều ngôi chùa ở Phú Bình là cơ sở cách mạng. Chùa là địa
điểm được chọn làm nơi ở, nơi hội họp bí mật hoặc là nơi cất giữ tài liệu,
lương thực, vũ khí trong những năm kháng chiến. Có ngôi chùa được chi bộ
Đảng địa phương chọn làm nơi tuyên truyền vận động cách mạng.
Chùa Lũa (xã Tân Đức), năm 1946, là một trong những nơi đặt hòm
phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Sau ngày toàn quốc kháng chiến, là vùng tương đối an toàn do
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
79
chiến sự không lan tới, nhiều ngôi chùa trên địa bàn huyện được chọn làm nơi
hoạt động của một số cơ quan Trung ương, Khu và tỉnh. Năm 1948 – 1949,
bệnh viện của tỉnh đội Bắc Giang (còn gọi là viện Bắc Bắc) sử dụng đình và
chùa Lũa làm nơi đón nhận thương bệnh binh từ các mặt trận đưa về, có bác
sĩ Võ Quốc Huy phụ trách. Cuối năm 1949 – 1951, công binh xưởng 160
dùng đình, chùa làm cơ sở sản xuất khí tài do ông Kình phụ trách, ông Dương
làm bí thư xưởng. Cuối năm 1951, trường đào tạo y tá của Khu mở tại đây,
đào tạo cán bộ, đưa lên chiến tuyến, phục vụ thương bệnh binh. Sang năm
1952, chùa lại là lóp dạy bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ. Trong những năm
tháng chống Mỹ cứu nước (1958 - 1959), đình chùa Lũa là địa điểm họp để
lập nên các tổ đổi công giúp nhau phát triển sản xuất nông nghiệp, sau thành
hợp tác xã nông nghiệp do ông Nguyễn Tiến Uông là đại biểu HĐND Khu
làm chủ nhiệm. Năm 1960, chùa Lũa là nơi triển khai vận động xây dựng 3
ngọn cờ hồng: HTX nông nghiệp, HTX tín dụng, HTX mua bán. HTX nông
nghiệp đã sử dụng chùa làm nhà kho, sân phơi. Năm 1965, đây lại là nơi đón
nhận bộ đội chống Mỹ của sư đoàn 304 đến đây để huấn luyện quân.
Chùa Hản (xã Tân Đức) ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử trong quá trình
dựng làng, giữ nước. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, chính quyền địa
phương mới thành lập chưa có trụ sở, chùa Hản được chọn làm nơi làm việc
của Ủy ban hành chính kháng chiến xã Đức Dương. Bước vào hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chùa là nơi cất giấu
lương thực, vũ khí cho bộ đội. Từ cuối năm 1947 đến năm 1948, khi cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp được mở rộng, nhiều
thương binh được đưa về chùa Hản để điều trị, chùa trở thành bệnh viện.
Khuôn viên chùa và rừng cây quanh chùa trở thành nhà lán ở, làm việc, điều
trị, điều dưỡng thương bệnh binh. Người phụ trách bệnh viện là bác sĩ
Nguyễn Trọng Thiện. Sau ngày hòa bình, những thương binh mất tại đây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
80
được một số gia đình đưa hài cốt về quê, số anh em còn lại hiện vẫn nằm tại
nghĩa trang của xã Tân Đức. Cuối năm 1951, máy bay giặc Pháp ném bom
bắn phá vào kho quân lương và cơ sở bệnh viện quân đội làm sập đổ nhiều
hạng mục kiến trúc chùa Hản.
Chùa Ha (xã Nhã Lộng) cùng với đình Lộng và Thành phủ Phú Bình là
nơi cất giấu vũ khí của Bộ Quốc phòng và Liên khu Việt Bắc; là nơi luyện tập
quân sự của Tiểu đoàn 160 Quân đội nhân dân Việt Nam do đồng chí Đào
Đình Luyện (sau là đại tướng, tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt
Nam) phụ trách. Năm 1948, tiểu đoàn 160 xuất quân đánh trận Phủ Thông,
đèo Giàng; trận Đông Khê năm 1950. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, chùa là kho quân lương của Sư đoàn 312.
Chùa Ca (xã Kha Sơn) là địa điểm thành lập chính quyền cách mạng
đầu tiên của huyện Phú Bình (14/3/1945), nơi cất giấu tài liệu của Xứ ủy Bắc
Kỳ (1939 -1945).
