Luận văn Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

Đề tài: Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1.Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại 1.1.1.Phân loại tín dụng ngân hàng 1.1.2.Rủi ro tín dụng 1.2. Cơ sở lý luận về xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng thương mại 1.2.1.Khái niệm về xếp hạng tín dụng nội bộ 1.2.2.Sự cần thiết của việc xếp hạng tín dụng nội bộ trong Ngân hàng thương mại 1.2.2.2.Cung cấp những thông tin mang tính hệ thống về quá khứ và hiện tại của khách hàng là cơ sở giúp các nhà quản trị ngân hàng đưa quyết định chính xác 1.2.2.3.Là cơ sở để xây dựng chính sách tín dụng và chính sách khách hàng 1.2.2.4.Góp phần thực hiện nguyên tắc cho vay của ngân hàng 1.2.2.5.Giúp ngân hàng xây dựng chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo phương pháp định tính 1.2.3.Nội dung của công tác xếp hạng tín dụng trong Ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Phương pháp được sử dụng để xếp hạng tín dụng 1.2.3.2.Quy trình xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng thương mại 1.3.Nhân tố ảnh hưởng đến công tác xếp hạng tín dụng tại Ngân hàng thương mại 1.3.1.Các nhân tố bên trong ngân hàng thương mại 1.3.1.1.Hệ thống chỉ tiêu xếp hạng tín dụng 1.3.1.2.Phương pháp và các tiêu chuẩn đánh giá xếp hạng tín dụng 1.3.1.3.Mục đích của công tác xếp hạng tín dụng 1.3.1.4.Quy mô tín dụng của ngân hàng 1.3.1.5.Năng lực của người thực hiện xếp hạng tín dụng 1.3.2.Các nhân tố bên ngoài ngân hàng thương mại 1.3.2.1.Quy định, chính sách của Nhà nước 1.3.2.2.Chuẩn mực kế toán 1.3.2.3.Thông tin về ngành nghề, thông tin tài chính của khách hàng vay CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1. Tình hình hoạt động của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 2.1.1. Tình hình hoạt động 2.1.1.1. Tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh 2.1.1.2. Tình hình hoạt động tín dụng 2.2. Thực trạng hệ thống xếp hạng tín dụng tại BIDV 2.2.1. Khái quát về hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng nội bộ 2.2.1.1. Từ năm 2005 trở về trước 2.2.1.2. Từ năm 2006 đến nay 2.2.2. Đối tượng xếp hạng 2.2.3. Phương pháp xếp hạng tín dụng 2.2.4. Nội dung công tác xếp hạng tín dụng nội bộ 2.2.4.1. Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 2.2.4.2. Xếp hạng tín dụng cá nhân 2.2.4.3. Xếp hạng các tổ chức tín dụng 2.2.5. Tổ chức thực hiện công tác xếp hạng tín dụng 2.2.5.1. Tổ chức thực hiện 2.2.5.2. Tần suất chấm điểm 2.3. Đánh giá hệ thống xếp hạng tín dụng của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 2.3.1. Kết quả đạt được 2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân 2.3.2.1. Tồn tại 2.3.2.2. Nguyên nhân CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. Giải pháp 3.1.1. Nhóm giải pháp về yếu tố kỹ thuật, chương trình 3.1.2. Nhóm giải pháp về yếu tố con người 3.1.3. Nhóm giải pháp khác 3.2. Kiến nghị 3.2.1. Đối với nhà nước 3.2.2. Đối với Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc93 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác 52 Mức độ can thiệp của nhà nước vào chính sách cho vay của Ngân hàng 53 Tuân thủ các quy định của Pháp luật có liên quan (trong vòng 5 năm trở lại đây) 54 Hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ chính phủ (NHNN) 55 Hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ công ty mẹ 56 Hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ thể chế khác 57 Khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay, vốn tài trợ ủy thác và vốn khác trên thị trường 58 Triển vọng phát triển của ngân hàng theo đánh giá của BIDV Bước 4: Tổng hợp điểm và xếp hạng Tổng hợp điểm: Điểm của khách hàng = Điểm các chỉ tiêu tài chính * Trọng số phần tài chính + Điểm các chỉ tiêu phi tài chính * Trọng số phần phi tài chính Trọng số của phần tài chính và phi tài chính phụ thuộc vào báo cáo tài chính của khách hàng có được kiểm toán hay không được kiểm toán: Biểu 2.12: Tỷ trọng của chỉ tiêu tài chính và phi tài chính Báo cáo tài chính được kiểm toán Báo cáo tài chính không được kiểm toán Các chỉ tiêu tài chính 35% 30% Các chỉ tiêu phi tài chính 65% 65% Xếp hạng tín dụng khách hàng: Dựa trên điểm đạt được, khách hàng được xếp vào một trong 10 nhóm theo thang điểm như sau: Biểu 2.13: Thang điểm xếp hạng tín dụng TCTD Điểm Xếp loại 90 - 100 AAA 80 – 90 AA 70 – 80 A 65 – 70 BBB 60 – 65 BB 50 – 60 B 45 – 49 CCC 40 – 45 CC 35 – 40 C Ít hơn 35 D 2.2.5. Tổ chức thực hiện công tác xếp hạng tín dụng 2.2.5.1. Tổ chức thực hiện Công tác xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn được triển khai vận hành trên toàn hệ thống. Tổ chức