Tài sản công – tài sản của một quốc gia – nguồn tài sản được hình thành và tích luỹ trong quá trình dựng nước và giữ nước của cả một dân tộc. Tài sản công vừa là nguồn tài sản thiêng liêng, vừa là sức mạnh tiềm năng của một quốc gia, tài sản công nói chung và tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp nói riêng giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận quan trọng của tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp, là cơ sở vật chất quan trọng cho các hoạt động sự nghiệp nhằm cung cấp các dịch vụ công phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
65 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1816 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g ký quản lý sử dụng với cơ quan tài chính hoặc cơ quan có chức năng quản lý để Nhà nước kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ tình hình sử dụng và biến động của các tài sản này, đồng thời để làm căn cứ xác định trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp trực tiếp sử dụng tài sản khi tài sản bị mất, chiếm dụng và làm căn cứ cơ sở để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thẩm định và quyết định việc đầu tư, mua sắm tài sản cho đơn vị sự nghiệp.
2.3. Quy định về xử lý tài sản (Bán, điều chuyển, thu hồi, thanh lý)
2.3.1. Bán tài sản
Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp chưa đến thời hạn thanh lý chỉ được phép bán khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh; Thủ trưởng các Bộ, ngành và thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp không được phép quyết định bán tài sản công tại đơn vị sự nghiệp.
2.3.2. Điều chuyển tài sản
Đơn vị sự nghiệp sử dụng tài sản công chỉ được phép điều chuyển tài sản công tại đơn vị theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; khi điều chuyển tài sản công giữa các đơn vị sự nghiệp thuộc các Bộ, ngành khác nhau, giữa cơ quan sự nghiệp với các tổ chức khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định đối với nhà đất và Bộ Tài chính quyết định các tài sản còn lại; khi điều chuyển tài sản công giữa các đơn vị sự nghiệp của địa phương do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo đề nghị của Giám đốc Sở Tài chính và Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có tài sản điều chuyển. Mọi trường hợp điều chuyển tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp cho tổ chức, đơn vị khác hoặc cá nhân, khi chưa có quyết định của cơ quan hoặc cấp có thẩm quyền quyết định đều là bất hợp pháp và phải bị xử lý thu hồi, trừ trường hợp đặc biệt có lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều động tài sản để khắc phục thiên tai, địch hoạ. Mọi tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp khi thực hiện điều chuyển đều phải được kiểm kê, xác định giá trị còn lại, hạch toán tăng, giảm tài sản và giá trị tài sản, sửa đổi đăng ký theo qui định của Nhà nước.
2.3.3 Thu hồi tài sản
Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp sẽ bị thu hồi trong các trường hợp khi đơn vị được giao trực tiếp sử dụng tài sản nhà nước không còn nhu cầu sử dụng hoặc giảm nhu cầu sử dụng do sáp nhập, hợp nhất, thay đổi chức năng, nhiệm vụ; khi sử dụng dư thừa so với tiêu chuẩn, định mức được phép sử dụng hoặc sử dụng trái với mục đích của nhà nước đã qui định và các nguyên nhân khác. Thẩm quyền thu hồi tài sản là nhà đất tại các đơn vị sự nghiêp thuộc trung ương quản lý do Thủ tướng Chính phủ quyết định, các tài sản khác do Bộ trưởng Bộ chủ quản của đơn vị sự nghiệp quyết định; toàn bộ tài sản tại các đơn vị sự nghiêp thuộc địa phương quản lý do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Cơ quan sự nghiệp trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản nhà nước bị thu hồi phải thực hiện chuyển giao đầy đủ tài sản nhà nước theo đúng quyết định thu hồi và cơ quan được tiếp nhận, quản lý tài sản thu hồi phải quản lý và sử dụng tài sản theo quy định.
2.3.4. Thanh lý tài sản
Tài sản của các đơn vị được phép thanh lý khi hư hỏng không còn sử dụng được hoặc khi không còn nhu cầu sử dụng nhưng không chuyển nhượng hoặc điều chuyển cho đơn vị khác được hoặc phải chi phí sửa chữa khắc phục hư hỏng quá lớn, không bảo đảm hiệu quả sử dụng tài sản. Thẩm quyền thành lý tài sản là nhà công trình do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định, các tài sản khác do Bộ trưởng Bộ chủ quản của đơn vị sự nghiệp quyết định. Việc thanh lý tài sản phải tổ chức thực hiện theo phương thức đấu giá và tiền thu được từ thanh lý tài sản phải nộp về ngân sách Nhà nước.
3. Một số nhận xét, đánh giá về cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
3.1. Những kết quả đạt được
3.1.1. Cơ chế chính sách quản lý tài sản công đã từng bước được xác lập hoàn chỉnh và bằng các văn bản quy phạm pháp luật là Nghị định của Chính phủ; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, quy chế của Bộ Tài chính, .. Hệ thống các quy tắc, quy định, quy chế, chế độ quản lý đã bao quát từ khâu đầu tư, mua sắm đến quá trình quản lý sử dụng và cuối cùng là thu hồi, thanh xử lý tài sản không có nhu cầu sử dụng hoặc không còn sử dụng được. Cơ chế quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp thực sự trở thành cơ sở pháp lý cơ bản để cơ quan chức năng có căn cứ bố trí kinh phí cho đầu tư, mua sắm tài sản công, chính quyền các cấp, các cơ quan có trách nhiệm quản lý nắm được số lượng và giá trị tài sản công đang được sử dụng trong các đơn vị sự nghiệp và biến động trong từng năm; là căn cứ để các cơ quan, đơn vị thực hiện việc đầu tư trang bị, quản lý sử dụng và xử lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp, cũng như có căn cứ để kiểm tra, giám sát tình hình quản lý, sử dụng tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp. Đồng thời cũng xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các cơ quan và đơn vị trong việc quản lý, đầu tư, mua sắm, bố trí sử dụng và sửa chữa, bảo quản tài sản công được Nhà nước giao tại đơn vị sự nghiệp.
3.1.2. Từ cuộc tổng kiểm kê, đánh gía lại tài sản cố định trong khu vực hành chính sự nghiệp năm 1998 đến nay, các Bộ, ngành và địa phương đã trên cơ sở các quy tắc, quy định, quy chế, chế độ của nhà nước ban hành đã thực hiện kiểm tra giám sát việc đầu tư mua sắm các tài sản lớn như xây dựng trụ sở làm việc, mua ô tô của các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc Bộ, ngành và địa phương quản lý, chấn chỉnh những sai phạm, bảo đảm trụ sở làm việc mới xây dựng phù hợp với nhu cầu, định mức sử dụng và thể hiện tính tôn nghiêm, mỹ quan, môi trường của công sở. Tài sản công là phương tiện đi lại đã được mua sắm theo đúng tiêu chuẩn, định mức và đáp ứng nhu cầu công tác của các đơn vị. Việc quản lý về đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản thực hiện theo phương thức đấu thầu và qui định về mua sắm tài sản nhà nước bằng vốn Ngân sách nhà nước, có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý tài chính, của ngành Kho bạc nhà nước đã bảo đảm tiết kiện và hạn chế thất thoát khi mua sắm trang bị tài sản tại các đơn vị sự nghiệp.