Chùa Mai Sơn (xã Kha Sơn): Năm 1943, cơ sở in ấn của Xứ ủy Bắc
Kỳ đặt tại chùa. Tại đây, đã in nhiều tài liệu, sách, báo “Cờ giải phóng”, sách
dạy “Du kích chiến tranh”, “Bắc Sơn khởi nghĩa” do đồng chí Trường Chinh
trực tiếp chỉ đạo. Đây còn là nơi thành lập Mặt trận Việt Minh tổng Phương
Sơn (1943), nơi đồng chí Lương Văn Đài – cán bộ Xứ ủy triệu tập cuộc họp
các lớp huấn luyện chính trị, quân sự, đồng chí Hà Thị Quế chủ trì. Ngày
3/4/1944, địch tổ chức lục soát bao vây ở các xã Kha Sơn Thượng, Kha Sơn
Hạ, Mai Sơn. Chúng đã phát hiện ra “nhà in đặc biệt khu” của Xứ ủy ở chùa
Mai Sơn, đã bắt nhiều quần chúng cách mạng ở đây và các xã lân cận.
Ngoài ra, nhiều ngôi chùa khác trong hệ thống chùa Phú Bình như chùa
Lũ Yên thời kỳ tiền khởi nghĩa là nơi hội họp của phong trào Việt Minh và
lực lượng vũ trang của địa phương chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính
quyền; chùa Lềnh là nơi luyện tập của dân quân du kích địa phương; chùa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
81
làng Thượng là nơi làm việc của một số cơ quan và bộ đội trong kháng chiến
chống Pháp,…
Như thế, ở tất cả các dấu ấn lịch sử nổi bật của dân tộc trong thế kỷ
XX, từ thời kỳ tiền khởi nghĩa đến hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ đất nước, các ngôi chùa ở Phú Bình đã cùng
nhân dân địa phương góp sức vào công cuộc kháng chiến kiến quốc, bảo vệ
và xây dựng đất nước.
Vì được chọn làm cơ sở cách mạng nên rất nhiều chùa ở Phú Bình đã bị
quân xâm lược Pháp, Mỹ càn quét, ném bom và đốt phá. Một số chùa như
chùa Lảo thì bị phá khi thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Sau chiến tranh, nhiều
ngôi chùa bị hư hỏng nặng. Nhân dân địa phương đã quyên góp tôn tạo, phục
dựng lại nhiều hạng mục chùa trên nền đất cũ để có nơi thờ Phật, đáp ứng nhu
cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân trong vùng.
3.2. Thực trạng và những đề xuất đóng góp cho công tác bảo tồn và phát
huy giá trị của hệ thống chùa Phú Bình
3.2.1. Thực trạng của hệ thống chùa huyện Phú Bình
Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam đều có chứa
đựng ít nhiều triết lý nhà Phật và những hình ảnh về ngôi chùa. Trải qua hàng
ngàn năm gắn bó mật thiết với làng xã Việt Nam:
“Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”
Đất vua, chùa làng là một hình ảnh gần gũi với dân, với làng, với nước.
Nếu ai xúc phạm đến chùa, Phật thì cũng có thể hiểu là xúc phạm đến đạo lý,
đến truyền thống, cộng đồng. Trên tinh thần đó người dân Việt Nam nói
chung và người dân Phú Bình nói riêng quyết một lòng bảo vệ ngôi Chùa quê
hương của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
82
Được ví như chiếc cầu nối liền vùng đồng bằng châu thổ với miền núi
non hiểm trở phía bắc, Phú Bình chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa thờ Phật
của miền xuôi. Phú Bình là huyện có nhiều chùa nhất tỉnh Thái Nguyên.
Phần lớn các ngôi chùa ở Phú Bình được khởi dựng từ thời Hậu Lê,
sớm hơn nữa như chùa Phi Long, chùa An Mỹ, chùa Pheo được xây dựng từ
thế kỷ XII. Trải qua mấy thế kỷ, chịu nhiều tác động của thời gian và các diễn
biến của đời sống làng quê và dân tộc, các công trình kiến trúc chùa ở Phú
Bình không còn nguyên vẹn. Hiện nay, một số ngôi chùa còn lưu giữ được
kiến trúc cổ; nhiều ngôi chùa đã bị đổ, phá hủy và xây dựng lại trên nền móng
cũ với kiến trúc truyền thống, và còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý như bia
đá, cột đá, chuông cổ,…
Tác động của thiên nhiên và con người đã làm nhiều hạng mục trong
các ngôi chùa bị xâm hại nghiêm trọng. Đặc biệt là phần kiến trúc gỗ bị côn
trùng (mối, mọt..) phá hại. Nhiều cấu kiện gỗ như kèo, cột... trong chùa đã bị
mọt rỗng; các bức tường đã bị nứt, mái ngói bị vỡ nhiều nên có nguy cơ sập
bất cứ lúc nào, ảnh hưởng lớn đến công tác bảo quản các hiện vật cổ ở chùa.