thực thực hiện tại các chi nhánh a. Công việc của các bộ phận tại chi nhánh liên quan đến công tác XHTD: - Cán bộ tín dụng (nay là cán bộ Quan hệ khách hàng): Sử dụng phần mềm xếp hạng để thực hiện xếp hạng tín dụng khách hàng. Riêng đối với khách hàng cá nhân, các kết quả chấm điểm phải được lưu trữ đầy đủ cùng hồ sơ tín dụng của khách hàng, kể cả các khách hàng bị từ chối cho vay để phục vụ công tác kiểm tra và rà soát hệ thống. - Trưởng phòng Tín dụng: Kiểm soát và phân loại khách hàng của cán bộ tín dụng, bảo đảm việc chấm điểm được chính xác, khách quan. - Trưởng phòng quản lý tín dụng: Chịu trách nhiệm thực hiện rà soát độc lập về việc chấm điểm và xếp hạng khách hàng của bộ phận tín dụng. - Giám đốc chi nhánh: Phê duyệt kết quả xếp hạng khách hàng để gửi lên Hội sở chính. b.Công việc của các bộ phận tại các Hội sở chính liên quan đến công tác XHTD - Bộ phận tổng hợp và xử lý kết quả xếp hạng: Chịu trách nhiệm tổng hợp và xử lý kết quả xếp hạng cho danh mục tín dụng toàn hệ thống. Kiểm tra lại kết quả tổng thể trước khi lập báo cáo tín dụng gửi cho các phòng ban liên quan. - Ban Quản lý Rủi ro, Bản Quản lý Tín dụng và Ban Tín dụng: Sử dụng kết quả xếp hạng để phân tích rủi ro và điều hành hoạt động tín dụng. - Ban Lãnh đạo BIDV: Dựa trên báo cáo của các Ban, sẽ đưa ra các quyết định điều hành hiệu quả. Đối với các khách hàng là tổ chức tín dụng, người chịu trách nhiệm chấm điểm và xếp hạng khách hàng là cán bộ phân tích tín dụng khách hàng định chế tài chính tại Hội sở chính. - Giám đốc ban kinh doanh đối ngoại Hội sở chính là người chịu trách nhiệm kiểm soát việc chấm điểm và phân loại khách hàng của cán bộ phân tích tín dụng TCTD để đảm bảo việc chấm điểm được chính xác, khách quan. - Phó tổng giám đốc phụ trách kinh doanh đối ngoại là người phê duyệt kết quả xếp hạng. - Việc đánh giá xếp hạng, quản lý rủi ro tín dụng đối với khách hàng là TCTD được quản lý tập trung tại Hội sở chính. - Việc xếp hạng rủi ro các khách hàng TCTD được thực hiện trên cơ sở tòan tập đoàn của khách hàng đó. 2.2.5.2. Tần suất chấm điểm Định kỳ, các chi nhánh thực hiện công tác xếp hạng tín dụng doanh nghiệp trên cơ sở báo cáo tài chính năm gần nhất và các thông tin cập nhật nhất thu thập được liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kỳ đánh giá được thực hiện định kỳ mỗi tháng 1 lần để cập nhật một cách nhanh chóng nhất tình hình của khách hàng vay vốn. - Trường hợp khách hàng lần đầu tiên đặt quan hệ tín dụng tại BIDV, thực hiện xếp hạng tín dụng ngay và sử dụng kết quả chấm điểm xếp hạng tín dụng để làm một trong các căn cứ xem xét phán quyết tín dụng. Các lần chấm điểm và xếp hạng tiếp theo được thực hiện định kỳ như theo quy định ở trên. Đối với khách hàng là tổ chức tín dụng: - Định kỳ một năm hai lần vào quý I và Quý III, cán bộ phân tích đánh giá tổ chức tín dụng tổ chức chấm điểm và xếp hạng khách hàng trên cơ sở báo cáo tài chính năm gần nhất và các thông tin cập nhật nhất thu thập được liên quan đến hoạt động kinh doanh của khách hàng. - Thực hiện đánh giá xếp hạng khi có yêu cầu từ các đơn vị kinh doanh/đối tác có sự kiện bất thường. 2.3. Đánh giá hệ thống xếp hạng tín dụng của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 2.3.1. Kết quả đạt được Công tác xếp hạng tín dụng đang ngày càng trở nên quan trọng trong quản lý rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Với một số lượng lớn các khách hàng vay vốn thì xếp hạng tín dụng là một công cụ phục vụ đắc lực trong quản lý rủi ro tín dụng. Nếu không có một hệ thống tổng hợp và xử lý thông tin sẵn có thì ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc đánh giá và so sánh rủi ro của rất nhiều khách hàng khác nhau với các thông tin đa dạng của từng khách hàng. Công tác XHTD hiện tại của BIDV đã đạt được các kết quả sau: Thứ nhất: Công tác XHTD theo hệ thống XHTD hiện tại trợ giúp cho BIDV trong việc kiểm soát toàn bộ danh mục tín dụng Trước khi đánh giá XHTD khách hàng, trong dó có khách hàng là doanh nghiệp, các doanh nghiệp được phân loại chi tiết theo từng ngành kinh tế, quy mô và loại hình doanh nghiệp. Việc phân loại ngay ban đầu này đã giúp cho BIDV nói chung và Sở giao dịch nói riêng có thể có thông tin đầy đủ về toàn bộ danh mục tín dụng hiện tại, bao gồm: các khách hàng hoạt động trong những ngành nghề, lĩnh vực nào, biết được quy mô doanh nghiệp là lớn, trung bình hay nhỏ, cũng như biết được loại hình sở hữu doanh nghiệp chủ yếu hiện nay. Thứ hai: Công tác XHTD theo hệ thống XHTD này giúp ngân hàng có cơ sở đánh giá thống nhất và mang tính hệ thống trong suốt quá trình tìm hiểu về khách hàng, xem xét dự án đầu tư, đánh giá