Luận văn Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá

Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vô cùng gay gắt thì yêu cầu đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là làm thế nào để với một lượng nguyên vật liệu, tiền vốn nhất định có thể tạo ra nhiều sản phẩm, chất lượng và hiệu quả cao nhất. Để có được lợi nhuận phục vụ tái sản xuất mở rộng, mỗi doanh nghiệp phải làm sao hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo được chất lượng, độ thẩm mỹ của sản phẩm.Là một doanh nghiệp xây lắp, việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá là một khâu quan trọng không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của công ty. Qua thời gian thực tập tại công ty, em nhận thấy phần lớn việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý, song đồng thời cũng bộc lộ những thiếu sót nhất định, qua đó em cũng học hỏi được nhiều kiến thức thực tế quý báu.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iền ăn ca của công nhân xây lắp mà chúng được hạch toán vào chi phí sản xuất chung. Tài khoản sử dụng Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp Kế toán sử dụng TK 622 “Chi phí nhân công trực tiếp”: Tài khoản này phản ánh chi phí tiền lương, tiền công phải trả cho số ngày lao động của công nhân trực tiếp thực hiện xây lắp, công nhân phục vụ xây lắp kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật liệu trong phạm vi mặt bằng xây lắp và công nhân chuẩn bị thu dọn hiện trường, không phân biệt nhân công trong danh sách hay nhân công thuê ngoài.Tài khoản này được mở chi tiết cho từng CT, HMCT. Tài khoản này có kết cấu như sau: Bên Nợ: Chi phí nhân công trực tiếp thực tế phát sinh. Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành. Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư. Phương pháp kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu Được khái quát qua sơ đồ sau: (Phụ lục 2 trang 2 phần phụ lục) 4.3. Kế toán tập hợp chi phí sử dụng máy thi công. 4.3.1. Khái niệm Máy móc thi công là các loại máy phục vụ trực tiếp cho sản xuất xây lắp như máy trộn bê tông, cần trục, cần cẩu tháp, máy ủi, máy xúc,...Chi phí sử dụng máy thi công là những chi phí có liên quan trực tiếp đến việc sử dụng xe và máy thi công, bao gồm các loại nguyên, vật liệu xuất dùng cho máy thi công, tiền lương phải trả cho công nhân điều khiển và phục vụ máy thi công, khấu hao máy thi công, tiền thuê máy thi công, chi phí dịch vụ mua ngoài cho sử dụng máy thi công... 4.3.2. Tài khoản kế toán sử dụng Để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy thi công, kế toán sử dụng TK 623 “Chi phí sử dụng máy thi công”: Tài khoản này phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu, nhân công và các khoản chi phí khác bằng tiền có liên quan đến quá trình sử dụng máy thi công cho hoạt động xây lắp công trình. Tài khoản này được mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình và có 6 TK cấp 2 như sau: TK 6231: Chi phí nhân công TK 6232: Chi phí vật liệu TK 6233: Chi phí dụng cụ TK 6234: Chi phí khấu hao máy thi công TK 6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6238: Chi phí bằng tiền khác Phương pháp kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu Trường hợp doanh nghiệp xây lắp có tổ chức đội máy thi công riêng biệt, có tổ chức kế toán riêng. - Khi doanh nghiệp thực hiện theo phương thức cung cấp dịch vụ xe, máy lẫn nhau giữa các đơn vị: Phụ lục 3a (trang 3 phần phụ lục) - Khi doanh nghiệp thực hiện phương thức bán dịch vụ xe, máy lẫn nhau giữa các bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp: Được khái quát qua sơ đồ ở phụ lục 3b (trang 4 phần phụ lục) Trường hợp doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt: Được khái quát qua sơ đồ ở phụ lục 4 (trang 5 phần phụ lục) Trường hợp doanh nghiệp thuê ngoài máy thi công: Được khái quát qua sơ đồ ở phụ lục 5 (trang 6 phần phụ lục) 4.4. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung. 4.4.1. Khái niệm CPSXC bao gồm lương nhân viên quản lý đội xây dựng, tiền ăn giữa ca của nhân viên quản lý đội xây dựng và công nhân quản lý đội xây lắp, khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả cho CNTT xây lắp, nhân viên sử dụng máy thi công, nhân viên quản lý đội, KH TSCĐ dùng chung cho sản xuất của đội, chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền có liên quan cho quá trình phục vụ thi công. CPSXC phải được tập hợp theo từng địa điểm phát sinh chi phí nếu có nhiều đội thi công xây lắp thì CPSXC của đội nào được tập hợp để tính giá thành của đội đó.Trường hợp đội thi công nhiều CT, HMCT thì cần phải tiến hành phân bổ theo những tiêu thức phù hợp. Tài khoản sử dụng Để tập hợp chi phí sản xuất chung kế toán sử dụng TK 627 “chi phí sản xuất chung”: Tài khoản này phản ánh toàn bộ chi phí liên quan đến việc tổ chức quản lý, phục vụ thi công của các đội thi công và ở các công trường.TK này có các TK cấp 2 như sau: TK 6271: Chi phí tiền lương cán bộ quản lý đội TK 6272: Chi phí vật liệu quản lý TK 274: Chi phí khấu hao máy móc TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6278: Chi phí quản lý khác bằng tiền Phương pháp kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu Được khái quát qua sơ đồ sau: (Phụ lục 6 – trang 7 phần phụ lục). 5. Kế toán giá thành sản phẩm xây lắp 5.1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp Do đặc điểm của hoạt động xây lắp và của sản phẩm xây lắp cũng như tuỳ thuộc vào phương thức thanh toán khối lượng xây lắp theo hợp đồng xây dựng, đối tượng tính giá thành có thể là công trình, hạng mục công trình, có thể là các giai đoạn qui ước của hạng mục công trình có dự toán riêng hoàn thành.Việc xác định đúng đối tượng tính giá thành sẽ là cơ sở để tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. 5.2. Phân loại giá thành sản phẩm Trong sản xuất xây lắp, có các loại giá thành sản phẩm sau đây: - Giá thành dự toán: Giá thành dự toán được xác định dựa trên các định mức và đơn gía chi phí do nhà nước qui định và nó nhỏ hơn giá trị dự toán ở khoản thu nhập chịu thuế và thuế GTGT đầu ra. Giá thành dự toán được xác định như sau: Giá thành dự toán CT, HMCT = Giá trị dự toán CT, HMCT - Thu nhập chịu thuế tính trước - Thuế GTGT đầu ra - Giá thành kế hoạch: Là giá thành được xây dựng dựa vào điều kiện cụ thể về định mức, đơn giá, biện pháp tổ chức thi công của từng doanh nghiệp Dựa vào 2 loại giá thành trên, người ta có thể xác định được mức hạ giá thành kế hoạch như sau: Mức hạ giá thành kế hoạch = Giá thành kế hoạch - Giá thành dự toán - Giá thực tế: Được xác định dựa trên các số liệu thực tế, các chi phí sản xuất đã tập hợp để thực hiện khối lượng xây lắp trong kỳ (không bao gồm giá trị thiết bị đưa vào lắp đặt vì các thiết bị này thường do đơn vị chủ đầu tư bàn giao cho đơn vị nhận thầu xây lắp). 