Luận văn Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội

Yêu cầu các chủ đầu tư cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa với phía ngân hàng trong việc thực hiện dự án. Cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho cán bộ ngân hàng một cách nhanh chóng và đảm bảo tính trung thực của những thông tin.Từ đó có thể cùng với ngân hàng đưa ra được những kế hoạch hợp lý và hiệu quả cho dự án.Các chủ đầu tư cũng cần nâng cao năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định của Bộ Kế hoạch và đầu tư về xây dựng và thẩm định dự án. Các chủ dự án cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả. Các doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu chi tiết trên các khía cạnh như thị trường, kỹ thuật. tài chính của dự án đầu tư và đảm bảo thực hiện đầu tư theo đúng nội dung luận chứng kinh tế kỹ thuật được phê duyệt. Các dự án phải được xác định đầu tư theo đúng tổng vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tình trạng làm nhiều khối lượng nhưng tính ít để dễ duyệt, khiến trong quá trình xây dựng xảy ra thiếu vốn phải bổ sung, ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và tiến độ xây dựng.

doc108 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1536 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại NHNT Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tài sản cố định và tình hình thực tế sử dụng tài sản cố định của Tổng công ty. Lãi vay đầu tư: theo kế hoạch trả nợ. Chi phí quản lý cố định và bán hàng: tính bằng 3% doanh thu. Chi phí sửa chữa lớn: ước tính bằng 2.00% doanh thu. + Chi phí khác: Ước tính bằng 2% doanh thu. c/ Một số chỉ tiêu tính toán hiệu quả của dự án: Lợi nhuận bình quân: 554.696 USD/ năm - Giả thiết dòng đời của dự án là 05 năm (bằng thời gian hoàn trả các khoản nợ vay của khách hàng), giá trị thanh lý tài sản bằng giá trị còn lại của tài sản cố định. Do tài sản hình thành từ dự án chiếm 22% tổng mức đầu tư của nhà máy nên cán bộ thẩm định chỉ lấy 22% lợi nhuận của toàn nhà máy để tính toán hiệu quả tài chính của dứan đầu tư. Như vậy, giá trị hiên tại thuần và tỷ lệ thu hồi vốn nội bộ của dự án như sau: NPV: 275.056,08 USD > 0 IRR: 11,50% > 7% Điểm hòa vốn: 67,86% Vậy, dự án đầu tư là có hiệu quả về mặt tài chính d/ Phân tích độ nhạy của dự án (trong trường hợp giá nguyên liệu chính thay đổi) Trong các yếu tố cấu thành chi phí của dự án, giá nguyên vật liệu chính biến động nhiều nhất. Trong năm qua, giá bông xơ đã dao động trong biên độ khoảng 15%. Trong khi đó, chi phí nguyên liệu chính lại chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hạng mục chi phí (chiếm 65%). Vì vậy, mức độ ảnh hưởng của chi phí này là rất lớn, 1% thay đổi của chi phí nguyên liệu chính sẽ kéo theo 0,65% thay đổi tổng chi phí. Với tỷ suất lợi nhuận khá thấp như ngành sợi hiện nay thì dự án khó có thể đem lại hiệu quả khi giá nguyên liệu chính biến động ( từ 3% trở lên). Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp sản xuất sợi của Việt Nam đều có kế hoạch dự trữ tồn kho nguyên liệu bông, xơ (thông thường là khoảng 2 đến 3 tháng) để chủ động trong sản xuất và chủ động đối phó với sự biến động giá (khi giá cả biến động có lợi thì mua vào). Trong điều kiện giá bông, xơ tăng trong một thời gian dài và doanh nghiệp đã phải sử dụng hết tồn kho nguyên liệu cũ thì lúc đó doanh nghiệp buộc phải tăng giá bán sợi. Như vậy, giá bán sợi luôn biến động cùng chiều với giá nguyên liệu bông, xơ nhưng có một độ chễ nhất định. e/ Đánh giá rủi ro của dự án: - Rủi ro về giá nguyên liệu đầu vào: Đây là rủi ro chính của ngành sản xuất sợi Việt Nam trong điều kiện 90% nguyên liệu bông, xơ của nước ta phải nhập khẩu. Mà giá các nguyên liệu này biến động mạnh do phụ thuộc vào giá dầu thô và diện tích, sản lượng bông tự nhiên của thế giới. Trong khi đó, độ nhạy của dự án lại thấp. - Để hạn chế rủi ro trên, ngành dệt may đã xây dựng kế hoạch chi tiết phát triển vùng nguyên liệu bông và tơ tằm (đến năm 2010 Việt Nam sẽ có 100.000 ha diện tích trồng bông và 40.000 ha diện tích trồng dâu) để chủ động về nguyên liệu dệt, hạ giá thành sản phẩm và thu hẹp nhập khẩu nguyên liệu. Mặt khác, doanh nghiệp cũng cần chủ động trong việc dự trữ hợp lý nguyên vật liệu, giảm thiểu ảnh hưởng của sự biến động giá cả đến quá trình sản xuất. - Rủi ro về nguồn trả nợ: Khách hàng nhận và trả nợ vay bằng ngoại tệ. Trong khi đó, khách hàng cần sử dụng một lượng ngoại tệ lớn để nhập khẩu nguyên vật liệu mà khối lượng hàng xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chiếm 40% tổng doanh thu. Việc này có thể dẫn tới sự thiếu hụt về nguồn ngoại tệ để trả nợ ngân hàng. Đồng thời, khách hàng có thể phải chịu rủi ro về tỷ giá khi mua ngoại tệ trả nợ ngân hàng. Vì vậy, để đảm bảo kiểm soát được nguồn trả nợ của khách hàng, ngân hàng yêu cầu khách hàng chuyển một phần doanh thu từ xuất khẩu sợi được thanh toán qua VCB Hà Nội và có các biện pháp thu hút thêm các hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của Tổng công ty về VCB. f/ Biện pháp đảm bảo tiền vay: thế chấp toàn bộ các máy móc, thiết bị hình thành từ dự án. * Kết luận: Từ những ý kiến phân tích đánh giá nêu trên, Tổ đầu tư dự án Phòng Quản lý rủi ro tín dụng đề nghị cho vay đầu tư dự án của Tổng công ty Dệt may Hà Nội như sau: Số tiền cho vay (quy USD): 1.404.392 USD (chiếm 78% tổng vốn đầu tư) Thời hạn vay: 60 tháng (05 năm), trong đó: Thời gian ân hạn: 03 tháng Thời gian thu hồi nợ gốc: 57 tháng Thời gian rút vốn: 09 tháng Mục đích sử dụng vốn vay: đầu tư mua sắm một số máy móc thiết bị cho nhà máy sợi. Phương thức trả nợ: lãi trả hàng tháng, gốc trả 03 tháng/ lần. Điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay: thế chấp toàn bộ các máy móc hình thành từ dự án. 7. Điều kiện cho vay: - Trước khi giải ngân, Phòng Quan hệ khách hàng hoàn thiện thủ tục ký kết hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo (hợp đồng khung). Ngay khi tài sản từ dự án hình thành, Phòng Quan hệ khách hàng thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo theo quy định. VCB Hà Nội giải ngân theo tỷ lệ 83/17 cho từng hạng mục thiết bị. - Khách hàng có cam kết bằng văn bản về việc tận dụng các nguồn thu nhập khác của Tổng công ty để trả nợ vay và thực hiện thanh toán khoảng 10% doanh thu của nhà máy sợi qua VCB Hà Nội. - Khách hàng mua bảo hiểm cho toàn bộ tài sản đảm bảo, trong đó chỉ định rõ người thụ hưởng thứ nhất là VCB Hà Nội. 8. Quản lý món vay: - Phòng Quan hệ khách hàng theo dõi chặt chẽ tiến trình cổ phần hóa của khách hàng để thực hiện ký kết hợp đồng tín dụng, giải ngân đúng đối tượng khách hàng và phù hợp với các quy