Gần đây nhất, chùa Nga My – một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thế kỷ XII
bị đốt cháy toàn bộ mà nguyên do là từ ý thức bảo vệ của con người. Những
giá trị văn hóa vật chất mất đi như vậy sẽ làm mai một dần những giá trị văn
hóa tinh thần. Hình ảnh ngôi chùa và tín niệm từ bi bác ái, tu nhân tích đức
của đạo Phật mờ dần trong lòng các thế hệ người dân địa phương, đặc biệt là
thế hệ trẻ thì thật đáng tiếc.
Ở Phú Bình, việc tôn tạo chùa được thực hiện ngay từ rất sớm, dưới các
triều đại phong kiến. Nhiều ngôi chùa Phú Bình vẫn còn lưu giữ các tấm bia đá,
các cây hương đá, cột đá ghi lại việc trùng tu, sửa chữa chùa. Ví dụ: Các tòa
nhà của chùa Ha đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa, kiểu thức hiện còn thuộc
đầu thế kỷ XVIII. Năm 1716, chùa được trùng tu, tôn tạo và mở rộng quy mô.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
83
Nội dung văn bia khắc trên hai cột đá hình lục lăng của chùa cho biết chùa
được trùng tu vào ngày tốt, giữa mùa xuân, năm Bính Thân, niên hiệu Vĩnh
Thịnh thứ 12 – triều Lê. Tại làng Lộng, xã Nhã Lộng, huyện Tư Nông, phủ Phú
Bình, xứ Thái Nguyên dựng cột đá ghi cổ tích danh lam Bà Ha tự. Bài ký ghi
lịch sử chùa và kê tên những người làm công đức trùng tu, xây dựng chùa do
Giám sinh Văn người địa phương soạn. Phiên âm chữ Hán như sau:
“Thái Nguyên xứ, Phú Bình phủ, Tư Nông huyện, Nhã Lộng xã, làng
Lộng thôn, Quan viên, Giám sinh Văn thuộc xã, thôn trưởng thượng hạ cập
thái ông, lão vãi, thiện nam tín nữ đẳng vi hữu tiền triều cổ tích danh lam
thạch trụ Bà Ha tự, kê nhất công đức… Hoàng triều Vĩnh Thịnh vạn vạn niên
chi thập nhị tuế tại Bính Thân trọng xuân cốc nhật”.
Các năm dưới triều Nguyễn, chùa Ha lại được tiếp tục tôn tạo sửa chữa:
năm Đồng Khánh tam niên (1888), năm Thành Thái nguyên niên (1889). Các
năm 1991, 1994 và 2002, chùa được sửa chữa nhỏ. Tuy có sửa chữa nhưng cơ
bản không làm ảnh hưởng tới cảnh quan, kiến trúc gốc của di tích.
Ngày nay, trước thực trạng xuống cấp của nhiều ngôi chùa ở Phú Bình,
địa phương đã có biện pháp bảo vệ như xây tường bao, làm hàng rào bảo vệ;
mặt bằng đất đai và cảnh quan di tích, đường đi lối lại được bảo quản, tu bổ
ngày càng hoàn thiện tạo không khí trong lành, yên bình cho người dân đến
dâng hương lễ Phật hay khách tham quan đến vãn cảnh chùa.
Ở mỗi làng xã có chùa, địa phương còn thành lập các Ban quản lý di
tích gồm các cụ cao tuổi để bảo vệ, tôn tạo, tổ chức sinh hoạt văn hóa, lễ hội,
phát huy giá trị ngôi chùa. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền giáo
dục cho nhân dân địa phương về giá trị lịch sử - văn hóa, tầm quan trọng, ý
nghĩa của di tích để nhân dân có ý thức trách nhiệm bảo vệ, đóng góp, tham
gia phát huy, hưởng thụ di sản văn hóa dân tộc. Ban quản lý các ngôi chùa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
84
còn khéo léo vận động nhân dân đóng góp tiền của đồng thuận tôn tạo chùa,
khai thác hợp lý, phát triển du lịch bước đầu đạt hiệu quả.
Đặc biệt, với các ngôi chùa là di tích lịch sử văn hóa, di tích kiến trúc
nghệ thuật, di tích lịch sử lưu niệm sự kiện, tháng 5 năm 1998, Bảo tàng Thái
Nguyên phối hợp với trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã tiến hành tổng kiểm
kê, năm 2002 lại phúc tra di tích thực hiện Luật di sản văn hóa. Theo kết quả
của hai đợt rà soát này, nhiều ngôi chùa trong hệ thống chùa Phú Bình nằm
trong quy hoạch đã được lập hồ sơ khoa học đề nghị UBND tỉnh Thái Nguyên
xếp hạng di tích. Đây là cơ sở pháp lý cho việc bảo tồn, khai thác và sử dụng
hệ thống chùa Phú Bình nhằm giáo dục truyền thống và phục vụ nhu cầu
hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân địa phương.