5.3. Kỳ tính giá thành sản phẩm xây lắp Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán phải tiến hành công việc tính giá thành cho các sản phẩm xây lắp.Xác định kỳ tính giá thành thích hợp sẽ giúp cho việc tổ chức công tác tính giá thành sản phẩm được hợp lý, khoa học, đảm bảo cung cấp số liệu về giá thành thực tế kịp thời, phát huy được đầy đủ chức năng giám sát tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm của kế toán.Để xác định kỳ tính giá thành thích hợp, kế toán phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất sản phẩm.Căn cứ vào đặc điểm riêng của ngành XDCB mà kỳ tính giá thành có thể được xác định như sau: - Đối với các sản phẩm được sản xuất liên tục, cung cấp cho những đối tượng khác nhau liên tục, chu kỳ sản xuất ngắn như gạch, ngói…thì kỳ tính giá thành là một tháng. - Đối với các sản phẩm theo đơn đặt hàng có thời gian sản xuất thi công dài, công viếc được coi là hoàn thành khi kết thúc mọi công việc trong đơn đặt hàng thì khi hoàn thành toàn bộ đơn đặt hàng mới tính giá thành. - Đối với CT, HMCT lớn, thời gian thi công dài thì chỉ khi nào có một bộ phận hoàn thành có giá trị sử dụng được nghiệm thu, bàn giao, thanh toán thì mới tính giá thành thực tế bộ phận đó. - Đối với những công trình xây dựng, lắp đặt máy móc thiết bị có thời gian thi công nhiều năm mà không tách ra được từng bộ phận công trình nhỏ đưa vào sử dụng thì khi từng bộ phận xây lắp đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý, theo thiết kế kỹ thuật có ghi trong hợp đồng thi công sẽ được bàn giao thành toán thì DNXL tính giá thành thực tế cho khối lượng bàn giao. - Ngoài ra, với công trình lớn, thời gian thi công dài, kết cấu phức tạp… thì kỳ tính giá thành của doanh nghiệp có thể được xác định là hàng quý. 5.4. Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp Việc tính giá thành sản phẩm xây lắp phải thực hiện theo từng công trình, hạng mục công trình và theo từng khoản mục. Để tính được giá thành sản phẩm, tuỳ theo từng điều kiện cụ thể kế toán có thể áp dụng các phương pháp sau: Phương pháp tính giá thành giản đơn Giá thực tế KLXL hoàn thanh bàn giao = CP thực tế dở dang đầu kỳ + CP thực tế phát sinh trong kỳ - CP thực tế dở dang cuối kỳ Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng: Phương pháp này áp dụng thích hợp trong trường hợp doanh nghiệp nhận thầu xây lắp theo đơn đặt hàng.Khi đó, đối tương tập hợp CPSX và đối tượng tính giá thành là từng đơn đặt hàng.Theo phương pháp này CPSX thực tế phát sinh được tập hợp theo từng đơn đặt hàng và khi nào hoàn thành công trình thì CPSX tập hợp được cũng chính là giá trị thực tế của đơn đặt hàng đó Phương pháp tính giá thành theo định mức: Phương pháp này áp dụng thích hợp đối với những doanh nghiệp xây dựng thoả mãn các yêu cầu sau: Phải tính được giá thành định mức trên cơ sở các định mức và đơn giá tại thời điểm tính giá thành.Vạch ra một cách chính xác các thay đổi về định mức trong quá trình thực hiện thi công công trình.Xác định được các chênh lệch so với định mức và nguyên nhân gây ra chênh lệch đó. 5.5. TK kế toán sử dụng Để tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp, kế toán sử dụng TK 154, TK 154 được mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình, hoặc các giai đoạn công việc của công trình, hạng mục công trình có dự toán riêng hoàn thành. 5.6.Phương pháp kế toán một số nghiệp vụ kinh tế chủ yếu Được khái quát theo sơ đồ phụ lục 7 (trang 8 phần Phụ lục) Phần II Thực trạng công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty Cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá. I. Tổng quan về công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá 1. Giới thiệu chung Tên công ty: CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ VĂN HOÁ Tên quốc tế: CONSTRUCTION TRADE AND CULTURE SERVICES JOINT STOCK COMPANY Tên viết tắt: CTS Trụ sở chính: số 128C Đại La - phường Đồng Tâm - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội Đăng ký kinh doanh số: 0103012519 Số tài khoản: Tại ngân hàng công thương II Hai Bà Trưng Hà nội:110021210011 Tại chi nhánh ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Thăng Long: 1300311005247 Mã số thuế: 0100111874 Các chi nhánh: có 3 chi nhánh: Chi nhánh 1: Tại thành phố Thái Nguyên tỉnh Thái Nguyên Chi nhánh 2: Tại thành phố Hải Phòng Chi nhánh 3: Chi nhánh miền Trung tại thành phố Vinh - Nghệ An 2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Tiền thân là từ đội công trình trực thuộc Uỷ ban phát thanh và truyền hình Việt Nam, đến 21/2/1986 nâng cấp thành Công ty xây dựng và sửa chữa nhà cửa theo quyết định số 54/QĐ - UBPTTH của chủ nhiệm Uỷ ban phát thanh và truyền hình Việt Nam và đến năm 1987 chuyển về Bộ Văn hoá – Thông tin. Theo quyết định số 301/ QĐ ngày 25/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin và thông báo số 60 ngày 14/3/1993 của văn phòng Chính Phủ: Công ty xây dựng và sửa chữa nhà cửa Bộ Văn hoá – Thông tin là doanh nghiệp nhà nước được thành lập lại theo Nghị định 388/NĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính Phủ). Theo Quyết định số 8383/QĐ-BVHTT ngày 08/11/2005 của Bộ trưởng Bộ Văn hoá – Thông tin về việc phê duyệt phương án cổ phần và chuyển công ty xây dựng và sửa chữa nhà cửa thành công ty Cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá. Ngày 02/06/2006 Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá hoạt động theo giấy đăng ký kinh doanh số 0103012519 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp. 3. Nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức quản lý của công ty 3.1. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh Về xây dựng cơ bản: - Xây dựng, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp các các công trình xây dựng, công nghiệp, công trình văn hoá thông tin và các nghành nghề khác, tu bổ, phục chế các di tích. - Xây dựng các công trình phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị và nông thôn. - Trang trí nội thất, ngoại thất, tạo cảnh quan kiến trúc, lắp đặt điện nước thiết bị công trình. - Xử lý, cấp nước sạch sinh hoạt và xử lý nước thải. - Lập dự án, tư vấn, giám sát, thiết kế tổng mặt bằng, kiến trúc nội, ngoại thất: đối với công trình xây dựng dân dựng và công nghiệp. - Sản xuất kinh doanh dụng cụ, vật tư, vật liệu xây dựng. Về Thương mại, dịch vụ: Kinh doanh các loại vật tư hàng hoá phục vụ nền kinh tế quốc dân. Xúc tiến chuyển giao công nghệ, dạy nghề, giới thiệu việc làm. Tư vấn khai thác các nguồn vốn cho các dự án đầu tư. Kinh doanh cho thuê văn phòng. Tổ chức các hoạt động dịch vụ vui chơi, giải trí, văn hoá, thể thao và du lịch theo qui định của pháp luật. 3.2. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Cơ cấu tổ chức: Công ty cổ phẩn CTS tổ chức quản lý theo mô hình công ty cổ phần theo luật Doanh nghiệp có: - Đại hội cổ đông: gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết và là cơ quan quýêt định cao nhất của công ty cổ phần. - Hội đồng quản trị: Là cơ quan quản lý của công ty, có quỳên nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội cổ đông. - Ban kiểm soát: Là người thay mặt các cổ đông để kiểm soát mọi hoạt động kinh doanh, quản trị, điều hành của công ty. - Ban giám đốc: Là cơ quan điều hành cao nhất, điều hành mọi hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhịêm trước hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Sơ đồ tổ chức bộ máy (Phụ lục 8 trang 9 phần phụ lục) 4. Tình hình và kết quả kinh doanh của công ty một số năm gần đây: Năm 2007 là năm có rất nhiều khó khăn và thách thức của năm đầu hoạt động theo Luật doanh nghiệp và nghị quyết của Đại hôi cổ đông thường niên lần thứ nhất, với sự đồng thuận trong hội đồng quản trị, Ban giám đốc, sức mạnh đoàn kết nội bộ và sự cố gắng của toàn thể nhân viên trong công ty nhằm đẩy mạnh và phát triển sản xuất kinh doanh đã tháo gỡ được một phần những khó khăn đó. Sau đây là một số kết quả SXKD công ty đã đạt được trong năm qua: Doanh thu từ SXKD năm 2006 và năm 2007: Đơn vị tính: Đồng STT Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 1 DT xây lắp 8.765.985.000 27.936.075.800 2 DT dịch vụ 1.784.678.500 5.315.182.000 3 Thanh lý dụng cụ 6.875.000 28.751.000 4 Thu từ hoạt động tài chính 70.690.000 228.007.000 5 Thu khấu hao nội bộ 8.095.000 22.500.000 6 Tổng LN sau thuế 5.876.000.000 15.126.458.000 Sản xuất kinh doanh năm 2007 đã đạt được một số hiệu quả đáng kể, các chỉ tiêu đều đạt và vượt: Xây dựng sửa chữa vượt 16 tỷ đồng, dịch vụ vượt 1 tỷ đồng, sản lượng chuyển sang 2008 là 21,2 tỷ đồng có cơ sở đảm bảo SXKD. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông thường niên lần thứ nhất (12/4/2007) công ty đã tập trung các nguồn lực để tạm giải quyết khoản nợ tồn đọng Ngân hàng công thương II Hai Bà Trưng trước tháng 6/2003 để lại là 5,4 tỷ đồng. Đây là khó khăn lớn nhất của công ty mà Hội đồng quản trị, ban lãnh đạo công ty phải tập trung giải quyết đến tháng 11/2007 mới xong.Tình hình SXKD của công ty đã dần đi vào ổn định và tốc độ tăng trưởng duy trì tăng 30% trong 3 năm liền. 5. Tổ chức bộ máy kế toán tại công ty Nhiệm vụ cụ thể của phòng Tài chính kế toán - Kế toán trưởng: Phụ trách toàn bộ công việc kế toán, phân công, lãnh đạo trực tiếp tất cả nhân viên kế toán tại công ty, tổ chức công tác kế toán, công tác thống kê của công ty. Tổ chức phổ biến và hướng dẫn thi hành các chế độ, thể lệ tài chính kế toán của Nhà nước và các quy định của cấp trên. - Kế toán tổng hợp: Làm tổng hợp, theo dõi tiêu thụ và thu nhập, kế toán thanh toán với người mua, các khoản phải thu, phải trả, các khoản thanh toán với ngân sách nhà nước, đến kỳ hạch toán có nhiệm vụ tổng hợp số liệu, tính giá thành và lập báo cáo tài chính. - Kế toán tiền lương, bảo hiểm: Có nhiệm vụ căn cứ vào bảng tổng hợp thanh toán tiền lương và phụ cấp do các đội chuyển lên để lập các bảng tổng hợp thanh toán lương cho các đội, các phòng ban trong công ty, lập bảng phân bổ tiền lương và BHXH. - Kế toán vật tư và TSCĐ: Tổng hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, có nhiệm vụ ghi chép và phản ánh tình hình biến động các loại vật tư và TSCĐ, đồng thời có nhiệm vụ tập hợp chi phái sản xuất, từ đó tính giá thành sản phẩm. - Kế toán thuế: Theo dõi các khoản thuế và các khoản phải nộp ngân sách Nhà nước. Ngoài ra dưới mỗi xưởng còn có một kế toán viên Sơ đồ tổ chức bộ máy kế toán tại công ty (Phụ lục 9 trang 9 phần phụ lục) 6. Chính sách kế toán áp dụng tại công ty. Hiện nay công ty đang áp dụng Chế độ Kế toán Doanh nghiệp Việt Nam theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ban hành ngày 20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính và các chuẩn mực kế toán, kiểm toán do Bộ Tài Chính ban hành - Hình thức kế toán sử dụng: Hình thức mà công ty sử dụng là là hình thức nhật ký chung (Phụ lục 8) - Đơn vị tiền tệ sử dụng trong kế toán là Đồng Việt Nam (VNĐ) - Công ty đang thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ, kê khai theo tháng. - Công ty nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 28 % trên thu nhập chịu thuế. Cuối quý công ty lập các loại báo cáo tài chính sau: - Bảng cân đối kế toán - Báo cáo kết quả kinh doanh - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ II. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty Cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá 1. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất tại công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá. 1.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất tại công ty. Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá có đặc điểm: sản xuất theo đơn đặt hàng, sản phẩm có tính đơn chiếc, quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian sản xuất kéo dài. Do đó, đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất được Công ty xác định là từng công trình (hạng mục công trình) đồng thời tuân theo quy định hiện hành về phương pháp hạch toán hàng tồn kho trong xây lắp, Công ty sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên. 1.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất tại công ty. Công ty sử dụng phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trực tiếp, theo phương pháp này các chi phí có liên quan trực tiếp tới công trình nào thì được tập hợp trực tiếp cho công trình đó. Mỗi công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành bàn giao đều được mở riêng một sổ chi tiết chi phí sản xuất để tập hợp chi phí sản xuất thực tế phát sinh cho công trình (hạng mục công trình) đó, đồng thời cũng để thuận tiện cho việc tính gía thành công trình. Kế toán căn cứ vào số liệu để định khoản và ghi vào sổ này là các chứng từ gốc phát sinh và được chi tiết theo các khoản mục sau: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp - Chi phí nhân công trực tiếp - Chi phí sử dụng máy thi công - Chi phí sản xuất chung Cuối mỗi quý, từ các sổ chi tiết chi phí sản xuẩt được tập hợp theo từng tháng, kế toán tiến hành lập bảng tổng hợp chi phí sản xuất cả quý. Việc tập hợp chi phí sản xuất theo phương pháp này tạo điều kiện cho việc tính giá thành sản phẩm dễ dàng theo từng công trình (hạng mục công trình). Trong bài viết này, công trình nhà làm việc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam do công ty tiến hành thi công trong năm 2007 sẽ được chọn làm ví dụ minh hoạ cho kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. 