định hiện hành của pháp luật về vấn đề thừa kế các quyền lợi, nghĩa vụ của công ty sau khi chuyển đổi loại hình doanh nghiệp (từ Tổng công ty nhà nước sang Tổng công ty cổ phần). - Phòng Quan hệ khách hàng thực hiện giải ngân đối với dự án. Phòng quan hệ khách hàng phải tuân thủ theo các điều kiện thanh toán quy định tại các hợp đồng nhập khẩu thiết bị, đảm bảo phù hợp với các quy định của hợp đồng tín dụng và các hướng dẫn, quy định về tín dụng hiện hành của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. - Cán bộ Quan hệ khách hàng thực hiện kiểm soát trong và sau khi cho vay đối với dự án ít nhất 06 tháng/ lần và gửi về Phòng quản lý rủi ro tín dụng để cùng phối hợp quản lý món vay. 2.3. Đánh giá về thực trạng công tác thẩm định tài chính dư án tại chi nhánh NHNT Hà Nội 2.3.1. Những kết quả đã đạt được Từ ngày thành lập đến nay, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã không ngừng đổi mới, ngày một lớn mạnh, chiếm được uy tín trên địa bàn. Có được thành quả đó, không thể không kể đến sự đóng góp của công tác thẩm định dự án. Tình hình thẩm định tài chính dự án tại ngân hàng nhìn chung là tốt và đã đạt được những kết quả sau: Năm 2007, tổng số dự án đã hoàn thành thẩm định và được phê duyệt đầu tư của các cấp có thẩm quyền là 09 dự án. Tổng số tiền đã được xét duyệt cho vay: 108 tỷ đồng (quy VNĐ). Trong đó: + số dự án có mức cho vay trên 30 tỷ đồng: 01 dự án + số dự án có mức cho vay nhỏ hơn 10 tỷ đồng: 03 dự án + Số dự án có mức cho vay từ 10tỷ-30tỷ đồng: 5 dự án Tiêu biểu trong đó là các dự án: - Dự án Bổ sung thiết bị và mở rộng nhà xưởng của Cty CP Dệt 10/10 (số tiền cho vay: 1.320.000 USD). - Dự án Đầu tư mua sắm vỏ container phục vụ khai thác vận tải của Cty vận tải Biển Đông (số tiền cho vay: 1.987.436 USD). Dư nợ cho vay đầu tư dự án đến 31/12/2007: + 213.499.000.000 VNĐ + 7.335.000 USD + 334.000 EUR à Tổng dư nợ quy VNĐ: 338.207.000.000 (Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2007) Bảng 2.3: Dư nợ theo ngành nghề kinh doanh Ngành Số tiến (triệu đồng) Tỷ trọng (%) Công nghiệp 179.249,710 53 Xây dựng 94.097,960 28 Khác 64.259,33 19 (Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2007) Việc thẩm định dự án đã kết hợp khá chặt chẽ các nội dung như thẩm định phương diện thị trường, phương diện kỹ thuật, khả năng tài chính của doanh nghiệp, thẩm định hiệu quả tài chính, bên cạnh đó thẩm định hiệu quả kinh tế, xã hội cũng được xem xét một cách đầy đủ, cụ thể trong thẩm định dự án. Việc tiến hành thẩm định một cách đầy đủ không những giúp ngân hàng tránh được những rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho khách hàng, nhờ đó uy tín của ngân hàng được nâng lên đáng kể. Công tác thẩm định trong thời gian qua đã đạt yêu cầu về tính kịp thời. Các dự án mà ngân hàng tiến hành thẩm định được cán bộ thẩm định hoàn thành đúng thời hạn, nhanh chóng trả lời cho phía doanh nghiệp. Việc này làm hài lòng hầu hết các khách hàng và thu hút một lượng lớn dự án về cho ngân hàng trong thời gian qua. Công tác thẩm định tài chính dự án đã phục vụ kịp thời cho chiến lược kinh doanh. Đồng thời, công tác thẩm định dự án vay vốn cũng góp phần tạo lập sự hoà nhập với quốc tế về công nghệ, thiết bị cho các nhà sản xuất kinh doanh. Qua thẩm định, với khả năng chuyên môn của mình, ngân hàng đã xem xét, tư vấn cho chủ đầu tư lựa chọn công nghệ, thiết bị phù hợp với dự án, với phương châm ưu tiên thiết bị, công nghệ hiện đại, tiên tiến. Như vậy, có thể thấy Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã rất quan tâm, chú trọng tới công tác thẩm định dự án. Với kết quả thực tế trong những năm qua, công tác thẩm định nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng đã góp phần quan trọng trong việc đẩy mạnh hoạt động tín dụng. Ngân hàng đã cung ứng một lượng vốn lớn cho việc đầu tư phát triển các công trình, dự án, góp phần thúc đẩy kinh tế ở các vùng được tài trợ phát triển. Có được kết quả đó là nhờ vào những cố gắng sau: - Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã quan tâm tới công tác bồi dưỡng, đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng. Nhận thức sâu sắc rằng con người là nhân tố quan trọng nhất trong việc tiếp thu, vận hành, ứng dụng công nghệ và kĩ năng mới để tạo ra các thay đổi toàn diện trong mọi mặt của hoạt động ngân hàng nên công tác đào tạo, nâng cao trình độ quản trị và kỹ năng thao tác của cán bộ Vietcombank luôn được chú trọng tại ngân hàng. Việc phổ biến và triển khai các văn bản được thực hiện kịp thời và đầy đủ tới từng cán bộ tín dụng. Việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật trong chỉ đạo, điều hành được thực hiện nghiêm túc đúng với quy định đề ra nhằm hạn chế sai sót trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó Ban lãnh đạo luôn quan tâm nâng cao cơ sở vật chất, trang bị đầy đủ cho phòng kinh doanh (nơi thực hiện các nghiệp vụ tín dụng) các phương tiện như: điện thoại, máy fax, nối Internet…nhằm tạo điều kiện cho công tác thẩm định được tiến hành một cách nhanh chóng, thuận tiện và chính xác. - Các dự án, phương án vay vốn trung và dài hạn dần dần được phân tích thẩm định trên nhiều phương diện: thị trường, kinh tế-xã hội, kỹ thuật, tài chính. Các dự án vay vốn vượt mức phán quyết đã được gửi lên Ban Tổng Giám đốc, HĐTD Hội sở để tái thẩm định, giúp cho công tác thẩm định đã dần dần đi vào nề nếp, ngày càng hoàn chỉnh và chính xác hơn. Những dự án xin vay nhờ đó đã được bổ sung, hoàn chỉnh trên nhiều giác độ. Nhiều dự án sau khi đầu tư đã phát huy hiệu quả đúng như dự kiến, trả nợ tốt. Phương pháp tính toán trong quá trình thẩm định ngày càng mang tính khoa học, tiến dần đến sự hoà nhập quốc tế về kỹ thuật thẩm định. Nếu như trước đây chỉ tính toán mức sinh lời và nguồn trả nợ của dự án thì hiện nay, các chỉ tiêu điểm hoà vốn, NPV, IRR đã được đưa vào tính toán và được coi là những tiêu thức quan trọng để quyết định có đầu tư hay không. - Nguồn thông tin được thu thập trong quá trình thẩm định dự án ngày càng phong phú hơn, từ đó căn cứ để phân tích, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án dần chính xác hơn. Trước đây, nguồn thông tin chủ yếu được thu thập từ khi khách hàng vay vốn. Ngân hàng dựa vào số liệu trên báo cáo quyết toán và số liệu báo cáo của khách hàng để tính toán các chỉ tiêu của mình, kết hợp phỏng vấn khách hàng và khảo sát thực địa, do đó nguồn thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác. Hiện nay, ngoài nguồn thông tin từ khách hàng vay vốn, ngân hàng còn thu thập thông tin từ các tài liệu phân tích thị trường, sách, báo, tạp chí trong và ngoài nước, các bộ luật, các văn bản