phân tích, thẩm định và ra quyết định cấp tín dụng. Việc định kỳ đánh giá XHTD khách hàng giúp ngân hàng có thể cập nhật một cách nhanh chóng tình hình khách hàng, đánh giá được sự ảnh hưởng của những thay đổi đó đến hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời, việc đánh giá XHTD định kỳ cũng giúp cho ngân hàng đưa ra được những chính sách mà ngân hàng sẽ áp dụng đối với doanh nghiệp trong thời gian tới. Thứ ba: Hệ thống xếp hạng tín dụng đã đáp ứng được yêu cầu quan trọng cho việc thực hiện Điều 7 quyết định 493/2005/QĐ- NHNN, tạo điều kiện tiền đề và trọng yếu để được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt cho phép thực hiện Điều 7 bắt đầu cho năm tài chính 2006. Thứ tư: Hệ thống XHTD mới của BIDV đảm bảo việc phân loại nợ theo thông lệ quốc tế. Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro được thực hiện dựa trên kết quả xếp hạng tín dụng. Đây là điểm khác biệt cơ bản của hệ thống xếp hạng tín dụng mới của BIDV so với hệ thống xếp hạng cũ (kết quả phân loại nợ theo hệ thống xếp hạng cũ dựa trên tình hình thực tế của các khoản vay). Căn cứ vào kết quả xếp hạng tín dụng, các khoản nợ của khách hàng thuộc đối tượng xếp hạng tín dụng sẽ được phân loại vào các nhóm nợ tương ứng như sau: Biểu 2.14: Phân nhóm nợ Kết quả XHTD Phân loại Nhóm nợ Đánh giá của ngân hàng AAA Nợ nhóm 1 Nợ có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn AA A BBB Nợ nhóm 2 Nợ có khả năng thu hồi cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ BB B Nợ nhóm 3 Nợ có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi CCC CC C Nợ nhóm 4 Nợ có khả năng tổn thất cao D Nợ nhóm 5 Nợ không còn khả năng thu hồi, mất vốn Trên cơ sở các nhóm nợ, BIDV thực hiện trích lập dự phòng rủi ro (bao gồm dự phòng chung và dự phòng cụ thể) với tỷ lệ tương ứng: tỷ lệ trích lập dự phòng chung bằng 0,75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4; tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ: Nhóm 1: 0%, Nhóm 2: 5%, Nhóm 3: 20%, Nhóm 4: 50%, Nhóm 5: 100%. Biểu 2.8: Kết quả phân loại nợ tại thời điểm 31/12/2008 và 31/12/2009 Mặc dù những dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng nhiều đến tình hình tài chính của khách hàng cũng như hoạt động kinh doanh ngân hàng, song chất lượng tín dụng của BIDV đã được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ nợ xấu được khống chế ở mức thấp (dưới 3%). Năm 2009 tổng dư nợ tăng thêm hơn 43.000 tỷ, tương đương 28%, song tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức 2,82%, có tăng nhẹ so với năm 2008, song là mức thấp so với mặt bằng chung trong bối cảnh kinh tế không thuận lợi, đặc biệt tiếp tục có xu hướng giảm so với mức 3,98% năm 2007. Tỷ lệ nợ tốt (nợ nhóm 1) tăng lên đáng kể từ mức 77% năm 2008 lên 81% năm 2009, đồng thời tỷ lệ nợ nhóm 2 (nhóm nợ tiềm tàng có nguy có phát sinh nợ xấu cao) giảm được 4% từ mức 20% năm 2008 xuống 16% năm 2009. Tỷ lệ bù đắp rủi ro (quỹ dự phòng rủi ro/nợ xấu) đảm bảo >1, đạt 163%, giảm so với mức 199% năm 2008 cho thấy Quỹ dự phòng rủi ro tín dụng bảo đảm bù đắp tổn thất nợ xấu, chất lượng tín dụng được đảm bảo nên tỷ lệ trích lập/nợ xấu có xu hướng giảm. Quy mô, cơ cấu và chất lượng tín dụng đã cho thấy ngân hàng đã thực thi tốt các chính sách tín dụng: kiểm soát chất lượng, đa dạng hóa khách hàng, nâng cao quản lý rủi ro vừa đảm bảo tăng trưởng song vẫn kiểm soát tốt chất lượng tín dụng. Thứ năm: Công tác XHTD góp phần quan trọng trong việc xác định mức tổn thất tín dụng và chi phí vốn tương ứng với từng loại hình sản phẩm, lĩnh vực tín dụng. Từ kết quả XHTD của doanh nghiệp, ngân hàng đã đưa ra được chính sách tín dụng áp dụng đối với từng đối tượng khách hàng khác nhau, cụ thể về chính sách lãi suất, phí phát hành bảo lãnh, phí mở LC,, tạo điều kiện định hướng xây dựng chiến lược cho hoạt động tín dụng trên cơ sở cân nhắc rủi ro và lợi nhuận đem lại. Thứ sáu: Công tác XHTD góp phần hoàn thiện khung quản lý rủi ro tín dụng, trong đó bao gồm: Xác định mức rủi ro tín dụng hợp lý, kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tín dụng kịp thời, ngăn chặn gian lận. Thứ bảy: Công tác XHTD góp phần thiết kế quy trình tín dụng hiệu quả hơn, cung cấp dịch vụ cho khách hàng nhanh hơn do vậy sẽ tiết kiệm được chi phí quản lý và tạo được nhiều lợi nhuận hơn. Thứ tám: Từ những lợi ích đem lại như trên, công tác XHTD đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của BIDV. Uy tín và vị thế của BIDV trên thị trường trong nước và trên tầm quốc tế được đánh giá cao. Trên cơ sở đó, quy mô hoạt động và tầm ảnh hưởng của BIDV sẽ ngày càng được mở rộng, đáp ứng chiến lược phát triển của BIDV