Kiểm toán khoản mục doanh thu nói riêng và kiểm toán báo cáo tài chính nói chung luôn là vấn đề quan trọng và cần được hoàn thiện tại các công ty kiểm toán hiện nay.
Hiểu được đầy đủ, sâu sắc về những lý luận kiểm toán doanh thu và vận dụng nó vào thực tiễn phức tạp của hoạt động kiểm toán sẽ giúp cho kiểm toán viên cũng như các công ty kiểm toán có được những phương hướng làm việc đúng đắn và đạt được hiệu quả cao, đảm bảo chất lượng kiểm toán cũng như uy tín của công ty kiểm toán.
Trong quá trình thực tập tại Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam vừa qua, nhờ sự giúp đỡ, tạo điều kiện và chỉ bảo tận tình của các cán bộ kiểm toán Công ty, em đã có cơ hội tiếp xúc với thực tiễn và trực tiếp tham gia vào các cuộc kiểm toán được Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam thực hiện. Qua đó, em có thể kiểm chứng lại những kiến thức đã học và tích luỹ thêm được những kinh nghiệm thực tế về quy trình kiểm toán doanh thu tại Công ty.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn và các cán bộ Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
132 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện báo cáo kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán tài chính do Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ phát sinh sau ngày khoá sổ kế toán để kiểm tra tính đúng kỳ.
Ví dụ, với Công ty ABC, việc kiểm tra phát sinh doanh thu tài chính được thể hiện như sau:
Biểu 2.16. Kiểm tra chi tiết phát sinh doanh thu tài chính - Công ty ABC
CÔNG TY HỢP DANH KIỂM TOÁN VIỆT NAM
Khách hàng: Công ty ABC
Kỳ: 31/12/2005
Nội dung: Kiểm tra chi tiết doanh thu hoạt động tài chính
Người lập: DQM
Người soát xét:
Người soát xét:
Tham chiếu:
Ngày:
Ngày:
Ngày:
Chứng từ
Nội dung
TK
ĐƯ
Số tiền
a
b
c
d
e
SH
NT
UNC 12
11/05/2005
Rút bán tiền USD cho NH Tây Đô (20.000 USD)
1121
115.000
P
P
P
P
P
BK 08
26/08/2005
NH Bách Khoa tính lãi tiền gửi USD tháng 08
1123
203.489
P
P
P
P
P
CT 06
30/06/2005
NH Công thương tính lãi tiền gửi VNĐ tháng 06
1124
306.128
P
P
P
P
P
Ghi chú:
a: Đã kiểm tra các chứng từ, hợp đồng có liên quan (giấy báo lãi của ngân hàng, hợp đồng mua bán ngoại tệ, uỷ nhiệm chi,…)
b: Đã kiểm tra số tiền và tính toán lại
c: Đã kiểm tra các dấu hiệu của sự phê duyệt trên các chứng từ liên quan
d: Đã kiểm tra việc hạch toán, ghi sổ
Kết luận: Các mẫu kiểm tra đã được phản ánh đúng đắn và có căn cứ hợp lý
Tương tự, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra tính đúng kỳ của doanh thu tài chính thì thấy các khoản doanh thu tài chính của Công ty ABC đều được ghi nhận kịp thời và đúng kỳ.
Với Công ty XYZ, kiểm toán viên cũng tiến hành kiểm tra tương tự và kết luận rằng các khoản doanh thu tài chính của Công ty XYZ đều được phản ánh đầy đủ, đúng đắn, kịp thời và hợp lý.
2.2.3. Kết thúc kiểm toán
Sau khi thực hiện kiểm toán khoản mục doanh thu, công việc cuối cùng của kiểm toán viên trong cuộc kiểm toán là đưa ra ý kiến về tính trung thực, hợp lý của các thông tin được trình bày trên báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán. Để đưa ra được ý kiến và đảm bảo cho ý kiến của mình, kiểm toán viên cần thực hiện các công việc sau:
Trưởng nhóm kiểm toán tập hợp các kết quả kiểm toán của kiểm toán viên:
Để đưa ra được ý kiến kiểm toán đúng đắn, trưởng nhóm kiểm toán cần tập hợp các kết quả kiểm toán đối với từng khoản mục mà các kiểm toán viên trong nhóm đã thực hiện.
Dưới đây là kết quả kiểm toán khoản mục doanh thu do kiểm toán viên của CPA VIETNAM thực hiện đối với Công ty ABC và XYZ:
Công ty ABC:
Biểu 2.17. Kết quả kiểm toán doanh thu - Công ty ABC
CÔNG TY HỢP DANH KIỂM TOÁN VIỆT NAM
Khách hàng: Công ty ABC
Kỳ: 31/12/2005
Nội dung: Tổng hợp kết quả kiểm toán doanh thu
Người lập: DQM
Người soát xét:
Người soát xét:
Tham chiếu:
Ngày:
Ngày:
Ngày:
Công việc đã tiến hành:
Công việc thực hiện đối với phần doanh thu đã tiến hành theo chương trình kiểm toán.
Các vấn đề phát sinh và kiến nghị:
- Một số hoá đơn GTGT chưa được ghi đầy đủ các chỉ tiêu như: hình thức thanh toán, mã số thuế, địa chỉ của khách hàng, chữ ký của khách hàng.
Công ty nên ghi đầy đủ các yếu tố trên hoá đơn GTGT cho những lần mua hàng sau.
- Tuy Công ty đã có quy định rõ ràng về chiết khấu thương mại nhưng lại chưa có sự phê chuẩn của cấp có thẩm quyền đối với những khoản chiết khấu thương mại.
Công ty nên có quy định về sự phê chuẩn đối với các khoản chiết khấu thương mại
- Hàng bán lẻ được Công ty hạch toán dựa trên báo cáo bán lẻ của cửa hàng nên không được lập tại thời điểm giao hàng, đồng thời ở cửa hàng bán lẻ chỉ có các nhân viên bán hàng chứ chưa có nhân viên giám sát để theo dõi việc ghi sổ hàng bán.
Công ty nên giao quyền lập hoá đơn cho nhân viên bán hàng để đảm bảo hoá đơn GTGT được lập đúng lúc, đồng thời cần có những quy chế kiểm soát chặt chẽ đối với việc bán lẻ và cử người giám sát ở cửa hàng bán lẻ.
- Thực hiện điều chỉnh giảm doanh thu do hạch toán nhầm giữa doanh thu và chiết khấu thương mại:
Nợ TK.511: 2.650.432
Có TK.521: 2.650.432
Bút toán điều chỉnh này đã được Công ty chấp nhận điều chỉnh theo yêu cầu của kiểm toán viên. Sau khi điều chỉnh, chỉ tiêu doanh thu thuần trên báo cáo kết quả kinh doanh không thay đổi.
Kết luận:
Dựa vào kết quả công việc, theo ý kiến của kiểm toán viên:
Sau khi điều chỉnh, cơ sở dẫn liệu cho phần doanh thu là thích hợp trên các khía cạnh trọng yếu và tổng số phát sinh 5.547.016.665đ là trung thực theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung và được lập nhất quán với các năm trước.
Công ty XYZ:
Biểu 2.18. Kết quả kiểm toán doanh thu - Công ty XYZ
CÔNG TY HỢP DANH KIỂM TOÁN VIỆT NAM
Khách hàng: Công ty XYZ
Kỳ: 31/12/2005
Nội dung: Tổng hợp kết quả kiểm toán doanh thu
Người lập: DQM
Người soát xét:
Người soát xét:
Tham chiếu:
Ngày:
Ngày:
Ngày:
Công việc đã tiến hành:
Công việc thực hiện đối với phần doanh thu đã tiến hành theo chương trình kiểm toán.
Các vấn đề phát sinh và kiến nghị:
- Mọi khoản doanh thu kể cả đã thu được tiền hay chưa thu được tiền đều được hạch toán qua TK.131 trước rồi mới hạch toán sang TK.111,112,… nên khó theo dõi giữa doanh thu thu tiền ngay với doanh thu chưa thu được tiền.
