Luận văn Hoàn thiện công tác hoàn thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng trên địa bàn Thành Phố Hà Nội

Nếu công tác quản lý thu thuế nhằm hướng tới một mục đích thống nhất là đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời vào NSNN thì hoàn thuế lại phải giải quyết hài hòa hai yêu cầu có xu hướng trái chiều nhau là, vừa hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp, vừa không làm thất thu NSNN. Bởi vậy, hoàn thuế GTGT về mặt chính sách và thực tiễn là vấn đề chúng ta vẫn đang loay hoay, trăn trở đi tìm giải pháp hữu hiệu nhất. Cùng với những nghiên cứu sửa đổi cho ngày càng phù hợp và những kinh nghiệm tích lũy được, chúng ta đang tiến dần đến sự hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên, để nắm bắt thực trạng các vấn đề và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện không phải là vấn đề đơn giản. Bởi công tác quản lý thuế nói chung và hoàn thuế GTGT nói riêng liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể trong nền kinh tế xã hội.

doc62 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1557 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác hoàn thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng trên địa bàn Thành Phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u ra, số thuế đầu vào được khấu trừ với số thuế đầu vào lớn hơn đầu ra đề nghị hoàn lại là đủ. Phòng quản lý thu sau khi tiếp nhận hồ sơ, trên cơ sở kiểm tra tính đầy đủ của các yêu cầu trên, sẽ đề nghị lãnh đạo cục ra quyết định hoàn thuế. Cơ chế này đã tạo thuận lợi rút ngắn thời gian thủ tục giải quyết hoàn thuế cho các doanh nghiệp nhưng cũng là kẽ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Một số doanh nghiệp xuất khẩu nông lâm thủy sản đã dựa vào cơ chế này để gian lận tiền hoàn thuế GTGT của nhà nước. Bằng việc cấu kết với bên nước ngoài lập hợp đồng kinh tế, hóa đơn GTGT, chứng từ thanh toán khống và mua chuộc hải quan khi xuất hàng qua cửa khẩu, các doanh nghiệp xuất khẩu có thể hoàn tất hồ sơ hoàn thuế để chiếm đoạt tiền của NSNN. Nhằm hạn chế sự vi phạm này, thông tư 82/2002/TT-BTC ngày 18/09/2002 đã bổ sung một số yêu cầu về hồ sơ hoàn thuế. Căn cứ vào quy định mới này, rất nhiều hồ sơ đề nghị hoàn thuế đã bị trả lại không được xét hoàn thuế vì những nguyên nhân sau: Số liệu kê khai giữa tờ khai và công văn xin hoàn thuế không khớp. Không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hoạt động xuất khẩu. Tại các đơn vị xây dựng, không bóc tách được đầu vào của hóa đơn mua nguyên vật liệu tại Hà Nội nhưng lại xuất dùng cho các công trình ở nơi khác. Đơn vị kê khai nhầm cả số thuế đã nộp ở kỳ sau vào đầu vào của kỳ trước. Việc hoàn thuế GTGT cho chủ dự án, nhà thầu chính, do thời gian giữa các lần thanh toán định kỳ thường dài, các đơn vị rất hay mắc sai lầm trong kê khai số thuế đầu vào và đầu ra phát sinh trong tháng. Sai lầm thường thấy là kê khai trùng giữa các tháng, hóa đơn phát sinh cách nhau 4 tháng lại xếp cùng vào một hồ sơ hoàn thuế… Cũng theo tinh thần của thông tư 82, công tác hoàn thuế năm 2002 đã được tiến hành theo quy trình mới, phân loại đối tượng hoàn thuế để quyết định phương thức “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” hay “kiểm tra thanh tra trước khi hoàn thuế”. Các điều kiện để phân loại đối tượng hoàn thuế đã nêu ở chương I. Những quy định này đã có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy ý thức tự giác và nâng cao trách nhiệm của cả doanh nghiệp và cơ quan thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Việc phân loại đã tạo điều kiện kiểm tra, rà soát kỹ lưỡng, phát hiện sớm các vi phạm đã khiến cho số hồ sơ giải quyết hoàn thuế năm 2002 giảm hẳn so với năm trước. Trước đây với quy định thống nhất một cơ chế hậu kiểm thì doanh nghiệp chịu trách nhiệm pháp lý cao trong việc xác lập hồ sơ hoàn thuế. Nếu xảy ra gian lận, doanh nghiệp sẽ phải chịu trách nhiệm phần lớn. Trách nhiệm của cơ quan thuế cũng lớn nhưng không căng thẳng, vì chỉ có nghĩa vụ kiểm tra tính logic và hợp lý của các hồ sơ xin hoàn. Cơ chế hậu kiểm cũng đảm bảo rút ngắn thời gian hoàn thuế cho các doanh nghiệp phù hợp với chủ trương hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, kiểm tra sau hoàn thuế khi các hành vi gian lận đã thực hiện rồi thì việc phát hiện, quy trách nhiệm và truy thu tiền hoàn gặp không ít khó khăn. Vì vậy, đối với các trường hợp có nhiều khả năng xảy ra gian lận, nên tiến hành kiểm tra trước khi hoàn thuế. Nhưng cũng chính quy định mới này đã đẩy đến một thực trạng là hầu hết các hồ sơ đề nghị hoàn từ khi có quyết định phân loại thường rất sơ sài, bởi mọi phát hiện không hợp lệ cũng không bị xử phạt như là một hành vi gian lận về thuế, vì hành vi đó chưa xảy ra. Trách nhiệm của cơ quan thuế trong việc hoàn thuế rất cao, nếu hồ sơ đề nghị hoàn được thông qua trong quá trình tiền kiểm có nghĩa là nếu phát hiện có gian lận trong hồ sơ đó, cán bộ trực tiếp thụ lý hồ sơ sẽ phải chịu trách nhiệm. Thời gian xét hoàn thuế sẽ lâu, thậm chí có những hồ sơ rất lâu, gây ảnh hưởng đến đơn vị hoàn thuế, đặc biệt trong ngành xây dựng với những công trình lớn gồm nhiều hạng mục thi công thì nhu cầu về vốn là rất quan trọng. Xét trên góc độ này, quy định mới đã không phát huy được tính tích cực của mục đích hoàn thuế ban đầu. Là một trong những ngành kinh tế được nguồn vốn ODA tài trợ cho nhiều dự án lớn, hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng hàng năm đã xét hoàn thuế cho khá nhiều hồ sơ ODA. Việc hoàn thuế cho các chủ dự án ODA không hoàn lại về thực chất cũng chỉ là một hình thức biến tướng của việc xin hoàn thuế cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu tại chỗ chịu thuế suất 0% cho người sử dụng cuối cùng mà thôi. So với năm 2001, số hồ sơ thuộc diện ODA được giải quyết hoàn thuế đã giảm hẳn. Do quy trình hoàn thuế năm 2002 đối với các dự án sử dụng nguồn vốn ODA đã có sự thay đổi từ sau thông tư số 41/2002/TT-BTC ngày 3/5/2002, yêu cầu phải có ý kiến xác nhận của chủ dự án về số thuế GTGT được hoàn trên hồ sơ hoàn thuế cho các nhà thầu, xác nhận các chi phí là hợp lý hợp lệ phục vụ cho dự án sử dụng nguồn vốn ODA. Trên thực tế, hầu hết các xác nhận của chủ dự án đều chung chung, không cụ thể đúng theo yêu cầu của thông tư 41. Vì vậy, rất nhiều trường hợp thuộc diện hoàn thuế trước đây đã không được xét hoàn do chưa đáp ứng yêu cầu mới. VD: dự án của Tổng công ty công trình giao thông I, Tổng công ty xây dựng Thăng Long. 2.2.2.2 Công tác thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế Thực hiện chỉ thị số 