Trong quá trình thực tập và nghiên cứu đề tài tại Vụ huy động vốn – Kho bạc Nhà nước Trung Ương, em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của các cán bộ trong Vụ Huy động vốn cũng như được sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo TS Vũ Duy Hào và các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính. Cùng với hệ thống kiến thức đã học được ở trường kết hợp với những kiến thức thực tế thu nhận được qua quá trình thực tập, em chọn đề tại "Hoàn thiện cơ chế vốn trong dân cư qua hệ thống kho bạc Nhà nước". Bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót, sơ lược; em rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy, cô cũng như những người quan tâm để bài viết ngày càng hoàn thiện hơn.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo TS Vũ Duy Hào và tập thể cán bộ ở Vụ Huy động vốn đã tạo mọi điều kiện để em hoàn thành đề tài này.
78 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1456 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện cơ chế huy động vốn trong dân cư qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à dài hạn có ý nghĩa quan trọng. Thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ, Nhà nước đã thu hút được một khối lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư, đáp ứng kịp thời nhu cầu chi cấp bách của nền kinh tế, từ đó giảm bớt căng thẳng mang tính thời vụ, tạo điều kiện cho Ngân sách chủ động trong việc hoạch định và thực hiện dự toán thu chi. Việc phát hành trái phiếu trung và dài hạn còn thu hút lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư để đưa vào đầu tư, từ đó làm tăng tỷ lệ tiết kiệm trên GDP, góp phần ổn định và phát triển kinh tế.
Bảng 5: Tỷ lệ bù đắp bội chi trong nước bằng nguồn vốn
phát hành trái phiếu Chính phủ qua các thời kỳ
Đơn vị tính: %
1991 - 1994
1995 - 1997
1998 - 2000
58,2
67,1
74,9
Nguồn: Viện chiến lược phát triển kinh tế
Bảng 5 cho thấy trong những năm qua, tỷ trọng nguồn vốn từ phát hành trái phiếu Chính phủ ngày càng tăng trong tổng nguồn bù đắp thâm hụt Ngân sách.
Cùng với việc phát hành tín phiếu, trái phiếu Kho bạc là phát hành trái phiếu công trình. Trong những năm qua, Kho bạc đã huy động được hàng trăm tỷ đồng vốn nhàn rỗi trong dân cư để đầu tư cho các công trình trọng điểm của Nhà nước, góp phần nâng cao năng lực sản xuất của khu vực kinh tế Nhà nước và cải thiện môi trường đầu tư để tăng cường thu hút các nguồn đầu tư trong phạm vi toàn xã hội. Trong điều kiện Ngân sách Nhà nước còn thâm hụt kéo dài thì những kết quả trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Nhờ đẩy mạnh công tác huy động vốn nên đã góp phần cải tiến và từng bước tạo thế chủ động cho công tác xây dựng kế hoạch, điều hành Ngân sách Nhà nước, đặc biệt trong việc cân đối và bố trí nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Khối lượng vốn huy động được thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ đã góp phần làm tăng tương đối tỷ trọng nguồn vốn vay trong nước, làm giảm tương đối tỷ trọng vay nước ngoài. Điều đó có ý nghĩa rất lớn, vừa đảm bảo sử dụng mọi tiềm lực hiện có trong nước, vừa góp phần tránh được sức ép của bên ngoài, tăng cường khả năng tự chủ của nền kinh tế, từng bước lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
ã Phát hành trái phiếu Chính phủ đã góp phần tăng tốc độ luân chuyển vốn, kiềm chế lạm phát
Huy động vốn dưới hình thức bán lẻ trái phiếu Chính phủ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước là quá trình tập trung khối lượng tiền mặt nhàn rỗi trong dân cư vào trong tay Nhà nước để phục vụ cho nhu cầu chi Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển. Bằng hình thức đó, Kho bạc Nhà nước đã tập trung được một khối lượng đáng kể tiền mặt nhàn rỗi, tăng khả năng tự giải quyết nguồn thu tiền mặt của Kho bạc cho nhu cầu chi của Ngân sách. Đồng thời, huy động vốn nhàn rỗi trong nước đã làm điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Do đó, đã giảm bớt và đi đến chấm dứt phát hành tiền vào trong lưu thông, không gây xáo trộn thị trường tiền tệ, đảm bảo giữ giá đồng tiền, giữ vững quan hệ tiền - hàng, cung cầu trong lưu thông tiền tệ, góp phần vào việc ổn định và điều hoà lưu thông tiền tệ.
Chính vì vậy, trong những năm qua, lạm phát ở nước ta đã được kiềm chế, tỷ lệ lạm phát từ 3 con số (giai đoạn 1986 - 1991) đến năm 1991-1995 siêu lạm phát bị chặn đứng và từ năm 1996 đến nay lạm phát chỉ còn 1 con số (từ 3 - 5%). Cụ thể:
bảng 6 : chỉ số lạm phát thời kỳ 1991 - 2002
Đơn vị tính: %
Năm
Chỉ số lạm phát
1991- 1995
12,4
1996 - 2002
4
Nguồn : Vụ Huy động vốn - Kho bạc Nhà nước Trung Ương
Bên cạnh đó, công tác huy động vốn còn góp phần tiết kệm chi phí phát hành, chi phí lưu thông. Đồng thời, thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ, một khối lượng lớn vốn tiền tệ nhàn rỗi, từ chức năng phương tiện cất trữ được đưa vào đầu tư sinh lời hợp pháp. Vì vậy, làm tăng vòng quay vốn đầu tư, chống lãng phí vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và đem lại hiệu quả chung cho xã hội.
ã Từ các luồng vốn huy động qua hệ thống Kho bạc Nhà nước thì vốn trung và dài hạn có xu hướng ngày một tăng, cơ cấu dư nợ trái phiếu Chính phủ chuyển dần từ ngắn hạn sang trung và dài hạn.
Nếu những năm đầu thập niên 90, Kho bạc Nhà nước chủ yếu phát hành các loại tín phiếu ngắn hạn thì từ năm 1997 trở lại đây, Kho bạc Nhà nước chỉ phát hành các loại trái phiếu có kỳ hạn từ 1 năm trở lên. Trong điều kiện Ngân sách Nhà nước mất cân đối kéo dài, việc nâng dần thời hạn trái phiếu Chính phủ có ý nghĩa quan trọng trong việc bố trí nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Đồng thời tạo thói quen cho nhân dân đầu tư vào các loại trái phiếu trung hạn từ đó tạo đà để phát triển các loại trái phiếu có thời hạn dài hơn.
bảng 7 Tỷ lệ dư nợ trái phiếu Chính phủ phân theo tiêu thức kỳ hạn
Đơn vị tính: %
Năm
31/12/1996
1997
1998
1999
2000
2001
<1
1,85
1
51,6
37,2
38,8
19,8
26,8
27
2
46,7
62,8
61,1
44,7
39,8
35
3
0.05
5
35,5
33,4
38
Nguồn : Kho bạc Nhà nước Trung Ương
ã Đã thiết lập được hành lang pháp lý cho công tác phát hành trái phiếu Chính phủ
Thực hiện chiến lược huy động các nguồn vốn trong nước phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế, ngày 26/7/1994 Chính phủ đã ký Nghị định số 72/CP ban hành quy chế phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. Nghị định này đã quy định các nguyên tắc, điều khoản, điều kiện phát hành trái phiếu Chính phủ phân định trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan liên quan trong việc quản lý phát hành trái phiếu Chính phủ. Đây là văn bản pháp lý quan trọng nhằm tạo lập và đổi mới cơ chế huy động vốn trong nước. Sau 6 năm thực hiện, để phù hợp với cơ chế quản lý tài chính trong thời kỳ đổi mới, Thủ Tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 01/2000/NĐ-CP thay thế Nghị định 72/CP.