Bảng 6: Các chùa ở Phú Bình đƣợc xếp hạng di tích
TT Tên chùa Loại hình di tích Cấp xếp
hạng
Năm xếp
hạng
1 Chùa Phương Độ
(cùng đình làng)
Kiến trúc nghệ thuật Quốc gia
1993
2 Chùa Xuân La
(cùng đình làng)
Kiến trúc nghệ thuật Quốc gia
2001
3 Chùa Mai Sơn, chùa Ca
(cùng cụm di tích lịch sử
xã Kha Sơn)
Lịch sử lưu niệm sự
kiện
Quốc gia 1997
4 Chùa Úc Kỳ Kiến trúc nghệ thuật Quốc gia 2004
5 Chùa Ha Kiến trúc nghệ thuật Quốc gia 2002
6 Chùa Lũ Yên Lịch sử văn hóa Tỉnh 2005
7 Chùa Phú Mỹ Lịch sử văn hóa Tỉnh 2005
8 Chùa Cầu Muối Lịch sử văn hóa Tỉnh 2006
9 Chùa Úc Sơn Kiến trúc nghệ thuật Tỉnh 2006
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
85
10 Chùa Lềnh Lịch sử văn hóa Tỉnh 2007
11 Chùa Pheo Lịch sử văn hóa Tỉnh 2008
12 Chùa An Châu Lịch sử văn hóa Tỉnh 2008
13 Chùa Triều Dương Lịch sử văn hóa Tỉnh 2008
14 Chùa Đại Lễ Lịch sử văn hóa Tỉnh 2008
15 Chùa Quyên, Hóa Lịch sử văn hóa Tỉnh 2008
16 Chùa Bàn Đạt Lịch sử văn hóa Tỉnh 2009
17 Chùa Hản Lịch sử văn hóa Tỉnh 2010
18 Chùa An Mỹ Lịch sử văn hóa Tỉnh 2010
19 Chùa Hộ Lệnh Lịch sử văn hóa Tỉnh 2010
(Nguồn: Ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh Thái Nguyên)
Như thế, ở Phú Bình, việc duy trì, bảo vệ, và tôn tạo các ngôi chùa
cũng như văn hóa thờ Phật đã và đang từng bước được quan tâm. Chính
quyền các cấp đã có những nhìn nhận và việc làm thiết thực cho công tác bảo
tồn các giá trị văn hóa tín ngưỡng tôn giáo truyền thống, trong đó có ngôi
chùa làng. Tuy nhiên, do thiếu kiến thức về kiến trúc cổ và giữ gìn di sản, một
số hạng mục kiến trúc trong chùa được “tân trang”, xa rời cái nền truyền
thống. Trong thời gian tới, công tác bảo tồn, bảo vệ cần được đẩy mạnh và có
sự quản lý chặt chẽ, quy củ hơn.
3.2.2. Những đề xuất đóng góp cho công tác bảo tồn và phát huy các giá trị
của hệ thống chùa Phú Bình
Trên mọi miền đất nước, hình ảnh ngôi chùa đã trở nên thân quen với
tất cả mọi người, nó là sự kết tinh muôn đời của người Việt Nam nói chung và
người dân Phú Bình nói riêng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, ngôi chùa
đã thực sự là biểu hiện sinh động các giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc.
Mặc dù quá trình tồn tại, phát triển của Phật giáo và ngôi chùa ở địa phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
86
trung du miền núi này trải qua nhiều khúc quanh nhưng ngôi chùa vẫn giữ
một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của cộng đồng cư dân bản địa.
Chùa là một thành tố quan trọng của môi trường xã hội làng xã truyền thống,
là thông điệp của quá khứ gửi lại cho các thế hệ sau. Chùa có năng lực trường
tồn. Quan tâm và chăm lo bảo tồn các ngôi chùa ở địa phương trở thành một
hoạt động không thể thiếu của một xã hội văn minh.
Với vai trò là người nghiên cứu, qua thực tế quá trình tìm hiểu về hệ
thống chùa huyện Phú Bình – giá trị lịch sử, văn hóa và thực trạng bảo tồn,
chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến chủ quan đóng góp cho công tác giữ gìn và
phát huy các giá trị của ngôi chùa ở địa phương như sau:
Về xây dựng, tôn tạo chùa chiền:
Cơ quan văn hóa – thông tin các cấp cần quan tâm đầu tư hơn nữa cho
công tác khôi phục, kiến thiết các ngôi chùa ở Phú Bình, nhất là những ngôi
chùa là di tích lịch sử văn hóa, di tích lịch sử lưu niệm sự kiện hay di tích kiến
trúc nghệ thuật.