19/2002/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về tăng cường công tác quản lý thuế GTGT và công văn 11077 TC/TCT ngày 14/10/2002 của Bộ Tài Chính, phòng thuế Giao thông đã đẩy mạnh việc kiểm tra, rà soát lại các hồ sơ đã thực hiện hoàn thuế nhằm ngăn chặn, khắc phục kịp thời những hành vi gian lận trong công tác hoàn thuế GTGT. Theo thống kê kết quả kiểm tra sau hoàn thuế năm 2002 vừa qua, phòng thuế Giao Thông đã tiến hành thực hiện thanh tra kiểm tra 10 hồ sơ hoàn thuế của 8 doanh nghiệp, lập biên bản và thu hồi số thuế vi phạm là 971 triệu đồng. Trong quá trình kiểm tra, nhìn chung các đối tượng nộp thuế chấp hành tốt các yêu cầu của cơ quan thuế về việc cung cấp các tài liệu hóa đơn chứng từ liên quan, giải trình những vướng mắc về tính trung thực của số liệu…Do các đơn vị thuộc ngành Giao thông-Xây dựng hầu hết là các doanh nghiệp quốc doanh nên có ý thức chấp hành luật khá tốt. Các sai phạm chủ yếu do công tác kế toán thuế còn yếu bởi đặc thù mô hình sản xuất của các đơn vị ngành xây dựng khá phức tạp. Việc thu hồi số tiền thuế vi phạm được tiến hành kiên quyết và thực hiện khá nghiêm chỉnh đối với tất cả các đơn vị sai phạm. Quá trình kiểm tra đã phát hiện các sai phạm phải truy thu tiền hoàn thuế. Trường hợp tại công ty Sông Đà 9, khi kiểm tra đối chiếu số liệu trên hóa đơn chứng từ thực tế phát sinh trong hồ sơ hoàn thuế tháng 6 năm 2000 với số liệu trên sổ sách kế toán đã phát hiện sai phạm 21 triệu đồng. Không biết vì chưa nắm rõ việc tính thuế GTGT đầu vào, đầu ra hay do cố ý mà kế toán đơn vị đã không chia cho tỷ trọng doanh thu chưa thuế VAT và không chịu thuế VAT, khiến số thuế được hoàn lớn hơn. Ngoài ra, đơn vị cũng không giải trình được số thuế GTGT được tính hoàn của các hóa đơn mua hàng tết và mua TSCĐ khác trong chi phí quản lý của văn phòng công ty tại Hà Nội. Những sai sót không đáng có sau hơn 3 năm triển khai thực hiện luật thuế GTGT vẫn còn như ghi không đúng tên, mã số thuế của người mua, trường hợp của Công ty Xây dựng số 3 hoàn thuế cho nguyên vật liệu xây dựng mua vào số tiền 3 triệu đồng, lỗi tương tự với Tổng công ty Xây dựng Thăng Long số tiền 4,6 triệu đồng, nguyên nhân thường do bộ phận tiếp liệu của các đơn vị này thiếu cẩn thận không kiểm tra các hóa đơn; Hay sai số giữa hồ sơ xin hoàn và hóa đơn chênh lệch đến 10 lần, sự nhầm lẫn vô lý này của Tổng công ty xây dựng Thăng Long đã được giải trình là do kế toán thuế sử dụng máy vi tính vào dữ liệu, sau đó thiếu sự kiểm tra đối chiếu nên bị nhầm giữa giá trị hàng hóa (15.927.000đ) và phần thuế được hoàn (1.592.700đ) do đó có chênh lệch (-14.334.300đ). Tuy nhiên cần phải quy trách nhiệm rõ ràng để hạn chế những sai phạm không đáng có nêu trên. Do đặc điểm của hoạt động xây dựng tiến hành theo dự án là việc thanh toán được tiến hành theo định kỳ mà thời gian cách quãng giữa các lần thanh toán là hơn 1 tháng hoặc có thể lâu hơn, vì vậy công tác thanh toán thường rải rác trong năm nên việc kê khai trùng rất dễ xảy ra. Hiểu rõ đặc điểm này, việc rà soát các hóa đơn, chứng từ rất được coi trọng và đã phát hiện không ít sai sót trong công tác kế toán thuế. Một chứng từ có thể kê vào 2 công trình khác nhau như trường hợp hoàn thuế cho Ban điều hành 1A2 đã thu hồi số tiền sai phạm và yêu cầu phạt hành chính là 31 triệu đồng. Trong hoạt động Xây dựng và Giao thông công trình, thời điểm hải quan thông báo thuế (kế toán đã kê khai thuế) và thời điểm tiếp liệu viên làm thủ tục nộp thuế và thanh toán tạm ứng cách xa nhau, nếu kế toán thiếu sự kiểm tra đối chiếu lại kê khai một lần nữa theo biên lai nộp thuế sẽ dẫn đến kê khai hai lần. Ngoài ra, để đảm bảo tiến độ công trình và kê khai thuế kịp thời, kế toán đã căn cứ vào chứng chỉ thanh toán để tính và kê khai tuy nhiên lại không đôn đốc các thầu phụ viết hóa đơn GTGT nên phát sinh sai phạm là kê khai thuế chưa có hóa đơn GTGT trong hồ sơ hoàn. Trường hợp này khi kiểm tra phát hiện không ít, phải kể đến đó là Công ty xây dựng công trình 228 làm thầu phụ thi công dự án 6 cầu đường 1 kê khai thuế chưa có hóa đơn GTGT hơn 11 triệu đồng, công ty đóng tàu Thăng long- công ty thi công cơ giới của công trình 3 cầu-cầu Đuống, cầu Hàm Rồng, 6 cầu đường 1. Do đặc điểm phức tạp của kết cấu, thời gian thi công các công trình lớn, công tác kiểm tra sau hoàn muốn phát huy được hiệu quả đòi hỏi trình độ cán bộ thuế phải tương xứng. Việc phát hiện những sai phạm hàng trăm triệu đồng trong 1 hồ sơ khi kiểm tra sau hoàn thuế cũng đã xảy ra. Trong năm vừa qua, khi tiến hành hậu kiểm tại Tổng công ty Xây dựng Thăng Long, cán bộ kiểm tra đã phát hiện sai phạm 728 triệu đồng tiền hoàn thuế, nguyên nhân đây là phần hoàn đối với chi phí do công ty làm thầu phụ, đáng lẽ phải hạch toán vào phần sản xuất kinh doanh ngoài ODA để xét khấu trừ thì đơn vị lại đưa vào hồ sơ hoàn thuế. Nhầm lẫn giữa xin hoàn thuế với thuế khấu trừ đã được đơn vị giải trình là do đặc thù của mô hình sản xuất Tổng công ty Xây dựng Thăng Long vừa là đơn vị Tổng thầu, vừa trực tiếp thi công (cơ quan Tổng công ty có cá đơn vị thi công trực thuộc) hợp đồng thi công thực hiện trọn gói cho các thàu phụ nhưng một số vật tư, thiết bị chuyên dùng lại do cơ quan Tổng công ty cung cấp. Như vậy, Tổng công ty vừa là thầu chính lại vừa là thầu phụ của các đơn vị thi công. Cơ quan Tổng Công ty có một số khoản thu từ việc cung cấp vật tư, thiết bị và lao vụ khác cho thầu phụ. Việc thanh toán cho đơn vị thi công trọn gói nên khi thầu phụ xuất hóa đơn cho Tổng công ty không bóc tách được khối lượng Tổng công ty là thầu phụ dẫn đến kế toán thuế không xác định được VAT khấu trừ để tách ra từ hóa đơn của thầu phụ và nhầm lẫn trong kê khai hoàn thuế. Việc quy trách nhiệm do trình độ kế toán còn hạn chế đã được đoàn thanh tra chấp nhận, tuy thế những sai phạm kiểu này nếu không được phát hiện sẽ gây ra thất thoát lớn trong hoàn thuế. Các doanh nghiệp có phát sinh chênh lệch trong quá trình kiểm tra sau hoàn thuế sẽ thuộc diện phải kiểm tra trước khi hoàn nếu có hồ sơ đề nghị hoàn thuế được xét duyệt vào năm sau. Qua những phân tích cụ thể cho thấy, việc giải quyết hoàn thuế GTGT và kiểm tra sau hoàn đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng đã thực hiện khá đảm bảo nhưng vẫn còn những hạn chế. Những tồn tại của công tác hoàn thuế GTGT xin được đề cập ở phần tiếp theo. 2.2.3 Một số vấn đề còn tồn tại trong việc giải quyết hoàn thuế đối với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng trên địa bàn Hà Nội Sau hơn 3 năm thực hiện, với những kinh nghiệm tích lũy được và quy trình hoàn thuế mới là những điều kiện cần thiết đảm