ã Cơ chế phát hành trái phiếu Chính phủ ngày càng được đa dạng hoá và từng bước hoàn thiện; các đợt phát hành thực hiện tương đối thường xuyên, cơ chế lãi suất từng bước được điều chỉnh phù hợp, bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư cũng như nhu cầu vốn của Ngân sách Nhà nước. Thể hiện:
Thứ nhất, cơ cấu lãi suất trái phiếu Chính phủ đã được điều chỉnh từng bước theo cơ chế thị trường. Mức lãi suất có xu hướng giảm dần qua các năm, từ 54% năm 1991 xuống 20% năm 1995 và còn là 8,2% năm 2002 (đối với trái phiếu bán lẻ), bước đầu đã tạo điều kiện nhất định trong việc bố trí kế hoạch sử dụng vốn và nguồn thanh toán khi đến hạn; đồng thời, tạo đà cho sự phát triển thị trường vốn trung và dài hạn trong những năm tới.
Thứ hai, Phương thức phát hành và thanh toán trái phiếu đã không ngừng được cải tiến và hoàn thiện.
Phương thức thanh toán cũng từng bước thay đổi và linh hoạt hơn. Từ chỗ chỉ thanh toán gốc và lãi một lần khi đến hạn đến nay đã áp dụng các phương thức thanh toán rất đa dạng như hình thức trả lãi khi chưa đến hạn thanh toán; thanh toán lãi định kỳ; thanh toán vãng lai tại các Kho bạc trong cả nước (đối với trái phiếu vô danh); thanh toán chuyển đổi cả gốc và lãi sang kỳ hạn mới (trong trường hợp đến hạn thanh toán nhưng chủ sở hữu trái phiếu chưa đến thanh toán, nay không áp dụng).
Cơ chế mua bán, chuyển nhượng các loại trái phiếu Chính phủ đã ngày càng hoàn thiện, từ không được mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, đến được phép mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, với sự chứng nhận của Kho bạc Nhà nước. Khi trái phiếu vô danh in sẵn mệnh giá được phát hành thì đã hoàn toàn tự do hoá quá trình mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, mua bán. Sự thay đổi linh hoạt phương thức thanh toán, chuyển nhượng đảm bảo tiện lợi cho người mua trái phiếu đồng thời cũng là yếu tố kích thích tăng cường khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế phục vụ nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước và đầu tư phát triển.
Trong tổ chức điều hành, Kho bạc Nhà nước đã có phương pháp tổ chức tốt và chặt chẽ, quyết toán dứt điểm từng đợt, từng tháng, từng quý các loại ấn chỉ trái phiếu; đồng thời, thực hiện theo dõi và đáp ứng đầy đủ các chế độ, quyền lợi của người sở hữu trái phiếu như thế chấp trái phiếu để vay vốn Ngân hàng, gửi trái phiếu tại Kho bạc Nhà nước...
ã Các hình thức huy động ngày càng đa dạng hoá, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán
Trong những năm đầu tiên phát hành trái phiếu, Kho bạc Nhà nước chủ yếu phát hành loại ngắn hạn 3 tháng, 6 tháng. Để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu của Ngân sách ngày càng tăng, Kho bạc Nhà nước đã mở rộng các hình thức huy động bao gồm ngắn hạn (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm) và trung hạn (1 năm, 2 năm và 3 năm và 5 năm).
Các hình thức tín phiếu, trái phiếu ngày càng đa dạng hoá với nhiều loại kỳ hạn, lãi suất, phương thức phát hành – thanh toán khác nhau, đây chính là nguồn cung cấp hàng hoá ban đầu cho thị trường chứng khoán, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Qua thực tế phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ từ năm 1991 đến nay cho thấy, trong khi công tác đấu thầu tín phiếu Kho bạc qua Ngân hàng Nhà nước; đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua Trung tâm giao dịch chứng khoán; đại lý, bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ chưa diễn ra suôn sẻ thì hình thức bán lẻ trái phiếu vẫn phát huy được hiệu quả với hàng nghìn tỷ đồng được huy động hàng năm qua kênh này. Lợi thế của hình thức bán lẻ: đối tượng khách hàng chủ yếu bao gồm các tầng lớp dân cư, những người có khả năng tiếp cận với các loại trái phiếu Chính phủ dễ dàng thông qua các điểm bán ở các địa phương trong cả nước. Hệ thống Kho bạc Nhà nước có một mạng lưới sâu rộng đến tận quận, huyện với 640 đơn vị Kho bạc trên toàn quốc và hơn 1000 điểm bán lưu động và cố định.
Ngoài việc phát hành trực tiếp các loại tín phiếu Kho bạc, trái phiếu Kho bạc, Kho bạc Nhà nước đã phối hợp với các ngành, các địa phương phát hành trái phiếu công trình để huy động vốn cho các công trình trọng điểm như: công trình thuỷ điện Yaly; các công trình cơ sở hạ tầng của thành phố Hồ Chí Minh, Bình Thuận, Cà Mau... và sắp tới là công trình thế kỷ: đường cao tốc Trường Sơn. Mặc dù kết quả còn những hạn chế, nhưng thực tế đã khẳng định đây là một hướng đi đúng trong chiến lược tạo vốn phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2.3.2 Những hạn chế.
Trong những năm qua, cơ chế huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ ở nước ta đã từng bước được cải tiến và hoàn thiện. Kho bạc Nhà nước ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình đối với công tác huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư dưới hình thức trái phiếu Chính phủ vẫn còn bộc lộ một số hạn chế; thể hiện tổng quát trên các mặt:
ã Khối lượng vốn huy động thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ nhìn chung còn thấp, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế và tiềm năng trong dân cư.
Tổng dư nợ các loại trái phiếu Chính phủ trong thời gian qua còn rất thấp, mới chỉ đáp ứng cho thiếu hụt Ngân sách Nhà nước và một phần cho đầu tư phát triển, thể hiện:
bảng 8 Tổng dư nợ các loại trái phiếu Chính phủ trong giai đoạn 1996 –2002
Đơn vị tính: %
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tỷ lệ
0,93
2,20
2,39
3,17
3,76
4,5
4,7
Nguồn : Vụ Huy động vốn - Kho bạc Nhà nước Trung Ương
Như vậy, tỷ lệ dư nợ trái phiếu Chính phủ so với GDP đến nay mới chỉ đạt xấp xỉ 4,7% bằng khoảng 27% nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Trong khi đó, ở nhiều nước tỷ lệ này được duy trì ở mức 40 – 50%/năm (Mỹ : 65%GDP; Nhật Bản: 38%GDP; Anh 53,5%GDP).
Khối lượng huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ trong những năm qua chưa đáp ứng kịp so với nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xét trên cả 2 phương diện: khối lượng và kỳ hạn. Nguyên nhân chính là do chính sách huy động vốn qua phát hành bán lẻ trong giai đoạn 1991 – 2002 nhìn chung vẫn còn đơn điệu. Việc phát hành trái phiếu Kho bạc từ năm 1996 cho đến nay chỉ chủ yếu duy trì một loại kỳ hạn trái phiếu 2 năm.