trong tương lai. 2.3.2. Tồn tại và nguyên nhân 2.3.2.1. Tồn tại Về nội dung chương trình Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác XHTD còn gặp phải những khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện. a. Về hệ thống chỉ tiêu phân tích: Các khách hàng là doanh nghiệp trước khi thực hiện chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính phải được phân loại chi tiết theo từng ngành kinh tế và quy mô và loại hình doanh nghiệp. Theo đó, các chỉ tiêu và tiêu chí đánh giá đối với yếu tố tài chính và phi tài chính cho mục đích chấm điểm sẽ thay đổi theo ngành kinh tế, quy mô và loại hình doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế quá trình triển khai thấy rằng: - Tỷ trọng các chỉ tiêu phân tích đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại theo hệ thống xếp hạng mới có phần chưa hợp lý khiến cho việc áp dụng chính sách khách hàng cũng như chính sách phân loại nợ đối với đối tượng khách hàng này có yêu cầu cao hơn so với các doanh nghiệp trong hoạt động trong lĩnh vực khác. Điều này ảnh hưởng đến chính sách khách hàng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại có phần cao hơn so với việc chấm điểm xếp hạng tín dụng theo hệ thống cũ. Ngoài ra, việc áp dụng chính sách khách hàng đối với các doanh nghiệp thương mại như hiện tại làm giảm khả năng cạnh tranh của BIDV so với các ngân hàng khác trong việc cho vay đối với nhóm khách hàng này. - Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có đặc điểm hoạt động riêng của mình. Hệ thống các chỉ tiêu chấm điểm đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau có khác nhau đôi chút. Tuy nhiên, trên thực tế, hệ thống các chỉ tiêu hiện tại vẫn còn chưa phản ánh được những đặc thù trong hoạt động của từng ngành riêng biệt. b. Về phương pháp xếp hạng tín dụng: Phương pháp xếp hạng còn mang tính chủ quan - Phương pháp đánh giá hiện tại của BIDV đang áp dụng là phương pháp xếp hạng, trong đó cán bộ tín dụng quản lý khách hàng là người trực tiếp cập nhật thông tin và cho điểm đối với từng chỉ tiêu đánh giá theo hướng dẫn cho điểm của Hội sở chính ban hành. - Hiện tại, một số chỉ tiêu phi tài chính được đánh giá cho điểm mang tính chất định tính, dựa trên sự đánh giá của cán bộ tín dụng trực tiếp quản lý. Phương pháp này đòi hỏi cán bộ xếp hạng tín dụng phải am hiểu được tất cả các nội dung đánh giá, thu thập đầy đủ thông tin của khách hàng và đưa ra đánh giá mang tính chủ quan với các chỉ tiêu này. Về việc ứng dụng vào thực tế a. Về cách thức thực hiện công tác xếp hạng tín dụng: - Đối với một doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực: Căn cứ được đánh giá xác định ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp dựa vào hoạt động sản xuất kinh doanh chính của doanh nghiệp (đem lại doanh thu trên 50%) hoặc ngành nghề có tiềm năng phát triển trong các ngành (trong trường hợp doanh thu các ngành thu được như nhau). Việc đánh giá chấm điểm xếp hạng tín dụng trong trường hợp này cũng mang tính chất tương đối, chưa thật sự phản ánh được đúng bản chất hoạt động của doanh nghiệp hiện tại. - Xếp hạng tín dụng đối với các đơn vị phụ thuộc: Hiện tại, các việc xếp hạng tín dụng các đơn vị hạch toán phụ thuộc (công ty mẹ có quan hệ với Sở giao dịch) được thực hiện như sau: Chấm điểm tài chính của đơn vị hạch toán phụ thuộc còn điểm phi tài chính của công ty mẹ. Tuy nhiên, kết quả chấm điểm đối với các đơn vị phụ thuộc này chỉ dùng để phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro còn chính sách khách hàng của các đơn vị này vẫn được áp dụng theo chính sách khách hàng áp dụng đối với công ty mẹ. Chính việc này cũng cho thấy sự không thống nhất trong sử dụng kết quả chấm điểm xếp hạng tín dụng. - Với hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của BIDV hiện nay, nhân tố con người vẫn đóng vai trò rất quan trọng. Phần lớn CBTD của BIDV đều ở độ tuổi tương đối trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thực tế. Hơn nữa, việc triển khai hệ thống mới cũng chưa phải là dài nên một số CBTD vẫn chưa có được những hiểu biết sâu sắc cũng như kinh nghiệm trong việc vận hành hệ thống. Hầu hết CBTD vẫn chưa được trang bị kiến thức về xếp hạng tín dụng một cách đầy đủ, toàn diện, do đó kết quả xếp hạng tín dụng không chính xác do phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan của người đánh giá. Tại BIDV, có trường hợp kết quả xếp hạng tín dụng bị sai sót là do CBTD nhập báo cáo từ khách hàng không chính xác, chọn ngành nghề hoạt động không phù hợp, không thực hiện xếp hạng với những khách hàng thuộc đối tượng phải xếp hạng. Ngoài hạn chế về kinh nghiệm thực tế, nhiều