bảo cho công tác hoàn thuế GTGT tiến hành tốt. Kết quả hoàn thuế trong năm vừa qua cho thấy, một mặt hoàn thuế đã phát huy tác dụng, đáp ứng những chủ trương chính sách của Nhà nước; bên cạnh đó do tính phức tạp của ngành quản lý và những phát sinh thực tế trong quá trình thực hiện còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện. 2.2.3.1 Đối tượng hoàn thuế Luật thuế GTGT hiện nay quy định 7 trường hợp cơ quan Thuế phải tiến hành các thủ tục hoàn thuế cho đối tượng nộp thuế. Về cơ bản, việc quy định các trường hợp như vậy đã gắn liền với đặc điểm của thuế GTGT và chủ trương hỗ trợ của Nhà nước. Tuy nhiên, đi vào từng trường hợp cũng cần xem xét có nhất thiết phải xét hoàn thuế hay không. Về việc quy định xét hoàn thuế đầu vào theo quý cho TSCĐ có giá trị trên 200 triệu hay theo năm cho các tài sản đầu tư trên một năm đối với các cơ sở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ chưa phát sinh doanh thu bán hàng. Bên cạnh tính ưu việt là hỗ trợ các đơn vị trong việc thu hồi vốn đã ứng trước nhằm đảm bảo tiến độ của hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng phát sinh những vướng mắc trong quá trình thực hiện. Một số TSCĐ dùng trong hoạt động xây dựng lắp đặt là những máy móc thiết bị có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài, việc định giá tài sản và quy định thời gian tính khấu hao mang nặng tính chủ quan. Có tài sản vẫn còn trong thời gian tính khấu hao nhưng không còn cần thiết cho công trình chuyển sang nhiệm vụ khác (có thể không sản xuất mặt hàng chịu thuế GTGT) vẫn được xét hoàn thuế. Đối với đầu tư TSCĐ nên chăng có thể chuyển sang khấu trừ với các trường hợp số thuế hoàn không cao và chỉ quy định cho các tài sản đầu tư trên 1 năm. Như vậy, nghiệp vụ hoàn thuế sẽ đơn giản hơn, giảm tính tiêu cực. Về quy định xét hoàn thuế đối với trường hợp 3 tháng âm liên tục. Trong hoạt động xây dựng cơ bản (XDCB), chỉ khi hoàn thành công trình hay hạng mục công trình mới tiến hành bàn giao và thanh toán giữa chủ dự án và các bên nhận thầu. Vì thế, đầu vào cho xây dựng công trình hoàn toàn do bên nhận thầu bỏ vốn hoặc nợ lại bên vật tư. Mà đặc điểm của sản phẩm XDCB là giá trị lớn, thời gian tạo sản phẩm rất dài có thể tính bằng tháng, thậm chí bằng năm; do vậy phát sinh thuế đầu vào lớn hơn đầu ra liên tục trong nhiều tháng dẫn tới hoàn thuế. Vấn đề ở đây là nếu cơ sở thường trú tại Hà Nội và tiến hành hoạt động xây dựng cũng tại Hà Nội thì việc tính, thu và hoàn thuế dễ dàng nhưng thực tế lại xây dựng công trình ở nhiều tỉnh thành trên cả nước. Về nguyên tắc, thuế phát sinh tại đâu nộp tại đó nhưng chính điều này lại gây khó khăn trong việc kê khai và hoàn thuế. Trong XDCB, một hóa đơn nguyên vật liệu có thể phục vụ cho nhiều công trình ở nhiều địa bàn khác nhau do vậy việc bóc tách đầu vào nào cho công trình nào là hết sức phức tạp và đa số không thể làm nổi. Theo quy định hiện nay, toàn bộ thuế đầu vào được kê hết về cục thuế Hà Nội, nơi đặt trụ sở chính, còn các đơn vị nộp 1% trên giá thanh toán công trình tại địa phương nơi xây dựng. Tuy nhiên, quy định này không được thực hiện thống nhất trên cả nước. Có nơi không chấp nhận cho đơn vị nộp 1% đầu ra mà buộc các đơn vị phải bóc tách thuế đầu vào, đầu ra; có nơi chấp nhận nhưng lại khó khăn trong việc xác nhận đã nộp thuế. Mặt khác đối với đầu vào như đã đề cập ở trên, do chưa được chủ dự án thanh toán tiến, bên nhận thầu thường nợ tiền mua nguyên vật liệu, đến kỳ hoàn thuế lại không đốc thúc các bên cung cấp vật liệu viết hóa đơn nên việc kê khai trong hồ sơ hoàn thuế chưa có hóa đơn GTGT rất hay xảy ra. Ngoài ra, bên bán vật tư cũng chỉ xuất hóa đơn khi đã thanh toán đủ, do vậy việc kê khai đầu vào gặp không ít khó khăn. 2.2.3.2 Phân loại đối tượng hoàn thuế Mục đích của việc phân loại đối tượng hoàn thuế nhằm tăng cường hiệu quả của công tác hoàn thuế GTGT, hạn chế tối đa những gian lận vi phạm về hoàn thuế, gây thiệt hại cho NSNN. Cơ chế tiền kiểm bên cạnh tính ưu việt cũng tồn tại không ít bất cập. Thực tế là hồ sơ đề nghị hoàn thuế của các doanh nghiệp thuộc diện kiểm tra trước khi hoàn thường rất sơ sài. Bởi mọi phát hiện không hợp lệ cũng không bị xử phạt như là một hành vi gian lận về thuế vì hành vi đo chưa xảy ra. Bên cạnh đó, trách nhiệm của của cán bộ thuế trong cơ chế tiền kiểm là khá lớn cũng gây ra không khí “căng thẳng” trong việc hoàn thuế. Sự kiểm soát quá kỹ lưỡng không phải là thừa nhưng có thể ảnh hưởng đến thời gian hoàn thuế, các đơn vị chấp hành luật nghiêm chỉnh sẽ chịu thiệt thòi. Thời gian hoàn thuế lâu, thậm chí có những hồ sơ rất lâu sẽ ảnh hưởng đến ý định tái đầu tư và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Theo ý kiến của một số cán bộ thuế phòng Nghiệp vụ, việc phân loại còn bỏ sót các trường hợp mà trên thực tế cũng có dấu hiệu gian lận. Việc kiểm tra trước hoàn thuế với các doanh nghiệp xuất khẩu nông lâm thủy hải sản chỉ quy định qua đường bien giới đất liền. Mà thực tế, các doanh nghiệp này rất dễ dàng có được giấy xác nhận thực xuất qua đường biển để hoàn chỉnh hồ sơ xin hoàn thuế. Hay qua thực hiện hoàn thuế, kinh nghiệm cho thấy một số đơn vị có bất thường trong doanh thu xuất khẩu, hay trước không xuất khẩu nay có hoạt động xuất khẩu với số lượng lớn…cũng nên đưa vào diện xét kiểm tra trước khi hoàn thuế để hạn chế bớt sai sót. 2.2.3.3 Giải quyết hồ sơ hoàn thuế Giai đoạn thẩm định các hồ sơ đề nghị hoàn thuế rất được coi trọng. Nếu làm tốt ở khâu này sẽ hạn chế khá nhiều sai sót trong hoàn thuế, rút ngắn thời gian kiểm tra sau này. Theo nhận xét của một số cán bộ thuế trực tiếp thụ lý hồ sơ hoàn, thuế đầu ra thường các doanh nghiệp kê khai chuẩn nhưng có rất nhiều vấn đề tồn tại trong kê khai đầu vào như : Nhiều trường hợp kê thiếu, sai các số liệu trên bảng kê phát sinh đầu vào, đầu ra như: mã số thuế, tính toán số học, ngày tháng, thuế suất dù đã được cán bộ thuế nhắc nhở nhiều lần. Doanh nghiệp còn nhiều sai sót trong việc kê khai biên lai và giấy nộp thuế GTGT của hàng nhập khẩu, như không trùng tên người nộp, thiếu chứng từ bán ra (có tiêu thụ hàng hóa nhưng không viết hóa đơn mà chỉ có phiếu thu)… Theo ý kiến của một số cán bộ trực tiếp giải quyết các hồ sơ hoàn thuế, thiết kế bảng kê hàng hóa dịch vụ mua vào bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra trong hồ sơ hoàn thuế như hiện nay rất khó tìm ra các sai phạm. Những sai sót khi kiểm tra hồ sơ hoàn thuế chủ yếu là nhầm lẫn trong tính toán, ghi chép… Nếu chỉ căn cứ vào tổng giá thanh toán trên bảng kê mà không có đơn giá cụ thể của từng loại hàng hóa, dịch vụ thì việc