ã Công tác xây dựng kế hoạch chưa thực sự tốt, do vậy hiệu quả phát hành trái phiếu không cao
Một trong những công việc hết sức quan trọng, có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công của chiến lược huy động vốn, đó là công tác kế hoạch hoá; Kế hoạch huy động vốn theo thời gian bao gồm: kế hoạch ngắn hạn (1 năm hoặc dưới 1 năm); kế hoạch trung hạn (2- 5 năm) và kế hoạch dài hạn (trên 10 năm)song công tác này hiện nay còn chưa được quan tâm đúng mức, mới chỉ xây dựng kế hoạch hàng năm, quý, tháng chưa có chiến lược tổng thể về huy động vốn thông qua hình thức trái phiếu Chính phủ.
Nguyên nhân là do việc xây dựng kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ chủ yếu dựa vào nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước trên cơ sở dự toán Ngân sách đã được Quốc hội thông qua, chưa tính đến chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế xã hội và các mục tiêu của chính sách tài khoá, không thống nhất với kế hoạch vay nợ để phát triển thị trường. Mặt khác chưa có đủ thông tin để tính toán xác định các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, chưa gắn công tác huy động vốn bằng trái phiếu Chính phủ với các hình thức huy động vốn của ngân hàng, doanh nghiệp; số liệu để xây dựng công tác kế hoạch hoá như thu nhập, tiết kiệm và chi tiêu của người dân chưa cập nhật kịp thời… do vậy đã tạo ra một số khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch.
Ngoài ra, việc xác định thời điểm và khối lượng của từng đợt phát hành trái phiếu Chính phủ còn rất thụ động, chủ yếu dựa vào nhu cầu vốn của Ngân sách Nhà nước mà chưa tính đến khả năng cung ứng vốn của nền kinh tế. Thực tế Kho bạc Nhà nước đã phát hành trái phiếu vào những thời điểm mà khối lượng tiền mặt trong dân cư giảm rất thấp nên lượng tiền huy động được ít, do đó buộc phải áp dụng những biện pháp kích thích như: ưu đãi lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu ngân hàng cùng thời hạn; thanh toán lãi trước; miễn thuế thu nhập (đối với công trái)... để tăng khả năng thu hút vốn. Kết quả là lãi suất thực tăng lên, Nhà nước phải gánh chịu thêm những khoản lãi này.
Bên cạnh đó, việc xây dựng kế hoạch tổng thể nhu cầu vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội từ nay đến năm 2010; trong đó, bao gồm vốn của Ngân sách Nhà nước, của các Bộ, ngành, địa phương, các khu vực và các thành phần kinh tế chưa được thực hiện một cách đồng bộ. Sự phối hợp giữa Bộ Tài chính và các bộ, ngành, địa phương trong công tác kế hoach hoá và điều hành công tác huy động vốn chưa đồng đều.
Như vậy, để có thể huy động được tối đa các nguồn lực phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển trong giai đoạn mới (từ 2001 - 2010), chiến lược huy động vốn cần phải quan tâm tới công tác kế hoạch hoá, từ đó có những giải pháp phù hợp với từng thời kỳ.
ã Chưa sử dụng hết hiệu quả nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính phủ
Phát hành trái phiếu Chính phủ là một biện pháp rất có hiệu quả để bù đắp thiếu hụt Ngân sách Nhà nước và bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiệu quả cả về huy động vốn và sử dụng vốn còn chưa cao. Nguyên nhân của việc chưa xây dựng được chiến lược huy động vốn tổng thể chính là do hiệu quả sử dụng vốn và quản lý vốn chưa chặt chẽ. Vay vốn phải đi đôi với việc bố trí nguồn vốn thanh toán cả gốc và lãi khi đến hạn thanh toán. Trong một số năm, công tác phát hành trái phiếu Chính phủ được coi như để bù đắp và đáp ứng những nhu cầu chi cấp bách của Nhà nước, chủ yếu là chi thường xuyên, còn đối với nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển, chủ yếu là xây dựng cơ sở hạ tầng. Do vậy, để thanh toán các loại trái phiếu Chính phủ đến hạn phục vụ cho các nhu cầu trên, Nhà nước có thể bố trí các nguồn vốn từ Ngân sách hoặc phát hành trái phiếu mới để thanh toán nợ cũ. Trong khi đó, vốn sử dụng cho chi thường xuyên không có khả năng thu hồi, vốn cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng không có khả năng sinh lời hoặc sinh lời ít, khả năng thu hồi vốn chậm. Vì vậy, gánh nặng nợ càng tăng cho Ngân sách Nhà nước, Nhà nước rơi vào vòng luẩn quẩn về vay nợ. Mặt khác, chính sách sử dụng nguồn vốn đầu tư từ trái phiếu Chính phủ không rành mạch, không gắn với những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định và những định hướng cụ thể nên không thấy hết được hiệu quả của nó.
Bên cạnh đó, công tác thẩm định dự án, kiểm tra hiệu quả dự án, kiểm tra, kiểm soát quá trình sử dụng và thu hồi vốn đầu tư còn chưa làm tốt và thường xuyên nên tình trạng các dự án đầu tư không đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn được cấp vốn. Do đó, việc sử dụng vốn kém hiệu quả và khả năng thu hồi vốn thấp khá phổ biến.
Ngoài ra, các qui định về sử dụng vốn và thanh toán đối với trái phiếu công trình như hiện nay còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng, chưa phân định được các công trình nằm trong diện được Ngân sách Nhà nước thanh toán và các công trình cần phải đảm bảo nguồn thu. Điều này dẫn đến tình trạng tất cả các công trình đều ỷ lại vào nguồn bù đắp của Ngân sách, không khuyến khích được khả năng tự chủ của các địa phương. Việc phát hành trái phiếu Chính phủ chủ yếu chỉ coi trọng khâu huy động vốn mà chưa chú trọng đến việc thu hút vốn đầu tư và xây dựng phương án trả nợ.
ã Cơ chế phát hành thanh toán trái phiếu chưa hoàn thiện
Cùng với sự củng cố và phát triển của ngành, Kho bạc Nhà nước đã từng bước cải tiến công tác huy động vốn cho phù hợp với nhu cầu đổi mới công tác quản lý tài chính trong từng thời kỳ, thực tế những năm vừa qua, cơ chế phát hành và thanh toán tín phiếu, trái phiếu đã có nhiều thay đổi theo hướng đa dạng, phong phú bảo đảm an toàn, tiết kiệm. Mặc dù vậy, có thể khẳng định cơ chế phát hành trái phiếu chưa được hoàn thiện trên các mặt sau:
- Hình thức trái phiếu chưa phong phú, chủ yếu dưới dạng chứng chỉ có ghi tên hoặc không ghi tên, lãi suất chưa hấp dẫn, phương thức trả lãi thiếu linh hoạt (chủ yếu là trả lãi cùng với gốc khi đến hạn). Chưa có các hình thức trái phiếu hiện đại, hấp dẫn người mua và có khả năng dễ dàng mua bán trên thị trường như trái phiếu có khả năng mua lại (callable bonds). Chính sự đơn điệu của các loại hình trái phiếu đã không khai thác hết tiềm năng về vốn trong dân cư, còn bỏ sót nhiều nhà đầu tư tiềm năng.