Công ty không nên hạch toán qua TK.131 mà nên hạch toán theo đúng bản chất của nghiệp vụ phát sinh để dễ theo dõi.
- Với các khoản doanh thu từ việc cho thuê, Công ty chỉ hạch toán khi khách hàng thanh toán tiền mà không hạch toán khi phát sinh doanh thu, như vậy là sai quy định.
Công ty nên ghi nhận các khoản doanh thu tại thời điểm mà chúng phát sinh.
- Với các khoản doanh thu từ việc cho thuê ô quảng cáo và thuê kho, doanh thu chỉ được hạch toán một lần khi khách hàng thanh toán tiền mặc dù đó là khoản doanh thu của nhiều kỳ.
Công ty nên ghi nhận doanh thu theo đúng kỳ phát sinh, với những khoản doanh thu chưa thực hiện Công ty nên ghi nhận vào tài khoản 3387 để chờ kết chuyển vào những kỳ sau khi khoản doanh thu ấy đã được thực hiện.
- Việc viết vé gửi xe và trông xe được thực hiện bởi các nhân viên bảo vệ mà chưa có người giám sát.
Công ty cần cử người giám sát đối với việc viết vé gửi xe.
- Thực hiện điều chỉnh giảm doanh thu do ghi nhận nhầm doanh thu của năm 2006:
Nợ TK.421 (năm 2005): 32.682.302
Có TK.3387: 32.682.302
- Thực hiện điều chỉnh giảm doanh thu do ghi nhận nhầm doanh thu của năm 2004:
Nợ TK.421 (năm 2005): 29.841.495
Nợ TK.421 (năm 2004): 29.841.495
- Thực hiện điều chỉnh tăng doanh thu do hạch toán sai kỳ:
Nợ TK.421 (năm 2004): 12.458.462
Nợ TK.421 (năm 2006): 10.032.456
Có TK.421 (năm 2005): 22.490.918
Các bút toán điều chỉnh trên đã được Công ty chấp nhận điều chỉnh theo yêu cầu của kiểm toán viên. Sau khi điều chỉnh, chỉ tiêu doanh thu thuần trên báo cáo kết quả kinh doanh sẽ là 8.722.650.038đ (= 8.762.682.917 - 32.682.302 - 29.841.495 + 22.490.918).
Kết luận:
Dựa vào kết quả công việc, theo ý kiến của kiểm toán viên:
Cơ sở dẫn liệu cho phần doanh thu là thích hợp trên các khía cạnh trọng yếu và tổng số phát sinh 8.722.650.038đ là trung thực theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung và được lập nhất quán với các năm trước.
Tương tự, kết quả kiểm toán doanh thu tài chính của Công ty ABC và XYZ cũng được tổng hợp và lập tương tự như trên.
Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính:
Kiểm toán viên thường kiểm tra các sự kiện xảy ra sau ngày khoá sổ lập báo cáo tài chính thông qua việc phỏng vấn ban giám đốc công ty khách hàng và xem xét các biên bản họp hội đồng quản trị, đồng thời thu thập báo cáo tài chính của tháng 1 hoặc quý I niên độ sau để kiểm tra, xem xét xem có sự kiện nào xảy ra sau ngày kết thúc niên độ mà có ảnh hưởng trọng yếu đến các thông tin tài chính tại ngày lập báo cáo tài chính hay không.
Đối với Công ty ABC và XYZ, sau khi tìm hiểu kiểm toán viên thấy rằng không có sự kiện nào xảy ra sau ngày kết thúc niên độ có ảnh hưởng trọng yếu đến các thông tin tài chính tại ngày lập báo cáo tài chính.
Xem xét về giả định hoạt động liên tục:
Để xem xét về giả định hoạt động liên tục, kiểm toán viên sẽ phải xem xét liệu có sự kiện hay điều kiện nào làm xuất hiện nghi vấn rằng giả định này bị vi phạm (nghĩa là doanh nghiệp cần hay buộc phải chấm dứt hoạt động, chẳng hạn như doanh nghiệp bị lỗ liên tục, các thay đổi về luật pháp hay chính sách của Nhà nước tạo ra những bất lợi nghiêm trọng cho hoạt động của doanh nghiệp,…). Bên cạnh đó, kiểm toán viên cần xem xét các đánh giá của người quản lý về giả định hoạt động liên tục.
Khi xuất hiện các nghi vấn về giả định hoạt động liên tục có thể bị vi phạm, kiểm toán viên phải thực hiện những thủ tục kiểm toán bổ sung như: soát xét lại các kế hoạch của người quản lý để giải quyết vấn đề, xem xét tác dụng và tính khả thi của những biện pháp mà họ dự kiến thực hiện, yêu cầu người quản lý cung cấp thư giải trình về giả định hoạt động liên tục, thu thập các bằng chứng về khả năng thanh toán, yêu cầu xác nhận hỗ trợ tài chính của công ty mẹ hoặc Chính phủ (nếu có),… Sau khi thực hiện các thủ tục trên, kiểm toán viên phải đánh giá xem liệu có còn tồn tại một sự kiện không chắc chắn trọng yếu nào có liên quan đến giả định hoạt động liên tục hay không để đưa ra ý kiến thích hợp trên báo cáo kiểm toán.
Đối với Công ty ABC và XYZ, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra, xem xét và thấy rằng cả hai công ty đang làm ăn ngày càng phát đạt, trong tương lai sẽ phát triển ngày càng vững mạnh, không có một sự kiện không chắc chắn trọng yếu nào có liên quan đến giả định hoạt động liên tục.
Đánh giá sự đầy đủ của bằng chứng:
Để đảm bảo bằng chứng mà kiểm toán viên đã thu thập được là đầy đủ và thích hợp để đưa ra ý kiến, kiểm toán viên sẽ kiểm tra lại chương trình kiểm toán để đảm bảo rằng mọi công việc đã được hoàn thành đúng đắn và hồ sơ kiểm toán đã được lập đầy đủ, rõ ràng. Sau khi xem xét, kiểm tra lại hồ sơ kiểm toán tại Công ty ABC và XYZ, kiểm toán viên thấy rằng các thủ tục kiểm toán được thiết kế trong chương trình kiểm toán đã được kiểm toán viên tuân thủ một cách linh hoạt, các bằng chứng kiểm toán và các giấy tờ làm việc được ghi chép, đánh tham chiếu rõ ràng và được thu thập đầy đủ.
Đánh giá tổng hợp các sai sót chưa được điều chỉnh:
Trong bước này, kiểm toán viên sẽ tổng hợp các sai sót chưa được điều chỉnh trên báo cáo tài chính. Nếu tổng hợp các sai sót vượt mức trọng yếu cho phép hoặc xấp xỉ mức trọng yếu thì kiểm toán viên sẽ yêu cầu đơn vị điều chỉnh hoặc thực hiện thêm các thủ tục kiểm toán bổ sung. Nếu đơn vị chấp nhận điều chỉnh thì kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Còn nếu đơn vị không chấp nhận điều chỉnh hoặc chỉ chấp nhận điều chỉnh một số bút toán thì kiểm toán viên sẽ xem xét xem tổng hợp sai sót sau khi thực hiện các bút toán điều chỉnh đó có vượt mức trọng yếu hoặc xấp xỉ mức trọng yếu hay không để đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, chấp nhận từng phần, hoặc không chấp nhận.
Đối với Công ty ABC, sau khi tổng hợp các sai sót chưa được điều chỉnh trên báo cáo tài chính, kiểm toán viên xem xét và đánh giá thì thấy tổng hợp các sai sót đó nằm trong giới hạn sai sót cho phép, vì vậy kiểm toán viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần đối với báo cáo tài chính của Công ty ABC.
Đối với Công ty XYZ, tổng hợp các sai sót chưa được điều chỉnh là xấp xỉ mức cho phép. Vì vậy, kiểm toán viên đã yêu cầu đơn vị phải điều chỉnh lại theo những bút toán điều chỉnh mà kiểm toán viên đã đưa ra. Công ty XYZ đã chấp nhận điều chỉnh theo yêu cầu của kiểm toán viên, và sau khi điều chỉnh thì tổng hợp các sai sót nằm trong giới hạn sai sót cho phép, nên kiểm toán viên cũng đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần đối với báo cáo tài chính của Công ty XYZ.