Với trình độ khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, chúng ta có thể
xây dựng những ngôi chùa lớn, đồ sộ, song để phục dựng các di tích đã biến
dạng hoặc biến mất trở lại với nguyên trạng là rất khó khăn. Vì thế, trong quá
trình trùng tu, sửa chữa hay xây dựng chùa ở Phú Bình, không được gượng
ép, tùy tiện thay đổi những môtip truyền thống. Những giá trị thẩm mỹ của
ngôi chùa cần phải chú trọng. Càng ngày, trình độ cảm thụ thẩm mỹ của
người dân địa phương càng cao. Tránh kiến trúc lòe loẹt, chắp vá. Những yếu
tố trang nghiêm, thanh thoát, hài hòa của nghệ thuật kiến trúc cổ cần phải kế
thừa, kết hợp với nghệ thuật mới có sáng tạo để đạt giá trị thẩm mỹ. Để làm
được điều này, các cơ quan chức năng, các cấp chính quyền huyện Phú Bình
nói riêng và tỉnh Thái Nguyên nói chung phải có sự giám sát quản lý chặt chẽ
trong quá trình xây dựng, tôn tạo các ngôi chùa ở Phú Bình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
87
Về giáo dục, tuyên truyền:
Ban quản lý các ngôi chùa ở Phú Bình cần giáo dục ý thức bảo vệ di
sản văn hóa ở các cộng đồng dân cư, các trường học và chính những người
đang sống cạnh các ngôi chùa. Hơn nữa, các cấp chính quyền cũng cần có ý
thức trách nhiệm trong việc bảo vệ di sản văn hóa, để có biện pháp phối hợp
cùng các cơ quan văn hóa, các cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức hữu
quan để thường xuyên kiểm tra việc tu sửa, bảo vệ di tích. Đặc biệt, cần phải
có hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với những hành vi cố tình xâm hại đến
cảnh quan và các hạng mục của ngôi chùa.
Bảo vệ giá trị văn hóa, mà cụ thể là ngôi chùa làng là tăng cường niềm
tự hào về truyền thống dân tộc, là sự bảo đảm cho mối dây thiêng liêng nối
liền quá khứ với hiện tại và tương lai, từ đó hình thành nên một yếu tố văn
hóa quan trọng tham gia vào sự phát triển bền vững của quê hương. Nhiệm vụ
này không chỉ là trách nhiệm của một tổ chức, một cá nhân nào, mà là sự
quan tâm, cùng chung tay góp sức của người dân trong toàn huyện.
Tổ chức các hoạt động xã hội hóa:
Song song với việc bảo tồn và phát huy giá trị các ngôi chùa trong hệ
thống chùa Phú Bình, lĩnh vực hoạt động xã hội hóa ở chùa cũng cần được
quan tâm. Thường xuyên duy trì các hình thức: tổ chức lễ hội và nghi lễ, sinh
hoạt thanh thiếu niên, tổ chức các ban hội tương trợ… để cho ngôi chùa luôn
có sinh khí.
Tổ chức lễ hội và nghi lễ là cần thiết. Ngôi chùa chính là nơi linh thiêng
để tiến hành các lễ hội. Thực tế hiện nay, ở một số ngôi chùa Phú Bình, có
những lễ hội truyền thống đang bị phai nhạt dần và đi vào quên lãng. Cần
khôi phục và tổ chức lại một cách quy củ, hợp lý những lễ hội tiêu biểu của
từng ngôi chùa, nhằm phát huy những giá trị bản sắc, loại bỏ những biểu hiện
không phù hợp với truyền thống của con người Việt Nam, tạo ra những sản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
88
phẩm văn hóa lễ hội đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của các tầng
lớp nhân dân trong huyện.
Trong các dịp lễ hội truyền thống phải đưa những hoạt động văn hóa
mới thiết thực, bổ ích và có hiệu quả kết hợp với việc tổ chức giữ gìn các trò
chơi dân gian như như kéo co, đấu vật, cờ tướng… đem ra biểu diễn ở sân
chùa. Về nghi lễ, mỗi chùa chỉ cần tổ chức nghi lễ trang nghiêm đem lại cho
người Phật tử niềm thành kính, nhất tâm, không nên tổ chức quá rườm rà
không có giá trị nội dung.