- Kỹ thuật phát hành chưa hoàn thiện: việc phát hành trái phiếu qua hệ thống Kho bạc Nhà nước thường kéo dài trong nhiều tháng, không có lịch biểu phát hành cụ thể. Các trái phiếu của mỗi đợt phát hành có nhiều mức lãi suất và thời hạn khác nhau nên công tác hạch toán, ghi chép gặp nhiều khó khăn, dễ bị sai sót. Đa số trái phiếu đều phát hành dưới dạng có ghi tên, việc chuyển nhượng phải làm thủ tục tại Kho bạc Nhà nước nơi phát hành. Vì vậy, trái phiếu không đáp ứng đủ tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết để giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung.
- Loại tiền huy động: Hiện nay, Nhà nước chưa có hình thức huy động bằng vàng và ngoại tệ trong dân cư cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế, nguồn tiết kiệm bằng vàng và ngoại tệ trong dân cư rất lớn. Đa số, người dân có tiền nhàn rỗi, trong khi chưa biết đầu tư vào đâu là có hiệu quả, nên họ lại có khuynh hướng mua vàng và ngoại tệ cất giữ trong nhà. Để tránh tình trạng đóng băng nguồn vốn tiềm tàng này, Nhà nước cần phải có chính sách thật hợp lý mới có thể huy động được.
Nguyên nhân chính là do:
+ Việc huy động vốn thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ phụ thuộc vào nhu cầu vốn của NSNN và các công trình, Kho bạc Nhà nước là cơ quan phát hành nhưng không thể chủ động trong việc quy định các phương thức phát hành và thanh toán trái phiếu.
+ Hệ thống Kho bạc Nhà nước mới được thành lập hơn 10 năm, trong thời gian qua, cơ sở vật chất và điều kiện kỹ thuật còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng hết được các yêu cầu về đổi mới nghiệp vụ.
+ Chưa đề cao vai trò của trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn từ đó chưa đặt ra yêu cầu đổi mới kỹ thuật phát hành.
- Về lãi suất huy động
Mức lãi suất trái phiếu công trình còn cao so với hiệu quả đầu tư của một công trình lớn; đồng thời, cũng là gánh nặng cho Ngân sách. Giả sử, để xây dựng một công trình với số vốn là 100 tỷ đồng nếu sử dụng bằng vốn huy động thông qua phát hành trái phiếu loại kỳ hạn 1 năm, lãi suất 10% năm thì phải bỏ ra 10 tỷ đồng trong 1 năm mà chưa biết hiệu quả công trình ra sao.
Trong thời gian qua, chúng ta chưa xác lập, định hình được mối quan hệ phối hợp một cách chặt chẽ chỉ đạo thống nhất giữa hai ngành Tài chính và Ngân hàng trong việc xác định mặt bằng lãi suất huy động vốn nói chung. Điều đó dẫn đến nhiều nơi, nhiều lúc có sự chênh lệch lớn giữa lãi suất trái phiếu Chính phủ với lãi suất tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng cùng kỳ hạn, làm xuất hiện nhiều luồng tiền mặt đáng kể di chuyển giữa Kho bạc và ngân hàng, ảnh hưởng xấu đến thị trường và kế hoạch huy động vốn của cả hai ngành.
Chương 3
Giải pháp hoàn thiện cơ chế huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư qua hệ thống KBNN
3.1 Phương hướng và mục tiêu huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư của Kho bạc Nhà nước
3.1.1 Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn 2001- 2010
Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 đã được Nghị quyết đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Một số mục tiêu cụ thể giai đoạn 2001- 2010
Trong giai đoạn 2001 - 2010 chúng ta cần đạt được các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội như sau:
- Đưa GDP năm 2010 gấp 2 lần so với năm 1995. Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân thời kì 2001 - 2010 là 7,5%/ năm; trong đó nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,3%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,8%, dịch vụ tăng 6,2%.
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/ năm. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp 13%/ năm . Giá trị dịch vụ tăng 7,5%/ năm. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 16%/năm.
- Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP đến năm 2010 dự kiến:
+ Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp 20 - 21%
+ Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng 38 - 39%
+ Tỷ trọng các ngành dịch vụ 41 - 42%
- Tỷ lệ học sinh trung học cơ sở đi học trong độ tuổi đạt 80%, tỷ lệ học sinh phổ thông trung học đi học trong độ tuổi đạt 45% vào năm 2010. Tiếp tục củng cố và duy trì mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Thực hiện chương trình phổ cập giáo dục cơ sở.
- Giảm tỷ lệ sinh bình quân hàng năm 0,5%; tốc độ tăng dân số vào năm 2010 khoảng 1,2%. Giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 22 -25% vào năm 2010. Nâng tuổi thọ bình quân vào năm 2010 lên 70 tuổi. Cung cấp nước sạch cho 60% dân số nông thôn.
- Tạo việc làm, giải quyết thêm việc làm cho khoảng 7,5 triệu người lao động, bình quân 1,5 triệu lao động /năm; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 30% vào năm 2010. Cơ bản xoá hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn 10% vào năm 2010. Đáp ứng 40% nhu cầu thuốc chữa bệnh sản xuất trong nước.
3.1.2 Phương hướng và mục tiêu
3.1.2.1 Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2001 - 2010
Để thực hiện các mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 và để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm ở mức 7,5%, đến năm 2010 có GDP là 43,1 tỷ USD ( tăng 13 tỷ USD so với năm 2000), tổng GDP của cả thời kỳ là 2650 - 2660 nghìn tỷ đồng (tính theo giá năm 2000 ) tương đương 190 tỷ USD. Với hệ số ICOR 3,8 - 4,2 thì cần phải có một lượng vốn đầu tư khoảng 830 – 850 nghìn tỷ đồng, tương đương 59 - 61 tỷ USD , tốc độ tăng đầu tư bình quân hàng năm 11 - 12% và tỷ lệ đầu tư so với GDP khoảng 31 - 32%. So với giai đoạn 1996 -2000, thì tổng mức đầu tư giai đoạn này cao hơn khoảng 30 - 35%.
Để đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, yếu tố quan trọng hàng đầu là phải đảm bảo vốn đầu tư, phải phấn đấu tăng thu Ngân sách Nhà nước, khuyến khích các thành phần kinh tế và dân cư tiết kiệm, dành vốn cho đầu tư...
3.1.2.2 Khả năng huy động vốn cho đầu tư của Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010:
Vốn cho đầu tư phát triển của một quốc gia bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng. Nguồn vốn trong nước được huy động qua các kênh: Ngân sách nhà nước, hệ thống Ngân hàng, các doanh nghiệp và tự đầu tư của dân cư... nguồn vốn từ các doanh nghiệp và dân cư là quan trọng nhất vì đây là nơi tạo ra và tích tụ vốn, là nguồn nguyên thuỷ để tạo vốn cho Ngân sách và hệ thống tín dụng.
Theo điều tra của Tổng cục Thống kê, tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người trong 5 năm gần đây là 10%/năm và đạt mức 295.000 đồng/người/tháng vào năm 1999. Nếu tốc độ tăng thu nhập vẫn giữ ở mức 10%/năm thì thu nhập bình quân đầu người giai đoạn 2001 - 2010 vào khoảng 435.000đồng/người/tháng.