3.1.3. Nhà đất là tài sản công lớn nhất trong khu vực hành chính sự nghiệp đã và đang quản lý về số lượng, giá trị và mục đích sử dụng tài sản thông qua việc đăng ký quản lý tài sản công là vơ sở nhà đất của từng cơ quan hành chính sự nghiệp với cơ quan tài chính để được cấp giấy chứng nhận quyền quản lý và sử dụng tài sản công. Đây là một trong những qui định để quản lý chặt chẽ các bất động sản của Nhà nước và một số nước đã làm như Trung Quốc, Pháp. Theo báo cáo của Bộ Tài chính tính đến cuối năm 2003, 61 địa phương trong cả nước đã triển khai công tác kê khai, đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền quản lý sử dụng nhà đất của các cơ quan sự nghiệp, trong đó một số địa phương đã hoàn thành như Hà Tây, Bình Dương, Vĩnh Long, Kiên Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp, An Giang, Bến Tre, Đồng Nai, Khánh Hoà, Cần Thơ, Sóc Trăng, Đà Nẵng, đối với khu vực quản lý nhà nước. Riêng Hà Tây đã hoàn thành kê khai đăng ký và cấp giấy chứng nhận cơ sở nhà đất cho tất cả cơ quan quản lý hành chính và các đơn vị sự nghiệp.
3.1.4. Nguồn tài sản công hiện có của các cơ quan hành chính sự nghiệp đã và đang được bố trí, khai thác có hiệu quả hơn; thông qua qui định về điều chuyển tài sản từ các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp khi không có nhu cầu sử dụng sang các cơ quan đơn vị có nhu cầu sử dụng, hoặc điều chuyển tài sản công từ các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp thuộc Trung ương quản lý cho các địa phương sử dụng. Kết quả trong 5 năm qua, cơ quan Quản lý công sản các cấp đã trình cấp có thẩm quyền và giải quyết điều chuyển tài sản từ nơi thừa sang nơi thiếu với tổng giá trị tài sản là 769,9 tỷ đồng, trong đó: Điều chuyển 1.255 xe ô tô có giá trị 88,4 tỷ đồng; Điều chuyển 223 xe mô tô gắn máy 2 bánh tương đương 2,3 tỷ đồng; Điều chuyển nhà đất thuộc trụ sở làm việc với tổng diện tích đất là 5,2 triệu m2 đất và 578 nghìn m2 nhà với tổng nguyên giá 273,7 tỷ đồng.
3.1.5 Việc xử lý thanh lý tài sản tại các đơn vị sự nghiệp cũng đã được quan tâm và thực hiện kịp thời khi tài sản đã hư hỏng hoặc không còn sử dụng được, từ đó bảo đảm kịp thời cho việc giải phóng mặt bằng thực hiện đầu tư xây dựng, đã hạn chế bớt những thất thoát, lãng phí do để tài sản không thanh lý, tận thu được tiền về ngân sách nhà nước hoặc tăng thêm nguồn kinh phí để sử dụng bảo dưỡng, sửa chữa tài sản công tại đơn vị. Trong 5 năm qua, các đơn vị sự nghiệp đã chủ động đề nghị và cơ quan tài chính các cấp đã cùng với các ngành thẩm định và tổ chức thanh lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp một cách công khai, đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước, tránh tình trạng tuỳ tiện trong thanh lý tài sản và kịp thời nộp đủ số tiền thanh lý tài sản vào Ngân sách nhà nước. Theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ của các địa phương, trong 5 năm, số tài sản đã thực hiện thanh lý, gồm: 129,5 nghìn m2 nhà; 732 xe ô tô không còn xử dụng được và 1.421 xe gắn máy và nhiều tài sản khác; số tiền thu từ thanh lý tài sản đã nộp Ngân sách nhà nước là 206,6 tỷ đồng (của các đơn vị hành chính sự nghiệp).
3.1.6. Việc kiểm tra, kiểm soát và quản lý sử dụng tài sản tại các đơn vị sự nghiệp tài sản đã được nâng cao và từng bước đi vào nề nếp. Căn cứ các nguyên tắc, quy chế xử lý đã được quy định, nhiều đơn vị sự nghiệp đã xây dựng quy chế quản lý sử dụng cụ thể đối với tài sản công tại đơn vị, gắn trách nhiệm với khen thưởng xử phạt trong quản lý sử dụng đã phàn lớn hạn chế được việc sử dụng lãng phí và để thất thoát tài sản; đồng thời sắp xếp nơi làm việc tiết kiệm để rút ra quĩ nhà đất dôi dư lập phương án điều chuyển hoặc xử lý bán theo quy định để sử dụng tiền thu từ bán, chuyển nhượng tài sản thực hiện đầu tễnây dựg hoặc mua sắm tài sản mới theo dự án được duyệt. Riêng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, với việc sắp xếp lại nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước theo Quyết định số 80/2001/QĐ-TTg ngày 24/5/2001, các cơ quan, đơn vị đã rút ra quỹ nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước dôi dư có thể đưa ra bán đấu giá trên 500 nghìn m2 nhà, 847,5 nghìn m2 đất. Kết quả này không chỉ giảm bớt kinh phí để mua sắm cho các đơn vị sự nghiệp nói riêng, mà còn góp phần khai thác, sử dụng có hiệu quả và chống lãng phí tài sản nhà nước; tạo nguồn kinh phí cho việc trang cấp tài sản mới cho các đơn vị.
Công tác quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp đạt được những kết quả trên đây trước hết là Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định tài sản công là nguồn nội lực và là điều kiện vật chất để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hoá thông tin… Từ đó chính sách, cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp đã từng bước được đổi mới cho phù hợp với yêu cầu thực hiện chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học, công nghệ, y tế, văn hoá thông tin… và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội trong giai đoạn nước ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển nền kinh tế thị trường có sử quản lý của Nhà nước.