Áp dụng các thủ tục phân tích:
Thủ tục phân tích được thực hiện ở giai đoạn này tương tự như ở giai đoạn lập kế hoạch nhưng áp dụng với báo cáo tài chính đã được kiểm toán (sau điều chỉnh) để kiểm tra tính hợp lý chung của toàn bộ báo cáo tài chính sau khi được kiểm toán để xác định xem có cần thu thập thêm bằng chứng kiểm toán để làm vững chắc thêm ý kiến của mình.
Với Công ty ABC và XYZ, sau khi thực hiện các thủ tục phân tích này kiểm toán viên thấy rằng không cần phải thu thập thêm bằng chứng kiểm toán vì báo cáo tài chính nói chung và khoản mục doanh thu nói riêng sau khi được kiểm toán không tồn tại xu hướng bất thường nào.
Rà soát lại hồ sơ kiểm toán:
Việc rà soát lại hồ sơ kiểm toán thường được tiến hành vào thời điểm kết thúc giai đoạn thực hiện kiểm toán, nhằm đánh giá công việc của các kiểm toán viên, bảo đảm sự tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán, đồng thời rút ra kinh nghiệm cho những cuộc kiểm toán sau.
Ở CPA VIETNAM, việc rà soát lại hồ sơ kiểm toán được thực hiện qua ba cấp. Đầu tiên, trưởng nhóm kiểm toán sẽ kiểm tra hồ sơ kiểm toán của các kiểm toán viên trong nhóm. Sau đó, chủ nhiệm kiểm toán sẽ kiểm tra công việc của trưởng nhóm kiểm toán và một số điểm chính trong hồ sơ kiểm toán của các kiểm toán viên trong nhóm. Cuối cùng, thành viên hợp danh của Công ty - người sẽ ký tên trên báo cáo kiểm toán - sẽ phải kiểm tra toàn bộ hồ sơ kiểm toán, tuy nhiên lần kiểm tra này thường chỉ tập trung vào công việc của các chủ nhiệm.
Yêu cầu đơn vị cung cấp thư giải trình của giám đốc:
Vào cuối cuộc kiểm toán, CPA VIETNAM thường yêu cầu đơn vị cung cấp thư giải trình của giám đốc, vì trong nhiều trường hợp giải trình của giám đốc cũng là một bằng chứng kiểm toán hữu hiệu, và cũng là để tuân thủ theo chuẩn mực kiểm toán.
Lập báo cáo kiểm toán và thư quản lý:
Cuối cùng, khi kết thúc kiểm toán, kiểm toán viên sẽ lập báo cáo kiểm toán để đưa ra ý kiến của mình về báo cáo tài chính đã được kiểm toán dựa trên các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được.
Với Công ty ABC và Công ty XYZ, ý kiến kiểm toán được đưa ra là: “Theo ý kiến của chúng tôi, Báo cáo tài chính sau khi đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty ABC tại ngày 31/12/2005, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/2005, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan” Trích báo cáo kiểm toán của Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam đối với cuộc kiểm toán tại khách hàng là Công ty ABC
.
Để đảm bảo mục tiêu phục vụ khách hàng được tốt nhất, CPA VIETNAM luôn phát hành thư quản lý kèm với báo cáo kiểm toán trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm giúp công ty khách hàng chấn chỉnh công tác quản lý tài chính, kế toán, xây dựng và hoàn thiện hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ.
Các vấn đề cần nêu trong thư quản lý về khoản mục doanh thu của Công ty ABC và XYZ đã được kiểm toán viên ghi chép trong phần “các vấn đề phát sinh và kiến nghị” trên tờ kết quả kiểm toán doanh thu, và trưởng nhóm kiểm toán sẽ thu thập các tờ kết quả kiểm toán của các khoản mục để tổng hợp lại và ghi thư quản lý cho khách hàng.
PHẦN III. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM TOÁN DOANH THU TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY HỢP DANH KIỂM TOÁN VIỆT NAM
3.1. Nhận xét về những ưu điểm trong quy trình thực hiện kiểm toán khoản mục doanh thu tại Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam
3.1.1. Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên trong mỗi cuộc kiểm toán, có vai trò quyết định đến chất lượng của cuộc kiểm toán. Nhận thức được điều ấy, CPA VIETNAM đã thiết lập được một hệ thống thủ tục, quy trình thực hiện khá toàn diện từ khâu chấp nhận khách hàng đến khâu lập kế hoạch và thiết kế chương trình kiểm toán.
Mới thành lập được gần hai năm nên CPA VIETNAM rất coi trọng việc mở rộng thị trường khách hàng, thị trường khách hàng rộng lớn là điều kiện quan trọng giúp CPA VIETNAM tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, các kiểm toán viên tại CPA VIETNAM cũng không vì thế mà thiếu thận trọng trong việc chấp nhận khách hàng. Đối với khách hàng mới hay cũ, CPA VIETNAM đều có những sự đánh giá, phân tích tìm hiểu kỹ càng, thận trọng trước khi chấp nhận cung cấp dịch vụ kiểm toán cho khách hàng. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên chất lượng kiểm toán của CPA VIETNAM.
Việc lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán có trình độ, phù hợp với đặc điểm của từng khách hàng cũng là một trong những ưu điểm của CPA VIETNAM. Bên cạnh đó, để đảm bảo cho các kiểm toán viên tham gia kiểm toán có được những kiến thức sâu rộng về khách hàng, trước mỗi cuộc kiểm toán CPA VIETNAM luôn có một buổi họp nhóm để phổ biến cho kiểm toán viên biết những đặc điểm chung nhất về khách hàng và tiến hành đào tạo bồi dưỡng thêm nghiệp vụ cho các kiểm toán viên.
Để tiết kiệm thời gian và chi phí cho cuộc kiểm toán, khi kí kết hợp đồng kiểm toán, kiểm toán viên tại CPA VIETNAM luôn gửi cho khách hàng một bản yêu cầu cung cấp tài liệu phục vụ cho kiểm toán để khách hàng chuẩn bị trước.
Việc thu thập thông tin về khách hàng cũng được kiểm toán viên thực hiện rất linh hoạt bằng nhiều cách khác nhau và từ nhiều nguồn khác nhau. Điều này sẽ giúp kiểm toán viên có được những hiểu biết đầy đủ về khách hàng với những thông tin đáng tin cậy và hữu ích cho những bước kiểm toán sau.
Trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên cũng rất coi trọng việc sử dụng thủ tục phân tích vì đây là thủ tục đơn giản, không mất nhiều thời gian nhưng lại cung cấp cho kiểm toán viên cái nhìn tổng quát nhất về khác hàng, giúp kiểm toán viên xác định được những vùng trọng tâm trọng điểm cần kiểm tra nhằm phục vụ cho quá trình lập kế hoạch kiểm toán.
Về quy trình đánh giá tính trọng yếu, việc lựa chọn chỉ tiêu ít có biến động nhất để làm cơ sở ước lượng mức trọng yếu ban đầu là rất phù hợp, đảm bảo mức trọng yếu được xác định không bị ảnh hưởng bởi những biến động bất thường. Cơ sở để tiến hành phân bổ mức trọng yếu cho các khoản mục của CPA VIETNAM cũng rất hợp lý, đó là tiến hành phân bổ trọng yếu dựa vào kinh nghiệm của kiểm toán viên về sai sót của các khoản mục và chi phí thu thập bằng chứng kiểm toán đối với các khoản mục. Như vậy là khi đánh giá tính trọng yếu, kiểm toán viên đã xem xét đến cả yếu tố định lượng và yếu tố định tính.