dưới luật có liên quan, thông tin từ bạn hàng của chủ đầu tư, ý kiến tham gia của các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia. 2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, hoạt động thẩm định nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng tại chi nhánh còn có những điểm chưa hợp lý, đã làm hạn chế nhất định đến hiệu quả công tác thẩm định, do đó cần được nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện để đảm bảo đạt được yêu cầu và tương xứng với tầm quan trọng cũng như vai trò của công tác thẩm định trong hoạt động của ngân hàng. - Tổ thẩm định mới được thành lập còn ít kinh nghiệm. Số lượng cán bộ thẩm định còn thiếu dẫn đến khó khăn trong phân công công tác. Vì vậy, một cán bộ phải kiêm nhiệm nhiều công việc làm ảnh hưởng tới tính chuyên môn hoá trong công tác thẩm định. - Báo cáo thẩm định còn chưa chi tiết, sơ sài. Các chỉ tiêu còn chưa có phân tích, so sánh chuyên sâu. Việc tính toán trong quá trình tính toán các chỉ tiêu còn gặp sai sót, trình bày báo cáo thẩm định chưa thực sự khoa học và hợp lý. Việc phân tích và đánh giá các chỉ tiêu tài chính còn chung chung, sơ sài, khó hiểu, khiến người đọc có cảm giác như báo cáo chỉ mang tính hình thức, không sâu sắc. - Việc tính toán hiệu quả tài chính của dự án còn nhiều lúng túng, có những dự án việc xác định thời hạn cho vay chưa phù hợp với nguồn thu, nguồn trả nợ của dự án. - Phương pháp thẩm định còn một số hạn chế. Mới chỉ dừng lại ở việc tính một số ít chỉ tiêu chính mà chưa quan tâm đúng mức tới một số chỉ tiêu khác. Trong phân tích rủi ro của dự án mới chỉ sử dụng phương pháp tính độ nhạy, các phương pháp khác như phân tích tình huống, phân tích điểm hoà vốn chưa được áp dụng. - Thẩm định tài chính dự án chủ yếu dựa trên thông tin hồ sơ dự án, thông tin do khách hàng cung cấp, chưa xây dựng được kênh thông tin độc lập làm cơ sở để đánh giá một cách toàn diện khách quan. - Hiện nay việc thẩm định dự án cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn do thị trường có những diễn biến bất ổn. Lạm phát nước ta đang ở mức cao làm cho các dự án trước đây gặp nhiều khó khăn vì trượt giá. Giá xây dựng cũng tăng đến chóng mặt nhiều vật liệu như xi măng, sắt, thép tăng gấp 2, 3 lần làm các công trình đã được dự toán trước đây đều phải xem xét lại ngân sách, thậm chí nhiều dự án phải dừng lại vì không còn đủ kinh phí. Kèm theo đó là giá xăng dầu, giá vàng thay đổi từng ngày từng giờ càng làm công tác thẩm định dự án thêm khó khăn hơn. Các cán bộ tín dụng và thẩm định đang gặp nhiều trở ngại khi giá cả liên tục biến động. Điều này làm việc xác định giá cũng như doanh thu của dự án khó khăn hơn rất nhiều. Vì vậy, nhiều dự án nhạy cảm đặc biệt là các dự án xây dựng thường khó để được Chi nhánh phê duyệt trong thời điểm này dẫn đến những cơ hội có thể bị bỏ lỡ rất đáng tiếc. Khi công tác thẩm định vẫn còn những bất cập thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến hoạt động tín dụng- hoạt động chính của ngân hàng. Điều này làm cho hoạt động tín dụng sẽ tiềm tàng nhiều rủi ro hơn, dẫn đến không đảm bảo chất lượng tín dụng. Và để nâng cao chất lượng tín dụng một trong những biện pháp hữu hiệu là nâng cao chất lượng thẩm định đặc biệt là thẩm định tài chính dự án. Để làm được điều này ta phải tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng tới công tác thẩm định tại chi nhánh. Có hai nhân tố tác động tới chất lượng thẩm định tài chính dự án đó là nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. a/ Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất: Nội dung thẩm định tài chính dự án còn nhiều chỗ thiếu sót. * Đánh giá kế hoạch doanh thu từ năm trong những năm đầu thực hiện dự án không khả thi do dự kiến tiến độ thi công dự án chưa chính xác, làm ảnh hưởng đến việc tính toán dòng tiền của dự án, từ đó làm sai lệch các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án. * Khi thẩm định tài chính dự án, cán bộ tín dụng thường chấp nhận dự toán của chủ đầu tư đưa ra trong dự án mà chưa đánh giá một cách toàn diện, do vậy ở một số dự án khi đi vào thực hiện đã bộc lộ nhiều khó khăn do thiếu vốn. * Phân tích độ nhạy, yếu tố rủi ro, đặc biệt là khi xác định thời gian thu hồi vốn đều ít tính đến hệ số chiết khấu hoặc tính chưa đúng tỷ lệ chiết khấu. Thứ hai: Cán bộ thẩm định còn bất cập về trình độ nghiệp vụ, kiến thức, chưa được huấn luyện tốt về kỹ năng thẩm định. Do yêu cầu của công tác tổ chức, trong năm qua, một số cán bộ làm công tác tín dụng lâu năm, có kinh nghiệm thuyên chuyển, nhận công tác mới và một số cán bộ mới được tăng cường về các phòng ban khác. Tuy đã được học ở các trường đại học, cao đẳng, được theo học các lớp tập huấn và tự trau dồi kiến thức để theo kịp sự phát triển về nghiệp vụ ngân hàng cũng như những đòi hỏi ngày càng phức tạp trong công tác thẩm định nhưng quá trình thẩm định chưa được thực hiện theo đúng bài bản, chưa tuân thủ đúng nội dung quy trình thẩm định. Điều đáng lưu ý là thiếu sự quan tâm tới các giả định của số liệu nêu trong dự án mà chỉ lắp số liệu đó vào công thức để tính toán. Có thể nói rằng cán bộ thẩm định của ngân hàng lấy thông tin chủ yếu từ khách hàng và nguồn dự kiến của ngân hàng mà chưa tham khảo được thông tin từ các dự án tương tự hoặc từ nguồn thông tin các nhà cung cấp và đối tác của khách hàng. Thứ ba: Thông tin, số liệu làm căn cứ tính toán, thẩm định, nhất là thẩm định tài chính chưa đầy đủ, thiếu chính xác dẫn đến khó đánh giá hay đánh giá sai về khách hàng, về hiệu quả kinh tế - xã hội và tính khả thi của dự án. Pháp lệnh kế toán, thống kê chưa được thực hiện nghiêm túc. Việc hạch toán của doanh nghiệp nhiều khi không đúng thực chất và chưa có chế độ kiểm toán bắt buộc nên rất khó đánh giá thực trạng khả năng tài chính, tình hình thanh toán, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, việc hạch toán không được cập nhật, doanh nghiệp chỉ có bảng cân đối tài khoản hay lập quyết toán theo tháng, quý thậm chí 6 tháng một lần nên số tài liệu cung cấp cho ngân hàng không kịp thời, thường là lạc hậu so với hiện tại. Đối với khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, một số doanh nghiệp tư nhân thường lên đồng thời hai bảng cân đối lỗ - lãi riêng. Để đối phó với cơ quan thuế, doanh nghiệp thường sử dụng bảng cân đối lỗ để chịu thuế thấp. Nhưng ngược lại, để có cơ sở vay vốn ngân hàng, doanh nghiệp tư nhân thường sử dụng bảng cân đối lãi để tạo ra tình hình tài chính lành mạnh, do đó tạo ra sự không chính xác trong thông tin làm ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định. Bên cạnh số liệu lịch sử về doanh nghiệp thiếu chính xác, số