3.2. Một số hạn chế trong cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự ghiệp
Bên cạnh những kết quả đã đạt được trên đây, Cơ chế quản lý và công tác quản lý, sử dụng tài sản công khu vực hành chính sự nghiệp đang còn có những hạn chế chưa đáp ứng kịp yêu cầu đổi mới về quản lý tài sản công của Đảng là: “Cần đổi mới công tác quản lý kinh tế đối với tài sản và tài nguyên quốc gia thuộc sở hữu Nhà nước theo phương châm khắc phục bằng được các kẽ hở trong công tác quản lý. Đảm bảo mọi tài sản của Nhà nước đều có người chịu trách nhiệm bảo vệ, sử dụng, phát triển”, đó là:
3.2.1. Các thể chế quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp đã được ban hành với những nguyên tắc, quy định, quy chế cơ bản về trang cấp, đầu tư, mua sắm tài sản cũng như trong quá trình sử dụng tài sản và xử lý lý tài sản còn thiếu hoặc chưa phù hợp với yêu cầu đổi mới để pháp huy tối đa được các nguồn lực và sử dụng tiết kiện, hiệu quả tài sản phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp. Cơ chế quản lý tài sản công chưa quy định được nguyên tắc thẩm định mua sắm tài sản đã được Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 06/3/1998 quy định: “Bộ trưởng Bộ Tài chính thẩm định đưa vào dự toán chi Ngân sách Trung ương hàng năm về mua sắm phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc cho các cơ quan hành chính sự nghiệp thuộc Trung ương trình cấp có thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật về Ngân sách nhà nước”. Tương tự cấp tỉnh, Giám đốc Sở Tài chính thẩm định trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định đưa vào dự toán ngân sách địa phương hàng năm về mua sắm phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc cho các cơ quan hành chính sự nghiệp thuộc địa phương. Các nguồn kinh phí, tài sản để thực hiện trang cấp tài sản, cũng như các phương thức trang cấp tài sản còn hạn hẹp, chưa tạo điều kiện cho việc phát triển tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp.
3.2.2. Các đơn vị sự nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay đang áp dụng chung cơ chế quản lý tài sản cùng với cơ quan hành chính nhà nước, trong khi hoạt động của các đơn vị sự nghiệp đa dạng, tài sản công không chỉ để hoạt động cho công tác quản lý của đơn vị, mà còn sử dụng cho các hoạt động sự nghiệp công và được dùng vào sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động sự nghiệp có thu. Về hình thức sở hữu tài sản của các đơn vị sự nghiệp đã có những tài sản thuộc sở hữu chung, trong đó có sở hữu nhà nước, sở hữu tạp thể hoặc cá nhân. Điều đó dẫn đến cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn bị sự nghiệp chưa bao hàm các quan hệ về tài sản như phạm vi tài sản công trong đơn vị sự nghiệp đến đâu, nguyên tắc, quy trình, thủ tục chuyển dịch tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công sang các đơn vị sự nghiệp có thu, hoặc sang đơn vị sự nghiệp bán công; thẩm quyền của đơn vị sự nghiệp trong khâu đầu tư mua sắm tài sản và thanh lý tài sản khi không có nhu cầu sử dụng hoặc không còn sử dụng được, quyền của đơn vị sự nghiệp trong quá trình khai thác, sử dụng tài sản để tổ chức các hoạt động sự nghiệp không phải là sự nghiệp công như thế nào. Đây là những vấn đề phát sinh khi có chủ trương đổi mới các hoạt động sự nghiệp công theo hướng đa dạng hoá các hoạt động sự nghiệp.
3.2.3. Hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công làm căn cứ mua sắm trang bị tài sản còn quá ít, chưa đầy đủ. Các tài sản – thiết bị văn phòng như máy vi tính, bàn ghế, tủ làm việc chưa có tiêu chuẩn, định mức sử dụng, dẫn đến mua sắm không thống nhất giữa các đơn bị sự nghiệp và trang bị sử dụng trong các đơn vị sự nghiệp còn rất khác nhau và việc đầu tư xây dựng, mua sắm tài sản sử dụng còn lãng phí thất thoát về kinh phí đầu tư và dư thừa so với nhu cầu sử dụng theo tiêu chuẩn định mức do chưa có quy định
3.2.4. Các quy định về thẩm quyền quyết định mua sắm, xử lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp còn tập trung ở cấp Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng các Bộ ngành, chưa tạo điều kiện nâng câo tính tự chủ , chủ động cho thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, thủ trưởng các cấp quản lý dưới cấp Bộ; trình tự, thủ tục mua sắm, xử lý tài sản còn nhiều thủ tục hành chính, chưa đơn giản thuận tiện cho việc thực hiện điều chuyển, thanh lý tài sản.
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại
Những hạn chế và tồn tại về cơ chế và công tác quản lý tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp có nhiều nguyên nhân, song do các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
3.3.1. Sự nhận thức về lý luận và vận dụng kinh nghiệm quản lý của thế giới vào nước ta còn bị hạn chế, việc hiểu đúng về lý luật của chủ nghĩa Mác – Lê nin, cũng như vận dụng lý luận và các kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế giới vào xây dựng cơ chế quản lý tài sản công cho phù hợp với quy luật khách quan và điều kiện thực tế của Việt nam còn chưa sâu sắc, có những vấn đề về lý luận chưa được nghiên cứu sâu, đầy đủ, toàn diện hoặc hiểu chưa đúng; việc đưa lý luận đưa kinh nghiệm quản lý của một số nước trên thế giới vận dụng vào thực tiễn còn chưa đầy đủ, vừa làm vừa thử nghiệm, có khi làm thấy sai lại làm lại, v,vv.. Tuy nhiên trong hơn chục năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm quản lý của một số nước trên thế giới sâu sắc, đầy đủ hơn để phục vụ không chỉ cho công tác quản lý, mà còn cả cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và đã từng bước khắc phục được nguyên nhân hạn chế này, cơ sở quản lý tài sản công nói chung và quản lý tài sản công tại các đơn vị sự ghiệp đã có được cơ sở lý luận và kinh nghiệm để xây dựng và hoàn thiện để quản lý và thực hiện thống nhất.
3.3.2. Tài sản nhà nước nói chung và tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp nói riêng trong thời gian dài được quản lý và sử dụng theo cơ chế bao cấp. Nhà nước cấp cho các đơn vị sự nghiệp sử dụng theo yêu cầu và khả năng Ngân sách nhà nước bố trí cho đầu tư mua sắm tài sản, ngược lại các đơn vị trực tiếp quản lý và sử dụng tài sản chỉ chú ý khai thác sử dụng tài sản với mức tối đa và coi đây là chi phí tiêu dùng công cộng. Khi chuyển đối nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý nhà nước, các cơ chế quản lý, sử dụng tài sản công chưa gắn với công tác lập dự toán, cấp phát và quyết toán kinh phí mua sắm, sửa chữa tài sản của các đơn vị sự nghiệp. Các tồn tại về quản lý tài sản công từ cơ chế cũ không được khắc phục kịp thời như việc giao tài sản không phù hợp với chức năng nhiệm vụ hoặc chỉ quản lý tài sản về hiện vật, không quan tâm tới giá trị của tài sản.