Việc đánh giá rủi ro kiểm toán của CPA VIETNAM cũng được thực hiện rất khoa học. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá chung cho toàn bộ báo cáo tài chính thông qua bảng câu hỏi sẽ cho kiểm toán viên thấy được những điểm yếu, điểm mạnh trong bộ máy tổ chức và việc quản lý tài chính kế toán của đơn vị. Bên cạnh đó, với các khoản mục trọng yếu như khoản mục doanh thu, kiểm toán viên sẽ tiến hành đánh giá rủi ro kiểm soát riêng cho từng khoản mục. Việc thu thập và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ được các kiểm toán viên ghi chép trên giấy tờ làm việc thông qua việc mô tả chi tiết về hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và những hạn chế của nó, từ đó đưa ra đánh giá về rủi ro kiểm soát và những hướng kiểm tra cần quan tâm khi thực hiện kiểm toán. Việc mô tả như vậy là rất đầy đủ và chi tiết, giúp cho kiểm toán viên tiến hành lập kế hoạch được dễ dàng và hợp lý hơn.
Để tiết kiệm thời gian, chi phí nhưng vẫn đảm bảo chất lượng kiểm toán, CPA VIETNAM đã thiết kế các chương trình kiểm toán mẫu cho từng khoản mục với những thủ tục, trình tự thực hiện kiểm toán rõ ràng, dễ hiểu. Tuy vậy, các chương trình kiểm toán này luôn được bổ sung thêm hoặc lược bớt các thủ tục kiểm toán cho phù hợp nhất với từng khách hàng, chứ không phải tất cả các khách hàng đều áp dụng một chương trình kiểm toán giống nhau. Đây chính là một trong những nhân tố tạo nên chất lượng kiểm toán tại CPA VIETNAM.
Như vậy, giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán đã được CPA VIETNAM thực hiện rất linh hoạt và hiệu quả, giúp cho việc thực hiện kế hoạch được dễ dàng và đầy đủ, đúng hướng.
3.1.2. Giai đoạn thực hiện kiểm toán
Trong giai đoạn này, các kiểm toán viên của CPA VIETNAM luôn tuân thủ theo kế hoạch kiểm toán đã đặt ra, tuy nhiên việc thực hiện kế hoạch được tiến hành một cách linh hoạt, sáng tạo sao cho đạt được những kết quả cao nhất với thời gian và chi phí thấp nhất, chứ không tuân thủ một cách máy móc, lệ thuộc hoàn toàn vào kế hoạch kiểm toán.
Các thủ tục kiểm toán được thực hiện ở giai đoạn này khá đầy đủ, chi tiết và được phối hợp, hỗ trợ nhau trong quá trình kiểm toán.
Các thử nghiệm kiểm soát được thực hiện tập trung vào những ưu điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm khẳng định lại mức đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát để xem có thể tin tưởng vào hệ thống kiểm soát nội bộ được không, từ đó có thể giảm hay cần phải tăng các thủ tục kiểm tra chi tiết.
Các thủ tục phân tích được sử dụng cũng khá linh hoạt với những phương pháp, chỉ tiêu phân tích phù hợp nhằm đánh giá tính hợp lý của các con số để hỗ trợ cho việc xác định hướng kiểm tra chi tiết cũng như việc giảm hay tăng các thủ tục kiểm tra chi tiết. Bên cạnh đó, việc áp dụng các ước tính kiểm toán trong phân tích đã đem lại hiệu quả cao, hỗ trợ rất nhiều cho bước kiểm tra tiếp theo. Còn thủ tục kiểm tra chi tiết thì được thực hiện khá khoa học, không chỉ là kiểm tra chi tiết đơn thuần mà còn tổng hợp đối chiếu một cách logic. Việc chọn mẫu theo cả hai phương pháp xác suất và phi xác suất đã đem lại hiệu quả cao, vừa đảm bảo phát hiện được các sai sót trọng yếu lại vừa đảm bảo được việc kiểm tra mang tính chất đại diện cho tổng thể.
3.1.3. Giai đoạn kết thúc kiểm toán
Trước khi đưa ra ý kiến trên báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên đã áp dụng những thủ tục kiểm toán bổ sung có hiệu quả, xem xét đến mọi khía cạnh của vấn đề và soát xét lại quá trình làm việc cũng như hồ sơ và các bằng chứng kiểm toán một cách cẩn thận.
Việc phát hành thư quản lý kèm theo báo cáo kiểm toán cũng là một trong những phần việc quan trọng khi kết thúc kiểm toán, giúp khách hàng có được những ý kiến tư vấn đầy đủ và hiệu quả nhất, từ đó nâng cao uy tín của CPA VIETNAM đối với khách hàng cũng như đối với những người quan tâm.
3.2. Nhận xét về những hạn chế và đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục doanh thu tại Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam
3.2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam
Trong nền kinh tế thị trường, hội nhập và phát triển hiện nay, tình hình tài chính của các doanh nghiệp được rất nhiều đối tượng quan tâm như: các cơ quan Nhà nước, các nhà đầu tư, các nhà quản lý, khách hàng và người lao động,… Nhằm cung cấp các thông tin cần thiết cho những người sử dụng để họ đưa ra các quyết định kinh doanh, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống Báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong khi Bảng cân đối kế toán cho biết về tình hình tài chính của doanh nghiệp thì Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lại cho biết về kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ kế toán đó, từ đó giúp người sử dụng đánh giá khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy kiểm toán Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh cũng là một nội dung quan trọng trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Doanh thu là khoản mục trọng yếu trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, vì vậy chất lượng của việc kiểm toán khoản mục doanh thu sẽ có ảnh hưởng lớn, thậm chí có tính chất quyết định đến chất lượng của cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính. Do vậy, để đảm bảo chất lượng của cuộc kiểm toán và tạo niềm tin cũng như uy tín đối với khách hàng thì CPA VIETNAM cần đảm bảo và nâng cao chất lượng kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính.
CPA VIETNAM được thành lập khi thị trường kiểm toán độc lập ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với sự cạnh tranh gay gắt. Trước CPA VIETNAM, ở Việt Nam đã có rất nhiều công ty kiểm toán ra đời và phát triển với những danh tiếng và uy tín rộng khắp. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển, gây dựng được niềm tin đối với khách hàng thì CPA VIETNAM cần phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán mà mình cung cấp. Nhưng thực trạng hiện nay cho thấy quy trình kiểm toán của CPA VIETNAM còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong quy trình kiểm toán doanh thu. Do đội ngũ nhân viên còn non trẻ thiếu kinh nghiệm thực tế, quy trình kiểm toán nhìn chung chưa hoàn thiện, lại bị hạn chế về kinh phí, thời gian kiểm toán và nguồn nhân lực nên trong quá trình thực hiện kiểm toán không tránh khỏi những thiếu sót. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình kiểm toán còn hạn chế, đa số các thủ tục kiểm toán được thực hiện một cách thủ công làm giảm năng suất làm việc của kiểm toán viên.
Vì vậy, việc hoàn thiện kiểm toán khoản mục doanh thu trong kiểm toán Báo cáo tài chính tại CPA VIETNAM là rất cần thiết, nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán khoản mục doanh thu nói riêng và nâng cao chất lượng kiểm toán Báo cáo tài chính nói chung, đồng thời tạo được niềm tin đối với khách hàng và khẳng định được uy tín của Công ty trên thị trường kiểm toán.
3.2.2. Những hạn chế và giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình kiểm toán khoản mục doanh thu tại Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam
3.2.2.1. Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán đã được CPA VIETNAM thực hiện rất hiệu quả, tuy nhiên không tránh khỏi những hạn chế.
Về việc phân công kiểm toán:
Với những khách hàng lâu năm, CPA VIETNAM thường phân bổ những kiểm toán viên đã có kinh nghiệm kiểm toán ở khách hàng những năm trước do họ đã có được những hiểu biết nhất định về khách hàng. Tuy nhiên, nếu các kiểm toán viên đã quá quen thuộc với khách hàng thì sẽ dễ dẫn đến sức ỳ về tâm lý và thường tiến hành kiểm tra theo lối mòn, hoặc mất đi tính khách quan, độc lập,…
Giải pháp: Để hạn chế điều này, một mặt CPA VIETNAM nên hạn chế việc thường xuyên thay đổi kiểm toán viên, mặt khác có chính sách luân chuyển kiểm toán viên giữa các khách hàng.