liêụ nêu trong các bảng báo cáo khả thi hoặc luận chứng kinh tế kỹ thuật cũng ở tình trạng như vậy. Trong đó, các con số dự kiến về cân đối thu chi, về khả năng tiêu thụ thường là ước tính, chưa mang tính khoa học cao nhất là áp dụng phương pháp toán học để tính toán, từ đó, kết quả tính toán các chỉ tiêu điểm hoà vốn, NPV, IRR và mốc để so sánh các chỉ tiêu đi cùng chưa chính xác. Thứ tư: Cơ sở vật chất tại ngân hàng phục vụ cho công tác thẩm định còn thiếu thốn, lạc hậu, chưa có hệ thống máy tính hiện đại với phần mềm dành riêng cho việc hệ thống hoá thông tin và tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án. Điều kiện vật chất cung cấp cho các cán bộ thẩm định trong quá trình làm việc còn chưa đạt yêu cầu. Hầu như chưa có cán bộ nào được trang bị máy tính xách tay trong quá trình đi công tác do đó hạn chế trong việc xử lý thông tin và phân tích dự án. Thứ năm: Các hệ thống quy trình nghiệp vụ mặc dù đã được triển khai nhưng việc áp dụng còn có những thiếu sót, bất cập dẫn đến hiệu quả hạn chế. b/ Nguyên nhân khách quan. Chất lượng của thẩm định tài chính dự án không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố chủ quan xuất phát từ chính ngân hàng mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan và chủ dự án, cụ thể: Thứ nhất: Tình trạng thiếu trung thực và năng lực hạn chế trong việc điều hành quản lý dự án của chủ đầu tư. Các doanh nghiệp chưa đủ điều kiện vay vốn, dự án chưa đủ tài chính để được đầu tư vốn nhưng do chủ đầu tư tin vào khả năng sẽ thành công của dự án hoặc thậm chí chủ dự án muốn chiếm dụng vốn của ngân hàng nên lập dự án hết sức hoàn hảo dưới sự tư vấn của các chuyên gia cho nên việc thẩm định và đưa ra quyết định cho vay hay không cho vay là rất khó khăn. Bên cạnh đó, một số dự án xin vay vốn ngân hàng chỉ là một phần, một mảng của dự án phát triển tổng thể của một tổng công ty, có trường hợp doanh nghiệp xin vay để đầu tư thiết bị lẻ trong dây chuyền sản xuất…như vậy việc tính toán hiệu quả kinh tế rất khó khăn và thông thường là tính doanh thu, chi phí, lợi nhuận chung cho cả dây chuyền hay toàn doanh nghiệp, nên các chỉ tiêu thường là không xác đáng. Thứ hai: Định hướng quy hoạch phát triển kinh tế, môi trường pháp lý chưa lành mạnh, chủ trương của các ngành hữu quan không thống nhất dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm định và quyết định cho vay. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đã đem lại những lợi ích to lớn cho đất nước. Tuy nhiên nó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới sự ổn định của các yếu tố vĩ mô mà điều này lại tác động tới chất lượng thẩm định tài chính. Thị trường đầu vào và đầu ra thường xuyên có những biến động to lớn gây nên những thay đổi to lớn về giá bán sản phẩm, giá mua nguyên liệu đầu vào trong một số dự án, đã làm giảm tính chính xác của việc thẩm định dự án. Trong nền kinh tế ngày nay, vai trò của Nhà nước có ý nghĩa hết sức to lớn, ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển lành mạnh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy vậy, ở nước ta sự quản lý của Nhà nước về kinh tế vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện ở góc độ ban hành các văn bản chồng chéo, không rõ ràng. Điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng thẩm định dự án của ngân hàng do luôn xảy ra tình trạng các doanh nghiệp không tuân thủ hoặc lách luật. Bên cạnh đó những thay đổi thường xuyên của các chế độ, chính sách như hiện nay cũng làm cho ngân hàng khó đưa ra những dự đoán trong tương lai và do vậy chất lượng thẩm định dự án không cao. Thứ ba: Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế nước ta là chủ yếu dùng tiền mặt để thanh toán, do đó lượng tiền mặt luân chuyển qua hệ thống ngân hàng còn ít, điều này gây khó khăn trong việc theo dõi việc thu chi của doanh nghiệp vay vốn nên không thể nắm chắc được tình hình của doanh nghiệp đó, xem xét doanh nghiệp đó có sử dụng tiền vay đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, để từ đó có các biện pháp kịp thời nhằm ngăn chặn các hành vi sai phạm, thu hồi vốn nếu cần thiết…qua đó nâng cao chất lượng tín dụng và cũng góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Tóm lại trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả đáng khích lệ đã đạt được, công tác thẩm định dự án của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế nhất định, điều này đặt ngân hàng trước những thử thách mới, đòi hỏi các biện pháp tháo gỡ. Để hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án, các nguyên nhân trên cần được khắc phục thông qua việc thực thi một số giải pháp nhất định. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI 3.1.Định hướng hoạt động kinh doanh của NHNT Hà Nội 3.1.1. Định hướng phát triển hoạt động cho vay Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động quan trọng nhất đối với hoạt động của một ngân hàng thương mại. Với tầm quan trọng đó, ngân hàng đã xây dựng định hướng phát triển của hoạt động cho vay như sau: Thứ nhất: Ngân hàng chủ trương đa dạng hoá các sản phẩm, loại hình tín dụng. Phát triển cơ sở khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trên nền tảng một chính sách Marketing đồng bộ và hiệu quả. Định hướng khách hàng là nền tảng cho mọi hoạt động của ngân hàng. Thứ hai: Nâng cao chất lượng tín dụng thông qua việc chú trọng từ khâu thẩm định, giám sát tiền vay và kiểm tra, kiểm soát sau khi cho vay. Thứ ba: Tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động mọi mặt với trọng tâm nâng cao chất lượng tài sản có, hiệu quả đồng vốn đầu tư, tiêu chuẩn hóa quy trình hoạt động và dịch vụ phục vụ khách hàng. Thứ tư: Phát triển mạng lưới phủ sóng ở các đô thị lớn. Thứ năm: Tiếp tục phát triển nguồn lực cho tương lai. 3.1.2. Định hướng trong công tác thẩm định tài chính dự án. Trong thời gian tới, công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng cần dựa trên các định hướng sau: - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội phải đứng trên giác độ của người cho vay, người bỏ vốn để xem xét. - Công tác thẩm định dự án phải xuất phát từ tình hình thực tiễn trong ngành và nhằm phục vụ hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội trong từng giai đoạn. - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được phổ cập hoá trong toàn hệ thống với tất cả các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau, với những yêu cầu đòi hỏi khác nhau. - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn diện, đối với tất cả các dự án xin vay, trong quá trình cho vay từ xem xét dự án cho đến giải ngân, thu nợ, thu lãi. - Công tác thẩm định dự án tại Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội phải được tiến hành theo một quy trình khoa học, hiện đại sát với tình hình thực tế và phù hợp với nghiệp vụ Ngân hàng. - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được xây dựng theo hướng đặc thù của hoạt động cho vay tại Ngân hàng, duy trì phát triển thành một thế mạnh trong kinh doanh trên thương trường. - Công tác thẩm định phải phát huy vai trò tham mưu cho lãnh đạo để có những biện pháp tổ chức, chỉ đạo diều hành cụ thể trong việc quyết định các khoản vay. - Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp và phải thường xuyên được tổng kết, rút ra kinh nghiệm, bài học để hoàn thiện và phát triển. 