3.3.3. Nhà nước, người chủ sở hữu tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, chưa thực hiện đầy đủ vai trò quản lý, kiểm tra, giám sát tình hình quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp và việc xử lý sai phạm trong quản lý sử dụng tài sản công chưa được thực hiện kiên quyết, như: cơ quan quản lý chưa theo dõi được đầy đủ kịp thời về số lượng và giá trị tài sản công đã đầu tư, mua sắm trang bị cho các đơn bị sự nghiệp trực tiếp quản lý sử dụng tài sản công; các vi phạm của các đơn vị sự nghiệp quản lý sử dụng tài sản công chưa được phát hiện và xử lý kịp thời, các trường hợp sai phạm đã có các văn bản chỉ đạo xử lý, nhưng cùng chưa được xử lý dứt điểm.
3.3.4. ý thức trách nhiệm của các ngành, các cấp, các địa phương và các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản công với nhiệm vụ quản lý tài sản công chưa cao, cụ thể:
- Các Bộ, ngành và địa phương chưa thực hiện đầy đủ vài trò quản lý nhà nước đối với tài sản công giao cho các đơn vị sự nghiệp thuộc ngành mình quản lý, như chưa tổ chức theo dõi chặt chẽ về số lượng và gía trị tài sản công của toàn ngành và địa phương, chưa kiểm tra, giám sát tình hình quản lý, sử dụng tài sản công của các đơn vị sự nghiệp do Bộ, ngành và địa phương quản lý, sử dụng.
- Các đơn vị trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản công tự do, tuỳ tiện trong việc bố trí sử dụng tài sản, chưa tự giác chấp hành đầy đủ chế độ báo cáo sự biến động của tài sản và thậm chí chưa tổ chức theo dõi về số lượng và giá trị của các tài sản được nhà nước giao.
3.3.5. Tổ chức bộ máy quản lý tài sản công chưa thành hệ thống nhất từ Trung ương đến địa phương; Năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý tài sản công trong các cơ quan được giao chức năng quản lý tài sản công, trong các cấp, các đơn vị sự nghiệp còn hạn chế về trình độ chuyên môn. Từ đó dẫn đến tình trạng thiếu tính thống nhất trong thực hiện các chế độ quản lý tài sản công và thực hiện các biện pháp cụ thể để quản lý tài sản công; hệ thống thông tin về tài sản công thiếu, không phục vụ kịp thời cho các công tác quản lý tài sản công.
Ngoài ra, sự phối hợp, kết hợp giữa các bộ phận chuyên môn của cơ quan tài chính trong việc quản lý tài sản công chưa có, từ đó thiếu sự hỗ trợ lẫn nhau trong việc theo dõi tình hình quản lý tài sản công của các đơn vị sự nghiệp và thiếu các chế tài buộc các đơn vị thực hiện đúng các chế độ quản lý tài sản công đã có và sử dụng tài sản công có hiệu quả, tiết kiệm.
Chương III
Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý
tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
1. Phương hướng và yêu cầu hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
1.1 Phương hướng hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
ở Việt Nam, Nhà nước ta là một chủ thể xã hội đặc biệt của xã hội. Sự ra đời và phát triển của Nhà nước gắn liền với sự xuất hiện của quốc gia. Nhà nước là người đại diện cho mọi thành viên của cộng đồng, do đó Nhà nước có chủ quyền đối với tài sản quốc gia, đồng thời là người đại diện chủ sở hữu của tài sản công. Nhà nước là chủ sở hữu tài sản của mọi tài sản công nhưng không phải là người trực tiếp sử dụng tài sản công; Nói một cách khác quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng tài sản không hoàn toàn gắn với nhau. Nhà nước thực hiện quản lý bằng cơ chế, thông qua thể chế và giao tài sản công cho các cơ quan, đơn vị sử dụng tài sản công để thực hiện mục tiêu. Để thực hiện vai trò chủ sở hữu tài sản công của mình, Nhà nước phải nâng cao chức năng quản lý Nhà nước đối với tài sản công để buộc mọi đơn vị được giao quyền sử dụng tài sản công phải bảo tồn, phát triển nguồn tài sản công và sử dụng tài sản công tiết kiệm và có hiệu quả để phục vụ sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo vệ được môi trường môi sinh. Đồng thời Nhà nước phải thực hiện vai trò kiểm tra, kiểm soát các quá trình hình thành, sử dụng, khai thác và xử lý tài sản công để bảo đảm việc quản lý sử dụng tài sản công trong từng đơn vị đúng với thể chế của Nhà nước đã định ra.
Để bảo đảm thực hiện sự quản lý của Nhà nước đối với các quá trình hình thành phát triển, khai thác sử dụng và kết thúc của các tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, trong quá trình xây dựng hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp được quán triệt theo các phương hướng sau đây:
Thứ nhất: Xây dựng hoàn thiện thể chế về quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Đây là một hình thức quản lý Nhà nước và một biện pháp hàng đầu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Thông qua thể chế bao gồm các quy tắc, quy định, quy chế, ... , Nhà nước mới buộc mọi cơ quan, đơn vị sự nghiệp sử dụng tài sản công theo pháp luật, đúng ý chí của Nhà nước - người chủ sở hữu tài sản công. Bằng các văn bản quy phạm pháp luật quy định về trang cấp tài sản công, các quy tắc quản lý, sử dụng và chế độ xử lý tài sản công buộc mọi đối tượng quản lý cũng như đối tượng sử dụng tài sản công phải tuân thủ.
Thứ hai: Tăng cường sử dụng các công cụ và biện pháp kinh tế để quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Công cụ kinh tế để quản lý tài sản công bao gồm hệ thống kế hoạch hoá và hệ thống đòn bẩy kinh tế như giá cả, tài chính, thuế, tín dụng... Trong đó các cơ chế tài chính có vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy sự hình thành và phát triển tài sản công, khai thác, sử dụng tài sản công tiết kiệm và có hiệu quả, đặc biệt là công cụ ngân sách, kế toán và thuế và các biện pháp kinh tế gắn với việc sử dụng và xử lý tài sản.
Thứ ba: Phân định, xác định rõ phạm vi, nội dung và trách nhiệm quyền hạn quản lý, sử dụng giữa cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước với cơ quan trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản gắn với đẩy mạnh phân cấp thẩm quyền. Như chúng ta đều biết quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản công thường là tách khỏi nhau, nhưng lại dễ đan xen với nhau; do đó, cần phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền để bảo đảm việc quản lý, sử dụng tài sản công tránh lãng phí, thất thoát, đồng thời đẩy mạnh việc phân cấp thẩm quyền trong đầu tư, mua sắm, sử dụng, xử lý trong công tác quản lý sử dụng tài sản sẽ góp phần nâng cao được hiệu quả sử dụng tài sản để phục vụ các hoạt động sự nghiệp.