Tổ chức các Ban hội tương trợ là tổ chức quần chúng dưới hình thức
Ban hội, tạo cơ hội cho sự phát triển tinh thần thân hữu, sự đoàn kết, thương
yêu nhau dưới một mái chùa. Tổ chức thăm viếng nhau lúc đau ốm, hoạn nạn.
An ủi nhau lúc khốn khó, chia sẻ và cầu nguyện cho nhau khi qua đời.
Hiện nay và phương hướng trong những năm tới, cơ quan văn hóa
thông tin huyện Phú Bình phải luôn coi công tác bảo tồn và phát huy các giá
trị di tích chùa ở địa phương là một trong những biện pháp cần thiết để bảo vệ
lâu dài. Đồng thời thúc đẩy hơn nữa công tác vận động, tổ chức quần chúng
cùng tham gia nhằm phát huy sức mạnh toàn dân trong việc giữ gìn các di sản
văn hóa trên địa bàn huyện nhà.
Còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu để có thể đề xuất những biện
pháp đóng góp cho công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích chùa ở
Phú Bình. Công tác nghiên cứu di sản kiến trúc cảnh quan và giá trị nhân văn
của ngôi chùa truyền thống ở Phú Bình nói riêng và các tỉnh Thái Nguyên nói
chung mới chỉ là bước đầu. Những chính sách, cơ chế bảo tồn còn thiếu. Đây
là công việc lớn bởi các giá trị di tích tín ngưỡng tôn giáo, lịch sử văn hóa hay
kiến trúc nghệ thuật ở vùng đất trùng du miền núi này rất phong phú, việc xác
định đúng đắn các giá trị sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác bảo tồn,
gìn giữ tốt các giá trị văn hoá của địa phương và của dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
89
Tiểu kết chƣơng 3
Chùa đối với dân tộc Việt quá gần gũi, thân thiết, là một biểu tượng
không thể thiếu trong các sinh hoạt tinh thần của người Việt. Chùa đối với
người dân Phú Bình cũng mang một tình cảm sâu sắc như vậy. Chùa không
những là trung tâm sinh hoạt tôn giáo mà còn là trung tâm sinh hoạt văn hóa
của người dân huyện trung du miền núi này.
Như nhiều ngôi chùa trên mọi miền đất nước, chùa ở Phú Bình là nơi
diễn ra các sinh hoạt lễ hội truyền thống, là môi trường trực tiếp hay gián tiếp
nuôi dưỡng nếp sống đạo đức, văn hóa truyền thống của địa phương. Chất dân
tộc được bảo quản, được lan truyền ở dưới mái chùa cong vút hiền hòa.
Giá trị vật thể trong hệ thống chùa Phú Bình đã và đang trong tình trạng
bị hư hỏng. Sự xuống cấp bước đầu được khắc phục, trùng tu, tôn tạo nhưng
việc làm này chưa được đồng bộ. Để nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy
giá trị của hệ thống chùa Phú Bình cần sự chung tay, đoàn kết của nhân dân
điạ phương và các cấp chính quyền, nhất là các cơ quan văn hóa thông tin
trong huyện và trong tỉnh Thái Nguyên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
90
KẾT LUẬN
Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân
tộc Việt Nam, trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Phật giáo
là tư duy, là cách sống, là phong tục, lề thói, là tôn ti trật tự gia đình, xã hội,
góp phần lớn lao vào sự phát triển xã hội, quốc gia. Để bảo tồn và phát huy
đời sống xã hội cũng như tôn giáo, mỗi làng thường có chùa. Ở đâu có người
Việt sinh sống là ở đó có chùa. Trong tiến trình thành lập làng xã ở vùng Bắc
bộ hay trong tiến trình thành lập làng xã trong cuộc Nam tiến, người Việt
Nam định cư tới đâu, lập làng ở đâu là dựng chùa ở đó
Phú Bình là huyện trung du, miền núi, địa đầu phía đông nam của tỉnh
Thái Nguyên, là chiếc cầu nối liền vùng đồng bằng châu thổ với miền núi non
hiểm trở phía bắc. Qua quá trình phát triển của lịch sử, những nét văn hóa
miền xuôi, miền ngược đã pha trộn, hòa quyện tạo nên một sắc thái văn hóa
thống nhất của Phú Bình. Điều này được thể hiện qua tín ngưỡng thờ Phật và
hệ thống chùa nơi đây. Tín ngưỡng thờ Phật chiếm một vị trí quan trọng trong
đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Phú Bình. Trong tỉnh Thái Nguyên,
Phú Bình là huyện có nhiều chùa nhất. Các ngôi chùa được xây dựng phổ biến
ở các xã thôn trong toàn huyện. Sự xuất hiện của hàng chục ngôi chùa nơi đây
là minh chứng rõ nét về ảnh hưởng của văn hóa chùa làng từ vùng đồng bằng
châu thổ sông Hồng lên vùng trung du miền núi.