kiểm tra có thể bỏ sót sai phạm. Về vấn đề thời gian được khấu trừ đối với các hóa đơn chưa kịp kê khai trong tháng thì được kê khấu trừ trong thời gian tối đa là 3 tháng. Nếu trong trường hợp hóa đơn không kịp về trong thời gian quy định sẽ gây bất lợi cho doanh nghiệp. Nhất là trong hoạt động XDCB, nên chăng tùy từng trường hợp cụ thể mà xét hóa đơn đó có được khấu trừ hay không, trấnh thiệt thòi cho đối tượng nộp thuế. Về quy định hồ sơ hoàn thuế cho nhà thầu chính của các dự án sử dụng nguồn vốn ODA vay ưu đãi được NSNN cấp phát phải có xác nhận của chủ dự án về số thuế GTGT đề nghị hoàn, ý kiến về số thuế GTGT đầu vào không dùng để xây dựng công trình sử dụng vốn ODA hoặc không dùng để sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, cung cấp cho dự án ODA. Yêu cầu xác nhận gây khó khăn cho chủ dự án, trách nhiệm của họ là khá nặng nề. Trên thực tế, chủ dự án chỉ là bên cấp phát vốn và đốc thúc các nhà thầu thi công mà thôi. Quy định của thông tư 41 yêu cầu xác nhận cả tính hợp lý của các chi phí kê khai trong hồ sơ hoàn thuế của các nhà thầu vượt quá khả năng của họ, đây là nhiệm vụ của các cơ quan Thuế, kiểm toán, thanh tra tài chính… Điều này giải thích tại sao, hầu hết các xác nhận trên hồ sơ đề nghị hoàn thuế chỉ chung chung, một phần do tâm lý sợ trách nhiệm, một phần cũng không đủ cơ sơ để xác nhận. Chính thực tế này cũng khiến cho rất nhiều hồ sơ hoàn thuế ODA không thể kết thúc được. Hiện tại, phòng thuế Giao thông còn khá nhiều hồ sơ thuộc diện này không được giải quyết, tổng số tiền hoàn gần 20 tỷ đồng, như dự án của Tổng công ty xây dựng Thăng Long, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông I… Qua thực tiễn xem xét các hồ sơ hoàn thuế cho thấy, việc xử lý trong vòng 15 ngày để ra quyết định với một hồ sơ hoàn gây không ít khó khăn cho các cán bộ thuế mà đôi khi còn là bất lợi cho doanh nghiệp. Điều này do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Việc thẩm định các hồ sơ đề nghị rất được coi trọng, ngoài sự kiểm tra của các cán bộ phòng quản lý thu vẫn cần sự hỗ trợ của phòng nghiệp vụ để ra quyết định hoàn thuế. Việc xác nhận của nhiều phòng ban mất nhiều thời gian, nhưng vẫn phải tiến hành để đảm bảo hoàn thuế chính xác, hạn chế các sai phạm. Số thuế GTGT đầu vào xin hoàn tức là số thuế GTGT đầu ra của các đơn vị khác. Do vậy, trước tiên phải xác định số thuế GTGT đầu ra liên quan đến các phòng đang quản lý (cán bộ phải xác nhận số thuế GTGT đã kê khai tại Hà Nội có liên quan đến hồ sơ hoàn thuế). Tiếp đến, có xác minh hóa đơn thuế GTGT đầu ra ở các phòng của cục thuế có liên quan, và gửi xác minh hóa đơn thuế GTGT đầu ra liên quan ở các tỉnh. Nhưng việc xác minh ở các tỉnh chuyển về thường rất chậm, vượt quá thời gian 15 ngày theo quy định là trường hợp phổ biến với các doanh nghiệp ngành Giao thông-Xây dựng. Có trường hợp 10 tháng sau khi có công văn đi mà vẫn không có xác minh phản hồi cho Cục Thuế Hà Nội (Hoàn thuế cho công ty vật tư xuất nhập khẩu đường biển, gửi Chi Cục Thuế Plâyku xác nhận lần một ngày 13/03/2001, lần hai ngày 21/11/2001. Nhưng đến 14/01/2002, Chi Cục Thuế Plâyku trả lời chưa kiểm tra nên chưa có số liệu cung cấp cho Cục Thuế Hà Nội ). Điều này gây khó khăn cho các cán bộ thuế trong việc xử lý và kết thúc biên bản, một số doanh nghiệp không rõ còn “hiểu nhầm” các cán bộ thuế cố tình kéo dài thời gian xét hoàn thuế. Ngoài ra, thời gian giải quyết hồ sơ xét hoàn thuế cho các dự án ODA quy định trong 3 ngày như hiện nay, theo một số cán bộ thuế là không thể thực hiện được. 2.2.3.4 Kiểm tra sau hoàn thuế Công tác kiểm tra sau hoàn thuế có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo tính chính xác giữa số liệu đơn vị kê khai và thực tế phát sinh, xử lý kịp thời những sai phạm về hoàn thuế. Trong quyết định kiểm tra hoàn thuế do phòng Giao thông chủ trì đều có các thành viên của phòng Thanh tra, Nghiệp vụ, ấn chỉ cùng tham gia hội ý thường xuyên, trao đổi kịp thời, nhằm hạn chế tối đa những sơ xuất do nghiệp vụ hay cơ chế chưa rõ. Cách làm như vậy đã tương đối đảm bảo, tuy nhiên vì một số tồn tại khách quan và chủ quan, trong quá trình kiểm tra vẫn gặp phải một số vướng mắc. Việc quy định hoàn thành trong 5 ngày với những nội dung phức tạp như kiểm tra sau hoàn thuế là khó thực hiện. Đối với hoạt động XDCB, phải tiến hành kiểm tra đối chiếu số liệu của rất nhiều bên liên quan. Do việc thi công kéo dài, mô hình sản xuất kinh doanh lại khá phức tạp, công tác kế toán thuế của các đơn vị còn yếu. Thực tế đã phân tích ở trên, rất nhiều sai phạm do lỗi của bộ phận này. Nguyên nhân trên đã kéo dài thời gian và gây khó khăn cho việc kiểm tra, phát hiện sai sót. Quy định về chế độ hạch toán kế toán trong các đơn vị chưa thực hiện tốt, một số nơi do không biết hay cố tình làm sai, phát sinh chênh lệch trên giữa báo các tài chính với doanh thu trên hồ sơ hoàn thuế. Trong hoạt động XDCB, giá trúng thầu của các công trình thuộc nguồn vốn ODA thường được thanh toán bằng ngoại tệ (đồng đôla Mỹ hay yên Nhật), ghi tỷ giá thanh toán trên hợp đồng giữa các bên. Khi công trình hoàn thành, chủ đầu tư (bên A) thanh toán, yêu cầu nhà thầu (bên B) viết hóa đơn GTGT theo tỷ giá trên hợp đồng nhưng thực chất phân chia xác nhận khối lượng thanh toán theo tỷ giá thực tế. Trên sổ sách kế toán của bên B, để đảm bảo đúng chế độ, xác định doanh thu theo tỷ giá thực tế (tỷ giá bình quân liên Ngân hàng). Như vây, doanh thu phản ánh trên hồ sơ hoàn thuế lớn hơn số đã viết trên hóa đơn. Qua công tác kiểm tra hoàn thuế ở các nhà thầu đã phát hiện ra các sai phạm này. Vấn đề ở đây là chủ dự án khi quyết toán với Nhà nước có sử dụng hóa đơn không? Nếu có thì thực tế chủ dự án đã được lợi về chênh lệch ngoại tệ; Nếu không thì việc sử dụng hóa đơn sẽ không có tác dụng ngay ở thượng tầng kiến trúc. Về công tác xử lý số liệu thu hồi hoàn thuế trong chương trình quản lý trên máy tính. Quy trình hoàn thuế GTGT số 1329 TCT/QĐ/NV1 ngày 18/09/2002 Tổng cục thuế ban hành đã có quy định “Căn cứ vào kết luận kiểm tra, thanh tra (biên bản kiểm tra)…bộ phận quản lý lập danh sách kết quả kiểm tra, thanh tra, quyết định xử lý vi phạm gửi phòng XLTT-Tin học…điều chỉnh số thuế phải nộp của đối tượng ”. Tuy nhiên, quy trình mới này cũng không hướng dẫn cách lập danh sách quyết định xử lý vi phạm như thế nào để có thể đưa số liệu chi tiết vào chương trình quản lý thuế theo yêu cầu của công văn 441 TCT/MT-KH trước đó (yêu cầu có cả dữ liệu thu hồi hoàn thuế). Từ thực tế trên, để có đủ dữ liệu cho chương trình, cần phải có hướng dẫn và quy định cho đoàn kiểm tra hoặc phòg