Thứ tư: Đẩy mạnh và đa dạng các biện pháp, hình thức kiểm tra, giám sát và chế tài xử lý vi phạm trong việc quản lý, sử dụng tài sản tại các đơn vị sự nghiệp. Nhà nước không chỉ thực hiện quyền sở hữu tài sản công bằng pháp luật và cơ chế chính sách mà còn phải có cơ chế, biện pháp kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm để bảo đảm cho việc quản lý, sử dụng đúng với cơ chế chính sách đã qui định, từ đó thiết lập nguyên tắc quản lý, xử dụng và xử lý tài sản thống nhất trong tất cả các đơn vị sự nghiệp và bảo đảm cho việc sử dụng tài sản công phục vụ đúng các mục tiêu đã dề ra.
Thứ năm: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp. Nói đến cơ cấu tổ chức để quản lý tài sản công trước hết phải nói đến hệ thống cơ quan quản lý tài sản công và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan quản lý tài sản công. Để quản lý tài sản công trong một quốc gia thì cơ quan quản lý tài sản công phải được xây dựng thành một hệ thống từ Trung ương đến địa phương và trong từng đơn vị, với điều kiện vật chất, con người đầy đủ và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn hoàn thiện để đủ điều kiện và năng lực thực hiện quản lý. Mặt khác trong mỗi cơ quan sự nghiệp cũng cần có bộ phận quản lý tài sản công với cán bộ có năng lực chuyên môn và chức năng nhiệm vụ cụ thể để bảo đảm thực hiện tốt việc quản lý tài sản công tại đơn vị.
1.2. Yêu cầu nhiệm vụ hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
Trên cơ sở các phương hướng hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp nêu trên, việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phải bảo đảm những yêu cầu nhiệm vụ sau:
Một là, thực hiện đầu tư, duy trì và phát triển tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp là thiết thực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như chúng ta đều biết, tài sản công là điều kiện vật chất không thể thiếu được phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế – xã hội, trong đó có các hoạt động sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ, văn hoá thông tin. Sự phát triển các hoạt động sự nghiệp này là nền tảng và động lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã khẳng định: “cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế – xã hội, là điều kiện cần thiết giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học - công nghệ”. Một trong các giải pháp để phát triển các hoạt động sự nghiệp này là phải tăng đầu tư cho giáo dục - đào tạo, khoa học công nghệ và các hoạt động sự nghiệp khác, trong đó có đầu tư để duy trì và phát triển tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp. Theo quan điểm này, cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp vừa phải bảo đảm giành vốn Ngân sách nhà nước để đầu tư, mua sắm tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp, vừa phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn cho đầu tư để duy trì, phát triển tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp có hiệu quả và tiết kiệm.
Hai là, cơ chế quản lý tài sản công phải được thể chế đầy đủ các quy tắc, quy định, quy chế, ... bằng các văn bản quy phạm pháp luật để làm căn cứ pháp lý cho các tổ chức, đơn vị thực hiện việc quản lý, sử dụng, xử lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp.
Ba là, xây dựng cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính của các đơn vị sự nghiệp. Theo tinh thần Nghị quyết của đại hội lần thứ IX của Đảng, cải cách cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp là một trong các nội dung cụ thể trong tổng thể về cải cách tài chính. Đối với các đơn vị sự nghiệp từng bước phải chuyển từ chế độ tài chính của cơ quan hành chính sang cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu. Qui định về đổi mới cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu đã được quy định tại Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Do vậy, việc hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phải đảm bảo yêu cầu vừa quản lý các tài sản công không dùng vào sản xuất kinh doanh, vừa quản lý các tài sản công của đơn vị sự nghiệp được dùng vào sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ; đồng thời mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị trong việc mua sắm tài sản, sử dụng tài sản.
Năm là, lấy hiệu quả sử dụng tài sản phục vụ các hoạt động sự nghiệp làm thước đo của cơ cế quản lý. Tài sản công được hình thành chủ yếu từ việc đầu tư mua sắm tài sản bằng nguồn vốn Ngân sách nhà nước hoặc có nguồn gốc từ Ngân sách nhà nước. Do vậy, trang cấp tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp cũng có nghĩa là Ngân sách nhà nước giành kinh phí để đầu tư phát triển cho các hoạt động sự nghiệp. Nguồn vốn đầu tư này phải đảm bảo yêu cầu thiết thực và có hiệu quả hay nói cách khác là phải đầu tư mua sắm tài sản công đúng với yêu cầu, đúng với khả năng Ngân sách nhà nước và khi sử dụng tài sản phải có hiệu quả, tiết kiệm. Đặc biệt hiện nay nước ta đang thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì yêu cầu đặt ra đối với cơ chế quản lý tài sản công nói chung và quản lý tài sản công tại các đơn vị hành chính sự nghiệp phải thực hiện quản lý cả về hiện vật, giá trị và lấy hiệu quả trong quản lý và sử dụng tài sản công là thước đo chủ yếu để đáng giá.
2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp
2.1. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu và sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phù hợp với quá trình xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp.
Thứ nhất, là rà soát quĩ nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước đang giao cho các đơn vị sự nghiệp để bố trí sử dụng hợp lý tài sản công là nhà đất và chuyển nhượng quỹ nhà đất dư thừa cho các tổ chức, cá nhân ngoài nhà nước có nhu cầu về đất để phát triển sự nghiệp công cộng có mục đích kinh doanh hoặc dùng vào sản xuất kinh doanh theo luật pháp qui định, nhằm:
- Thực hiện chủ trương rà soát lại quỹ nhà đất của các cơ quan hành chính sự nghiệp được đề ra tại Nghị quyết Trung ương lần thứ 9 khoá IX của Đảng về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
- Mở rộng phạm vi áp dụng Quyết định số 80/2001/QĐ-CP ngày 24 tháng 5 năm 2001 về việc sắp xếp, bố trí lại toàn bộ quĩ nhà đất thuộc sở hữu trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã giao cho tất cả cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước có quỹ nhà đất dôi dư chuyển cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố bán nhà kèm theo chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo hình thức đấu giá.
- Đưa dần công tác quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp vào nề nếp, chế độ, tránh lãng phí tài sản, khắc phục tình trạng sử dụng tài sản công không đúng mục đích như hiện nay.
Thứ hai là chuyển một số đơn vị sự nghiệp công hoặc bán công sang các đơn vị sự nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp kinh doanh tại những nơi các thành phần kinh tế ngoài nhà nước có khả năng đầu tư vào lĩnh vực sự nghiệp, nhằm:
- Thực hiện chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, văn hoá thể thao của Đảng và Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất đặc biệt là mặt bằng cho tổ chức sự nghiệp của các thành phần kinh tế ngoài nhà nước, hiện có như giáo dục mầm non ngoài công lập có gần 6.000 cơ sở đảm bảo 62% số trẻ đến độ tuổi mầm non có nơi học, tổ chức hoạt động khoa học công nghệ ngoài khu vực nhà nước hiện có 395 tổ chức, chiếm gần 42%, y tế, thể thao hiện có 46 nhà tập thi đấu, 436 sân bóng đá lớn và 4167 sân bóng đá mini do tư nhân đầu tư và tiếp tục phát triển thêm.