1.3. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất tại công ty 1.3.1. Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Công ty thực hiện cơ chế khoán gọn từng phần việc cụ thể, không khoán gọn toàn công trình. Do đó, tất cả các chứng từ khi phát sinh ở công trình, kế toán xí nghiệp phải lưu lại, có trách nhiệm phân loại chứng từ, định khoản các nghiệp vụ phát sinh, định kỳ thực hiện việc tổng hợp, cộng số liệu vào các bảng tổng hợp của riêng công trình rồi gửi về phòng kế toán của công ty. Phòng kế toán sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ, bảng biểu do kế toán các xí nghiệp gửi lên, sau đó vào sổ nhật ký chung, vào sổ Cái các tài khoản liên quan và sổ chi tiết các tài khoản. Khi xuất kho, thủ kho ghi số thực xuất lên phiếu xuất kho rồi ký giao cho nhân viên vận chuyển hoặc đội xây dựng.Hàng tháng, từ các phiếu xuất kho như trên, kế toán công trình lập bảng kê chi tiết vật tư xuất dùng rồi gửi về phòng kế toán của công ty. Hàng ngày, căn cứ vào các chứng từ được dùng làm căn cứ ghi sổ như: Phiếu xuất kho, biên bản giao nhận vật tư, Hoá đơn mua hàng,….kế toán phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ Nhật ký chung theo trình tự thời gian rồi sau đó phản ánh vào sổ Cái các tài khoản phù hợp. Trong tháng 12 năm 2007 có các ngiệp vụ kinh tế liên quan đến chi phí NVLTT phục vụ công trình nhà làm việc liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam như sau: - Căn cứ vào phiếu xuất kho ngày 10 tháng 12 năm 2007 (phụ lục 11– trang 11), kế toán ghi: Nợ TK 621(CT nhà làm việc) 33.250.000đ Có TK 152 33.250.000đ - Trường hợp vật tư mua về không nhập kho mà chuyển thẳng đến công trình, căn cứ vào biên bản giao nhận vật tư ngày 15 tháng 12 năm 2007 (phụ lục 12 – trang 12), kế toán ghi: Nợ TK 621 (CT nhà làm việc): 10.500.000 đ Nợ TK 133: 1.050.000 đ Có TK 331: 11.550.000 đ - Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp ở công trình nhà làm việc sang tài khoản 154 để tính giá thành sản phẩm xây lắp như sau: Nợ TK 154 (CT nhà làm việc): 1.230.288.000 đ Có TK 621 (CT nhà làm việc): 1.230.288.000 đ 1.3.2. Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp Hiện nay, lực lượng lao động ở công ty gồm 2 loại: CNV chính trong danh sách (biên chế) và CNV chính ngoài danh sách (công nhân thuê ngoài).Bộ phận CNV chính trong danh sách gồm công nhân trực tiếp sản xuất và lao động gián tiếp (nhân viên kỹ thuật, nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý hành chính).Đối với công nhân trực tiếp sản xuất, Công ty áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm, đối với lao động gián tiếp sản xuất, Công ty trả lương khoán theo công việc của từng người (có quy chế trả lương riêng dựa theo cấp bậc, năng lực và công việc thực tế hoàn thành của từng người). Đối với bộ phận CNV chính trong danh sách, Công ty tiến hành trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo đúng quy định hiện hành. Cụ thể là: - 15 % BHXH tính theo lương cơ bản - 2 % BHYT tính theo lương cơ bản. - 2 % KPCĐ tính theo lương thực tế. Đối với bộ phận CNV chính ngoài danh sách, công ty không tiến hành trích các khoản BHXH, BHYT theo tháng mà đã tính toán trong đơn giá nhân công trả trực tiếp cho người lao động.Còn riêng KPCĐ, công ty vẫn trích như CNVC trong danh sách. Chứng từ ban đầu để hạch toán tiền lương là hợp đồng giao khoán, biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng, các bảng chấm công của các đội sản xuất trong đơn vị. Tại các đội, căn cứ vào ngày công làm việc và năng suất lao động của từng người, chất lượng và hiệu quả công việc, cấp bậc hiện tại để tính lương cho từng cá nhân trong tháng. Cuối tháng, kế toán căn cứ vào các hợp đồng làm khoán, bảng thanh toán khối lượng thuê ngoài, bảng chấm công của các tổ, đội để tính toán chia lương cho từng người theo một trong hai cách: chia theo công hoặc chia theo hệ số, rồi sau đó tổng hợp lên bảng thanh toán tiền lương cho tổ, bộ phận.Dựa trên bảng tổng hợp thanh toán tiền lương cho các đội theo bảng trên, kế toán lương của công ty lập bảng trích và phân bổ BHXH, BHYT, KPCĐ cho các công trình, phần này được tính vào chi phí kinh doanh. Căn cứ vào bảng thanh toán tiền lương, kế toán lập bảng tổng hợp thanh toán tiền lương cho từng công trình và lấy đó làm cơ sở để hạch toán chi phí tiền lương cho từng công trình.Định kỳ hàng tháng, khi nhận được chứng từ do các đội chuyển lên phòng kế toán, dựa vào bảng thanh toán lương, kế toán ghi sổ Nhật ký chung theo định khoản. - Căn cứ vào chứng từ biên bản nghiệm thu để xác định giá trị tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất tổ Nề 1 (Phụ lục 16 trang 17 phần Phụ lục), kế toán ghi: Nợ TK 622 (CT nhà làm việc) 9.519.000 đ Có TK 334 9.519.000 đ - Khi thanh toán tiền lương cho công nhân thuê ngoài, kế toán ghi: Nợ TK 334 3.703.500 đ Có TK 111 3.703.500 đ - Căn cứ vào bảng trích và phân bổ BHXH tháng 12/2007 (Phụ lục 17 trang 17 phần phụ lục), kế toán ghi: Nợ TK 622 (CT nhà làm việc): 1.143.040 đ Có TK 338: 1.143.040 đ (- TK 3382 902.400 đ - TK 3383 120.320 đ - TK 3384 120.320 đ) - Cuối tháng kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp: Nợ TK 154 (CT nhà làm việc) 316.359.700 đ Có TK 622 (CT nhà làm việc) 316.359.700 đ Sau khi lập bảng thanh toán tiền lương cho từng bộ phận, kế toán tiến hành lập bảng tổng hợp thanh toán lương của các tổ trong công trình. Trên đó, kế toán đã tính toán các khoản trích BHXH, BHYT tính vào chi phí sản xuất trong tháng Kế toán tiền lương của công ty sau khi lập bảng tổng hợp thanh toán tiền lương của toàn công ty trên cơ sở các bảng tổng hợp tiền lương của các công trình gửi lên, sẽ tiến hành nạp số liệu vào máy tính, lên sổ Nhật ký chung và sổ Cái tài khoản 622, 334, 338… 1.3.3. Kế toán tập hợp chi phí sử dụng máy thi công Công ty sử dụng hình thức thuê máy kèm theo công nhân điều khiển và phục vụ máy cho