Ước tính tỷ lệ tích luỹ (cho tiết kiệm và đầu tư) trong tổng thu nhập của người dân là 20%. Trung bình mỗi năm một người dân tích luỹ được:
435.000 đồng x 20% x 12 tháng = 1.044.000 đồng
Theo dự báo, dân số Việt Nam đến năm 2010 là 85,7 triệu người. Như vậy, tổng nguồn vốn tích luỹ từ khu vực dân cư bình quân hàng năm là:
1.044.000 đồng x 85.700.000 = 89.470 tỷ đồng
Theo tính toán của Bộ Kế hoạch Đầu tư và Tổng cục Thống kê, nguồn vốn tích luỹ trong dân được sử dụng vào các mục đích sau:
1- 44% dự trữ vàng và ngoại tệ;
2- 19% gửi tiết kiệm, mua trái phiếu, kỳ phiếu;
3- 20% đầu tư vào đất đai và cải thiện điều kiện sinh hoạt;
4- 17% đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh.
Nhà nước có thể huy động được vốn nhàn rỗi từ nguồn thứ 1 và thứ 2 (63% vốn tích luỹ). Giả thiết cơ chế, chính sách huy động vốn chỉ thu hút khoảng 50% nguồn vốn nói trên thì bình quân hàng năm NSNN có thể huy động được 28.000 tỷ đồng (kể cả vàng, ngoại tệ và nội tệ), chưa tính đến số vốn tích luỹ dồn tích từ năm 2000 trở về trước.
3.1.2.3 Mục tiêu của chính sách huy động vốn trong thời gian tới
Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn để khai thác tối đa nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, chủ yếu là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế, phấn đấu đạt mức huy động tối thiểu 5 - 7% GDP hàng năm
- Thúc đẩy tiết kiệm, tích luỹ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Lành mạnh hoá nền tài chính Quốc gia.
Phối hợp nhịp nhàng công tác huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp để phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường vốn, góp phần tích cực vào ổn định tiền tệ và kiềm chê lạm phát.
3.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư qua hệ thống KBNN
Xuất phát từ tình hình thực tế công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ trong thời gian qua; đồng thời, để thực hiện mục tiêu huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển, góp phần thực hiện chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010, một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ trong thời gian tới như sau:
3.2.1 Hoàn thiện cơ chế huy động vốn
3.2.1.1 Đa dạng hoá các loại trái phiếu chính phủ sẽ phát hành
Hình thức trái phiếu
Để mở rộng đối tượng tham gia mua trái phiếu Chính phủ, đa dạng hoá các loại hình và thời hạn trái phiếu cần phải được coi trọng. Ngoài việc tiếp tục phát hành trái phiếu Chính phủ dưới hình thức chứng chỉ, cần phải mở rộng việc phát hành trái phiếu dưới hình thức ghi sổ, tiến tới chỉ phát hành trái phiếu dưới hình thức ghi sổ.
Hình thức chứng chỉ có các loại:
+ Loại có ghi tên, địa chỉ người mua: áp dụng đối với trái phiếu bán ngang mệnh giá phát hành qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Hình thức này bảo đảm an toàn cho các đối tượng mua trái phiếu và không có nhu cầu mua bán lại trái phiếu.
+ Loại không ghi tên, địa chỉ người mua: áp dụng đối với trái phiếu chiết khấu phát hành qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Loại trái phiếu này có thể được thanh toán vãng lai tại các đơn vị Kho bạc Nhà nước (hoặc các đại lý thanh toán); dễ dàng được bán, chuyển nhượng mà không phải đăng ký với cơ quan phát hành, làm tăng tính thanh khoản của trái phiếu, hấp dẫn đối với người đầu tư, đặc biệt là trái phiếu trung và dài hạn.
- Hình thức ghi sổ: Được thực hiện bằng cách mở tài khoản trái phiếu cho khách hàng, việc mua bán trái phiếu được thể hiện bằng cách ghi tăng, giảm số dư trái phiếu trên tài khoản này. Đây là phương thức rất tiện lợi, tiết kiệm chi phí in ấn, bảo quản chứng chỉ; xử lý thuận lợi, nhanh chóng, an toàn các trường hợp mua trái phiếu với khối lượng lớn; kỹ thuật phát hành, thanh toán đơn giản, thuận tiện đối với cả cơ quan phát hành, người mua trái phiếu, nhất là đối với việc giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Thực hiện được điều này, một mặt, sẽ nâng cao tính hấp dẫn của loại đầu tư này; mặt khác, sẽ tạo khả năng phát hành các loại trái phiếu Chính phủ dài hạn phục vụ đầu tư phát triển.
Loại tiền huy động
Bên cạnh việc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng đồng Việt Nam, Nhà nước cần phải tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ, thu hút nguồn vốn ngoại tệ nhàn rỗi trong dân cư, đặc biệt là nguồn kiều hối trong dân cư, để đầu tư xây dựng các công trình có nhu cầu sử dụng bằng ngoại tệ, có khả năng thu hồi vốn như: các nhà máy thuỷ điện, nhà máy lọc dầu, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, cầu, cảng...). Để có thể huy động nguồn vốn của kiều bào Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, Nhà nước cần phải có chính sách ưu đãi về tỷ giá, thuế, đơn giản hoá thủ tục hành chính. Đồng thời, cần phải kết hợp với công tác tuyên truyền, giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước của những xa quê, làm cho họ hiểu được chuyển tiền về nước vừa ích nước, vừa lợi nhà.
Theo tính toán ở trên, 44% lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư được cất giữ dưới dạng vàng và ngoại tệ. Bên cạnh làm tốt công tác huy động vốn bằng ngoại tệ, Nhà nước cũng cần có những giải pháp tích cực để huy động vàng trong dân. Tạo niềm tin trong dân chúng bằng cách tạo sự bền vững của pháp luật để người dân chấp nhận chuyển hoá vàng ở dạng cất giữ đi vào lưu thông. Tạo điều kiện thuận lợi, đơn giản, thoải mái cho người gửi vàng, Nhà nước cần phải chứng minh cho người dân thấy rằng lượng vàng cũng được đảm bảo an toàn tuyệt đối và không gặp nhiều phiền hà khi khách hàng rút vàng ra.
3.2.1.2 Hoàn thiện cơ chế xác định lãi suất
Xác định lãi suất trái phiếu Chính phủ sao cho hợp lý, vừa đảm bảo được quyền lợi của người mua trái phiếu, vừa đảm bảo huy động được vốn theo kế hoạch là một trong những công việc quan trọng nhất trong công tác huy động vốn. Lãi suất là yếu tố rất nhạy cảm, nó chứa đựng không chỉ nội dung kinh tế mà cả về tâm lý. Người đầu tư chỉ bỏ tiền mua trái phiếu khi họ biết chắc chắn thu được lời, tức là lãi suất trái phiếu phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, không có sự biến động lớn về giá cả. Người mua trái phiếu thường muốn lãi suất càng cao càng tốt trong khi người đi vay muốn thấp. Để giải quyết mâu thuẫn này, phải áp dụng một cơ chế lãi suất linh động, hấp dẫn hơn trong mặt bằng lãi suất huy động vốn của thị trường, bảo đảm quyền lợi của người đầu tư; đồng thời, không tạo gánh nặng cho Ngân sách là việc làm rất khó, đặc biệt khi mà tâm lý người Việt Nam không ưa mạo hiểm và lạm phát ở nước ta vẫn chưa kiểm soát được.