- Phân định rõ chủ thể sở hữu và sử dụng tài sản phục vụ cho hoạt động sự nghiệp, từ đó xác định rõ trách nhiệm của người quản lý tài sản, tránh tình trạng cha chung không ai khóc trong việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp bán công.
- Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư vào các lĩnh vực cần đầu tư như các lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản, các đề án về đổi mới chất lượng giáo dục - đào tạo, nâng cấp các bệnh viện cấp tỉnh, các cơ sở khám chữa bệnh cơ sở, duy tu và phát triển văn hoá, nghệ thuật dân tộc và các lĩnh vực khác, các thành phần kinh tế ngoài nhà nước không đầu tư được.
- Trong những năm gần đây Ngân sách nhà nước đã cố gắng tăng tỷ lệ chi cho đầu tư về giáo dục - đào tạo, khoa học – công nghệ, y tế, thể thao văn hoá, song do đầu tư Ngân sách nhà nước phân tán cho nhiều lĩnh vực, nên chi cho các hoạt động dự nghiệp này vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Trong điều kiện này, chuyển hoạt động sự nghiệp công thành hoạt động sự nghiệp do các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đảm nhiệm thì mới huy động vốn đầu tư cho lĩnh vực hoạt động sự nghiệp.
- Các thành phần kinh tế ngoài nhà nước đầu tư vào các lĩnh vực hoạt động sự nghiệp, sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các đơn vị sự nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng các dịch vụ sự nghiệp, đảm bảo quyền lợi cho mọi người trong xã hội được hưởng các dịch vụ công với chất lượng cao.
2.2. Mở rộng các phương thức trang cấp và nguồn vốn đầu tư, mua sắm tài sản cho các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Thứ nhất là bổ sung việc trang cấp tài sản tại các đơn vị sự nghiệp theo phuơng thức tiếp nhận tài sản từ nguồn tài sản tịch thu sung quỹ nhà nước, tài sản được xác lập sở hữu nhà nước và tài sản của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tặng cho.
Thứ hai là bổ sung thêm nguồn vốn, tài sản để trang cấp tài sản cho các đơn vị sự nghiệp từ nguồn quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp và khấu hao tài sản từ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị sự nghiệp; từ nguồn thu sự nghiệp của đơn vị được phép sử dụng; từ nguồn tiền thu bán, chuyển nhượng, thanh lý tài sản công tại đơn vị.
Giải pháp này sẽ huy động thêm được các nguồn tài sản, nguồn kinh phí bổ sung cho việc đầu tư, đổi mới, nâng cấp tài sản công hiện có trong các đơn vị sự nghiệp không những tăng thêm về số lượng, mà còn nâng cao về chất lượng theo hướng hiện đại hóa từng bước để bảo đảm phục vụ cho các hoạt động sự nghiệp ở mỗi đơn vị sự nghiệp nói riêng và lĩnh vực hoạt động sự nghiệp nói chung.
2.3. Hoàn thiện, bổ sung một số tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp để làm căn cứ đầu tư, mua sắm cũng như quản lý, sử dụng tài sản công, với các giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất là hoàn thiện tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công giao cho các đơn vị sự nghiệp trực tiếp quản lý, sử dụng, trước hết là tài sản là nhà đất, phương tiện vận tải đi lại và các tài sản thiết bị làm việc phục vụ cho công tác, các hoạt động sự nghiệp của đơn vị sự nghiệp đã được Nhà nước quy định cho phù hợp với yêu cầu công tác và sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như mục tiêu phát triển hoạt động sự nghiệp của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp công là căn cứ để đầu tư, mua sắm và trang bị tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp công; đồng thời là thước đo để đánh giá việc sử dụng tài sản công của từng đơn vị tiết kiệm hay lãng phí, vì theo pháp lệnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, “ tiết kiệm là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và nguồn lực khác ở thấp hơn định mức, tiêu chuẩn, chế độ qui định nhưng vẫn đạt được mục tiêu đã xác định hoặc sử dụng đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ qui định nhưng đạt hiệu quả cao hơn mục tiêu đã xác định. Lãng phí là sử dụng nguồn lực tài chính, lao động và các nguồn lực khác vượt quá định mức, tiêu chuẩn, chế độ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định hoặc sử dụng đúng mục đích, tiêu chuẩn, chế độ nhưng chất lượng đạt thấp hơn hoặc không đúng mục tiêu đã xác định. “. Ngoài ra tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công còn là công cụ để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc sử dụng tài sản công của các đơn vị, cá nhân trong các đơn vị sự nghiệp công.
Thứ hai là xây dựng bổ sung những tiêu chuẩn, định mức sử dụng nhà, đất dùng cho các hoạt động sự nghiệp công chưa được qui định, như: trường học, bệnh viện, các cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ, các nhà biểu diễn nghệ thuật, nhà tập hoặc thi đấu thể thao, nhà bảo tồn, thư viện ….; tiêu chuẩn, định mức trang bị các phương tiện vận tải chuyên dùng; một số trang thết bị làm việc cần thiết cho tất cả cán bộ như bàn ghế làm việc, máy vi tính, phương tiện thông tin, giá để hồ sơ làm việc… Tiêu chuẩn, định mức trang bị phương tiện làm việc này phải qui định cụ thể về chủng loại tài sản, qui cách và chất lượng của tài sản nhằm thống nhất trang bị tài sản trong tất cả các đơn vị sự nghiệp công, tránh tình trạng tuỳ tiện trong mua sắm tài sản gây lãng phí và bất công bằng giữa các ơn vị sự nghiệp cùng có chúc năng nhiệm vụ thực hiện như nhau và giữa cán bộ công chức làm việc ở các đơn vị khác nhau.
Để tiêu chuẩn, định mức sử dụng nhà đất phù hợp với hoạt động sự nghiệp, cũng như có tính thống nhất, tính khả thi cao, việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp cần được tập trung vào các tài sản có giá trị lớn và những tài sản công có thể qui định mức chung cho tất cả đối tượng sử dụng được. Khi xây dựng tiêu chuẩn định mức sử dụng phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động và đối tượng phục vụ của từng lĩnh vực như trường học căn cứ cấp bậc của trường, số lượng học sinh để qui định qui mô, diện tích đất khuôn viên, diện tích sàn xây dựng và cơ cấu phòng học, phòng thực nghiệm, phòng thư viện, phòng giáo viên…, đối với bệnh viện đối tượng bệnh nhân phục vụ, số lượng bệnh nhân điều trị, khám chữa bệnh tại bệnh viện, cấp bệnh viện.; căn cứ vào khả năng của Ngân sách nhà nước; vào sự phát triển của khoa học công nghệ; vào đặc điểm của loại hình hoạt động sự nghiệp thực hiện, ,.v.vv
2.4. Thực hiện phân cấp thẩm quyền gắn với trách nhiệm thủ trưởng đơn vị sự nghiệp trong việc quyết định, định đoạt tài sản công tại đơn vị theo qui chế thống nhất về quản lý tài sản công của Nhà nước tại các đơn vị sự nghiệp.