quản lý thu lập danh sách theo mẫu số 02/HSHT có bổ sung thêm các chỉ tiêu và cach ghi chép phù hợp yêu cầu của công văn 41; để vừa đảm bảo tính đầy đủ của dữ liệu, vừa đảm bảo tính thống nhất giữa các quy trình và công văn hướng dẫn. 2.2.3.5 Quản lý hóa đơn chứng từ Hóa đơn chứng từ là bằng chứng của nghiệp vụ kinh tế phát sinh và là căn cứ để xác định nghĩa vụ thuế, đối chiếu hoàn thuế. Vì vậy, cơ chế quản lý hóa đơn chứng từ chặt chẽ sẽ có tác động tích cực đến công tác hoàn thuế, giảm bớt các gian lận vi phạm, gây thất thoát cho NSNN. So với trước khi có quyết định số 110/2002/QĐ-BTC ngày 18/09/2002 của Bộ Tài Chính, chế độ phát hành, quản lý, sử dụng hóa đơn bán hàng đã được thắt chặt rất nhiều. Cơ chế này đã góp phần giảm thiểu việc các doanh nghiệp “ma” mua hóa đơn sử dụng sai mục đích, bòn rút tiền của NSNN. Tuy nhiên, việc chống gian lận trong sử dụng hóa đơn để hoàn thuế GTGT nói riêng và các loại thuế khác nói chung vẫn còn là một vấn đề nan giải. Thị trường hóa đơn bất hợp pháp vẫn còn tồn tại; Các hiện tượng gian lận hóa đơn ngày càng tinh vi; Năng lực kiểm tra đối chiếu hóa đơn của cơ quan Thuế các cấp có những bất cập. Biện pháp xử lý gian lận hóa đơn có cải thiện, tuy nhiên vẫn chưa tương thích với quy mô và mức độ vi phạm ngày càng tăng. Hóa đơn tự in chưa phải là một cứu cánh lâu dài, bởi lẽ chúng ta cũng chưa hình dung hết tính phức tạp khi tất cả các doanh nghiệp đều sử dụng hóa đơn tự in. Làm sao để mọi thương vụ phát sinh phải được ghi hóa đơn và mọi người mua hàng đều phải có nhu cầu thực sự đòi hỏi xuất hóa đơn thì mới chính là giải pháp triệt để nhất. Nguyên nhân những tồn tại trong công tác hoàn thuế : Các doanh nghiệp chưa nắm rõ về luật thuế GTGT và cơ chế hoàn thuế. Bên cạnh đó, các vấn đề phát sinh trong hoàn thuế cho các công trình sử dụng nguồn vốn ODA, mô hình sản xuất ngành Xây dựng-Giao thông công trình khá phức tạp. Trình độ kế toán thuế của các doanh nghiệp còn hạn chế, vừa làm, vừa học, vừa sửa sai. Các doanh nghiệp còn thiếu tinh thần tự giác trong việc kê khai và hoàn thuế GTGT. Thiếu sự triển khai đồng bộ, làm việc thống nhất theo quy định giữa ngành thuế trung ương với thuế địa phương. Công văn hướng dẫn và quy trình thực hiện vẫn còn khác biệt. Thiếu phương tiện để hướng dẫn tuyên truyền, hỗ trợ đối tượng nộp thuế Chương III Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý hoàn thuế GTGT đối với các doanh nghiệp ngành Giao Thông-Xây Dựng 3.1 Quan điểm về tăng cường quản lý hoàn thuế GTGT Nhằm giải quyết một phần khó khăn của doanh nghiệp khi đầu tư, dự trữ nguyên vật liệu thực hiện chiến lược thị trường và khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước đã tiền hàn hoàn thuế. Với chủ trương đó, Nhà nước đã tiến hành nhiều biện pháp nhằm rút ngắn thời hạn hoàn thuế và kỳ hạn kê khai hoàn thuế để doanh nghiệp tận dụng tối đa ưu đãi để mở rộng kinh doanh, tăng thêm đầu tư. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, bên cạnh những hiệu quả tích cực của chủ trương này, một số đối tượng đã lợi dụng sự chưa hoàn thiện của chính sách cũng như việc tổ chức kiểm tra hoàn thuế để gian lận, chiếm đoạt tiền của NSNN. Tình thế này bắt buộc các nhà hoạch định chính sách phải tính đến việc thắt chặt hơn nữa cơ chế hoàn thuế, mà trên thực tế có thể bóp méo những tác động tích cực do công tác hoàn thuế mang lại. Nhiều kiến nghị cho rằng nên bãi bỏ hoàn thuế để chống thất thoát, song đây không phải là một giải pháp khả thi. Về cơ bản, việc quy định các trường hợp hoàn thuế như hiện nay đã khá hợp lý, gắn liền với đặc điểm của thuế GTGT và chủ trương hỗ trợ của Nhà nước. Trong quá trình luân chuyển của hàng hóa từ sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng, nếu khâu sau có mức thuế suất thấp hơn khâu trước thì hiện tượng hoàn thuế sẽ xảy ra. Bên cạnh đó, việc quy định nhiều mức thuế suất thuế GTGT (4 mức: 0%, 5%, 10%, 20%), nhiều trường hợp không chịu thuế (26 trường hợp) và đặc biệt là mức thuế suất ưu đãi 0% cho hàng xuất khẩu, thì việc hoàn thuế là một tất yếu không thể loại bỏ của thuế GTGT hiện nay và cả về lâu dài. Thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo quy định của lộ trình CEPT/AFTA và các cam kết quốc tế, thuế GTGT đến năm 2010 sẽ được cải cách theo hướng: mở rộng đối tượng chịu thuế GTGT bằng cách thu hẹp diện áp dụng mức thuế suất thấp, tiến tới áp dụng một mức thuế suất 10% vào năm 2006, bù đắp nguồn thu về thuế nhập khẩu giảm. Về công tác hoàn thuế, các quan điểm cho rằng chỉ nên áp dụng hoàn thuế đối với trường hợp thuế GTGT đầu vào lớn hơn đầu ra, đối với hàng xuất khẩu chính ngạch thanh toán qua ngân hàng và tài sản đầu tư có thời gian đầu tư trên một năm. Bên cạnh những cải cách về chính sách chế độ, trong thời gian tới cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau để ngày càng hoàn thiện công tác hoàn thuế, đảm bảo phát huy được vai trò của thuế GTGT trong tiến trình mới. Để tăng cường quản lý hoàn thuế GTGT, cần quán triệt các quan điểm sau: Hoàn thuế GTGT là một nội dung của Pháp luật thuế GTGT cần thiết phải không ngừng hoàn thiện. Giống như bất kỳ một đạo luật nào khi ban hành, tất yếu đều phải có những sửa đổi bổ sung để không ngừng phù hợp với yêu cầu mới. Nhất là Luật thuế GTGT, có liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhiều thành phần trong nền kinh tế. Cải cách luật thuế GTGT cho ngày càng phù hợp với tình hình đất nước và những cam kết quốc tế sẽ dẫn đến những thay đổi trong công tác hoàn thuế. Xu hướng áp dụng thống nhất một mức thuế suất thuế GTGT và quy định một phương pháp tính thuế khấu trừ sẽ giảm bớt các trường hợp hoàn thuế. Cần quán triệt quan điểm là khi nào luật thuế GTGT còn được áp dụng thì vẫn có hoàn thuế, bởi hoàn thuế gắn liền với đặc trưng của thuế GTGT (phương pháp khấu trừ thuế) và phù hợp với chủ trương hỗ trợ của Nhà nước. Vì vậy, phải không ngừng tăng cường quản lý hoàn thuế GTGT ở góc độ chính sách chế độ và quản lý. Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích của ĐTNT và Nhà nước. Nếu công tác quản lý thu thuế nhằm hướng tới một mục đích thống nhất là thu đúng, thu đủ và kịp thời vào NSNN thì hoàn thuế lại phải giải quyết hài hòa hai yêu cầu có xu hướng trái chiều nhau là, vừa hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp, vừa không làm thất thu cho NSNN. Tính tối ưu của các chính sách hoàn thuế là phải thiết kế sao cho phát huy được chủ trương hỗ trợ của Nhà nước, lại không tạo kẽ hở để phát sinh các gian lận hoàn thuế. Đây là một vướng mắc, khó khăn phải hoàn thiện từng bước. Phát huy những tác dụng của hoàn thuế. Công tác hoàn thuế nếu được thực hiện có hiệu quả sẽ giảm bớt khó khăn về tài chính, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ nộp thuế cho các ĐTNT, góp phần thực hiện các định hướng phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước. Tuy nhiên, do những gian lận chiếm đoạt vốn NSNN xảy ra liên tiếp gần đây, cơ chế hoàn thuế đang ngày càng thắt chặt nhằm hạn chế tối đa những kẽ hở để kẻ xấu lợidụng. Đây là những thay đổi tất yếu cho phù hợp với tình hình thực tế nhưng quan điểm “hỗ trợ thông qua hoàn thuế” vẫn phải được chú ý coi trọng. Khắc phục những hạn chế của công tác hoàn thuế hiện hành. Do liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhiều đối tượng thuộc mọi thành phần trong nền kinh tế, cơ chế hoàn thuế nếu còn kẽ hở sẽ bị kẻ xấu lợi dụng. Chiếm đoạt tiền của NSNN qua hoàn thuế là một loại tội phạm kinh tế mới, gây không ít khó khăn cho các cơ quan chức năng. Nắm bắt yêu cầu này cùng những kinh nghiệm tích lũy được trong công tác hoàn thuế những năm qua chúng ta thấy rằng, hoàn thuế về mặt chính sách và bước đi còn khá nhiều hạn chế phải tiếp tục hoàn thiện. Cần thiết phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan Thuế, Hải quan, Quản lý thị trường, Công an… để khắc phục những hạn chế này. Dưới đây là một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT về mặt chính sách, chế độ và quản lý. 3.2 Các giải pháp tăng cường quản lý hoàn thuế GTGT 3.2.1 Các giải pháp hoàn thiện chính sách, chế độ hoàn thuế GTGT 3.2.1.1 Các giải pháp về quy định đối tượng, các trường hợp được xét hoàn thuế Từ những phân tích về thực trạng ở chương II, với trường hợp hoàn thuế cho đầu tư tài sản cố định của các các cơ sở mới thành lập nộp thuế theo phương pháp khấu trừ có thể xem xét giải quyết khấu trừ chứ không nhất thiết phải hoàn thuế trong mọi trường hợp. Về nguyên tắc, có thể căn cứ vào số thuế được hoàn tới hạn để quyết định hoàn hay khấu trừ thuế. Trị giá này được xác định căn cứ vào vòng đời của tài sản so sánh với chi phí xã hội bình quân (cả chi phí cho đối tượng kê khai hoàn thuế và chi phí xác minh thẩm tra của cơ quan thuế cho 1 lần hoàn thuế) khi tiến hành một nghiệp vụ hoàn thuế (các xác định này cũng chỉ đòi hỏi tương đối). Nếu số thuế hoàn phát sinh dưới trị giá chênh lệch tới hạn thì có thể xử lý khấu trừ, trên mức tới hạn thì được xét hoàn thuế. Các yếu tố để xem xét hoàn thuế hay khấu trừ phải được quy định rõ trong các văn bản cụ thể để áp dụng thống nhất. VD : Chí phí xã hội cho một lần hoàn thuế bình quân là 30 triệu thì số thuế được hoàn tới hạn có thể bằng 5 lần (150 triệu) hoặc có thể đến 10 lần (300 triệu) đối với một số ngành có đầu tư tài sản lớn như Xây dựng lắp đặt, Công nghiệp. Một TSCĐ có giá trị lớn khoảng 5 tỷ, khấu hao trong 5 năm, số thuế đầu vào mỗi năm là 100 triệu (thuế suất 10%). Số thuế này nhỏ hơn so với số được hoàn tới hạn nên không xét hoàn mà chỉ khấu trừ. Hiện nay Bộ Tài Chính đã cho thí điểm phương pháp khấu hao nhanh, nghĩa là có năm nếu giá trị khấu hao lớn vượt quá mức tới hạn thì xét hoàn thuế, còn có năm sẽ chuyển sang khấu trừ. Xét về lâu dài khi áp dụng thống nhất một mức thuế suất 10% (trừ mức 0%), việc chênh lệch thuế suất gây ra hiện tượng thuế âm không còn thì trường hợp hoàn thuế cũng sẽ giảm bớt. Về việc hoàn thuế cho các dự án ODA, một số vướng mắc trong vấn đề giải quyết hoàn thuế GTGT cho chủ đầu tư là người nước ngoài nộp thuế theo phương pháp trực tiếp. Cần nhanh chóng quy định thống nhất một phương pháp khấu trừ thuế cho tất cả đối tượng nộp thuế, sẽ giảm bớt khó khăn cho nghiệp vụ hoàn thuế và đảm bảo công tác quản lý thuế được chặt chẽ hơn. 3.2.1.2 Tiếp tục hoàn thiện quy trình hoàn thuế nhằm tạo sự thống nhất trong việc chấp hành và đơn giản hóa quy trình Trong năm qua, phòng thuế Giao thông đã nghiêm túc thực hiện quy trình mới, tiến hành rà soát, phân loại các hồ sơ hoàn thuế, đặc biệt xem xét kỹ các hồ sơ xuất khẩu gồm: hợp đồng kinh tế, hóa đơn bán hàng, tờ khai hải quan, chứng từ thanh toán tiền hàng…để kịp thời phát hiện các trường hợp không đủ điều kiện hoàn. Mặt khác, với quyết định số 1329TCT/QĐ/NV1 ngày 18/09/2002 thì các hồ sơ hoàn thuế sẽ không phải qua phòng thẩm định, rút ngắn thời gian xin ký duyệt tạo điều kiện hoàn thuế kịp thời cho doanh nghiệp đồng thời tăng cường trách nhiệm của phòng quản lý thu. Tuy vậy, trong quá trình thẩm định hồ sơ hoàn thuế, lãnh đạo Cục Thuế Hà Nội vẫn yêu cầu các cán bộ phòng nghiệp vụ tham gia hỗ trợ, góp ý kiến để không bỏ sót các sai phạm. Vấn đề khó khăn đối với phòng quản lý thu như đẫ đề cập ở chương II là thời gian xem xét hoàn thuế cho các doanh nghiệp còn hạn chế, nhất là hoàn thuế cho các dự án sử dụng nguồn vốn ODA. Quy định xử lý hoàn thuế là 3 ngày cần xem xét sửa đổi thành 5 hoặc 7 ngày để tạo điều kiện về thời gian nhằm thực hiện hoàn thuế hiệu quả hơn. Về việc xử lý số liệu thu hồi hoàn thuế trong trường hợp kiểm tra sau hoàn có phát hiện vi phạm, đề nghị Tổng cục Thuế có công văn hướng dẫn, quy định cách ghi chép thống nhất trong mẫu 02/HSQT. Cụ thể bổ sung thêm các chỉ tiêu và cách ghi chép phù hợp với yêu cầu của công văn 441 TCT/MT-KH. Điều này vừa đảm bảo tính đầy đủ của dữ liệu, vừa đảm bảo tính thống nhất giữa các quy trình và công văn hướng dẫn, góp phần giúp quy trình quản lý thuế ngày càng khoa học, hoàn thiện. Mẫu số 02/HSHT hiện nay và Mẫu số 02/HSHT đề nghị lập xem bảng dưới đây. Quy định hiện nay Cục thuế… Mẫu số : 02/HSHT Phòng… Danh sách kết quả kiểm tra sau hoàn thuế Từ ngày../../… đến ngày ../../… Số TT Mã CSKD Tên CSKD Quyết định kiểm tra, số (ngày) Kết quả kiểm tra Số được hoàn Số đã hoàn Chênh lệch Số phạt Mẫu đề nghị lập Cục thuế… Mẫu số : 02/HSHT Phòng… Danh sách kết quả kiểm tra sau hoàn thuế Từ ngày ../../… đến ngày ../../… Số TT Mã CSKD Tên CSKD Quyết định kiểm tra, số (ngày) Quyết định thu hồi, số (ngày) Kết quả kiểm tra Số được hoàn Số đã hoàn Chênh lệch Số phạt 3.2.1.3 Các giải pháp về phân loại đối tượng hoàn thuế Trong việc chống thất thoát tiền hoàn thuế, kiểm tra hoàn thuế là biện pháp có tính chất ngăn ngừa, đi đôi với với kiểm tra là xử lý các hình thức vi phạm có tác dụng răn đe những đối tượng có hành vi gian lận. Việc kiểm tra trước hay sau hoàn thuế cũng mang ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy ý thức tự giác và nâng cao tinh thần trách nhiệm của doanh nghiệp trong thực hiện nghĩa vụ thuế. Trên thực tế, đối tượng chịu sự quản lý của phòng Giao thông chủ yếu là các đơn vị Giao thông-Xây dựng quốc doanh nên các trường hợp phân loại kiểm tra trước hoàn thuế cũng ít