Vì vậy, tuỳ theo từng đợt phát hành, Bộ Tài chính có thể quy định mức lãi suất theo một trong các phương thức sau:
- Lãi suất cố định áp dụng cho cả kỳ hạn trái phiếu, được quy định theo nguyên tắc lãi suất trái phiếu dài hạn cao hơn lãi suất trái phiếu ngắn hạn, khuyến khích người dân mua trái phiếu có kỳ hạn dài.
- Lãi suất biến đổi: là mức lãi suất công bố định kỳ tại thời điểm thanh toán lãi, để người đầu tư không bị thiệt khi đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Với lãi suất biến đổi này, vào thời điểm phát hành, Bộ Tài chính phải công bố lãi suất trái phiếu áp dụng cho năm đầu tiên và cách xác định lãi suất trái phiếu các năm tiếp theo, có thể bằng lãi suất trái phiếu đấu thầu, bảo lãnh cùng kỳ hạn đợt phát hành gần thời điểm công bố lãi suất.
- Lãi suất cố định nhưng được điều chỉnh trong trường hợp có sự biến động lớn về giá: Là lãi suất được áp dụng cho suốt kỳ hạn của trái phiếu với dự kiến trong thời hạn trái phiếu, chỉ số giá sẽ tăng ở một mức độ nhất định. Thực tế, nếu chỉ số giá thấp hơn so với dự kiến, chủ sở hữu trái phiếu vẫn được hưởng mức lãi suất đã công bố; nếu chỉ số giá tăng cao hơn so với dự kiến, lãi suất trái phiếu sẽ được cộng thêm một tỷ lệ đúng bằng tỷ lệ chênh lệch chỉ số giá.
Trên cơ sở khung lãi suất đã được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước thống nhất qui định, cho phép Kho bạc Nhà nước chủ động lập kế hoạch và thực hiện huy động tín phiếu, trái phiếu Kho bạc vào các thời điểm thích hợp nhằm nâng cao sức thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư vào Kho bạc Nhà nước.
Tóm lại, về nguyên tắc, lãi suất trái phiếu Chính phủ phải thấp hơn lãi suất của các công cụ huy động vốn khác. Song, trong điều kiện nước ta hiện nay, một mặt từng bước giảm lãi suất nhưng mặt khác vẫn phải xây dựng mặt bằng lãi suất hợp lý, phù hợp với thị trường. Xây dựng mức lãi suất quá thấp, chỉ mang tính chất tượng trưng sẽ không thu hút được vốn. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, việc huy động vốn dựa trên nguyên tắc tự nguyện và để thu hút được nguồn vốn lớn thì phải có cơ chế lãi suất hợp lý nhất.
3.2.1.3 Hoàn thiện cơ chế phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ
Phương thức và cơ chế phát hành
Hiện nay, việc phát hành trái phiếu Chính phủ huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư cho Ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển được thực hiện bằng phương thức phát hành trái phiếu qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Tuy nhiên, do các loại trái phiếu còn chưa đa dạng, cơ chế phát hành, thanh toán chưa linh hoạt, thuận tiện cho người mua, nên khối lượng vốn huy động vào hệ thống Kho bạc Nhà nước còn hạn chế. Vì vậy, trong thời gian tới, việc huy động vốn cho Ngân sách nhà nước cần tiếp tục đổi mới theo hướng sau:
- Tiếp tục duy trì việc bán lẻ theo phương thức ngang mệnh giá để tận dụng cơ sở vật chất, con người của toàn hệ thống, cần phát hành thường xuyên, đều đặn, cho phép thanh toán trước hạn có hưởng lãi theo các mức lãi suất phân biệt, khuyến khích người dân đầu tư vào trái phiếu kho bạc trong điều kiện đa số đối tượng đầu tư là tầng lớp nhân dân lao động, chưa hiểu biết nhiều về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Mở rộng việc phát hành trái phiếu chiết khấu đủ tiêu chuẩn niêm yết giao dịch trên thị trường chứng khoán với các loại kỳ hạn 5 năm trở lên. Lãi trái phiếu thanh toán hàng năm và được điều chỉnh theo sự biến động của chỉ số giá cả.
- Duy trì phát hành nhiều loại trái phiếu có kỳ hạn khác nhau tại một thời điểm, tạo thêm cơ hội lựa chọn các hình thức đầu tư cho dân chúng, thu hút tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển.
- Ban hành quy trình chuẩn quản lý việc phát hành, thanh toán trái phiếu, thực hiện chương trình thanh toán trái phiếu vãng lai, đáp ứng yêu cầu nhanh chóng, thuận tiện cho người mua, đồng thời bảo đảm an toàn tiền, tài sản của Nhà nước và nhân dân.
- Trước mắt, tập trung vào các loại trái phiếu có thời hạn 2- 5 năm, khi thị trường đã đi vào ổn định sẽ phát hành các loại trái phiếu có kỳ hạn dài hơn từ 10 – 15 năm. Các trái phiếu này sẽ bán từng đợt theo phương thức chiết khấu, quy định thống nhất ngày đến hạn thanh toán. Nguồn thu phát hành trái phiếu trung và dài hạn chỉ sử dụng vào mục tiêu đã định trong kế hoạch Ngân sách Nhà nước hoặc đầu tư vốn cho các công trình trọng điểm, không sử dụng vào mục đích chi thường xuyên của Ngân sách Nhà nước
Cơ chế thanh toán:
a/ Thanh toán gốc: Có thể lựa chọn một trong các phương thức sau:
+ Đối với trái phiếu chiết khấu bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước đủ tiêu chuẩn niêm yết, giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung: không được thanh toán trước hạn. Trường hợp chủ sở hữu trái phiếu có nhu cầu thu hồi vốn đầu tư, có thể bán lại trái phiếu trên thị trường chứng khoán.
+ Đối với trái phiếu bán lẻ ngang mệnh giá qua Kho bạc Nhà nước không giao dịch được trên thị trường chứng khoán: cho phép thanh toán trước hạn, nhưng được hưởng mức lãi suất thấp hơn và tùy thuộc vào thời gian mua trái phiếu thực tế.
+ Ngoài ra, trong trường hợp Ngân sách nhà nước bội thu, để giảm gánh nặng cho Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính có thể thanh toán trước hạn toàn bộ gốc các trái phiếu của một đợt phát hành nào đó. Tuy nhiên, để thanh toán trái phiếu trước hạn, thì điều khoản này phải được quy định trước trong quyết định phát hành trái phiếu.
b/ Thanh toán lãi:
Trong điều kiện của nền kinh tế nước ta hiện nay, để đảm bảo giá trị của tiền mua trái phiếu Chính phủ và tạo ra sự hấp dẫn cần thiết nhằm kích thích người dân có tiền mạnh dạn đầu tư vào trái phiếu dài hạn; cùng với việc xác định mức lãi suất thích hợp, Kho bạc Nhà nước có thể áp dụng một trong các phương thức trả lãi sau tuỳ từng điều kiện cụ thể :
- Thanh toán lãi một lần cùng với tiền gốc khi đến hạn;
- Thanh toán lãi ngay khi phát hành (đối với trái phiếu chiết khấu);
- Thanh toán lãi định kỳ 1 năm/1 lần hoặc 6 tháng/1 lần.