các công trình. Khi có nhu cầu thuê máy phục vụ công trình, giám đốc xí nghiệp đứng ra ký hợp đồng với bên cho thuê, căn cứ vào đó kế toán xí nghiệp tiến hành tổng hợp số liệu, phân loại chứng từ và định khoản các nghiệp vụ. Định kỳ, kế toán xí nghiệp gửi bảng tổng hợp chi phí thuê máy thi công về phòng kế toán của công ty để vào sổ sách liên quan.Khi công việc hoàn thành, máy thi công và chi phí thuê máy thi công được tính gọn vào một khoản trong hợp đồng thuê máy và tính riêng cho từng công trình.Kế toán đội thi công tập hợp các chứng từ gốc thuê thiết bị gồm: Hợp đồng thuê máy, biên bản thanh lý hợp đồng gửi lên phòng kế toán. Máy thi công thuê ngoài dùng cho công trình nào thì tập hợp trực tiếp cho công trình đó nên không phân bổ. - Khi thanh lý hợp đồng thuê ngoài máy thi công căn cứ vào biên bản thanh lý hợp đồng (Phụ lục 21 – trang 22), kế toán ghi: Nợ TK 623 (CT nhà làm việc): 42.300.000 đ Nợ TK 133: 1.125.000 đ Có TK 111: 43.425.000 đ - Cuối kỳ, kết chuyển vào tài khoản 154 theo từng đối tượng: Nợ TK 154 43.425.000 đ Có TK 623(CT nhà làm việc) 43.425.000 đ Trên cơ sở các chứng từ dưới các công trình chuyển lên phòng kế toán của công ty, kế toán tiến hành ghi sổ nhật ký chung và vào sổ cái các tài khoản liên quan. Từ sổ nhật ký chung, kế toán tiến hành vào sổ cái và sổ chi tiết tài khoản 623. 1.3.4. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết cho quá trình sản xuất sản phẩm ngoài 3 khoản mục trên.Các chi phí này chiếm tỷ trọng không lớn trong giá thành sản phẩm nhưng không thể thiếu trong quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí này bao gồm: Chi phí nhân viên xí nghiệp, ban chủ nhiệm công trình, chi phí nhân viên quản lý đội, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ Chi phí vật liệu, CCDC dùng cho sản xuất thuộc phạm vi phân xưởng, tổ, đội. Chi phí khấu hao TSCĐ Chi phí dịch vụ mua ngoài Chi phí khác bằng tiền Các chứng từ gốc để hạch toán chi phí sản xuất chung là bảng thanh toán lương của nhân viên quản lý đội, phiếu xuất kho vật tư CCDC, bảng phân bổ khấu hao TSCĐ, thiết bị văn phòng đội… căn cứ vào các chứng từ gốc này, kế toán tiến hành định khoản vào sổ Nhật ký chung. - Khi tính lương của bộ phận quản lý, kế toán ghi: Nợ TK 627 (6271) 8.956.000 đ Có TK 334 7.480.000 đ Có TK 338 1.476.000 đ - Xuất vật liệu phục vụ công trình, kế toán ghi: Nợ TK 627 (6272) 81.000.000đ Có TK 152 81.000.000 đ - Phân bổ khấu hao TSCĐ tháng 12/2007 Nợ TK 627 (6274) 2.476.000 đ Có TK 214 2.476.000 đ - Khi thanh toán tiền mua văn phòng phẩm, kế toán ghi : Nợ TK 627 (6277) 1.240.000 đ Nợ TK 133 124.000 đ Có TK 111 1.364.000 đ Cuối kỳ, kế toán tập hợp chi phí sản xuất chung vào bảng tổng hợp chi phí sản xuất chung (Phụ lục 25 trang 25) để khớp đúng số liệu trên sổ cái tài khoản 627. Dựa trên bảng tổng hợp chi phí sản xuất chung cho toàn bộ các công trình mà đội tham gia thi công, kế toán tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung cho từng công trình theo chi phí nhân công trực tiếp (Phụ lục 26) Chi phí sản xuất chung phân bổ cho công trình A Tổng chi phí sản xuất chung trong kỳ Tổng chi phí nhân công trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp của công trình A = x Như vậy, theo tiêu thức phân bổ trên, kế toán phân bổ chi phí sản xuất chung cho công trình Nhà làm việc liên hiệp các tổ chức hữu nghị VN tổ chức hữu nghị Việt Nam như sau: Chi phí sản xuất chung phân bổ cho CT nhà l àm việc 877.586.490 3.098.180.500 316.359.700 = x 89.611.630 đ = Đồng thời kế toán tiến hành định khoản như sau: Nợ TK 154 (CT nhà làm việc): 89.611.630 đ Có TK 627 (CT nhà làm việc): 89.611.630 đ 1.3.5. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất Tại công ty, đối tượng tập hợp chi phí các công trình, chi phí sản xuất liên quan đến công trình nào thì được tập hợp trực tiếp vào công trình đó trên các sổ sách kế toán.Giá trị công trình hoàn thành trong quý được xác định theo phương pháp tổng hợp chi phí phát sinh từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành ở sổ chi tiết các khoản mục chi phí để tính giá thành.Cuối quý, tập hợp chi phí sản xuất từng công trình, kế toán thực hiện bước kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công và chi phí sản xuất chung đã được phân bổ cho công trình đó. Bút toán kết chuyển chi phí sản xuất công trình nhà làm việc liên hiệp các tổ chức hữu nghị VN được thực hiện như sau: Nợ TK 154 (CT nhà làm việc) 1.759.288.120 Có TK 621 (CT nhà làm việc) 1.230.288.000 Có TK 622 (CT nhà làm việc) 316.359.700 Có TK 623 (CT nhà làm việc) 123.028.790 Có TK 627 (CT nhà làm việc) 89.611.630 Kế toán tổng hợp sau khi lấy số liệu để vào sổ Nhật ký chung thì tiến hành ghi vào sổ cái và sổ chi tiết TK 154 của toàn bộ công trình nhà làm việc (Phụ lục 28 trang 29 v à phụ lục 29 trang 30) Hàng quý, kế toán tổng hợp lấy số liệu trên sổ chi tiết từng công trình để lập sổ tổng hợp chi phí thi công toàn đơn vị. Qua sổ này công ty có thể theo dõi đánh giá toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ đã bỏ ra. 3. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang ở công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá 3.1. Kiểm kê sản phẩm dở dang Xuất phát từ đặc điểm của công trình xây dựng là có khối lượng, giá trị lớn, thời gian thi công lâu dài, vì vậy, hiện nay các công trình hay HMCT thường được thanh quyết toán theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý. Từ lý do trên đòi hỏi khi hạch toán tiêu thụ từng phần của một công trình lớn thì cần thiết phải xác định được chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ. Khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ là khối lượng chưa được nghiệm thu và chưa được bên A chấp nhận thanh toán. Cuối mỗi quý, cán bộ thi công các công trình tiến hành kiểm kê các khối lượng thi công dở dang chưa được bên A chấp nhận thanh toán (có xác nhận của bên A- Chủ đầu tư, hoặc của phòng quản lý khối lượng của công ty).Sau đó, kế toán công trình sẽ lấy đơn giá dự toán nhân với khối lượng dở dang đã được kiểm kê, tính toán để tính ra giá trị dự toán của từng khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ cho công trình. 