Về thủ tục phân tích sơ bộ:
Đối với khoản mục doanh thu, thủ tục phân tích sơ bộ mới chỉ hạn chế ở việc phân tích số liệu doanh thu giữa hai năm liên tiếp, các tỷ suất sử dụng trong phân tích doanh thu còn hạn chế (thường chỉ phân tích tỷ suất lợi nhuận/doanh thu, tỷ lệ các khoản giảm trừ/doanh thu, tỷ lệ chi phí tài chính/doanh thu tài chính). Như vậy sẽ rất khó cho kiểm toán viên có được một cái nhìn tổng thể và toàn diện nhất đối với khoản mục doanh thu.
Giải pháp: Kiểm toán viên nên yêu cầu đơn vị cung cấp số liệu của nhiều năm liên tiếp để tiến hành phân tích nhằm xem xét được xu hướng biến động của chỉ tiêu doanh thu cũng như các tỷ suất liên quan được rõ ràng và toàn diện nhất, đồng thời có thể tiến hành so sánh doanh thu tháng cuối năm nay với doanh thu tháng đầu năm sau (nếu đơn vị đã có số liệu thống kê). Bên cạnh đó, kiểm toán viên cũng có thể sử dụng thêm các tỷ suất khác nhau trong phân tích doanh thu như: tỷ lệ giá vốn/doanh thu, tỷ suất vòng quay hàng hóa (sản phẩm/doanh thu), tỷ lệ doanh thu hoạt động tài chính/thu nhập khác,… Bên cạnh các chỉ tiêu tài chính, kiểm toán viên cũng có thể sử dụng thêm các chỉ tiêu phi tài chính (như số lượng khách hàng, số lượng sản phẩm, số lượng ngoại tệ bán ra,…) và phân tích chúng trong mối quan hệ với các chỉ tiêu tài chính, qua đó kiểm toán viên sẽ có được cái nhìn toàn diện và chính xác hơn về các chỉ tiêu doanh thu trên Báo cáo tài chính cùng với xu hướng biến động và mức độ hợp lý của chúng.
Về việc đánh giá tính trọng yếu:
Mức trọng yếu được ước lượng ban đầu trên cơ sở các chỉ tiêu tổng hợp với những tỷ lệ cố định là chưa phù hợp vì tính trọng yếu đối với từng khách hàng là khác nhau do đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng là khác nhau và mức độ quan tâm của những bên hữu quan đến tình hình tài chính của khách hàng là khác nhau. Bên cạnh đó việc áp dụng một hệ số nhất định đối với mỗi khoản mục trong việc phân bổ mức trọng yếu cũng là không phù hợp, vì các khoản mục biến động theo các năm chứ không theo một xu hướng nhất định. Vì vậy, việc áp dụng một tỷ lệ nhất định trong đánh giá tính trọng yếu đối với mọi khách hàng là không hợp lý.
Giải pháp: Kiểm toán viên nên đặt ra tỷ lệ trọng yếu khác nhau đối với từng khách hàng tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của khách hàng, kinh nghiệm kiểm toán những năm trước tại khách hàng, quy mô kinh doanh của khách hàng, rủi ro hợp đồng đã đánh giá trong giai đoạn chấp nhận khách hàng và mức độ quan tâm của các đối tượng khác nhau đến tình hình tài chính của khách hàng.
Hoặc có thể đưa ra một khoảng thay đổi theo từng mức độ của các chỉ tiêu sử dụng làm cơ sở ước lượng mức trọng yếu ban đầu. Ví dụ như đối với chỉ tiêu doanh thu có thể lấy tỷ lệ như sau:
Quy mô doanh thu
Tỷ lệ trọng yếu
0 - 500 triệu
0,3 - 0,4%
500 triệu - 1,5 tỷ
0,4 - 0,6%
1,5 tỷ - 5 tỷ
0,5 - 0,8%
5 tỷ - 15 tỷ
0,7 - 1%
Trên 15 tỷ
1 - 2%
Đối với việc phân bổ trọng yếu, với mỗi cuộc kiểm toán khác nhau, kiểm toán viên cần dựa trên những kinh nghiệm kiểm toán của mình, bản chất của các khoản mục, chi phí kiểm toán khoản mục, sự biến động và ảnh hưởng của các khoản mục đến các quyết định tài chính để xác định hệ số phân bổ phù hợp với từng khoản mục.
Việc đánh giá rủi ro kiểm toán:
Kiểm toán viên chỉ đánh giá rủi ro tiềm tàng chung cho toàn bộ báo cáo tài chính mà không đánh giá rủi ro tiềm tàng riêng đối với từng khoản mục và từng mục tiêu kiểm soát của khoản mục, do vậy, việc đánh giá rủi ro phát hiện đối với từng khoản mục dựa trên rủi ro tiềm tàng đã đánh giá có thể không chuẩn xác, dẫn đến rủi ro phát hiện có thể bị đánh giá cao hơn hoặc thấp hơn mức thực tế, dẫn đến việc lập kế hoạch không trọn vẹn, không phát hiện được hết các sai sót trọng yếu hoặc thực hiện quá nhiều các thủ tục kiểm tra không cần thiết.
Còn rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá riêng cho từng khoản mục nhưng lại không đánh giá riêng cho từng mục tiêu của khoản mục, do vậy sẽ gây khó khăn trong việc xác định các thử nghiệm kiểm soát cần thiết, hướng các thử nghiệm kiểm soát vào những mục tiêu kiểm soát trọng tâm để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ được hiểu quả.
Giải pháp: Kiểm toán viên cần thực hiện việc đánh giá rủi ro tiềm tàng cho từng khoản mục và cho từng mục tiêu của khoản mục, và đánh giá rủi ro kiểm soát cho từng mục tiêu kiểm soát của khoản mục. Từ đó có những hướng cụ thể trong việc lập kế hoạch kiểm toán, nhằm tập trung kiểm tra vào những vùng trọng yếu, những vùng có khả năng gian lận cao,…
Việc phương pháp mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ:
Các kiểm toán viên thường mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ dưới dạng bảng tường thuật. Cách mô tả này rất chi tiết, cụ thể tuy nhiên lại dài dòng và không khái quát được những vấn đề chính. Trong khi Công ty có sử dụng bảng câu hỏi để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung nhưng lại không có bảng câu hỏi để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ riêng cho từng khoản mục, mặc dù đây là phương pháp mô tả rất dễ hiểu và nhanh gọn. Còn phương pháp sử dụng lưu đồ trong mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ cũng không được Công ty áp dụng mặc dù phương pháp này rất ngắn gọn và dễ hiểu, nhìn vào lưu đồ, người thực hiện kiểm toán cũng như người soát xét kiểm toán có thể dễ dàng thấy được những nhược điểm của hệ thống kiểm soát nội bộ.
Giải pháp: Trong quá trình mô tả về hệ thống kiểm soát nội bộ Công ty nên sử dụng phương pháp bảng câu hỏi hoặc phương pháp mô tả bằng lưu đồ thay cho bảng tường thuật để tiết kiệm thời gian và dễ xem xét, đánh giá. Hoặc có thể phối hợp cả ba phương pháp mô tả trên nếu thấy cần thiết. Phương pháp sử dụng bảng câu hỏi thường được các công ty kiểm toán sử dụng phổ biến nhất hiện nay do tính chất nhanh gọn, dễ hiểu của nó. Vì vậy, em xin đề xuất một mẫu bảng câu hỏi để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản mục doanh thu như sau:
Biểu 3.1. Mẫu Bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản mục doanh thu
Câu hỏi
Có
Không
Không áp dụng
Ghi chú
1. Việc ghi sổ doanh thu có căn cứ vào các hoá đơn bán hàng (hoặc các chứng từ hợp lệ khác), các hợp đồng mua hàng hay không?