- Thanh toán lãi tuỳ thuộc thời gian đầu tư trái phiếu đối với trường hợp thanh toán trước hạn.
Nhưng ở đây, áp dụng phương pháp tính lãi theo lãi gộp. Điều đó cũng hợp lý và khắc phục được tư tưởng của người sở hữu trái phiếu, cho rằng số lãi của họ sinh ra hàng năm bị Nhà nước chiếm dụng.
3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hoá trái phiếu Chính phủ
Cải tiến một bước công tác kế hoạch hoá huy động vốn theo hướng kết hợp kế hoạch tổng thể của Quốc gia với kế hoạch cụ thể của các Bộ, ngành và địa phương, kế hoạch dài hạn với kế hoạch trung hạn, thống nhất tập trung về một đầu mối là Bộ Tài chính. Công tác hướng dẫn lập kế hoạch huy động vốn cho đầu tư phát triển phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu đầu tư của Nhà nước và khả năng thị trường, đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả, tiết kiệm chi phí cho Ngân sách Nhà nước.
Cần phải xây dựng kế hoạch huy động vốn trong dân cư theo một lịch biểu phát hành cụ thể:
- Kế hoạch huy động vốn theo từng kỳ hạn.
- Kế hoạch huy động vốn theo thời gian bao gồm kế hoạch ngắn hạn (dưới 1 năm); kế hoạch trung hạn (2- 5 năm) và kế hoạch dài hạn (10 năm, sau này là 15 năm, 20 năm).
Kế hoạch huy động vốn phải gắn với kế hoạch trả nợ và phương án trả nợ, bảo đảm sử dụng vốn hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ.
3.2.3 Tăng cường bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp cho cán bộ
Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của hệ thống Kho bạc nói chung và chức năng huy động vốn nói riêng, cần chú trọng hơn nữa công tác đào tạo và kiện toàn đội ngũ cán bộ, cần xác định đây là yêu cầu cấp bách của ngành tài chính trong điều kiện hiện nay. Vì vậy, cần nâng cao số lượng cán bộ có trình độ đại học ở các Kho bạc Nhà nước quận, huyện. Tổ chức tốt các lớp đào tạo, phấn đấu tất cả nhân viên trong ngành đều qua đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào tạo, phải kết hợp đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác huy động vốn, đặc biệt là nhóm cán bộ xây dựng chiến lược huy động vốn, cơ chế, chính sách huy động vốn với các hình thức:
- Đối với cán bộ lãnh đạo: tham gia các khoá học ngắn hạn, hội thảo về tài chính công, chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách huy động vốn, giúp cho nhóm cán bộ này được cập nhật kiến thức thường xuyên; đồng thời, tổ chức các đợt khảo sát, học tập kinh nghiệm huy động vốn ở các nước kinh tế phát triển hoặc các nước trong khu vực có điều kiện, hoàn cảnh tương tự để nghiên cứu vận dụng vào thực tế tại Việt Nam.
- Đối với nhóm cán bộ xây dựng chính sách, chế độ: cử tham gia các khoá đào tạo tập trung, dài hạn, trong nước, nước ngoài về ngoại ngữ và chuyên môn nghiệp vụ; tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn, hội thảo chuyên sâu về lĩnh vực tài chính công và huy động vốn giúp cho nhóm cán bộ này củng cố, cập nhật kiến thức, phục vụ cho việc nghiên cứu, xây dựng chính sách, chế độ.
- Đối với nhóm cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ phát hành, thanh toán trái phiếu: thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn nghiệp vụ, giúp cho nhóm cán bộ này có khả năng triển khai các nghiệp vụ phát hành mới, phục vụ nhanh chóng, thuận tiện cho người dân, nâng cao hiệu quả công tác huy động vốn.
- Bên cạnh đó, đặc biệt quan tâm tới việc qui hoạch và bố trí cán bộ ở các cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước một cách hợp lý, nhằm đảm bảo thực thi nhiệm vụ huy động vốn đạt hiệu quả nhất.
3.2.4 Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục nhân dân tham gia mua trái phiếu Chính phủ
Chú trọng công tác tuyên truyền vận động rộng rãi trong quần chúng nhân dân, làm cho nhân dân hiểu rõ mục đích, ý nghĩa của công tác huy động vốn trong nước và quen dần với việc đầu tư vào các loại trái phiếu Chính phủ.
Các đợt phát hành trái phiếu chủ yếu được bán ở các khu trung tâm, các thành phố, thị xã nên phần lớn nhân dân ở các vùng xa xôi chưa hiểu biết nhiều về trái phiếu Chính phủ và ý nghĩa của công tác huy động vốn đối với nền kinh tế, xã hội. Như vậy, các đơn vị Kho bạc cần phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng địa phương tổ chức tuyên truyền để các tầng lớp nhân dân biết rõ về nội dung, hình thức trái phiếu phát hành, thấy được lợi ích của việc bỏ tiền mua trái phiếu Chính phủ nghĩa là đồng tiền được sinh lời thực sự. Ngoài ra cần phải giáo dục, hướng dẫn giúp cho công chúng đầu tư thấy rõ mục đích huy động và sử dụng vốn, cách thức trả nợ gốc và lãi để có thể gây được lòng tin đối với người có tiền, tạo nên tính hấp dẫn của trái phiếu Chính phủ đối với công chúng đầu tư. Cụ thể:
- Tăng cường công tác tuyên truyền để không những thu hút được bộ phận những người trước đây không mua trái phiếu do có ít thông tin mà ngay cả những người đang chần chừ chưa biết sử dụng tiền tiết kiệm để đầu tư vào lĩnh vực nào.
- Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về lĩnh vực huy động vốn cho các đối tượng là đông đảo các tầng lớp nhân dân để phát hiện các sáng kiến, giải pháp tăng cường huy động các nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
- Phổ biến kiến thức rộng rãi cho công chúng thông qua việc phát hành và phân phối miễn phí các loại sách, báo, tạp chí, băng, đĩa... liên quan đến lĩnh vực huy động vốn.
Ngoài công tác tuyên truyền giáo dục, Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp để khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế tư nhân. Tạo mọi điều kiện để tăng thu nhập cho dân cư được coi là giải pháp tích cực nhất để tăng khả năng huy động vốn trong dân cư.
3.2.5 ứng dụng phát hành thanh toán trái phiếu Chính phủ qua mạng vi tính trong phạm vi cả nước.
Hiện nay, việc áp dụng các trang thiết bị máy móc, hệ thống vi tính đã trở nên phổ biến ở các ngành, lĩnh vực. Nó không những xử lý các tình huống nhanh chóng, chính xác mà còn tạo thuận lợi hơn trong công tác điều hành, quản lý. Do đó, để công tác huy động vốn ngày càng có hiệu quả, ngành Kho bạc Nhà nước cần phải có hệ thống nối mạng vi tính giữa các đơn vị Kho bạc trên địa bàn cả nước, phục vụ cho việc quản lý phát hành, thanh toán trái phiếu vãng lai, nhanh chóng, thuận tiện, bảo đảm an toàn tiền, tài sản của Nhà nước và nhân dân.