3.2. Đánh giá sản phẩm dở dang Do đặc thù của sản phẩm xây lắp là khối lượng lớn, kết cấu phức tạp, thời gian thi công kéo dài nên để phù hợp với yêu cầu quản lý, kế toán tiến hành đánh giá sản phẩm dở dang theo quý.Với các công trình chưa hoàn thành hay chưa đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý, phòng kỹ thuật xác định khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ cho từng công trình cụ thể, bằng cách lắp đơn giá dự toán phù hợp với từng công trình để tính ra chi phí của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ theo công thức : Chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ Chi phí thực tế khối lượng xây lắp dở dang đầu kỳ Chi phí thực tế khối lượng xây lắp trong kỳ Giá trị dự toán KLXL hoàn thành bàn giao cuối kỳ Giá trị dự toán KL xây lắp dở dang cuối kỳ Giá trị dự toán KL xây lắp dở dang cuối kỳ = + + x Đối với công trình nhà làm việc các tổ chức hữu nghị Việt Nam, đến 31/12 năm 2007 đã hoàn thành chờ bàn giao nên không có chi phí khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ 4. Tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty Cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá 4.1. Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty. Ở Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá, đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất đồng thời cũng là đối tượng tính giá thành, cụ thể đó là công trình hay HMCT hoàn thành bàn giao giữa chủ đầu tư và đơn vị thi công. 4.2. Phương pháp tính giá thành Công ty áp dụng phương pháp tính giá thành giản đơn cho từng công trình, hạng mục công trình. Toàn bộ chi phí thực tế phát sinh của từng công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành bàn giao chính là giá thành thực tế của khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao trong kỳ. Sau khi tập hợp chi phí sang TK154, kế toán tiến hành tính giá thành sản phẩm, song do công ty không sử dụng TK 632 để xác định giá vốn của công trình hoàn thành mà kết chuyển ngay sang TK 911 để xác định kết quả nên khi khối lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành bàn giao, kế toán ghi: Nợ TK 911 (CT nhà làm việc) 3.295.383.120 Có TK 154 (CT nhà làm việc) 3.295.383.120 Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao trong kỳ được xác định theo công thức sau: Chi phí thực tế khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ Chi phí khối lượng xây lắp phát sinh trong kỳ Chi phí thực tế khối lượng xây lắp dở dang đầu kỳ Giá thành thực tế khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao trong kỳ _ + = Giá thành thực tế CT NLV = 1.536.550.000 + 1.759.288.120 = 3.295.383.120 Bảng tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm công trình nhà làm việc của liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam của công ty được thể hiện qua bảng tổng hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm xây lắp: (phụ lục 30 trang 31) Phần III Hoàn thiện kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại công ty Cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá I. Đánh giá chung về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá Trải qua hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá không ngừng lớn mạnh cả về quy mô cơ cấu lẫn chất lượng sản phẩm, cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Cùng với sự nỗ lực phấn đấu của ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ công nhân viên, công ty đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Với hoạt động chủ yếu là xây dựng, công ty đã khẳng định được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, tạo được việc làm cho người lao động và đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước. 1. Những thành tựu đạt được Về mô hình tổ chức bộ máy quản lý Công ty đã chủ động xây dựng một mô hình quản lý, hạch toán khoa học hợp lý, phù hợp với nền kinh tế thị trường.Với bộ máy quản lý phù hợp, các phòng ban chức năng của công ty cũng như các tổ đội đã phối hợp chặt chẽ với nhau phục vụ có hiệu quả cho lãnh đạo công ty trong việc giám sát quá trình thi công, quản lý kinh tế. Bộ máy kế toán được tổ chức tương đối chặt chẽ, hoàn chỉnh tạo thành một sự thống nhất với đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn cao, nỗ lực trong công việc được bố trí phù hợp với khả năng của mỗi người. Nhờ vậy, mọi chi phí phát sinh đều được tính toán, phân tích, phục vụ cho công tác tính giá thành kịp thời và cung cấp thông tin cho quản lý. Về hình thức sổ công ty áp dụng Hình thức sổ kế toán Công ty sử dụng hiện nay tương đối đầy đủ theo quy định của chế độ kế toán nhà nước hiện hành. Việc lựa chọn hình thức sổ “Nhật ký chung” trong tổ chức hạch toán kế toán là phù hợp với quy mô hoạt động và đặc thù ngành nghề kinh doanh của công ty. Mặt khác, việc sử dụng hình thức sổ kế toán này còn giúp cho đội ngũ nhân viên kế toán làm việc đơn giản, không mất nhiều thời gian, đồng thời khi có sai sót xảy ra, các kế toán viên dễ phát hiện, kiểm tra và lọc chứng từ được nhanh chóng. Về đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Một trong những ưu điểm nổi bật trong việc tính giá thành sản phẩm của công ty là việc xác định đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành là từng đơn đặt hàng, từng công trình hay HMCT. Sự phù hợp giữa đối tượng hạch toán chi phí và đối tượng tính giá thành là cơ sở giúp cho việc tính giá thành được đơn giản mà vẫn bảo đảm tính chính xác cao sử dụng phương pháp này rất phù hợp với đặc điểm xây lắp của công ty. Nhìn chung việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm đã đáp ứng được yêu cầu quản lý mà công ty đặt ra, đảm bảo sự thống nhất về phạm vi, phương pháp tính toán và các bộ phận liên quan.Công ty đã áp dụng hình thức giao khoán xuống các đội xây lắp, đây là hình thức tổ chức phù hợp với đặc điểm và tình hình sản xuất của công ty. Về việc hạch toán lương và các khoản trích theo lương Đối với công nhân trực tiếp sản xuất, công ty áp dụng hình thức trả lương theo sản phẩm, người nào làm nhiều thì lương cao tính tỷ lệ với sản phẩm đã làm ra, đối với lao động gián tiếp sản xuất, công ty trả lương khoán cho công việc của từng người. Hình thức trả lương này hoàn toàn phù hợp với cơ chế hiện nay, ngoài ra, ở công ty còn có chế độ lương thưởng, phụ cấp nhằm khuyến khích công nhân làm việc tăng năng suất lao động. Đối với việc trích BHXH, BHYT, KPCĐ, công ty đã tiến hành trích tỷ lệ % theo đúng quy định. Về việc sử dụng hệ thống chứng từ, sổ sách Nói chung, hệ thống chứng từ sổ sách của công ty tương đối đầy đủ, phù hợp với chế độ, đa dạng, nhất là các chứng từ về vật tư, do đặc điểm của ngành xây dựng liên quan đến quá trình mua bán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ … để phục vụ cho các công trình. 