3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội: Muốn nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của hoạt động cho vay của Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội nói riêng và của nền kinh tế nói chung thì điều đầu tiên và trước hết là phải có một nhận thức và định hướng đúng. Cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư ngày càng được khuyến khích, mở rộng. Vai trò của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư ngày càng trở nên quan trọng, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng khoản vay của Ngân hàng. Từ thực trạng hoạt động thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội, chúng ta thấy rõ một vấn đề nổi lên là cần nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác này. 3.2.1. Hoàn thiện phương pháp và nội dung thẩm định dự án một cách hợp lý, khoa học và hiệu quả nhất Về phương pháp thẩm định: Phương pháp thẩm định có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định đến việc dự án có hiệu quả, khả thi hay không. Do đó, cán bộ thẩm định cần chủ động lựa chọn phương pháp thẩm định có hiệu quả nhất, hợp lý nhất và phù hợp nhất với hoàn cảnh thực tế Phương pháp thẩm định của Ngân hàng ngoại thương Hà Nội cũng khá là hợp lý nhưng cần được tiêu chuẩn hóa để phù hợp với sự phát triển của của nền kinh tế. Ngoài các chỉ tiêu NPV, IRR đang được sự dụng, nên sử dụng thêm các chỉ tiêu khác để có thể đánh giá tổng quát hơn, bên cạnh đó cũng cần chú ý tới sử dụng phương pháp mô phỏng tình huống, phân tích điểm hoà vốn để xem xét rủi ro của dự án. Từ đó sẽ giúp Ngân hàng có được những kết quả chính xác hơn, đưa ra được những quyết định hợp lý nhất. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội tiếp nhận những hồ sơ vay vốn ở các lĩnh vực khác nhau, đa dạng ngành nghề. Vì vậy phương pháp thẩm định cũng nên được xây dựng cho từng loại dự án khác nhau, thuộc những ngành nghề, lĩnh vực khác nhau để có thể tiện lợi cho quá trình thẩm định cũng như theo dõi dự án. Chẳng hạn không thể đòi hỏi các tiêu chuẩn dành cho một dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn hoàn toàn giống như đối với các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp. Là một Ngân hàng chiếm thế mạnh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, với nền kinh tế hội nhập hiện nay, bên cạnh các dự án đầu tư trong nước, Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội sẽ phải thẩm định dự án đầu tư nước ngoài vì vậy cần xây dựng phương pháp thẩm định sát với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Về nội dung thẩm đinh: Đi kèm với phương pháp cũng cần hoàn thiện hơn nữa các nội dung thẩm định tài chính dự án để có thể có được những kết quả chính xác nhất. Nội dung thẩm định cần hoàn thiện ở một số mặt sau: - Thẩm định tổng vốn đầu tư và nguồn tài trợ Trong tính toán tổng vốn đầu tư của dự án, cán bộ thẩm định của Ngân hàng thường chỉ để ý đến đơn giá do chủ đầu tư đưa ra mà ít có sự so sánh với giá thị trường. Do đó, nên xem xét kỹ các số liệu về giá cả thiết bị, đơn giá nguyên vật liệu tính cho tài sản lưu động ròng…có sát với giá thị trường không. Chi nhánh nên xây dựng thành một khung giá với những dự án có tài sản cố định và tài sản lưu động tương đối giống nhau để rút ngắn được thời gian tính toán cho cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó phải thường xuyên cập nhật thông tin thị trường để khung giá đặt ra luôn sát với thị trường. Các biến động về lạm phát hay tỷ giá hối đoái cũng cần được tính đến để ước lượng khoản dự phòng phù hợp. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cũng cần có sự so sánh đối chiếu giữa những dự án thuộc cùng lĩnh vực, loại hình được thực hiện bởi các công ty khác để tăng tính khách quan trong tính vốn đầu tư. Về phía nguồn tài trợ, Ngân hàng cần xác định được các nguồn tài trợ và vị trí của từng nguồn tài trợ đối với dự án. Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội cần phải thận trọng trong khi ra quyết định cho vay nếu xét trong trường hợp dự án không thành công mà ngân hàng chỉ được trả nợ sau khi các nguồn khác được thanh toán. Vốn của chủ đầu tư đóng góp trong dự án cần đặc biệt quan tâm vì vốn tự có không chỉ là tấm đệm an toàn cho dự án mà còn có ảnh hưởng tới thái độ trách nhiệm của chủ đầu tư khi thực hiện dự án. Vốn của chủ đầu tư nên quy định phải trên một tỷ lệ nhất định trong tổng vốn đầu tư. Qua đó, Chi nhánh có thể giảm thiểu rủi ro với khoản cho vay, tránh được những tổn thất. Đối với các nguồn khác, ngân hàng phải xem xét tính khả thi và chắc chắn của từng nguồn, đảm bảo là trong quá trình thực hiện dự án không bị đình trệ vì thiếu vốn. - Thẩm định dòng tiền của dự án Một trong những yếu tố quyết định tới tính chính xác của NPV cũng như các chỉ tiêu tài chính khác là việc tính toán dòng tiền chênh lệch chính xác. Muốn vậy thì cần phải tính chính xác các yếu tố doanh thu chi phí từng năm của dự án cũng như thời điểm xuất hiện các dòng doanh thu, chi phí đó. Chi nhánh cần phải xác định được rõ ràng mọi nguồn tạo ra doanh thu cho dự án khi tính toán doanh thu của dự án, bao gồm: doanh thu từ sản phẩm chính, doanh thu từ sản phẩm phụ… tránh tính toán một cách khái quát. Phải xem xét cẩn thận đến đơn giá của sản phẩm do chủ đầu tư đưa ra: có hợp lý không, có tính cạnh tranh trên thị trường không bằng việc so sánh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường , đặc biệt là các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Bên cạnh đó, Chi nhánh cần chú ý tới chi phí khấu hao và chi phí trả lãi khi tính chi phí của dự án. Cán bộ thẩm định cần xem xét phương pháp khấu hao được áp dụng có hợp lý và hợp pháp không; tổng mức khấu hao các năm có bằng nguyên giá hay không và tính tới cả các khấu hao của các thiết bị của doanh nghiệp vừa dùng phục vụ dự án vừa phục vụ cho các mục đích khác của doanh nghiệp. Chính sách khấu hao của doanh nghiệp có phù hợp với các quy định của luật pháp hay không. Chi nhánh cần xây dựng một danh mục những tài sản cố định và tỷ lệ khấu hao hợp lý tương ứng với mỗi tài sản đó tạo điều kiện cho các cán bộ đối chiếu khi tiến hành thẩm định. Đối với chi phí trả lãi cần xem xét thận trọng trong trường hợp dự án đi vay theo lãi suất biến đổi. Một vấn đề nữa cần chú ý khi tính toán dòng tiền của dự án là phải tính tới chi phí cơ hội vì hiện nay chi phí này vẫn chưa được Chi nhánh đưa vào khi tính toán thẩm định dòng tiền. - Thẩm định lãi suất chiết khấu: Ngân hàng hiện nay đang lấy lãi suất cho vay trung và dài hạn cộng với một phần bù rủi ro nhất định làm lãi suất chiết khấu. Đây là cách tính tương đối đơn giản so với việc phải tính chi phí vốn trung bình của dự án. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là phần bù rủi ro được cộng thêm là bao nhiêu thì hợp lý và đối với mỗi dự án khác nhau thuộc các lĩnh vực khác nhau thì phần bù rủi ro cũng phải khác nhau. Do đó, chi nhánh cần xây dựng một phương pháp xác định lãi suất chiết khấu hợp lý. Trong điều kiện thị trường tài chính Việt Nam còn chưa hoàn hảo thì việc tính toán chi phí vốn trung bình là rất khó khăn nên trước mắt chi nhánh vẫn có thể sử dụng cách cũ để xác định lãi suất chiết khấu nhưng cần tính toán phần bù rủi ro hợp lý cho từng loại hình dự án cụ thể. Tuy nhiên trong tương lai, khi thị trường tài chính Việt Nam đã phát triển thì cần xây dựng một cách tính chính xác hơn nhằm đảm bảo sự hợp lý giữa lợi nhuận thu được và rủi ro phải chấp nhận. - Thẩm định rủi ro của dự án Bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy, Chi nhánh cần áp dụng các phương pháp phân tích tình huống và phân tích mô phỏng để xác định rủi ro của dự án. Việc sử dụng các phương pháp này đòi hỏi khối lượng tính toán rất lớn nên nhất định phải có phần mềm chuyên dụng để xử lý. Các tình huống được đặt ra để phân tích cần hợp lý, tránh tình trạng đưa ra nhiều tình huống nhưng vẫn không đánh giá được rủi ro của dự án. 3.2.2.Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đội ngũ nhân viên thẩm định Con người luôn là yếu tố quan trọng nhất trong mọi hoạt động, đặc biệt trong hoạt động thẩm định, hoạt động mà kết quả của nó phụ thuộc rất lớn vào trình độ, kinh nghiệm, những ý kiến chủ quan của người cán bộ thẩm định. Chính vì thế phải không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định, nâng cao trình độ kết hợp với rèn luyện tư cách đạo đức. Trước hết, Chi nhánh phải thực hiện tuyển dụng, chọn lọc những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, đạo đức, sức khoẻ, nhiệt tình với công việc, có ý thức và khả năng tiếp thu tốt những kiến thức nghiệp vụ chuyên môn ngày càng cao. Công việc của cán bộ thẩm định có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư hay không đầu tư, nên một quyết định sai lầm là do sự sai sót của cán bộ thẩm định, cùng với sự thiếu đi sâu đi sát của cán bộ lãnh đạo đều có thể gây ra hậu quả đáng tiếc. Vì vậy, việc tiến hành tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ thẩm định nói riêng ở Chi nhánh là việc làm rất quan trọng đối với công tác kinh doanh và cần phải được tiến hành khẩn trương. Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá cán bộ, ngân hàng nên có hướng đào tạo, đào tạo lại, tuyển chọn và sử dụng phù hợp với những yêu cầu cơ bản sau: - Có năng lực, trình độ chuyên môn để phân tích, tổng hợp các vấn đề được nêu trong hồ sơ dự án, nhận thức rõ ảnh hưởng của các nhân tố bên trong và bên ngoài tới việc thực hiện dự án theo kế hoạch đã được xác định để xác định mức độ khả thi của dự án. - Biết thu thập, xử lý các thông tin cần thiết phục vụ cho việc đánh giá, thẩm định. Nắm vững chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, của ngành, của địa phương có liên quan đến sản phẩm của dự án, đến dự án của doanh nghiệp. - Có bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm trong việc thẩm định dự án. phong cách làm việc khẩn trương, khoa học. Có tinh thần học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ nhất là nghiệp vụ thẩm định, trình độ ngoại ngữ, tin học. - Bố trí đủ cán bộ tín dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ công tác thẩm định được giao. Ngân hàng nên tổ chức cho cán bộ thẩm định tham gia các khoá tập huấn, đào tạo để hoàn thiện hơn nữa trình độ chuyên môn nghiệp vụ nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ thẩm định có trình độ cao, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Ngoài việc cho cán bộ thẩm định tham gia các lớp tập huấn do Trung ương tổ chức, Chi nhánh có thể tự tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ thẩm định, mời các chuyên gia, các giáo sư của các trường đại học về tham gia giảng bài, trao đổi để gắn hơn nữa lý thuyết với thực tế. Ngoài ra, ngân hàng cần có chính sách ưu tiên, ưu đãi, khen thưởng thoả đáng đối với cán bộ tín dụng giỏi, làm việc có hiệu quả về mặt vật chất và tinh thần, đồng thời kỷ luật nghiêm minh các cán bộ có những hành vi tiêu cực. Nhưng để đem lại hiệu quả cao cho công tác thẩm định thì ngoài việc củng cố, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định thì chi nhánh còn phải tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ hơn nữa nhằm ngăn ngừa những sai sót trong việc tính toán hiệu quả dự án, việc tuân thủ các quy chế, thủ tục trong quá trình thẩm định cũng như ngăn chặn những hành vi sai lệch về đạo đức. Tuy nhiên, công tác tổ chức điều hành thẩm định phải được tiến hành sao cho các dự án được thẩm định ngày càng nhanh nhưng vẫn bảo đảm chất lượng. Ngoài ra, Chi nhánh cần chú trọng xác lập mối quan hệ về thẩm định với các NHTM khác để có thể trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Hàng quý tổ thẩm định dự án nên có các báo cáo tổng hợp tình hình thẩm định các dự án được thực hiện trong kỳ, tổ chức đánh giá, rút kinh nghiệm cho từng cán bộ thẩm định để chất lượng của hoạt động thẩm định cũng như thẩm dịnh tài chính dự án ngày càng được nâng cao. 3.2.3. Hoàn thiện quy trình thu thập và xử lý thông tin. Một trong những yêu cầu của công tác thẩm định là phải có đầy đủ thông tin về đơn vị xin vay vốn. Đây chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn công tác thẩm định tại Chi nhánh chưa đạt kết quả cao. Nó là một trong những biện pháp quan trọng nhất hiện nay đối với Chi nhánh vì số lượng và chất lượng thông tin đang là khâu yếu nhất, gây ra các hạn chế trong công tác thẩm định tài chính dự án Khi chủ đầu tư dự án xin vay thì việc thu thập thông tin để phân tích, thẩm định là một công tác bắt buộc và vô cùng quan trọng. Các dự án xin vay hoặc là không có đủ thông tin để dự kiến chính xác các