2. Có chữ ký của khách hàng trong các hoá đơn giao hàng hay không?
3. Việc sử dụng hoá đơn bán hàng có theo đúng quy định hiện hành (số thứ tự, ngày trên hoá đơn) không?
4. Các chức năng giao hàng và viết hoá đơn có tách biệt nhau không?
5. Các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán và giá trị hàng bán bị trả lại có được phê chuẩn của người phụ trách không?
6. Có theo dõi hàng gửi đi bán không?
7. Hoá đơn bán hàng có được đánh số trước hay không?
8. Vận đơn, hợp đồng mua bán, và các chứng từ liên quan khác có được đánh số trước hay không?
9. Khách hàng có theo dõi riêng từng loại doanh thu không?
10. Có sự so sánh độc lập về lượng hàng gửi đi bán trên vận đơn với hoá đơn bán hàng hay không?
11. Hàng tháng, các báo cáo bán hàng có được gửi và đối chiếu với khách hàng hay không?
12. Việc phản ánh doanh thu có theo đúng kỳ kế toán không?
13. Cuối kỳ có sự cộng tổng và đối chiếu so sánh giữa sổ tổng hợp với sổ chi tiết về doanh thu hay không?
…
Kết luận: Hệ thống kiểm soát của các khoản doanh thu:
Khá
Trung bình
Yếu
Tuy phương pháp sử dụng bảng câu hỏi và lưu đồ có vẻ có nhiều ưu thế hơn phương pháp sử dụng bảng tường thuật, nhưng trong một số trường hợp việc sử dụng bảng tường thuật lại mang nhiều ưu thế hơn. Vì vậy, việc quyết định sử dụng phương pháp nào hay kết hợp các phương pháp nói trên để mô tả hệ thống kiểm soát nội bộ là tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Theo em, trong trường hợp hệ thống KSNB của khách hàng mang tính chất đơn giản, ít thủ tục rườm rà hoặc đối với các công ty có quy mô nhỏ thì kiểm toán viên có thể áp dụng phương pháp sử dụng bảng tường thuật để mô tả về hệ thống KSNB của khách hàng, tuy nhiên trong quá trình mô tả cần chú ý đến cách trình bày, ngôn từ sao cho dễ hiểu và rõ ràng nhất. Còn trong trường hợp hệ thống KSNB của công ty khách hàng khá phức tạp, gồm có nhiều thủ tục hoặc có quy mô lớn, các thủ tục kiểm soát có liên quan đến nhiều người, nhiều bộ phận, nhiều chứng từ,… thì kiểm toán viên có thể sử dụng bảng câu hỏi hoặc lưu đồ để mô tả về hệ thống KSNB. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào thời gian, chi phí kiểm toán và trình độ, kỹ năng của kiểm toán viên mà lựa chọn phương pháp bảng câu hỏi hoặc lưu đồ cho phù hợp nhất. Nếu bị hạn chế về thời gian thì kiểm toán viên nên lựa chọn phương pháp mô tả bằng bảng câu hỏi vì thông qua việc phỏng vấn, tiếp xúc và quan sát quá trình làm việc của nhứng người có liên quan kiểm toán viên có thể trả lời nhanh chóng các câu hỏi. Còn với phương pháp sử dụng lưu đồ thì kiểm toán viên cần phải có thời gian tổng hợp lại các thông tin thu thập được và sử dụng kỹ năng của mình để mô tả thành lưu đồ sao cho nhìn vào lưu đồ, người soát xét có thể hiểu được rõ ràng về hệ thống KSNB của khách hàng cũng như các ưu nhược điểm của nó. Nếu bảng câu hỏi hoặc lưu đồ không đủ để mô tả rõ ràng về hệ thống KSNB thì kiểm toán viên có thể sử dụng kết hợp với bảng tường thuật để mô tả chi tiết hơn, dễ hiểu hơn.
3.2.2.2. Giai đoạn thực hiện kiểm toán
Cũng như giai đoạn lập kế hoạch, giai đoạn thực hiện kiểm toán tuy được thực hiện tuần tự và theo đúng quy trình hướng dẫn nhưng vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Về việc thực hiện các thử nghiệm kiểm soát:
Do trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên không tiến hành đánh giá mức rủi ro kiểm soát đối với từng mục tiêu kiểm soát mà chỉ đánh giá mức rủi ro kiểm soát chung cho khoản mục doanh thu, nên các thử nghiệm kiểm soát mà kiểm toán viên ở CPA VIETNAM tiến hành về nội dung là giống nhau đối với mọi cuộc kiểm toán, chỉ khác nhau ở quy mô mẫu chọn. Đối với mỗi nghiệp vụ, chứng từ được chọn để kiểm tra, kiểm toán viên đều tiến hành kiểm tra đối với tất cả các mục tiêu kiểm soát nội bộ mà không xác định mục tiêu kiểm soát nào là trọng yếu cần kiểm tra. Cách kiểm tra này tuy vẫn đảm bảo cho kiểm toán viên đưa ra được những đánh giá sau cùng về mức rủi ro kiểm soát nhưng lại tốn nhiều thời gian và chi phí kiểm toán.
Giải pháp: Để tiết kiệm thời gian và chi phí kiểm toán mà vẫn đảm bảo được chất lượng của cuộc kiểm toán, trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán kiểm toán viên nên có sự đánh giá mức rủi ro kiểm soát cho khoản mục doanh thu đối với từng mục tiêu kiểm soát. Còn trong giai đoạn thực hiện kiểm toán, khi tiến hành thực hiện các thử nghiệm kiểm soát, kiểm toán viên cần tập trung vào kiểm tra các mục tiêu kiểm soát trọng yếu, các mục tiêu kiểm soát được đánh giá ở mức rủi ro kiểm soát thấp, và tập trung vào kiểm tra đối với các thủ tục kiểm soát có tồn tại và hoạt động hữu hiệu tại đơn vị khách hàng (những ưu điểm trong hệ thống KSNB), từ đó khẳng định lại mức đánh giá ban đầu về rủi ro kiểm soát.
Về việc thực hiện các thủ tục phân tích:
Các thủ tục phân tích doanh thu được thực hiện trong giai đoạn này nhìn chung còn sơ sài, chưa định hướng được nhiều cho việc thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết sau đó. Các thủ tục phân tích chủ yếu chỉ dừng lại ở việc phân tích xu hướng biến động doanh thu giữa các tháng, các quý trong năm, giữa các loại hình doanh thu, giữa các mặt hàng và dịch vụ. Còn việc phân tích tỷ suất chủ yếu chỉ là phân tích về tỷ lệ lãi gộp. Thủ tục phân tích đối với chỉ tiêu doanh thu hoạt động tài chính rất ít được thực hiện và chủ yếu chỉ thực hiện phân tích xu hướng còn phân tích tỷ suất là rất ít. Bên cạnh đó, việc sử dụng mô hình phân tích còn bị hạn chế. Mô hình phân tích đối với doanh thu thường chỉ được xây dựng dựa trên hai biến là đơn giá bình quân và số lượng tiêu thụ (hay lượng dịch vụ cung cấp), hoặc tiền cho vay và tỷ lệ lãi suất vay, và mô hình này chỉ được xây dựng đối với những đơn vị có đơn giá bán ổn định qua các kỳ. Như vậy, việc sử dụng mô hình phân tích là ít được áp dụng, trong khi đây là một thủ tục tương đối đơn giản, có hiệu quả cao do ít tốn thời gian, chi phí cho kiểm toán thấp mà vẫn có thể cung cấp bằng chứng về sự đồng bộ, chuẩn xác và có giá trị về mặt kế toán, giúp kiểm toán viên đánh giá được tổng thể không bị sa vào các nghiệp vụ cụ thể. Do vậy, để phục vụ cho việc kiểm tra chi tiết ở bước sau và đảm bảo cho chất lượng của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên cần hoàn thiện việc thực hiện các thủ tục phân tích ở giai đoạn này.
Giải pháp: Để khắc phục hạn chế này, kiểm toán viên nên sử dụng mô hình phân tích trong các cuộc kiểm toán mà mình thực hiện. Thủ tục phân tích này thường được thực hiện qua các bước sau:
- Phát triển một mô hình;
- Xem xét tính độc lập và tin cậy của dữ liệu tài chính và nghiệp vụ;
- Ước tính giá trị và so sánh với giá trị ghi sổ;
- Phân tích nguyên nhân chênh lệch;
- Xem xét những phát hiện qua kiểm toán.