khi xảy ra. Thông thường, các đối tượng thuộc khu vực ngoài quốc doanh phải kiểm tra trước khi hoàn thường nhiều hơn. Tuy nhiên, bài viết cũng xin đề cập một số giải pháp trong vấn đề này, góp phần làm tăng hiệu quả của công tác phân loại kiểm tra hoàn thuế. Việc quy định nhóm đối tượng “đã có hành vi vi phạm pháp luật thuế GTGT” vào diện kiểm tra trước khi hoàn là phù hợp nhưng chưa bao quát hết các đối tượng có nhiều khả năng gian lận. Trên thực tế, các đối tượng gian lận thường không chỉ vi phạm về thuế GTGT và còn vi phạm chế độ kê khai đăng ký thuế, vi phạm luật thuế TNDN…Vì thế nên sửa thành “các đối tượng đã có hành vi vi phạm Pháp luật thuế”. Đồng thời có các văn bản quy định rõ các hành vi được coi là vi phạm Pháp luật thuế. Trường hợp các đơn vị xuất khẩu nông lâm, thủy sản qua đường biên giới đất liền không thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng vẫn còn kẽ hở. Nên sửa thành “Cơ sở kinh doanh xuất khẩu hàng hóa là nông, lâm thủy hải sản chưa qua chế biến theo đường biên giới đất liền và trên biển không thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng” nhằm hạn chế các thủ đoạn vi phạm về hoàn thuế. Ngoài ra, bổ sung trường hợp “Các cơ sở sản xuất, kinh doanh có những thay đổi bất thường không phù hợp với quy mô và tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị ”. Khi phân tích các trường hợp gian lận trong hoàn thuế GTGT đã xảy ra, các đơn vị có nhiều chuyển biến bất thường trong kinh doanh (như doanh thu xuất khẩu tăng vọt, hoặc chưa có hoạt động nay xuất với số lượng lớn…) là những dấu hiệu có khả năng gian lận cần xem xét. Đối với các hồ sơ hoàn thuế có giá trị lớn trên 5 tỷ đồng nên đưa vào đối tượng kiểm tra trước khi hoàn để xem xét kỹ lưỡng tránh những tổn thất lớn cho NSNN. Hoặc trong quá trình thực hiện hoàn thuế, nếu các phòng quản lý thu thấy hồ sơ hoàn thuế nào có nhiều nghi vấn lại không thuộc diện kiểm tra trước khi hoàn theo luật định, có thể làm công văn đề nghị lãnh đạo cục kèm theo các giải trình về nghi vấn để có hướng giải quyết phù hợp nhất. Các giải pháp như trên đã nêu nhằm quy định chặt chẽ hơn trong việc kiểm tra hoàn thuế. Tuy nhiên, cũng phải thống nhất quan điểm về việc phân loại kiểm tra hoàn thuế GTGT phải giải quyết hài hòa hai yêu cầu có xu hướng trái chiều nhau là, vừa góp phần hạn chế thất thoát NSNN qua hoàn thuế, vừa không gây trở ngại cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 3.2.1.4 Các giải pháp tăng cường công tác kiểm tra thanh tra hoàn thuế Nhìn chung, việc phân định kiểm tra trước hay sau hoàn thuế đều có những thuận lợi và khó khăn riêng. Theo tinh thần của thông tư 82, quy trình hoàn thuế mới này về cơ bản đã hạn chế phần nào những vi phạm trong hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên, dù tiền kiểm hay hậu kiểm thì điều quan trọng là năng lực kiểm tra của ngành thuế phải đảm bảo yêu cầu để kịp thời phát hiện các gian lận. Vì vậy, cần phải nâng cao năng lực kiểm tra trong toàn ngành thuế. Trước hết phải chuyển bộ phận quản lý trước đây thành thanh tra thuế. Như các cán bộ thuộc phòng nghiệp vụ thuế, các cán bộ phong quản lý thu có đủ năng lực. Với việc phát huy chế độ tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế thì đội ngũ các thanh tra thuế ngày càng phải mở rộng về số lượng và chất lượng. Phải triển khai ngay ngạch thanh tra thuế, bổ nhiệm các thanh tra viên thuế như là thanh tra viên chuyên ngành của thanh tra tài chính. Có như thế, thanh tra viên thuế để có thẩm quyền kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm hành chính có liên quan đến lĩnh vực kế toán tài chính phục vụ cho công tác kiểm tra hoàn thuế. Trong giai đoạn 10 năm tới, công tác thanh tra kiểm tra cần được cải cách theo hướng phân loại đối tượng. Chỉ tập trung thanh tra kiểm tra vào các trường hợp có nhiều rủi ro hay thiếu độ tín nhiệm trong hoàn thuế. Từ đó có căn cứ thanh tra kiểm tra theo định kỳ hoặc thanh tra thường xuyên với các trường hợp gian lận thuế. Các chế tài về xử lý vi phạm, cưỡng chế sau hoàn thuế phải được quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp luật. Tránh tình trạng như hiện nay, các cơ quan pháp luật còn đang lúng túng về việc xử lý một loại tội phạm mới về hóa đơn thuế GTGT 3.2.1.5 Giải pháp tăng cường việc quản lý, sử dụng hóa đơn chứng từ Như đã đề cập ở chương II, giải pháp triệt để nhất cho vấn đề hóa đơn là mọi thương vụ phát sinh phải được ghi hóa đơn và người mua có nhu cầu lấy hóa đơn như là một nghĩa vụ và quyền lợi của họ. Nếu vậy phải đa dạng hóa các hình thức hóa đơn cho phù hợp với tất cả các loại hình trao đổi, cung ứng hàng hóa, dịch vụ. Bảo đảm dù ở đâu, bất cứ lúc nào cũng có được các hình thức hóa đơn thích hợp để người mua và người bán xác lập quan hệ mua bán của mình. Đồng thời phải điều chỉnh các chính sách tài chính và thương mại để người bán và người mua đều thấy được quyền lợi của mình khi mua bàn hàng lấy hóa đơn. Xin đề xuất một số biện pháp như sau: áp dụng cơ chế thẻ giảm giá cho người mua khi lấy hóa đơn cho một số mặt hàng và được quy định thống nhất trong cả nước. Thiết kế lại hóa đơn tài chính nhỏ gọn, in kèm theo phiếu bảo hành với một số nhóm hàng có giá trị không lớn, hoặc các giấy đảm bảo về quyền lợi người tiêu dùng khi có tranh chấp xảy ra với các tài sản có giá trị lớn… Ngoài ra, hóa đơn GTGT cần được coi trọng như một tài liệu của cơ quan Nhà nước. Sai phạm về quản lý, sử dụng hóa đơn là những hành vi xâm phạm tài liệu của cơ quan Nhà nước. Bộ luật hình sự nên bổ sung thêm tội vi phạm chế độ sử dụng hóa đơn chứng từ và các các chế tài xử phạt kèm theo. các giải pháp tăng cường quản lý hoàn thuế GTGT Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và cung cấp dịch vụ thuế để nâng cao tính tự giác và trách nhiệm của trách nhiệm của người nộp thuế. Đẩy mạnh việc hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong việc tìm hiểu và thực hiện pháp luật, hạn chế tối đa những sai sót do không nắm rõ cơ chế chính sách. Ngoài các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, giải thích về thuế truyền thống như: bằng các phương tiện thông tin đại chúng, in tờ rơi, hội thảo trao đổi… phải tăng cường bằng các biện pháp: Đưa giáo dục về thuế chương trình tập huấn cho các cán bộ tài chính kế toán từng đơn vị; Thiết kế trang web riêng về Thuế, cập nhật các văn bản và những sửa đổi mới nhất về các loại thuế kèm theo các thông tư hướng dẫn, những chế tài luật về xử lý vi phạm đối với từng loại thuế; Thiết lập đường dây nóng giải đáp các thắc mắc của doanh nghiệp về thuế (gần giống như dịch vụ 1080 của