yếu tố tính toán dự án, hoặc là được cố ý làm cho có vẻ khả quan để tranh thủ được chấp nhận vay vốn, do đó nếu Ngân hàng không có thông tin đầy đủ, chính xác để thẩm định trước khi cho vay thì rủi ro không thu hồi được vốn đúng hạn hoặc mất vốn sẽ là rất lớn. Việc nghiên cứu những thông tin Chi nhánh nên xuất phát từ những yếu tố cần tính toán trong phương pháp thẩm định đề nghị và từ các yêu cầu cần đảm bảo khi đánh giá dự án (chẳng hạn phải đảm bảo chống rủi ro giảm giá bán, hạn chế khối lượng tiêu thụ…). Khi nhận một dự án vay vốn, Chi nhánh nên tìm hiểu và thu thập thông tin theo các yếu tố cơ bản sau: Thông tin về tính năng, đặc điểm hoạt động của máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất…để đánh giá công suất, sản lượng đảm bảo cho doanh thu của dự án cũng như góp phần thẩm định chi phí sản xuất kinh doanh (công suất thiết bị càng lớn thì khả năng hạ giá thành càng nhiều) Thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm, về đối thủ cạnh tranh, về thị trường nguyên liệu…để thẩm định giá cả tiêu thu sản phẩm, chi phí sản xuất kinh doanh, doanh thu. Thông tin về biến động giá cả, về tỷ giá hối đoái để bổ sung cho việc thẩm định giá bán sản phẩm, hạch toán chi phí kinh doanh, xác định lãi suất ngân hàng (lãi suất ngân hàng là một trong những yếu tố để tính toán lãi suất chiết khấu) Bên cạnh việc chú trọng những thông tin khá cụ thể nêu trên, Chi nhánh cũng cần thấy rằng việc phân tích xu hướng và tình hình kinh tế vĩ mô nhiều khi lại là rất quan trọng vì nó chi phối, ràng buộc các tình hình cụ thể. Đó là tình hình về cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước, tình hình phát triển công nghệ…nói xa hơn nữa là các động thái kinh tế đặc trưng của khu vực và thế giới và đặc biệt là lộ trình hội nhập của nền kinh tế trong nước vào nền kinh tế thế giới. Vấn đề đặt ra là cần phải tổ chức, thu thập, khai thác các thông tin nói trên. Chi nhánh Ngoại thương Hà Nội đã quan tâm xây dựng hệ thống thông tin phòng chống rủi ro song hệ thống này do nhiều lý do khác nhau mà vẫn còn những hạn chế nhất định. Một mặt chúng ta phải tăng cường hoàn thiện hệ thống này, mặt khác ngày nay thông tin về các loại nói trên được cung cấp khá phổ biến qua nhiều kênh khác nhau. Chi nhánh cần phải nghiên cứu chọn lựa, khai thác các kênh đầy đủ, chính xác nhất và hiệu quả nhất. Các kênh thông tin mà Chi nhánh có thể tham khảo: Kênh thông tin của các ngành chuyên môn, quản lý Nhà nước thuộc lĩnh vực mà dự án đang đầu tư. Kênh thông tin từ các báo cáo, nghiên cứu và hội thảo khoa học chuyên đề về từng ngành nghề, các dự án cùng loại. Kênh thông tin của các phương tiện truyền thông, tin tức, báo chí. Một loại thông tin nhưng có thể khai thác từ nhiều nguồn khác nhau để đảm bảo tính khách quan của thông tin, Chi nhánh cần có một cơ chế kiểm tra thông tin độc lập nhằm đảm bảo các thông tin sử dụng trong quá trình thẩm định là chính xác và đầy đủ. Đối với các thông tin tài chính do khách hàng cung cấp nên được kiểm toán bởi các hãng kiểm toán độc lập để đảm bảo tính trung thực khách quan. Chi nhánh cũng cần hợp tác với các chi nhánh khác trong hệ thông Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng như các ngân hàng ngoài hệ thống để xây dựng được hệ thống thông tin đầy đủ hơn về khách hàng. 3.2.4. Giải pháp về trang thiết bị công nghệ Trang thiết bị công nghệ là yếu tố góp phần không nhỏ vào việc hoàn thành tốt một quá trình thẩm định tài chính dự án. Chính vì thế cần phải đầu tư thích đáng cho yếu tố công nghệ và thiết bị phục vụ công tác thẩm định. Đối với NHNT Hà Nội, cần thường xuyên nâng cấp thiết bị, tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động thẩm định, cụ thể: + Nâng cấp phần cứng, đồng thời cập nhật những phần mềm mới nhất phục vụ tính toán và phân tích các chỉ tiêu tài chính. Chi nhánh cũng cần tiếp tục bổ sung về thiết bị công nghệ cho cả chi nhánh nói chung và bộ phận thẩm định nói riêng. + Xây dựng mạng thông tin nội bộ với cơ sở dữ liệu phong phú, quản lý khoa học để thực hiện tốt việc phối hợp, hỗ trợ giữa các phòng ban với phòng thẩm định. Mạng thông tin này cho phép cán bộ thẩm định lấy thông tin về khách hàng thông qua quan hệ tài chính của khách hàng với các bộ phận khác như phòng kế toán, phòng thanh toán quốc tế. + Xây dựng cơ sở dữ liệu lưu trữ thông tin về khách hàng, khách hàng tiềm năng của Ngân hàng, tìm kiếm và bổ sung thường xuyên cho kho dữ liệu này để khi cần cho công tác thẩm định hoặc tái thẩm định là có thể sử dụng được ngay. + Xây dựng và hoàn thiện một quy trình thẩm định riêng của Chi nhánh một cách chặt chẽ và hợp lý hơn. 3.2.5 Giải pháp về tổ chức điều hành: Các dự án đưa đến Ngân hàng Ngoại Thương có quy mô rất đa dạng, việc xem xét, sắp xếp phân công dự án cần phải căn cứ vào năng lực, sở trường của mỗi người để phát huy thế mạnh của cán bộ thẩm định. Ngân hàng nên bố trí những dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp cho các cán bộ chủ chốt, kinh nghiệm, còn những dự án đơn giản thì cho cán bộ mới còn ít kinh nghiệm. Hiện nay nhiệm vụ thẩm định đối với các dự án là rất lớn và đòi hỏi cao nhưng ở NHNT Hà Nội mới chỉ được coi là một tổ. Vì vậy việc thành lập một phòng thẩm định chuyên trách là một vấn đề mà lãnh đạo chi nhánh nên cân nhắc. Chi nhánh cần quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của các cán bộ đối với kết quả thẩm định. Ngân hàng cũng nên rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định chuyển sang làm nhiệm vụ khác đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc. Tổ chức thẩm định trong toàn bộ hệ thống cần được hoàn thiện, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa phòng dự án, bộ phận thẩm định với các phòng khác, giữa hoạt động tín dụng với hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng. Ngân hàng nên phát động các phong trào nghiên cứu khoa học hàng năm, qua đó tập hợp được các đề xuất, sáng kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến và áp dụng trong toàn hệ thống. Chi nhánh cần tiến hành các hoạt động thanh tra kiểm tra để đảm bảo công tác thẩm định tài chính dự án được thực hiện theo đúng các quy trình, các chuẩn mực đã được đề ra. Công việc kiểm tra không chỉ nên thực hiện đối với các dự án lớn mà phải tiến hành với cả các dự án nhỏ bởi các dự án nhiều khi bị xem nhẹ dẫn đến việc thẩm định qua quýt không đảm bảo chất lượng. Việc kiểm tra giám sát phải được thực hiện trên mọi mặt từ việc tuân thủ các quy định chung tới năng lực chuyên môn và đạo đức của cán bộ thẩm định. Kết hợp với quá trình kiểm tra, giám sát trong quá trình thẩm định, Chi nhánh cũng cần theo dõi tiến trình