CBTD hiện nay còn chưa có tác phong làm việc chuyên nghiệp, CBTD coi trách nhiệm cung cấp thông tin là nghĩa vụ bắt buộc của khách hàng, còn bản thân học ít khi có thói quen giám sát khách hàng một cách thường xuyên liên tục. Điều này dẫn tới một thực tế là khi cần lấy thông tin, khách hàng sẽ trực tiếp đến NH để đưa thông tin thay vì CBTD tới các cơ sở để thu thập và xác minh thông tin. Do đó, nguồn thông tin từ khách hàng đôi khi là không chính xác. Thu thập thông tin được coi là bước quan trọng nhất trong quy trình xếp hạng, một khi trách nhiệm của CBTD trong khâu này không cao thì rất khó có thể phát huy hiệu quả của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tới hoạt động tín dụng. b. Tổ chức triển khai xếp hạng tín dụng: Tổ chức xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp chưa thực sự khoa học, còn mang tính chủ quan. - Công xếp hạng tín dụng doanh nghiệp vay vốn được triển khai thực hiện định kỳ hàng tháng, giúp ngân hàng có thể cập nhật ngay được các thông tin về doanh nghiệp khi doanh nghiệp có bất kỳ thay đổi nào. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp hoạt động đều có tính ổn định lâu dài, việc đánh giá, xếp hạng tín dụng như vậy là hơi nhiều, gây cảm giác nhàm chán và ảnh hưởng đến chất lượng đánh giá doanh nghiệp của các cán bộ trực tiếp xếp hạng. - Công tác kiểm soát lại kết quả đánh giá xếp hạng tín dụng còn mang tính hình thức, chưa thực sự có tác dụng. Kết quả đánh giá xếp hạng tín dụng phần nhiều vẫn phụ thuộc vào việc đánh giá của cán bộ trực tiếp thực hiện. c. Nguồn thông tin sử dụng trong công tác xếp hạng tín dụng: - Hiện tại, các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp vay vốn được tính toán sau đó so sánh với kỳ trước và với số trung bình ngành, nhóm ngành. Mục đích của việc làm này là giúp ngân hàng nhận biết được doanh nghiệp đang đứng ở vị trí nào so với toàn ngành. Vì mỗi ngành có đặc thù riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến việc tính toán, đánh giá khả năng trả nợ vay ngân hàng của các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề khác nhau thông qua các chỉ tiêu tài chính cũng không giống nhau. Hiện tại, Việt Nam vẫn chưa có thông tin về các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành, nhóm ngành nên việc phân tích xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp vay vốn cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Chính bản thân ngân hàng khi thực hiện XHTD cũng phải tự tổng hợp số liệu từ các khách hàng của mình, cộng thêm kinh nghiệm của các chuyên giac để đưa ra bộ số liệu chuẩn phục vụ cho việc đánh giá khách hàng. - Các thông tin chuyên ngành mà cán bộ trực tiếp đánh giá xếp hạng thu thập được từ nhiều nguồn: Internet, doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh… Ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho phân tích, dự báo tình hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp. - Công tác xếp hạng tín dụng được triển khai tại các chi nhánh trong toàn hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chính sách khách hàng và phân loại nợ đối với một khách hàng có quan hệ với nhiều chi nhánh được áp dụng thống nhất theo kết quả xếp hạng tín dụng của chi nhánh đánh giá thấp nhất. Hiện tại, thông tin xếp hạng tín dụng doanh nghiệp của các chi nhánh chưa được cập nhật và thông báo rộng rãi. Mỗi khi chi nhánh nào cần thông tin đều phải liên lạc qua điện thoại. Điều này làm giảm hiệu quả trong quá trình thực hiện. Mặt khác, đối với các khách hàng có dư nợ lớn kết quả xếp hạng tín dụng tại một trong các đơn vị của hệ thống nếu là nợ xấu (có thể do nguyên nhân khách quan) sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu nợ xấu của các đơn vị thành viên khác. - Nguồn thông tin sử dụng đối với khách hàng rất cá nhân khó đánh giá trong giai đoạn hiện nay, khi các thông tin tài chính về các khách hàng này chưa minh bạch. Khách hàng khó chứng minh các nguồn thu nhập có thể dùng làm nguồn trả nợ, gây khó khăn cho công tác đánh giá xếp loại khách hàng. 2.3.2.2. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan - Về chế độ kế toán thống kê: Hiện nay, chế độ kế toán Việt Nam đã có bước chuyển mình căn bản, thể hiện qua các chuẩn mực kế toán đã được ban hành, trong đó có chuẩn mực kế toán số 24- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được ban hành theo quyết định số 149/QĐ- BTC ngày 31/12/2001. Thực tế, đây là báo cáo mà ngân hàng hết sức quan tâm bởi nó là công cụ để ngân hàng kiểm tra, đánh giá tính hợp lý của các khoản mục trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. Bên cạnh đó, báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn là cơ sở để đánh giá khả năng thanh toán, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng linh động về tài chính của doanh nghiệp thông qua các luông tiền ra và luồng tiền vào. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam, việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ vẫn chưa bắt buộc mà chỉ mang tính chất khuyến khích các doanh nghiệp lập và sử dụng. Tính chính xác của báo cáo này chưa cao. Chính vì vậy, công tác xếp hạng tín dụng doanh nghiệp chưa sử dụng được kết của của Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. - Số liệu thống kê về ngành Cho đến nay, chưa có một cơ quan nào có thông tin được thông báo rộng rãi về các chỉ tiêu trung bình ngành, nhóm ngành. Số liệu trung bình ngành hiện tại chủ yếu tại các công trình nghiên cứu khoa học cấp cơ sở hoặc cấp bộ đối với một số ngành nhất định như giấy, xi măng, điện… Điều này khiến cho việc xác định các bộ chỉ tiêu có phần khó khăn, dựa vào kinh nghiệm của người phân tích và tập hợp số liệu của các doanh nghiệp trong từng ngành mà ngân hàng đã và đang quản lý. - Báo cáo tài chính: Nguồn thông tin được sử dụng trong phân tích tài chính của doanh nghiệp là các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp phần nhiều vẫn chưa được kiểm toán nên mức độ tin cậy không cao. - Môi trường cho dịch vụ xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp vay vốn hoặc nhà phát hành trong nước ít phát triển. Các tổ chức xếp hạng tín dụng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển các nghiệp vụ xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại bất kỳ quốc gia nào. Hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa có luật nào quy định điều kiện cho sự ra đời và phát triển của tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp. Nguyên nhân chủ quan a. Nguyên nhân từ nội bộ ngân hàng: - Kinh nghiệm, trình độ, năng lực của người xây dựng, thực hiện phân tích, xếp hạng khách hàng doanh nghiệp còn có hạn chế. + Bộ phận xây dựng hệ thống hệ thống các chỉ tiêu Hệ thống xếp hạng tín dụng của BIDV được xây dựng dựa trên ý tưởng và ý kiến của các bộ phận tham gia: Bộ phận chuyên trách (một số cán bộ của Ban Quản lý rủi ro và Ban Quản lý tín dụng), chuyên gia tư vấn, Ban công nghệ thông tin, cán bộ các chi nhánh. Đây là những chuyên gia có năng lực, kinh nghiệm và khả năng cập nhật, vận dụng các yếu tố kỹ thuật của phân tích tín dụng vào việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, do số lượng các ngành và nhóm ngành nhiều nên nếu chia nhỏ các chỉ tiêu đặc trưng cho từng ngành và xây dựng bộ chấm điểm đối với những ngành đó là một khối lượng công việc khổng lồ. Vì vậy, hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp vay vốn chỉ bao gồm những chỉ tiêu chung nhất đối với các ngành và nhóm ngành. Sự khác biệt giữa các ngành và nhóm ngành là ở mức độ quan trọng của các yếu tố tác động đến ngành, nhóm ngành đó. + Bộ phận trực tiếp triển khai: Yêu cầu của xếp hạng doanh nghiệp là những thông tin thu thập được cần đầy đủ, chính xác và phải được xử lý một cách độc lập, khách quan, nhằm đưa ra những thông tin hữu ích cho việc xếp hạng. Để đảm bảo được yêu cầu đó thì đòi hỏi người phân tích xếp hạng doanh nghiệp phải là người vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, vừa phải có kinh nghiệm, am hiểu nhiều lĩnh vực khác nhau, nhạy bén với những thông tin mới đồng thời không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan quyết định. Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ tại BIDV tương đối trẻ, khá năng động nhạy bén, chuyên môn nghiệp vụ vững. Tuy nhiên, mỗi cán bộ phụ trách một số lượng các khách hàng nhất định, và thường hoạt động trong một số ngành khác nhau. Vậy nên việc am hiểu sâu nhiều lĩnh vực khác nhau khi thực hiện xếp hạng doanh nghiệp hoạt động ở các ngành, lĩnh vực khác nhau có phần khó khăn. - BIDV chưa xây dựng được bộ phận hỗ trợ chuyên trách xếp hạng tín dụng các đơn vị như: cập nhật các thông tin về ngành, giải đáp các vấn đề khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện công tác xếp hạng tín dụng. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 3.1. Giải pháp 3.1.1. Nhóm giải pháp về yếu tố kỹ thuật, chương trình Hoàn thiện một số chỉ tiêu phân tích - Bổ sung một số chỉ tiêu trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ là công việc quan trọng, ngày càng được các ngân hàng quan tâm. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là cơ sở để ngân hàng đánh giá khả năng thanh toán, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng linh động về tài chính của doanh nghiệp thông qua luồng tiền ra và luồng tiền vào của doanh nghiệp. Trong các chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp của BIDV thì chưa đề cập đến các chỉ tiêu trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ bởi báo cáo này không bắt buộc các doanh nghiệp lập. Trong thời gian tới, khi có quy định cụ thể của các cơ quan có thẩm quyền về lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ, đề nghị bổ sung các chỉ tiêu khi phân tích đánh giá doanh nghiệp như sau: + Hệ số dòng tiền vào từ hoạt động kinh doanh so với tổng dòng tiền vào: Chỉ tiêu này cho biết mức độ về năng lực tạo ra nguồn tiền từ hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp. Thông thường, tỷ lệ này rất cao (trên 80%) và là nguồn tiền chủ yếu dùng trang trải cho hoạt động đầu tư dài hạn và trả cổ tức cũng như các khoản vay ngắn hạn, dài hạn. Một cách phân tích thường liên hệ là mang hệ số kỳ thực hiện so với các kỳ trước để thấy xu hướng tăng trưởng hay sự ổn định và so với các doanh nghiệp tiêu biểu cùng ngành hay chỉ tiêu bình quân để đo lường sự biến động chung về tình hình kinh doanh và đặc điểm dòng tiền. + Hệ số dòng tiền vào từ hoạt động đầu tư so với tổng dòng tiền vào: Trong hoạt động đầu tư, dòng tiền của doanh nghiệp được lưu chuyển thông suốt ở các lĩnh vực: đầu tư chứng khoán, đầu tư kinh doanh bất động sản, cho thuê dài hạn tài sản cố định, liên doanh, hùn vốn… Dòng tiền ra để gia tăng các khoản đầu tư, ngược lại, một sự thu hồi các khoản đầu tư sẽ thể hiện trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ là dòng tiền vào. Khi hệ số này cao, tức là dòng tiền vào từ hoạt động đầu tư chiếm tỷ trọng cao. Nếu chưa có kế hoạch tái đầu tư, doanh nghiệp sẽ điều phối nguồn tiền ưu tiên thanh toán các khoản nợ dài hạn đến hạn trả hoặc trả trước hạn để giảm chi phí lãi vay. Sau đó, doanh nghiệp sẽ điều tiết vốn cho hoạt động kinh doanh chính để giảm các khoản vay ngắn hạn. Nghiên cứu, xem xét chỉ tiêu này giúp ngân hàng dự báo được khả năng trả nợ các khoản vay như thế nào. + Hệ số dòng tiền ra để trả nợ dài hạn so với tổng dòng tiền vào: Trả nợ dài hạn đối với các khoản nợ chưa đến hạn trả làm cho hệ số dòng tiền ra tăng cao và thường gắn liền với một chiến lược nào đó. Thông thường, tỷ lệ thanh toán nợ dài hạn so với tổng dòng tiền vào là rất thấp (5% -10%) và diễn ra đều đặn qua các năm. Nguyên nhân chính là do tính chất của các khoản nợ dài hạn với các điều khoản thanh toán ổn định. Vì vậy, hệ số này thay đổi đột ngột là điều cần quan tâm để tìm nguyên nhân giải thích. + Hệ số dòng tiền ra để trả cổ tức so với dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh: Đối với các công ty cổ phần, cần nghiên cứu thêm chỉ tiêu này. Chỉ tiêu này cho biết việc sử dụng dòng tiền thu được từ hoạt động kinh doanh dùng để trả lợi tức cho các cổ đông. Đây là một chiến lược khá phức tạp. Một số công ty có chính sách duy trì đều đặn mức trả cổ tức mặc dù phải sử dụng cả các nguồn khác - kể cả đi vay, khi dòng tiền từ hoạt động kinh doanh không đáp ứng đủ, trong khi đó một số công ty lại có chính sách “cứng rắn” ngược lại. Hệ số này phải luôn được cân nhắc trước nhu cầu đầu tư hay sự cần thiết phải bổ sung vốn cho công ty trong từng giai đoạn chiến lược kinh doanh. - Bổ sung một số chỉ tiêu phi tài chính đối với doanh nghiệp hoạt động trong các ngành khác nhau: Hiện tại, việc đánh giá XHTD các doanh nghiệp ỏ các ngành khác nhau đều sử dụng một bộ chỉ tiêu tài chính và phi tài chính và có sự điều chỉnh về trọng số thể hiện mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu, nhóm chỉ tiêu. Thực tế triển khai đã cho thấy rằng: cần bổ sung thêm một số chỉ tiêu đặc trưng đối với từng ngành riêng biệt: + Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng: Trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân, các doanh nghiệp xây dựng nhận thầu giữ vai trò quan trọng. Ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp như: tổng công ty, công ty, xí nghiệp, đội xây dựng… Các đơn vị này có thể thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy các đơn vị này khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý nhưng đều là những tổ chức nhận thầu xây lắp (thầu chính hoặc thầu phụ) hoặc có trường hợp tự thực hiện. Để phân tích, đánh giá doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng một cách toàn diện hơn, đề nghị bổ sung thêm các chỉ tiêu sau: Khả năng thực hiện đấu thầu Chỉ tiêu này đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác hoạt động trong ngành. Chỉ tiêu này được xác định dựa trên các thông tin tổng hợp về doanh nghiệp: các công trình tham gia dự thầu, giá dự thầu của doanh nghiệp, giá dự toán