3.2.6. Giải pháp khác
Hoàn thiện cơ chế phát hành công trái XDTQ
Bên cạnh việc phát hành trái phiếu Chính phủ huy động vốn cho Ngân sách nhà nước, trong trường hợp đặc biệt, cần huy động một khối lượng vốn lớn, có thể tổ chức các đợt phát hành công trái XDTQ với cơ chế phát hành, thanh toán đã được cải tiến phục vụ nhanh chóng, thuận tiện cho người mua; lãi suất công trái được xác định trên cơ sở bảo đảm lợi ích của người đầu tư, kết hợp hài hoà giữa lợi ích kinh tế và động viên tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý
Cơ chế, chính sách đối với phát hành trái phiếu Chính phủ cần phải phù hợp với đặc điểm nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường (nền kinh tế mở cửa và hội nhập), phù hợp với các qui luật của nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Vì vậy, phải hoàn thiện thống nhất và nâng cao hiệu lực pháp lý của các văn bản. Quyền hạn và nhiệm vụ của các cơ quan liên quan phải được qui định rõ ràng, tránh sự cạnh tranh không lành mạnh, chồng chéo trong công tác huy động vốn.
Cho đến nay, hành lang pháp lý để thực hiện công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ vẫn dựa vào Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/1/2000. Trải qua một thời gian hoạt động, Nghị định này đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp với cơ chế bán và chuyển nhượng, cơ chế phát hành và thanh toán... cho nên công tác huy động vốn còn gặp một số hạn chế. Vì vậy trong thời gian tới Bộ Tài chính trình Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị định 01/2000/NĐ - CP cho phù hợp với tình hình hiện nay, hoặc xây dựng pháp lệnh phát hành trái phiếu theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của Nghị định, pháp lệnh:
+ Đối tượng mua trái phiếu Chính phủ: ngoài các tổ chức, cá nhân người Việt Nam, người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam, bổ sung quy định cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia mua trái phiếu Chính phủ trên thị trường giao dịch chứng khoán tập trung theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, nhằm khai thác tối đa nguồn vốn trong nước và ngoài nước cho đầu tư phát triển.
+ Giao quyền tự chủ, khuyến khích chính quyền địa phương các cấp, trước mắt là Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố tự phát hành trái phiếu đầu tư, nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc vay và sử dụng vốn.
- Sửa đổi Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhằm đơn giản hoá thủ tục kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi để công chúng đầu tư tiếp cận thị trường chứng khoán, tham gia mua trái phiếu Chính phủ.
Về lâu dài, cần nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ, Quốc hội ban hành một bộ luật về công tác huy động vốn để nâng cao tính pháp lý và khả năng thực thi trong quá trình triển khai công tác huy động vốn dưới hình thức trái phiếu Chính phủ. Có như vậy thì công tác huy động vốn mới đạt được tính pháp lý cho các chỉ tiêu huy động vốn, từ đó sẽ giúp Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan xây dựng các chính sách huy động vốn thích hợp trong từng thời kỳ cụ thể.
3.3.2 Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian:
Khuyến khích thành lập các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư... bằng cách áp dụng chính sách miễn, giảm phí, thuế kinh doanh. Khi thị trường vốn, thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, đây là các tổ chức trung gian hoạt động chuyên nghiệp trên thị trường, có khả năng tính toán, lựa chọn các lĩnh vực đầu tư hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao, nên dễ dàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Cấp giấy phép thành lập các công ty chứng khoán nước ngoài, cho phép tổ chức, cá nhân người nước ngoài mua trái phiếu Chính phủ: trong thời gian đầu, cần thực hiện chính sách giảm thuế kinh doanh, miễn thuế thu nhập cá nhân từ tiền lãi trái phiếu. Khả năng đây là nguồn vốn quan trọng, ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn huy động cho đầu tư phát triển, phù hợp với xu thế toàn cầu hoá và hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới.
Thành lập thêm các công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài, đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của dân cư khi đời sống vật chất ngày được cải thiện và nâng cao, đồng thời huy động một khối lượng vốn đáng kể cho đầu tư phát triển.
Kết luận
Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam trong tương lai ra sao, điều đó phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố, mà quan trọng hơn cả, đó chính là vốn. Việc xác định mục tiêu hướng đi và những giải pháp thích hợp của quá trình huy động vốn cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển có ý nghĩa quyết định đối với sự tạo lập vốn. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng công tác huy động vốn, coi đây là khâu mấu chốt, đồng thời cũng là khâu đột phá để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế trong những năm tới.
Huy động vốn trong dân cư cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển đã và đang là vấn đề thời sự ở nước ta. Góp phần giải quyết vấn đề này, đề tài đã đi sâu nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sau đây:
Một là: hệ thống hoá lý luận cơ bản về vốn dân cư, sự cần thiết và vai trò huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển, cũng như nêu lên những nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn.
Hai là: Đánh giá thực trạng huy động vốn trong dân cư qua hệ thống Kho bạc Nhà nước trong giai đoạn 1991 – 2002. Đồng thời chỉ rõ những nguyên nhân tác động đến tình hình huy động vốn, những tiềm năng chưa được khai thác.
Ba là: Đề tài đã nêu lên những giải pháp chủ yếu nhằm khơi dậy và huy động vốn trong dân cư cho Ngân sách Nhà nước và cho đầu tư phát triển. Hi vọng rằng trên cơ sở những biện pháp đã thực hiện cùng với những định hướng và giải pháp mới, ngành Kho bạc sẽ có những bước tiến tích cực trong công tác huy động vốn.
tài liệu tham khảo
1. Quản lý nghiệp vụ Kho bạc Nhà nước - Nhà xuất bản Tài chính, năm 1997s
2. Đổi mới cơ chế huy động vốn -Thông tin chuyên khảo, năm 1995
3. Chính sách và biện pháp huy động các nguồn vốn - Bộ Kế hoạch - Đầu tư
4. Văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX - Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
5. Hệ thống các văn bản về hoạt động Kho bạc Nhà nước – Tập IV, V, VI, VII
6. PGS – TS Thái Bá Cẩn,2002, Khai thác nguồn vốn tín dụng Nhà nước ưu đãi cho đầu tư phát triển
7. Tạp chí Thị trường chứng khoán - Các số năm 2001, 2002
8. Tạp chí Quản lý Ngân quỹ - Các số năm 2001, 2002
9. Tạp chí Tài chính - Các số năm 2001, 2002
10. Tạp chí Ngân hàng – Các số năm 2001,2002
Mục lục
Lời cảm ơn
Trong quá trình thực tập và nghiên cứu đề tài tại Vụ huy động vốn – Kho bạc Nhà nước Trung Ương, em đã nhận được sự chỉ bảo tận tình của các cán bộ trong Vụ Huy động vốn cũng như được sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo TS Vũ Duy Hào và các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng – Tài chính. Cùng với hệ thống kiến thức đã học được ở trường kết hợp với những kiến thức thực tế thu nhận được qua quá trình thực tập, em chọn đề tại "Hoàn thiện cơ chế vốn trong dân cư qua hệ thống kho bạc Nhà nước". Bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót, sơ lược; em rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy, cô cũng như những người quan tâm để bài viết ngày càng hoàn thiện hơn.
Qua đây, em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo TS Vũ Duy Hào và tập thể cán bộ ở Vụ Huy động vốn đã tạo mọi điều kiện để em hoàn thành đề tài này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37029.doc