thu nợ, đặc biệt quan tâm tới những trường hợp dự án được đánh giá là tốt nhưng kết quả lại không trả được vốn và lãi đúng hạn, phải tìm ra nguyên nhân và hướng giải quyết, khắc phục những nguyên nhân đó. Định kỳ, phòng thẩm định phải có báo cáo tình hình thẩm định để Ban Giám đốc nắm bắt được tình hình hiện tại và định hướng phát triển cho tương lai. 3.3. Kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ - Chính phủ cần đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, loại bỏ dần các thủ tục hành chính quá rườm rà, gây khó khăn trong việc xin phép đầu tư, lập dự án của chủ đầu tư, từ đó ảnh hưởng tới quá trình thẩm định của Ngân hang. - Cần có các biện pháp mạnh mẽ hơn nữa trong việc yêu cầu các doanh nghiệp công khai và trung thực trong công tác kế toán tài chính. Có như vậy các bào cáo tài chính mà doanh nghiệp cung cấp cho Ngân hàng mới đáng tin cậy, giúp Ngân hàng thuận lợi hơn trong phân tích, đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của doanh nghiệp cũng như của dự án. - Chính phủ cần yêu cầu các Bộ, ngành xây dựng và công khai hệ thống thông tin về những biến động thường xuyên trong lĩnh vực mình quản lý, giúp Ngân hàng có thêm nguồn thông tin đáng tin cậy để tham khảo trong quá trình thẩm định các dự án trong lĩnh vực đo. - Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng phù hợp cho hoạt động của mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác mọi tiềm năng về lao động, cơ sở vật chất…tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tức là có chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư thích hợp. Đồng thời Nhà nước cũng phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng để phù hợp với đường lối phát triển kinh tế- xã hội, thông lệ và chuẩn mực quốc tế, trước hết là các cam kết của chính phủ về hội nhập quốc tế và mở của thị trường tài chính. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng các văn bản để hệ thống hoá một cách đầy đủ về hoạt động thẩm định tài chính dự án sao cho phù hợp với tình hình thực tế của nước ta hiện nay. Ngân hàng Nhà nước có thể ban hành một “cẩm nang” chung về quy trình, nội dung, phương pháp thẩm định... Tổ chức các lớp đào tạo, các buổi hội thảo, hội nghị, định kỳ có tổng hợp, đúc kết kinh nghiệm cho cán bộ ngành trong toàn hệ thống để làm bài học trong lĩnh vực đầu tư. - Đầu tư nâng cao chất lượng phục vụ của trung tâm thông tin tín dụng (CIC), làm cho trung tâm thực sự trở thành nguồn cung cấp thông tin nhanh chóng, hữu hiệu và toàn diện cho các Ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động. - Tằng cường vai trò quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với các Ngân hàng thương mại theo hướng chặt chẽ, hiệu quả mà không bó buộc, bằng việc áp dụng các công cụ mang tính thị trường hơn như công cụ thị trường mở... 3.3.3 Đối với chủ đầu tư: Yêu cầu các chủ đầu tư cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa với phía ngân hàng trong việc thực hiện dự án. Cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết cho cán bộ ngân hàng một cách nhanh chóng và đảm bảo tính trung thực của những thông tin.Từ đó có thể cùng với ngân hàng đưa ra được những kế hoạch hợp lý và hiệu quả cho dự án.Các chủ đầu tư cũng cần nâng cao năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư, chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án theo đúng nội dung quy định của Bộ Kế hoạch và đầu tư về xây dựng và thẩm định dự án. Các chủ dự án cần phải nhận thức đúng vai trò, vị trí của công tác thẩm định dự án trước khi quyết định đầu tư để có những dự án thực sự có hiệu quả. Các doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu chi tiết trên các khía cạnh như thị trường, kỹ thuật. tài chính của dự án đầu tư và đảm bảo thực hiện đầu tư theo đúng nội dung luận chứng kinh tế kỹ thuật được phê duyệt. Các dự án phải được xác định đầu tư theo đúng tổng vốn theo thời điểm xây dựng, khắc phục tình trạng làm nhiều khối lượng nhưng tính ít để dễ duyệt, khiến trong quá trình xây dựng xảy ra thiếu vốn phải bổ sung, ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư và tiến độ xây dựng. 3.3.4. Kiến nghị với NHNT Việt Nam - NHNT Việt Nam cần xây dựng và hoàn thiện một quy trình thẩm định dự án hoàn chỉnh, chặt chẽ áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống NHNT. - Xây dựng chiến lược về phát triển hoạt động tài trợ dự án đối với hệ thống NHNT. - Linh động hơn nữa trong việc trao quyền quyết định đầu tư dự án cho các Chi nhánh. KẾT LUẬN Thẩm định tài chính dự án đóng vai trò quan trọng và là một trong những nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến việc ra quyết định đầu tư. Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nói chung, vốn tín dụng nói riêng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng. Tuy nhiên, đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội nói riêng, công tác thẩm định tài chính dự án mới được quan tâm trong mấy năm gần đây. Mặc dù đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm nên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn tại hạn chế và cần có thời gian cũng như những giải pháp hợp lý để khắc phục. Cùng với việc gia nhập WTO và sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế nước ta, làn sóng đầu tư cả từ trong và ngoài nước đang rất mạnh mẽ. Nhu cầu tài trợ vốn từ phía ngân hàng là rất lớn và ngày càng mở rộng, đó là cơ hội lớn cho các ngân hàng trong nước. Nhưng cơ hội có thể sẽ mất đi bởi sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng nước ngoài. Từ thực tế đó buộc các ngân hàng trong nước phải ngày càng hoàn thiện mình hơn nữa, nhanh chóng khắc phục các khiếm khuyết để tăng cường vị thế và uy tín với khách hàng qua đó mới giành được những dự án lớn và có chất lượng. Một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu đó là không ngừng cải tiến để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Trong chuyên đề này, em đã cố gắng khái quát về mặt lý thuyết những vấn đề về thẩm định tài chính dự án, tìm hiểu tình hình thực tế công tác thẩm định tài chính dự án tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội qua đó mạnh dạn kiến nghị một số giải pháp để góp phần hoàn thiện công tác thẩm định tài chính tại Chi nhánh. Nhưng do những hạn chế về trình độ và thiếu kinh nghiệm thực tế, thời gian tìm hiểu ngắn chắc chắn nội dung chuyên đề còn nhiều thiếu sót. Em kính mong sẽ nhận được sự góp ý, phê bình từ các thầy, cô giáo cùng tất cả các cô, bác, anh, chị làm việc tại Ngân hàng ngoại thương Hà Nội để bài viết được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10657.doc
Tài liệu liên quan