2. Những tồn tại cần khắc phục Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nổi bật trong công tác quản lý và hạch toán chi phí tính giá thành sản phẩm, ở Công ty vẫn còn một số những tồn tại nhất định gây ảnh hưởng không nhỏ đến giá thành sản phẩm nói riêng và công tác kế toán của công ty nói chung. Về mô hình tổ chức bộ máy kế toán. Với cơ cấu tổ chức bộ máy kế toán đơn giản, chỉ gồm 5 nhân viên kế toán văn phòng, mỗi kế toán viên kiêm nhiệm quá nhiều công việc, dẫn đến công việc cuối tháng chưa giải quyết xong dễ bị tồn lại, mặt khác, việc một kế toán viên phụ trách nhiều công việc như vậy sẽ dẫn đến sai sót số liệu. Dưới các xí nghiệp chỉ có một kế toán xí nghiệp làm việc, không có kế toán đi theo bám sát từng công trình, vì vậy, việc gian lận của các kế toán xí nghiệp rất dễ xảy ra, đồng thời việc bố trí như vậy cũng ảnh hưởng đến quá trình luân chuyển chứng từ của công ty. Hiện nay, phòng kế toán của Công ty được tổ chức theo mô hình kế toán tập trung, nhưng trên thực tế, công ty lại hạch toán sổ sách theo mô hình tập trung nửa phân tán, toàn bộ chứng từ ban đầu đều được các kế toán xí nghiệp tập trung phân loại, tổng hợp số liệu, định khoản các nghiệp vụ phát sinh, định kỳ kế toán xí nghiệp mới chuyển chứng từ và các bảng tổng hợp số liệu liên quan về phòng kế toán, phòng kế toán chỉ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ đó rồi tiến hành lên sổ Nhật ký chung, sổ cái và sổ chi tiết các tài khoản. Như vậy, việc hạch toán theo mô hình kế toán tập trung là không nhất quán và thống nhất. Về việc sử dụng hệ thống chứng từ, sổ sách kế toán. Công ty không có bảng phân bổ vật tư mà chỉ có Bảng kê tổng hợp vật tư xuất dùng, bảng kê này tuy rằng tổng hợp được số liệu cuối tháng nhưng không thể hiện được nội dung kinh tế của bảng phân bổ. Vì ở bảng kê tổng hợp, những số liệu đó chỉ phản ánh quá trình tổng hợp chi phí về vật tư phát sinh trong kỳ mà không phản ánh được quá trình phân bổ vật tư cho các đối tượng tập hợp chi phí có liên quan trong trường hợp vật tư đó xuất dùng cho nhiều đối tượng và không thể tập hợp trực tiếp 2.3. Về kế toán chi phí nhân công trực tiếp. Theo chế độ tài chính hiện hành, quy định việc hạch toán các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất xây lắp không được hạch toán vào tài khoản 622, mà phải hạch toán vào TK 627 đối với các doanh nghiệp xây lắp. Tuy nhiên ở Công ty, để công việc định khoản tiến hành đơn giản đồng thời việc trả lương cho công nhân không phức tạp, dễ hiểu, tránh nhầm lẫn, công ty đã hạch toán các khoản trên khác với chế độ. Điều này, một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho công ty ở nhiều khía cạnh, nhưng mặt khác, nó cũng làm ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế của công ty, ví dụ với các cơ quan thuế, các cơ quan kiểm toán và các cơ quan chức năng khác… 2.4. Về kế toán chi phí sử dụng máy thi công Việc xác định chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm dựa trên chi phí phát sinh của các tài khoản 621, 622, 623, 627 nhưng tài khoản 623- chi phí sử dụng máy thi công ở công ty là đi thuê, thuê trọn gói toàn bộ chi phí máy và chi phí công nhân điều khiển. Việc đi thuê máy thi công như vậy sẽ rất tốn kém, vì mỗi một công trình thường tiến hành thi công trong thời gian dài, có khi có công trình đến vài ba năm. Về việc phân bổ chi phí sản xuất chung Hiện nay, Công ty tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung theo chi phí nhân công trực tiếp việc phân bổ theo tiêu thức này sẽ gây ra tình trạng chi phí chung phân bổ cho từng công trình không được phản ánh chính xác dẫn đến sự sai lệch trong giá thành sản phẩm vì có những công trình mặc dù khối lượng nhỏ nhưng đòi hỏi tiến độ thi công nhanh nên công ty phải huy động lực lượng nhân công lớn. Do đó, việc phân bổ theo tiêu thức chi phí nhân công trực tiếp không đảm bảo được tính đúng đắn của chế độ, đồng thời ảnh hưởng khá lớn đến việc tính giá thành sản phẩm. Về bút toán kết chuyển giá vốn công trình hoàn thành bàn giao Trong quá trình tổng hợp chi phí & tính giá thành sản phẩm, chi phí sản xuất của công ty được tổng hợp sang Nợ TK 154, sau đó từ tài khoản 154, toàn bộ chi phí đó được kết chuyển thẳng sang Nợ TK 911 để xác định kết quả kinh doanh. Đây là một bước làm tắt nhưng không hợp lý vì khi kết chuyển từ TK 154 sang ngay TK911 sẽ gây khó khăn cho kế toán chi phí giá thành trong việc kiểm soát giá vốn hàng bán, do đó việc hạch toán ngay vào TK 911 mà không qua TK 632 không những sai chế độ mà còn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp Về việc luân chuyển chứng từ kế toán Chứng từ là căn cứ để kế toán lập và quản lý chi phí nên việc luân chuyển chứng từ kịp thời là rất cần thiết. Song do nhiều lý do khách quan và chủ quan mà ở Công ty việc luân chuyển chứng từ không tập hợp kịp thời nguyên nhân chủ yếu là do công ty có nhiều công trình ở xa, bên cạnh đó có một số chủ công trình chưa thực sự quan tâm đến sự cần thiết của vấn đề này. 3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá 3.1. Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy kế toán Hiện nay bộ máy kế toán của công ty chỉ gồm 5 người kiêm nhiệm nhiều phần hành khác nhau, một người có thể kiêm nhiệm đến 2, 3 phần hành, điều này vừa sai nguyên tắc,vừa dễ dẫn đến gian lận và sai sót trong cộng sổ. Để công việc kế toán của công ty được tiến hành tốt hơn, ở văn phòng, công ty nên tuyển thêm kế toán phù hợp với các phần hành khác nhau, phân chia công việc cho mỗi người nhằm đảm bảo tính đúng đắn theo quy định, đồng thời quá trình vào sổ, tổng cộng số liệu lên các báo cáo kế toán được tiến hành nhanh gọn hơn, đảm bảo tính kịp thời. Lập bảng phân bổ vật tư Để giúp kế toán thuận lợi trong quá trình tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, Công ty nên lập Bảng phân bổ vật tư định kỳ số liệu để phản ánh vào Bảng phân bổ vật tư được tổng hợp từ các chứng từ vật liệu xuất kho và các Bảng kê chi tiết vật tư xuất dùng. Sau đó, số liệu ở bảng phân bổ được dùng làm căn cứ ghi sổ chi tiết TK 621 cho từng đơn đặt hàng, vào Bảng tổng hợp Nhập - Xuất - Tồn (Phụ lục 31 trang 32 ) 3.3. Hoàn thiện kế toán chi phí nhân công trực tiếp Khi hạch toán các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất, kế toán không hạch toán vào chi phí sản xuất chung theo quy định mà lại hạch toán vào tài khoản chi phí nhân công trực tiếp. Ví dụ: Các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo lương công nhân trực tiếp sản xuất của tổ nề 1 công trình Nhà làm việc liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam tháng 12/2007 là 1.143.040đ được hạch toán như sau: Nợ TK 622 (CT nhà làm việc) 1.143.040 đ Có TK 338 1.143.040 đ (- TK 3382 120.320 đ - TK 3383 902.400 đ - TK 3384 120.320 đ) Sự thay đổi cách hạch toán này không làm thay đổi giá thành công trình nhưng cơ cấu khoản mục thay đổi, chi phí nhân công và chi phí máy thi công tăng lên, chi phí sản xuất chung giảm đi.