Giao quyền cho thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp có thu tự cân đối nguồn kinh phí và quyết định đầu tư, mua sắm tài sản phục vụ cho các hoạt động của đơn vị và được quyết định xử lý tài sản công tại đơn vị đối với một số loại tài sản. Thủ trưởng các Bộ, ngành và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ quyết định đầu tư, mua sắm trang bị tài sản lần đầu cho các đơn vị sự nghiệp khi mới thành lập hoặc chuyển từ đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu sang đơn vị sự nghiệp có thu và quyết định xử lý đối với những tài sản là bất động sản tại đơn vị sự nghiệp. Giải pháp này để tạo tính chủ động trong việc đầu tư xây dựng, sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản công, nâng cao ý thức trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp thực hiện việc tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý sử dụng tài sản công. Đồng thời:
- Tạo tiền đề cho các đơn vị sự nghiệp có thu chuyển sang các doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm công ích, trước hết là các tổ chức khoa học và công nghệ nghiên cứu phát triển.
- Phù hợp với cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu, các đơn vị được dùng nguồn khấu hao tài sản cố định mà nhà nước để lại cho đơn vị, quĩ phát triển hoạt động sự nghiệp và nguồn thu từ thanh lý tài sản để đầu tư, mua sắm tài sản.
- Các đơn vị sự nghiệp tự quyết định mua sắm tài sản buộc các đơn vị phải tính toán sát với nhu cầu sử dụng tài sản phục vụ cho hoạt động của đơn vị mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình, hạn chế tình trạng mua sắm tài sản không thật cần thiết do hậu quả từ cơ chế “xin cho” do Ngân sách Nhà nước trang cấp toàn bộ tài sản cho đơn vị sự nghiệp.
- Khi các đơn vị sự nghiệp tự cân đối nguồn kinh phí để mua sắm tài sản, Ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ một phần (nếu có) sẽ buộc các đơn vị sự nghiệp phải sử dụng tài sản có hiệu quả và thực hiện nghiêm chế độ thanh lý tài sản đối với tài sản không còn sử dụng được để tận dụng các tài sản hiện có.
2.5. Cho phép các đơn vị sự nghiệp có thu được quyền quyết định sử dụng một phần tài sản công tại đơn vị vào mục đích sản xuất cung ứng dịch vụ, kể cả góp vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức khác
Giải pháp này nhằm nâng cao tính tự chủ về sử dụng tài sản của đơn vị và thu hút các thành phần kinh tế, kể cả các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào các hoạt động sự nghiệp, đặc biệt là sự nghiệp đào tạo – giáo dục và khoa học – công nghệ, cụ thể là:
- Thủ trưởng, đơn vị sự nghiệp có quyền quyết định điều động tài sản công không sản xuất cung cấp dịch vụ sang tài sản công dùng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ hoặc góp vốn liên doanh, nhưng phải đăng ký với cơ quan quản lý cấp trên và cơ quan quản lý tài sản công về số lượng, giá trị tài sản dùng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ, góp vốn liên doanh và thực hiện trích khấu hao tài sản cố định theo chế độ quản lý, sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp.
- Trường hợp sử dụng đất được giao không thu tiền sử dụng đất vào sản xuất, cung ứng dịch vụ, góp vốn liên doanh, đơn vị sự nghiệp phải thực hiện thuê đất của Nhà nước theo Luật đất đai.
2.6. Các đơn vị sự nghiệp có thu được sử dụng tài sản công chuyển sang sản xuất, cung ứng dịch vụ để thế chấp vay tín dụng ngân hàng hoặc quĩ hỗ trợ phát triển để mở rộng nâng cao hoạt động sự nghiệp bằng giá trị tài sản công dùng vào sản xuất, cung ứng dịch vụ.
Giải pháp này nhằm tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp có tài sản thế chấp vay vốn của các tổ chức tín dụng để mở rộng để nâng cao hoạt động sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp bằng vốn vay tín dụng ngân hàng hoặc quĩ hỗ trợ phát triển đã được qui định tại Điều 3 Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16 tháng 01 năm 2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
2.7. Hình thành tổ chức thống nhất đầu tư, mua sắm tài sản công cho các đơn vị sự nghiệp hoạt động theo cơ chế của đơn vị sự nghiệp hoặc công ty mua bán tài sản công của Nhà nước, nhằm:
- Thực hiện trang bị cho các đơn vị có nhu cầu sử dụng tài sản công theo tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản do Nhà nước quy định, trước mắt áp dụng hình thức cấp tài sản, về lâu dài cho thuê tài sản.
- Tổ chức mua tài sản công theo hình thức đấu thầu hoặc ký hợp đồng cung cấp tài sản với các tổ chức kinh tế được giao nhiệm vụ sản xuất cung cấp hàng hoá cho các cơ quan nhà nước.
- Tổ chức bán tài sản công đối với các tài sản không còn nhu cầu sử dụng hoặc không còn sử dụng được.
Tập trung đầu tư, mua sắm tài sản cho các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp và một số tổ chức kinh tế nhà nước đã được một số nước áp dụng như Malaysia, Hàn Quốc, Pháp, Canada. Với mô hình này, việc trang bị tài sản công cho các cơ quan hành chính sự nghiệp đảm bảo tính thống nhất và tập trung, các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp không phải thực hiện công việc ngoài chức năng, nhiệm vụ của mình là đầu tư mua sắm tài sản. Mặt khác giao cho tổ chức kinh tế chuyên có chức năng kinh doanh để đầu tư, mua sắm và cung cấp tài sản cho tất cả các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp sẽ góp phần giảm chi phí đầu tư, mua sắm tài sản công cho Nhà nước nói chung và cho từng cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp nói riêng.
2.8. Các đơn vị sự nghiệp được sử dụng nhà, đất của Nhà nước vào sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ công phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước hoặc Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất quy định tại Luật Đất đai 2003, nhằm:
- Thực hiện thống nhất chế độ sử dụng đất làm mặt bằng xây dựng trụ sở sản xuất quy định tại Điều 93 Luật Đất đai. Theo Điều này, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh được lựa chọn hình thức nhận đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất của Nhà nước.
- Tạo điều kiện chủ động sử dụng đất cùng với tài sản trên đấy cho các đơn vị sự nghiệp, bởi vì nếu đơn vị sự nghiệp nhận đất có nộp tiền sử dụng đất sẽ có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp, góp vốn liên doanh; đồng thời buộc các đơn vị sự nghiệp sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ đất được giao hoặc được thuê.
- Góp phần thực hiện chủ trương của đảng ta là chủ động phát triển thị trường bất động sản, bao gồm thị trường quyền sử dụng đất đã được đề ra tại Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 Khoá IX của Đảng và Luật Đất đai 2003.