Tuy nhiên, việc thực hiện thủ tục phân tích này cũng đòi hỏi nhiều ở sự phán đoán của kiểm toán viên. Vì vậy, việc thực hiện thủ tục phân tích này cần được thực hiện bởi các kiểm toán viên có trình độ và chuyên môn. Khi áp dụng kỹ thuật này, kiểm toán viên cũng cần lưu ý một số điểm sau:
- Mối quan hệ bản chất giữa các chỉ tiêu được so sánh: việc phân tích sẽ không có ý nghĩa nếu các chỉ tiêu không có mối liên hệ với nhau. Ngoài ra kỹ thuật này chỉ áp dụng đối với các chỉ tiêu đồng chất về nội dung và phương pháp tính.
- Đối với những khoản mục hay chỉ tiêu trọng yếu như doanh thu, kiểm toán viên không thể chỉ sử dụng kỹ thuật phân tích đơn thuần mà cần kết hợp với các kỹ thuật khác để tìm được bằng chứng thích hợp.
- Trong điều kiện hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém, cần thận trọng trong phân tích và nên kết hợp với nhiều kỹ thuật khác.
- Đánh giá chênh lệch khi phân tích sẽ sai lầm nếu kiểm toán viên thiếu hiểu biết về những mức chuẩn ngành kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
Bên cạnh đó, các phương pháp phân tích xu hướng và phân tích tỷ suất cũng cần được sử dụng một cách linh hoạt và có hiệu quả hơn. Việc phân tích không nên chỉ bó buộc trong một năm mà có thể tiến hành so sánh doanh thu từng tháng, từng quý của năm nay với cùng kỳ các năm trước, hoặc so sánh doanh thu và tỷ trọng doanh thu của từng loại doanh thu, từng mặt hàng, dịch vụ cung cấp giữa các kỳ, các năm liên tiếp để xem có biến động bất thường nào không. Việc phân tích tỷ suất cần được coi trọng hơn và bổ sung thêm các tỷ suất cần thiết, không chỉ là dừng lại ở phân tích các tỷ suất tài chính mà có thể kết hợp phân tích với các chỉ tiêu phi tài chính. Đối với chỉ tiêu doanh thu hoạt động tài chính, các thủ tục phân tích cần được thực hiện đầy đủ và hiệu quả hơn vì các khoản doanh thu hoạt động tài chính thường mang tính chất định kỳ nên rất dễ phát hiện ra những biến động bất thường qua việc thực hiện các thủ tục phân tích.
Về việc thực hiện các thủ tục kiểm tra chi tiết:
Trước khi tiến hành kiểm tra, kiểm toán viên thường phải tiến hành công việc chọn mẫu. Tuy nhiên, cách thức chọn mẫu hiện nay ở CPA VIETNAM vẫn còn nhiều hạn chế. Việc chọn mẫu thường tập trung vào các khoản có đối ứng bất thường, các khoản có giá trị lớn, trong khi đó có nhiều sai sót nằm trong các khoản có giá trị nhỏ nhưng khi tổng hợp lại thì lại thành sai sót trọng yếu. Bên cạnh đó, phương pháp chọn mẫu bị thiên về chọn mẫu phi xác suất, đa số là chọn mẫu theo nhận định nhà nghề. Tuy kiểm toán viên có áp dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên nhưng lại không mang tính ngẫu nhiên một cách khoa học mà do các kiểm toán viên tự chọn tình cờ, vì vậy việc chọn mẫu ngẫu nhiên này vẫn bị ảnh hưởng bởi yếu tố chủ quan của kiểm toán viên, vì vậy có thể ảnh hưởng đến tính đại diện của mẫu, làm tăng khả năng có nhiều sai sót không được phát hiện.
Giải pháp: Để hạn chế nhược điểm trên, một mặt, kiểm toán viên vẫn chọn mẫu theo phương pháp phi xác suất như thường làm nhưng không phải là tập trung chủ yếu vào đấy mà các mẫu lựa chọn theo phương pháp phi xác suất chỉ nên chiếm một nửa so với số mẫu quy định, còn một nửa số mẫu còn lại sẽ được lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên. Để lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên, kiểm toán viên có thể lựa chọn theo Bảng số ngẫu nhiên. Bảng này bao gồm nhiều số ngẫu nhiên được sắp xếp thành các cột và dòng theo kiểu bàn cờ, mỗi con số gồm 5 chữ số thập phân. Quy trình chọn mẫu theo Bảng số ngẫu nhiên gồm bốn bước sau:
- Bước 1: Định lượng đối tượng kiểm toán bằng hệ thống con số duy nhất: Mục tiêu của định lượng đối tượng kiểm toán là gắn cho mỗi phần tử của tổng thể với một con số duy nhất và từ đó ta có thể có được mối quan hệ giữa các số duy nhất trong tổng thể với Bảng số ngẫu nhiên. Thông thường, các hoá đơn, chứng từ đã được mã hoá (đánh số) trước bằng con số duy nhất, trong trường hợp này kiểm toán viên không cần đánh số cho tổng thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khác kiểm toán viên có thể cần thiết phải đánh số lại cho tổng thể để có được hệ thống các con số duy nhất tương thích với Bảng số ngẫu nhiên.
- Bước 2: Thiết lập mối quan hệ giữa Bảng số ngẫu nhiên với đối tượng kiểm toán đã định lượng: Nếu các con số định lượng của đối tượng kiểm toán cũng gồm 5 chữ số như các con số ngẫu nhiên trong Bảng thì khi đó ta có quan hệ tương quan 1-1. Nếu các con số định lượng ít hơn 5 chữ số thì có thể lấy những chữ số đầu, chữ số cuối hoặc chữ số giữa của số ngẫu nhiên. Nếu các con số định lượng nhiều hơn 5 chữ số thì cần lấy thêm những hàng số ở cột khác của Bảng.
- Bước 3: Lập hành trình sử dụng Bảng: Hướng đi của việc chọn các số ngẫu nhiên có thể dọc hoặc ngang, có thể xuôi hoặc ngược. Việc xác định này thuộc quyền phán quyết của kiểm toán viên nhưng cần được đặt ra từ trước và thống nhất trong toàn bộ quá trình chọn mẫu.
- Bước 4: Chọn điểm xuất phát: Điểm xuất phát là một số trong Bảng số ngẫu nhiên được kiểm toán viên lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Từ điểm xuất phát này, kiểm toán viên sẽ thực hiện việc chọn mẫu theo những lộ trình và phương pháp đã xác định.
Tuy phương pháp này sẽ giúp cho việc lựa chọn mẫu của kiểm toán viên mang tính ngẫu nhiên nhưng phương pháp này có thể sẽ làm mất nhiều thời gian của kiểm toán viên. Phương pháp tiết kiệm thời gian nhất mà vẫn lựa chọn được mẫu một cách ngẫu nhiên đó là sử dụng chương trình chọn mẫu ngẫu nhiên qua máy vi tính. Hiện nay phần lớn các hãng kiểm toán đã thuê hoặc tự xây dựng các chương trình chọn mẫu ngẫu nhiên qua máy vi tính nhằm tiết kiệm thời gian và giảm sai sót trong mẫu. Các chương trình chuyên dụng này rất đa dạng, tuy nhiên nói chung vẫn tôn trọng hai bước đầu tiên của chọn mẫu ngẫu nhiêu theo bảng số ngẫu nhiên là lượng hoá đối tượng kiểm toán bằng hệ thống con số duy nhất và xác lập mối quan hệ giữa đối tượng kiểm toán đã định lượng với các số ngẫu nhiên. Tuy nhiên, số ngẫu nhiên lại do máy tính tạo ra. Thông thường, ở đầu vào của chương trình cần có: số nhỏ nhất và số lớn nhất trong dãy số thứ tự của đối tượng kiểm toán, quy mô mẫu cần chọn và có thể cần có một số ngẫu nhiên làm điểm xuất phát. Ở đầu ra thường là bảng kê số ngẫu nhiên theo trật tự lựa chọn hoặc theo dãy số tăng dần hoặc cả hai. Chọn mẫu bằng chương trình máy vi tính có thể loại bỏ được những số không thích hợp, tự động loại bỏ những phần tử bị trùng lắp và tự động phản ánh kết quả vào giấy tờ làm việc. Song ưu điểm nổi bật nhất vẫn là làm giảm sai sót chủ quan của con người (rủi ro không do chọn mẫu) trong quá trình chọn mẫu. Vì vậy, với năng lực hiện có, CPA VIETNAM nên tự xây dựng cho mình một chương trình chọn mẫu ngẫu nhiên qua máy vi tính để tiết kiệm thời gian và giảm sai sót trong mẫu.