Điều này dẫn đến các khoản mục chi phí không được phản ánh đầy đủ, chính xác.Do vậy, để phù hợp với chế độ kế toán áp dụng cho ngành xây lắp, việc hạch toán các khoản trích theo lương của công nhân trực tiếp sản xuất và công nhân điều khiển máy nên đưa vào tài khoản chi phí sản xuất chung (TK 627). Nợ TK 627 (CT nhà làm việc) 19.800.000 đ Có TK 338 (3382, 3383, 3384). 19.800.000 đ 3.4. Hoàn thiện kế toán chi phí sử dụng máy thi công Hiện nay Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá không có một máy thi công nào mà tất cả đều thuê, cả bộ phận điều khiển máy cũng thuê trọn gói.Việc thuê toàn bộ chi phí máy thi công như vậy cũng có mặt trái của nó, chi phí thuê máy sẽ rất tốn kém, ảnh hưởng đến tổng chi phí của toàn bộ công trình. Vì vậy, để tiết kiệm chi phí sử dụng máy, ở mỗi xí nghiệp nên tiến hành mua, lắp đặt một số máy thi công thường xuyên sử dụng, đồng thời tiến hành tuyển thêm nhân công trực tiếp điều khiển các loại máy đó, việc giảm chi phí được bao nhiêu sẽ có tác dụng tốt bấy nhiêu, đây là vấn đề thiết thực của toàn công ty. Khi đó KT chi phí sử dụng máy thi công được hạch toán như sơ đồ ở phụ lục 3a trang 3 phần phụ lục) - Khi phát sinh chi phí liên quan đến hoạt động của đội máy thi công KT ghi: Nợ TK 621,622,627 Có TK 111, 112, 152, 153, 214, 334, 331… - Cuối kỳ, KT kết chuyển các chi phí có liên quan để tính giá thành 1 ca máy hay một khối lượng công việc mà MTC đã hoàn thành: Nợ TK 154 Có TK 621, 622, 627 - Đồng thời hạch toán giá thành của đội máy thi công: Nợ TK 623 Có TK 154 3.5. Hoàn thiện kế toán phân bổ chi phí sản xuất chung Hiện nay, Công ty tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung theo chi phí nhân công trực tiếp việc phân bổ theo tiêu thức này sẽ gây ra tình trạng chi phí chung phân bổ cho từng công trình không được phản ánh chính xác dẫn đến sự sai lệch trong giá thành sản phẩm.Vì có những công trình mặc dù khối lượng nhỏ nhưng đòi hỏi tiến độ thi công nhanh nên công ty phải huy động lực lượng nhân công lớn. Do đó, việc phân bổ theo tiêu thức chi phí nhân công trực tiếp không đảm bảo được tính đúng đắn của chế độ, đồng thời ảnh hưởng khá lớn đến việc tính giá thành sản phẩm.Do đó, chi phí chung phân bổ cho công trình này sẽ nhiều hơn chi phí thực tế nó phải chịu.Vì vậy, công ty nên sử dụng tiêu thức phân bổ chi phí chung là chi phí NVL trực tiếp, bởi chi phí NVL trực tiếp chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng chi phí của một công trình. Nếu chọn tiêu thức này thì chi phí chung phân bổ cho từng công trình sẽ sát với thực tế hơn. 3.6. Hoàn thiện bút toán kết chuyển giá vốn công trình hoàn thành bàn giao Trong quá trình tổng hợp chi phí & tính giá thành sản phẩm, chi phí sản xuất của công ty được tổng hợp sang Nợ TK 154, sau đó từ tài khoản 154, toàn bộ chi phí đó được kết chuyển thẳng sang Nợ TK 911 để xác định kết quả kinh doanh. Đây là một bước làm tắt nhưng không hợp lý vì khi kết chuyển từ TK 154 sang ngay TK911 sẽ gây khó khăn cho kế toán chi phí giá thành trong việc kiểm soát giá vốn hàng bán. Để thuận lợi, công ty nên sử dụng tài khoản 632- giá vốn hàng bán. Khi sử dụng tài khoản này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được tập hợp trên TK 154 sau khi trừ đi các khoản chi phí, số còn lại được kết chuyển sang TK 632 để xác định giá thành thực tế của sản phẩm, công trình hoàn thành. Cuối cùng mới kết chuyển giá vốn thực tế sang TK 911 để xác định kết quả kinh doanh.Kế toán mở sổ Cái tài khoản 632 – Giá vốn hàng bán để phản ánh giá bán và bút toán kết chuyển giá vốn công trình vừa hoàn thành theo sơ đồ sau (Phụ lục 32 trang 32 phần phụ lục) 3.7. Xây dựng quy trình luân chuyển chứng từ vật tư hợp lý Để giảm bớt tình trạng luân chuyển chứng từ chậm và giảm bớt khối lượng công việc kế toán vào cuối tháng, đảm bảo ghi sổ cập nhật chứng từ chính xác thì việc xuống kho lấy chứng từ cần được tiến hành thường xuyên. Chứng từ khi phát sinh dưới các xí nghiệp thường chỉ kế toán xí nghiệp lưu giữ, do chỉ có một kế toán xí nghiệp nên việc luân chuyển chứng từ về công ty chậm lại. Để đẩy nhanh tốc độ luân chuyển, Công ty nên bố trí ở các xí nghiệp nên có thêm hai, ba kế toán công trình nhằm theo dõi bám sát công việc dưới đó. Quy định, cứ 3 đến 5 ngày một lần, kế toán các công trình phải thu thập chứng từ đầy đủ rồi chuyển về công ty. Đối với những công trình ở xa, tất nhiên việc luân chuyển này cũng hơi khó khăn, do đó nên bố trí nam giới làm việc này, vừa đảm bảo cho phòng kế toán của công ty cập nhật được chứng từ đúng thời gian, lại vừa ngăn chặn được sự gian lận của các kế toán xí nghiệp do không có người theo dõi. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh vô cùng gay gắt thì yêu cầu đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là làm thế nào để với một lượng nguyên vật liệu, tiền vốn nhất định có thể tạo ra nhiều sản phẩm, chất lượng và hiệu quả cao nhất. Để có được lợi nhuận phục vụ tái sản xuất mở rộng, mỗi doanh nghiệp phải làm sao hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo được chất lượng, độ thẩm mỹ của sản phẩm.Là một doanh nghiệp xây lắp, việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ văn hoá là một khâu quan trọng không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của công ty. Qua thời gian thực tập tại công ty, em nhận thấy phần lớn việc hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý, song đồng thời cũng bộc lộ những thiếu sót nhất định, qua đó em cũng học hỏi được nhiều kiến thức thực tế quý báu. Em xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo công ty đặc biệt là các cô chú trong phòng kế toán đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập tại công ty.Em cũng xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo nhiệt tình của thạc sĩ Đoàn Vân Khánh trong suốt quá trình hoàn thành bài luận văn này. Tuy nhiên do hạn chế về mặt thời gian thực tập cũng như kiến thức bản thân nên bài luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót.Vì vậy em rất mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý của các thầy cô cho bài luận văn của em.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33462.doc
Tài liệu liên quan