Phần lớn các ngôi chùa trong hệ thống chùa Phú Bình được xây dựng
vào thời Lê - thế kỷ XVIII; sớm hơn nữa có một số ngôi chùa được xác định
niên đại khởi dựng từ thế kỷ XII – dưới triều nhà Lý. Những ngôi chùa cổ đã
đóng một vai trò trong việc củng cố tinh thần đoàn kết của người dân trong
huyện. Khi đất nước hòa bình, chùa cũng góp phần không nhỏ làm nên những
giá trị văn hóa quê hương. Những mái chùa cong vút, gần gũi, duyên dáng,
những bộ tượng tam thê, tượng đài Thích Ca, tượng Quan Âm nghìn mắt,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
91
nghìn tay với những đường nét tinh xảo, sống động ; những bia đá, cột đá,
hương đá, chuông cổ; những lễ hội rộn ràng,... mãi mãi là niềm tự hào của
người dân Phú Bình.
Một điều không thể phủ nhận là chùa ở Phú Bình đóng vai trò trung
tâm trong sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng các làng xã trong huyện.
Vào các ngày đại lễ Phật giáo, ngày rằm, mùng một hay lễ tết, đặc biêt là dịp
đầu xuân, mọi người dân dù bận rộn đến mấy cũng đến viếng cảnh chùa để
chiêm bái chư Phật, cầu xin những điều tốt lành và chung vui lễ hội.
Không chỉ ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt của người dân Phú Bình từ
triết lý, tư tưởng, đạo đức, nghệ thuật cho đến phong tục tập quán, nếp sống,
nếp nghĩ,... chùa Phú Bình còn là chứng nhân lịch sử, nơi ghi dấu nhiều sự
kiện gắn với quá trình hình thành và phát triển phong trào cách mạng của
huyện Phú Bình và của tỉnh Thái Nguyên. Từ thời kỳ tiền khởi nghĩa đến hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, nhiều ngôi
chùa ở Phú Bình là cơ sở cách mạng, là địa điểm được chọn làm nơi ở, nơi
hội họp bí mật hoặc là nơi cất giữ tài liệu, lương thực, vũ khí trong những
năm kháng chiến.
Với những giá trị văn hóa tinh thần và văn hóa vật chất đó, một số ngôi
chùa trong hệ thống chùa Phú Bình đã được Bộ Văn hóa Thông tin, Sở Văn
hóa thể thao và du lịch tỉnh Thái Nguyên xếp hạng di tích cấp quốc gia, cấp
tỉnh; nhiều ngôi chùa được lập hồ sơ khoa học đề nghị xếp hạng di tích. Đây
là cơ sở pháp lý cho việc bảo tồn, khai thác và sử dụng hệ thống chùa Phú
Bình nhằm giáo dục truyền thống và phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh
thần của nhân dân địa phương.
Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình để hòa nhập vào trào lưu
phát triển với thế giới, vùng quê vốn yên bình cũng du nhập nhiều luồng văn
hóa ngoại lai. Trong đó có cái tốt, có cái xấu, làm sao có thể phân biệt để tiếp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
92
thu cái tốt và giải trừ cái xấu? Lời giải đáp rõ ràng nhất là nếu có một nền văn
hóa lành mạnh, đậm đà bản sắc dân tộc với những tư tưởng truyền thống tốt
đẹp sẽ giúp chúng ta nhận định, chắc lọc. Những yếu tố tích cực của ngôi
chùa thờ Phật với vai trò là trung tâm sinh hoạt văn hóa ở mỗi lãng xã là nền
tảng tốt giúp chống lại những cặn bã văn hóa ngoại nhập hoặc văn hóa mê tín
phát sinh từ bản địa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Toan Ánh (1992), Nếp cũ hội hè đình đám (quyển thượng), Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh.
2. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
3. Trần Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
4. Chu Quang Chứ (1999), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, Nxb
Mĩ thuật, Hà Nội.
5. Chu Quang Chứ (2001), Di sản văn hoá dân tộc trong tín ngưỡng và tồn
giáo Việt Nam, Nxb Mĩ thuật, Hà Nội.
6. Ngô Thị Kim Doan (2004), 250 đình chùa nổi tiếng Việt Nam, Nxb Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
7. Ngô Thị Kim Doan (2004), Văn hoá làng xã Việt Nam, Nxb Văn hoá
thông tin, Hà Nội.
8. Nhiều tác giả (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
9. Phan Đại Doãn (1992), Làng Việt Nam một số vấn đề kinh tế xã hội,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
10. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hoá Việt Nam, Nxb Hà
Nội.
11. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
12. Đồng Khánh địa dư chí
13. Nguyễn Hữu Khánh (1998), Đất và người Thái Nguyên, Nxb Sở Văn
hoá Thông tin, Thái Nguyên.
14. Mai Thanh Hải (2004), Địa chí tôn giáo - lễ hội Việt Nam, Nxb Văn
hoá thông tin, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
94
15. Diệp Đình Hoa (1990), Tìm hiểu làng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
16. Hồ sơ di tích lịch sử, văn hoá huyện Phú Bình, Ban quản lý di tích lịch
sử văn hoá tỉnh Thái Nguyên.
17. Nguyễn Lang (1994), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, Hà
Nội
18. Vũ Tam Lang (1991) , Kiến trúc cổ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội
19. Phan Ngọc Liên (2000), Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông, Nxb Đại
học quốc gia, Hà Nội
20. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập IV –
Thái Nguyên tỉnh chí, Nxb Thuận Hoá, Huế.
21. Tài liệu quy hoạch xếp hạng di tích, Bảo tàng Thái Nguyên.
22. Đàm Chính Tâm (1996), Bước đầu tìm hiểu về Phật giáo và ảnh hưởng
của tư tưởng Phật giáo trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, Báo cáo
Khoa học, Trường Đại học Sư phạm, Thái Nguyên.
23. Hà Văn Tấn (1992), Chùa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Đồng Khắc Thọ (2003), Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng
cảnh Thái Nguyên, Nxb Sở Văn hoá Thông tin, Thái Nguyên.
25. Ngô Đức Thọ (chủ biên, 2003), Từ điển di tích văn hoá Việt Nam, Nxb
Văn học, Hà Nội.
26. Trần Mạnh Thường (1999), Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam,
Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
27. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
28. Trần Quốc Vượng (1976), Mùa xuân và phong tục Việt Nam, Nxb Hà
Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
95
Tài liệu hƣơng ƣớc:
29. Hương ước xã An Châu, Hư 3689, Viện TTKHXH, Hà Nội.
30. Hương ước xã Chỉ Mê, Hư 3306, Viện TTKHXH, Hà Nội.
31. Hương ước xã Dưỡng Mông, Hư 3309, Viện TTKHXH, Hà Nội.
32. Hương ước làng Đức Liên, Hư 3685, Viện TTKHXH, Hà Nội.
33. Hương ước làng Đương Nhân, Hư 3308, Viện TTKHXH, Hà Nội.
34. Hương ước xã Điềm Thụy, Hư 3311, Viện TTKHXH, Hà Nội.
35. Hương ước xã Kha Sơn Hạ, Hư 3317, Viện TTKHXH, Hà Nội.
36. Hương ước xã Lũ Yên, Hư 3320, Viện TTKHXH, Hà Nội.
37. Hương ước xã Mai Sơn, Hư 3323, Viện TTKHXH, Hà Nội.
38. Hương ước xã Nô Dương, Hư 3326, Viện TTKHXH, Hà Nội.
39. Hương ước xã Phú Mỹ, Hư 3329, Viện TTKHXH, Hà Nội.
40. Hương ước xã Triều Dương, Hư 3335, Viện TTKHXH, Hà Nội.
41. Hương ước xã Úc Kỳ, Hư 3337, Viện TTKHXH, Hà Nội.
42. Hương ước xã Úc Sơn, Hư 3336, Viện TTKHXH, Hà Nội.
Tài liệu điền dã:
43. Ông Trần Văn Dóc, 76 tuổi, xóm Thi Đua thị trấn Hương Sơn.
44. Ông Nguyễn Văn Diễm, 70 tuổi, xóm Dầy xã Đào Xá.
45. Ông Ngô Công Dụng, 69 tuổi, xóm Phú Mỹ xã Lương Phú.
46. Ông Ngô Văn Dự, 77 tuổi, xóm Phú Mỹ xã Lương Phú.
47. Bà Đỗ Thị Kim, 87 tuổi, thôn Úc Kỳ, xã Úc Kỳ.
48. Ông Tạ Văn Hãng, 68 tuổi, thôn An Châu xã Nga My.
49. Bà Lê Thị Hiền, 90 tuổi, xóm Súm xã Nhã Lộng.
50. Ông Nguyễn Văn Lư, 71 tuổi, xóm Bàn Đạt xã Bàn Đạt.
51. Bà Dương Thị Sáu, 70 tuổi, làng Úc Sơn thị trấn Hương Sơn.
52. Ông Nghiêm Xuân Trúc, 72 tuổi, xóm Lũa xã Tân Đức.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV2010_SP_LSVN_DoHangNga.pdf