3.3.2.3. Giai đoạn kết thúc kiểm toán
Về cơ bản, giai đoạn kết thúc kiểm toán được CPA VIETNAM được thực hiện theo một quy trình nghiêm ngặt, đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên vẫn bị hạn chế ở chỗ giai đoạn này chủ yếu được thực hiện bởi trưởng nhóm kiểm toán, các chủ nhiệm kiểm toán mà ít có sự góp mặt của các kiểm toán viên trong nhóm kiểm toán, trong khi họ mới chính là người trực tiếp thực hiện kiểm toán và nắm rõ các vấn đề của đơn vị nhất.
Giải pháp: Để giai đoạn kết thúc kiểm toán được tiến hành nhanh chóng, các kiểm toán viên tham gia thực hiện kiểm toán có thể giúp trưởng nhóm kiểm toán và chủ nhiệm kiểm toán một số công việc cần thực hiện trong giai đoạn này. Việc này cũng giúp nâng cao trách nhiệm và ý thức của các kiểm toán viên trong đoàn về kết quả kiểm toán của mình.
KẾT LUẬN
Kiểm toán khoản mục doanh thu nói riêng và kiểm toán báo cáo tài chính nói chung luôn là vấn đề quan trọng và cần được hoàn thiện tại các công ty kiểm toán hiện nay.
Hiểu được đầy đủ, sâu sắc về những lý luận kiểm toán doanh thu và vận dụng nó vào thực tiễn phức tạp của hoạt động kiểm toán sẽ giúp cho kiểm toán viên cũng như các công ty kiểm toán có được những phương hướng làm việc đúng đắn và đạt được hiệu quả cao, đảm bảo chất lượng kiểm toán cũng như uy tín của công ty kiểm toán.
Trong quá trình thực tập tại Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam vừa qua, nhờ sự giúp đỡ, tạo điều kiện và chỉ bảo tận tình của các cán bộ kiểm toán Công ty, em đã có cơ hội tiếp xúc với thực tiễn và trực tiếp tham gia vào các cuộc kiểm toán được Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam thực hiện. Qua đó, em có thể kiểm chứng lại những kiến thức đã học và tích luỹ thêm được những kinh nghiệm thực tế về quy trình kiểm toán doanh thu tại Công ty.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn và các cán bộ Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lý thuyết kiểm toán - GS. TS. Nguyễn Quang Quynh (Chủ biên), Trường Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Tài chính 2003
Kiểm toán tài chính - GS. TS. Nguyễn Quang Quynh (Chủ biên), Trường Đại học Kinh tế quốc dân, NXB Tài chính 2001
Kiểm toán - Alvin A. Arens - James K. Loebbecke, NXB Thống kê
Kiểm toán - TS. Vũ Hữu Đức và ThS. Võ Anh Dũng (Đồng chủ biên), Trường ĐH Kinh tế TP.HCM, NXB Thống kê 2004
Kiểm toán - PGS. TS. Vương Đình Huệ và TS. Đoàn Xuân Tiên (Đồng chủ biên), Trường ĐH Tài chính kế toán Hà Nội, NXB Tài chính 2001
Giáo trình kiểm toán - GS. TS. Vương Đình Huệ (Chủ biên), Học viện Tài chính, NXB Tài chính 2004
Nghiệp vụ kiểm toán - PGS.TS Nguyễn Đình Hựu (Chủ biên), NXB Tài chính 2004
Giáo trình Kế toán tài chính trong các doanh nghiệp - PGS. TS. Đặng Thị Loan, Trường ĐH Kinh tế quốc dân, NXB Thống kê 2004
Hướng dẫn thực hành Kế toán doanh nghiệp - PGS.TS Lê Thị Hoà, NXB Tài chính 2005
Các Chuẩn mực Kế toán Việt Nam và các thông tư hướng dẫn việc thực hiện các Chuẩn mực Kế toán
Các Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam và các thông tư hướng dẫn việc thực hiện các Chuẩn mực Kiểm toán
Các văn bản pháp luật khác có liên quan đến lĩnh vực kế toán và kiểm toán
Tạp chí Kiểm toán số tháng 08/2005
Tài liệu và Hồ sơ kiểm toán của Công ty ABC
Tài liệu và Hồ sơ kiểm toán của Công ty XYZ
Tài liệu đào tạo nội bộ của Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam
Các tài liệu khác của Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AR : Rủi ro kiểm toán
CKTM : Chiết khấu thương mại
CPA VIETNAM : Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam
CR : Rủi ro kiểm soát
DR : Rủi ro phát hiện
DT : Doanh thu
GTGT : Giá trị gia tăng
IAS : Chuẩn mực Kiểm toán Quốc tế
IR : Rủi ro tiềm tàng
KSNB : Kiểm soát nội bộ
KTV : Kiểm toán viên
TK : Tài khoản
VSA : Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1 : Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính
Sơ đồ 1.2 : Lập kế hoạch và thiết kế phương pháp kiểm toán
Sơ đồ 2.1 : Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của CPA VIETNAM
Sơ đồ 2.2 : Mô hình tổ chức của Công ty ABC
Biểu 1.1 : Mục tiêu đặc thù của kiểm toán doanh thu
Biểu 1.2 : Mối quan hệ giữa các loại rủi ro
Biểu 1.3 : Bảng tổng hợp các mục tiêu, các quá trình KSNB và các thử nghiệm kiểm soát đối với khoản mục doanh thu
Biểu 2.1 : Phân tích sơ bộ doanh thu Công ty ABC
Biểu 2.2 : Phân tích sơ bộ doanh thu hoạt động tài chính Công ty ABC
Biểu 2.3 : Ước lượng mức trọng yếu ban đầu
Biểu 2.4 : Bảng câu hỏi đánh giá rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát
Biểu 2.5 : Chương trình kiểm toán doanh thu của CPA VIETNAM
Biểu 2.6 : Thực hiện thử nghiệm kiểm soát đối với Công ty ABC
Biểu 2.7 : Phân tích doanh thu theo tháng - Công ty ABC
Biểu 2.8 : Phân tích doanh thu theo loại hình dịch vụ - Công ty XYZ
Biểu 2.9 : Phân tích tỷ lệ lãi gộp qua từng quý - Công ty ABC
Biểu 2.10 : Ước tính doanh thu lãi tiền gửi của Công ty ABC
Biểu 2.11 : Tổng hợp doanh thu - Công ty ABC
Biểu 2.12 : Tổng hợp doanh thu - Công ty XYZ
Biểu 2.13 : Kiểm tra chi tiết phát sinh tăng doanh thu - Công ty ABC
Biểu 2.14 : Kiểm tra việc ghi nhận doanh thu - Công ty XYZ
Biểu 2.15 : Kiểm tra chi tiết chiết khấu thương mại - Công ty ABC
Biểu 2.16 : Kiểm tra chi tiết phát sinh doanh thu tài chính - Công ty ABC
Biểu 2.17 : Kết quả kiểm toán doanh thu - Công ty ABC
Biểu 2.18 : Kết quả kiểm toán doanh thu - Công ty XYZ
Biểu 3.1 : Mẫu Bảng câu hỏi về hệ thống kiểm soát nội bộ đối với khoản mục doanh thu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36402.doc