Tuy nhiên khi giao đất có thu tiền hoặc cho thuê đất dùng vào sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ công, Nhà nước cũng có chế độ miễn giảm tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất theo chế độ miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất như trường hợp sử dụng đất vào mục đích sản xuất, kinh doanh thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư, bởi lẽ:
Thứ nhất, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh hoặc cung ứng dịch vụ công của các đơn vị sự nghiệp đều phải gắn với các hoạt động sự nghiệp cần phải phát triển phục vụ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ hai, trong quá trình cải cách hành chính, chru trương của Nhà nước khuyến khích việc chuyển từ đơn vị sự nghiệp công sang đơn vị sự nghiệp có thu hoặc chuyển sang hoạt động doanh nghiệp. Giảm, miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất cũng là chính sách ưu đãi về đất đai để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công sang đơn vị sự nghiệp có thu hoặc doanh nghiệp.
Để đẩy nhanh qúa trình chuyển dịch các hoạt động sự nghiệp công sang các đơn vị sự nghiệp có thu và doanh nghiệp, công tác quản lý công sản của ngành Tài chính, cơ quan quản lý tài sản công cần phải thực hiện tốt một số biện pháp sau:
Thứ nhất là khẩn trương nghiên cứu xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền ban hành Quy chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, quy định, chế độ về chuyển dịch tài sản công sang lĩnh vực sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ cho phù hợp với yêu cầu đổi mới và thể chế các giải pháp thích hợp.
Thứ hai là cơ quan quản lý tài sản công phải đảm nhận vai trò đại diện sở hữu nhà nước về số vốn là tài sản công chuyển sang sản xuất kinh doanh hoặc dịch vụ công trong việc theo dõi, kiểm tra số vốn cũng như thu nhập từ vốn tài sản công chuyển sang kinh doanh, chuyển giao cho cơ quan quản lý tài chính doanh nghiệp, số tài sản của các đơn vị sự nghiệp chuyển sang doanh nghiệp nhà nước và thực hiện chuyển nhượng tài sản công của đơn vị sự nghiệp khi chuyển thành doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba là nghiên cứu và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập Trung tâm Tư vấn, dịch vụ về tài sản và bất động sản thuộc cơ quan Tài chính hoặc ủy ban nhân dân cấp tỉnh để:
- Định giá các tài sản công của các đơn vị sự nghiệp theo yêu cầu của Nhà nước, để xác định giá trị tài sản công trong các đơn vị sự nghiệp hoặc khi thực hiện chuyển nhượng, chuyển dịch tài sản công.
- Cung cấp thông tin về tài sản công của các đơn vị sự nghiệp dự kiến chuyển dịch sang doanh nghiệp tư nhân để các tổ chức, cá nhân nghiên cứu đầu tư.
- Tổ chức duy trì bảo dưỡng các tài sản công chưa giao cho tổ chức nào sử dụng.
- Tổ chức thực hiện bán đấu giá tài sản công tại các cơ quan sự nghiệp khi được phép bán hoặc thanh lý tài sản.
kết luận
Tài sản công – tài sản của một quốc gia – nguồn tài sản được hình thành và tích luỹ trong quá trình dựng nước và giữ nước của cả một dân tộc. Tài sản công vừa là nguồn tài sản thiêng liêng, vừa là sức mạnh tiềm năng của một quốc gia, tài sản công nói chung và tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp nói riêng giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước.Tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp là một bộ phận quan trọng của tài sản công trong khu vực hành chính sự nghiệp, là cơ sở vật chất quan trọng cho các hoạt động sự nghiệp nhằm cung cấp các dịch vụ công phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ khi đổi mới đất nước đến nay, Nhà nước luôn giành một phần Ngân sách nhà nước đầu tư, mua sắm tài sản cho các đơn vị sự nghiệp, nhờ đó tài sản công trong khu vực sự nghiệp không ngừng tăng lên. Từ đó công tác quản lý tài sản công trở thành một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về công sản và tài nguyên quốc gia thuộc sở hữu nhà nước. Đề tài này tập trung nghiên cứu những vấn đề chung về tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp, việc quản lý tài sản công ở một số nước nhằm rút ra một số kinh nghiệm vận dụng vào Việt Nam, đánh giá thực trạng việc quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp trong thời gian qua và nhìn nhận những kết quả đã đạt được, cũng như những hạn chế tồn tại trong cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp hiện đang thực hiện; Từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp phù hợp với quan điểm đổi mới, chủ trương cải cách của Đảng và Chính phủ đã đề ra, nhằm nâng cao và phát huy nguồn tài sản công là cơ sở vật chất tại các đơn vị sự nghiệp có hiệu quả cao nhất trong lĩnh vực hoạt động sự nghiệp nói riêng và đóng góp một phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của đất nước./.
Tài liệu tham khảo
1-
Bộ luật Dân sự 28/10/1995 của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2-
Luật Đất đai 2003
3-
Văn kiện Đại hội VIII, Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam
4-
Nghị quyết Trung ương 2 và Nghị quyết Trung ương 5 Khoá VIII của Đảng
5-
Nghị định 14/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý tài sản nhà nước
6-
Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
7-
Quyết định 122/1999/ ngày 10/5/1999 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành tiêu chuẩn định mức sử dụng xe ô tô
8-
Thông tư 25/2002/TT-BTC ngày 21/3/2002 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu.
9-
Quyết định số 106 về cải cách hành chính
10-
Bộ Tài chính – Văn bản pháp quy về cơ chế tài chính áp dụng cho các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp. NXB Thống kê tháng 5/2003.
11-
Bộ Nội vụ, Viện Khoa học tổ chức Nhà nước “Dịch vụ công và xã hội hoá dịch vụ công. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. NXB Chính trị Quốc gia 2004
12-
Báo cáo tình hình tài sản công tại các đơn vị hành chính sự nghiệp
13-
Tổng cục Thống kê – Niên giám thống kê 2002
14-
Chủ tịch Hồ Chí Minh vấn đề tài chính – NXB Sự thật 1989
15-
Ngân hàng Thế giới – Các hệ thống tài chính và phát triển. NXB Giao thông 1998
16-
Bộ Tài chính – Tổng kết 5 năm công tác quản lý tài sản nhà nước theo Nghị định số 14/1998/NĐ-CP về quản lý tài sản nhà nước (1998 – 2002). Tháng 5/2003
17-
Bộ Tài chính – Báo cáo sơ kết tình hình thực hiện Nghị định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/01/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu. Tháng 6/2003
18-
Cục Quản lý công sản – Các báo cáo kết quả khảo sát về công tác quản lý công sản tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Pháp, Canada và Đức.
19-
Một số vấn đề về pháp luật, chính sách đất đai của Trung Quốc. Tháng 9/2002
20-
TSKH Phan Xuân Trường “Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”. NXB Chính trị Quốc gia - 2004
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33932.doc