Bưu Điện), hạn chế trường hợp khi doanh nghiệp cần mà các cán bộ phòng quản lý thu hay nghiệp vụ đang bận không thể giải quyết. Mọi tổ chức, mọi cá nhân trước khi kinh doanh đều được tập huấn, hướng dẫn về thuế, được sử dụng các dịch cụ hỗ trợ miễn phí bằng tài liệu, quan điện thoại, tiếp xúc trực tiếp. Để hoạt động tự kê khai, tự tính và nộp thuế phát huy hiệu quả thì giải pháp trên cần ngày càng được coi trọng. Hoàn thiện công tác xác minh hóa đơn GTGT đảm bảo yêu cầu của hoàn thuế. Theo đó, cần tiến hành phân loại hóa đơn yêu cầu xác minh, như chú trọng đến các hóa đơn bán ra có giá trị quá nhỏ; hóa đơn đầu vào có giá trị lớn; hàng hóa nông, lâm, thủy sản không thể có ở những vùng địa phương trên bảng kê; bằng kinh nghiệm quản lý, phát hiện những hóa đơn có dấu hiệu nghi vấn… Người yêu cầu xác minh nên ghi luôn mã số của bên bán cũng như bên mua, để người nhận xác minh tìm và tra cứu được dễ dàng, nhanh chóng. Cần bổ sung thêm thông tin trên bảng kê hóa đơn như mã loại hóa đơn, tên hàng hóa dịch vụ mua, bán. Do hiện tại hầu hết các cơ quan thuế lập sổ thủ công, mẫu sổ quá dài và thiếu nhiều thông tin, nhất là phần thông tin kết quả xử lý. Nên đề xuất chỉ ghi sổ những đối tượng có sự chênh lệch giữa liên 1 và liên 2 và đề nghị các Cục thuế sau khi cung cấp thông tin về xác minh hóa đơn, phải thông báo lại cho cục thuế bạn kết quả xử lý đối với các trường hợp chênh lệch này. Ngoài ra cũng cần nhanh chóng triển khai thực hiện dự án “Xây dựng chương trình Quản lý ấn chỉ trên mạng máy tính ngành Thuế”. Sau khi chương trình được xây dựng xong và triển khai cho toàn ngành, sẽ đảm bảo đầy đủ dữ liệu cho công tác xác minh hóa đơn. Từng bước áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế để tăng cường hiệu quản lý hoàn thuế Đến năm 2010, tin học phải đáp ứng được các nội dung cơ bản là: Quản lý được số lượng đối tượng nộp thuế, thông qua việc đăng ký thuế, cấp mã số thuế. Phục vụ tốt cho công tác thanh tra kiểm tra đối tượng nộp thuế, kiểm tra tờ khai thuế, kiểm tra hồ sơ hoàn thuế, đối chiếu hóa đơn giữa đơn vị mua và bán; Quản lý được hóa đơn, chứng từ in ấn, phát hành, cung cấp khoảng 70% dịch vụ hỗ trợ cho người nộp thuế qua tin học Tăng cường phương tiện phục vụ cho công tác kiểm tra thanh tra trước và sau hoàn thuế là rất cần thiết. Các cơ quan thuế phải trang bị thêm hệ thống máy tính cho các phòng quản lý thu, triển khai nối mạng cục bộ sau đó mở rộng trong cả nước. Đối với một số đơn vị thường có phát sinh hoàn thuế lớn trong năm (có quy định mức cụ thể), mô hình quản lý phức tạp (VD các đơn vị kiêm nhiều chức năng trong một dự án xây dựng lớn), có thể yêu cầu nối mạng cục bộ để tiện lợi cho công tác quản lý, kiểm tra khi cần. Xét về lâu dài, giải pháp này vừa đảm bảo sự chặt chẽ trong quản lý hoàn thuế, vừa tạo điều kiện giải quyết nhanh chóng cho doanh nghiệp, lại phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại. Đây cũng là giải pháp đã được thí điểm tại TP Hồ Chí Minh và cho thấy hiệu quả tích cực. Củng cố tổ chức bộ máy quản lý thu và nâng cao phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngành thuế. Phát huy tính nghiêm túc, dân chủ trong việc tổ chức thực hiện các quy chế ở Cơ quan Thuế. Mọi hoạt động, công việc của Cơ quan Thuế phải có quy định rõ ràng, thực hiện công khai. Tất cả các cán bộ thuế từ cao đến thấp phải không ngừng nâng cao trách nhiệm trong công tác, chủ động sáng tạo giải quyết những vướng mắc phát sinh trong xử lý nghiệp vụ, vừa đảm bảo tinh thần của pháp luật, vừa hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp. Tăng cường bồi dưỡng đạo đức, đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ quản lý thu thuế và đội ngũ thanh tra kiểm tra thuế bao gồm: chính sách chế độ, nghiệp vụ hành thu, kế toán, vi tính, ngoại ngữ…Việc bồi dưỡng nghiệp vụ thuế phải được tiến hành định kỳ, hiệu quả để nâng cao trình độ, không ngừng đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đặc biệt chú ý những cán bộ chủ chốt, những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu thì phải kiên quyết thay thế. Định kỳ tổ chức các cuộc sát hạch nghiệp vụ của các cán bộ thuế. Ngoài ra ngành thuế cũng cần không ngừng chăm lo cải thiện điều kiện làm việc đảm bảo tuyệt đối an toàn về người và tài sản của cơ quan đặc biệt là các hồ sơ hiện đang lưu giữ tại Cục thuế Hà Nội. Đồng thời cố gắng cải thiện đời sống cho cán bộ công chức trong các chế độ cho phép, tạo cho cán bộ viên chức phấn khởi, an toàn công tác. Cơ quan Thuế cần chủ động phối hợp với các ngành như Viện Kiểm soát, Công an, Hải quan, Quản lý thị trường, Cơ quan cấp giấy phép kinh doanh để phối hợp xử lý đối với các đơn vị vi phạm chế độ Pháp luật thuế. Đổi mới cách làm, đưa nội dung quản lý thuế vào công tác trọng tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương theo cơ chế vừa đảm bảo tính tập trung thống nhất, vừa phát huy vai trò chủ động sáng tạo từng khu vực, địa bàn Thành phố. Trên đây là một số biện pháp nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác hoàn thuế GTGT tại cục thuế Hà Nội cũng như đối với các khối doanh nghiệp Giao thông-Xây dựng trên địa bàn. Kết luận Nếu công tác quản lý thu thuế nhằm hướng tới một mục đích thống nhất là đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời vào NSNN thì hoàn thuế lại phải giải quyết hài hòa hai yêu cầu có xu hướng trái chiều nhau là, vừa hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp, vừa không làm thất thu NSNN. Bởi vậy, hoàn thuế GTGT về mặt chính sách và thực tiễn là vấn đề chúng ta vẫn đang loay hoay, trăn trở đi tìm giải pháp hữu hiệu nhất. Cùng với những nghiên cứu sửa đổi cho ngày càng phù hợp và những kinh nghiệm tích lũy được, chúng ta đang tiến dần đến sự hoàn thiện công tác hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên, để nắm bắt thực trạng các vấn đề và từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện không phải là vấn đề đơn giản. Bởi công tác quản lý thuế nói chung và hoàn thuế GTGT nói riêng liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể trong nền kinh tế xã hội. Với khả năng có hạn của một sinh viên đại học, tác giả đã cố gắng tìm hiểu, phân tích thực tiễn công tác hoàn thuế tại phòng thuế Giao thông-Cục Thuế Hà Nội; từ đó, mạnh dạn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện. Mong muốn lớn nhất của tác giả là được học hỏi, đi sâu tìm hiểu về vấn đề hoàn thuế. Hy vọng những ý tưởng trong bài viết sẽ góp phần vào việc đi tìm giải pháp cho vấn đề hoàn thuế hiện nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32225.doc
Tài liệu liên quan