của chủ đầu tư, giá trúng thầu của doanh nghiệp, lãi (lỗ) dự kiến, các yếu tố quyết định đến kết quả trượt (trúng) thầu) của doanh nghiệp. Từ các thông tin thu thập được, ngân hàng có thể đánh giá được khả năng, năng lực của doanh nghiệp trong việc đấu thầu các công trình xây dựng. Khả năng tổ chức thi công Sau khi trúng thầu, doanh nghiệp có thể thực hiện thi công toàn bộ công trình hoặc chuyển cho một đơn vị khác làm một phần công việc dưới hình thức thầu phụ. Chỉ tiêu khả năng tổ chức thi công đánh giá năng lực thi công của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác trong ngành. Để có cơ sở đánh giá khả năng tổ chức thi công, cần thu thập các thông tin: Giá trị hợp đồng xây dựng, kế hoạch sản lượng thực hiện luỹ kế theo tiến độ thoả thuận tại hợp đồng, sản lượng thực hiện luỹ kế, % hoàn thành so với kế hoạch, mức độ phức tạp của công trình, đánh giá của chủ đầu tư về chất lượng thực hiện… Tiến độ nghiệm thu khối lượng xây lắp đã hoàn thành Chỉ tiêu cho biết khả năng, tốc độ thu hồi tiền của dự án. Nếu tiến độ nghiệm thu nhanh thì công trình không bị đọng vốn, giảm chi phí tài chính cho doanh nghiệp. Căn cứ để xác định tiến độ nghiệm thu khối lượng xây lắp hoàn thành là tỷ lệ giữa giá trị chủ đầu tư đã thanh toán và giá trị sản lượng được nghiệm thu. + Đối với doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục: Hoạt động cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục là một ngành kinh tế mang tính tổng hợp cao. Sản phẩm phần lớn là dịch vụ, không mang hình thái vật chất cụ thể như hàng hóa thông dụng khác. Quá trình sản xuất ra sản phẩm đồng thời là quá trình tiêu thụ, nghĩa là các dịch vụ được thực hiện trực tiếp với khách hàng. Chính vì đặc điểm như vậy nên ngành dịch vụ y tế, giáo dục cần được đánh giá thêm một số chỉ tiêu nữa: Địa điểm cung cấp dịch vụ và sản phẩm: Chỉ tiêu này xác định mức độ thuận lợi của địa điểm, nơi cung cấp sản phẩm dịch vụ. Tiêu thức để đánh giá sự thuận lợi là: hệ thống đường giao thông đi lại đến nơi cung cấp sản phẩm, dịch vu; môi trường có trong sạch hay không; diện tích to hay nhỏ; địa điểm này có gần nơi đông dân cư hay không… Mức độ hiện đại của trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh: Chỉ tiêu đánh giá trang thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp là lạc hậu, bình thường, hiện đại hay rất hiện đại, cao cấp. Đội ngũ cán bộ chuyên môn: Chỉ tiêu đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên môn: có đáp ứng được yêu cầu hay không; đây có phải là những cán bộ có uy tín trong lĩnh vực chuyên môn hay không. Thái độ phục vụ khách hàng: Chỉ tiêu đánh giá thái độ của đội ngũ nhân viên trong quá trình phục vụ khách hàng là kém, bình thường hay nhiệt tình, chu đáo. 3.1.2. Nhóm giải pháp về yếu tố con người - Trình độ của cán bộ tín dụng Nâng cao trình độ của cán bộ xếp hạng tín dụng Hệ thống XHTD mới được xây dựng và áp dụng nên NH cần nâng cao nhận thức của CBTD về tầm quan trọng của hệ thống XHTD thông qua các văn bản hướng dẫn, các quy trình kiểm tra, các chế độ khen thưởng… Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và chất lượng các CBTD thực hiện việc XHTD nói riêng, chi nhánh cần chú trọng vào nguồn nhân lực ngay từ khâu tuyển dụng, cần có chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng. trong quá trình hoạt động, ngân hàng cần chú trọng hoạt động đào tạo thông qua việc thường xuyên tổ chức các các lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức và phương pháp nhận xét đánh giá khác hàng cho các nhân viên mới. Hướng dẫn các thao tác xử lý khi vận hành hệ thống. Song song với việc tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo, NH tiến hành soạn thảo, ban hành tài liệu hướng dẫn việc khai thác, sử dụng hệ thống. Chi nhánh cần tăng cường công tác kiểm tra đánh giá việc thực hiện quy trình xếp hạng của CBTD nhằm giảm thiểu các rủi ro phát sinh từ phía CBTD. Việc kiểm tra này cần được tiền hành thường xuyên trong cả quá trình trước trong và sau khi cho vay. Bên cạnh đó, NH cần áp dụng chế độ thưởng phạt nghiêm minh để gắn trách nhiệm của CBTD với công tác xếp hạng. - Trú trọng đào tạo chuyên môn nghiệp vụ song song với rèn luyện đạo đức của cán bộ làm công tác xếp hạng khách hàng. Công tác đào tạo chuyên môn giữ vai trò rất quan trọng, tuy nhiên, yếu tố đạo đức nghề nghiệp của cán bộ làm công tác xếp hạng cũng cần đặc biệt chú trọng. 3.1.3. Nhóm giải pháp khác - Nguồn thông tin Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cho phép Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) chính thức thực hiện nghiệp vụ xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Đây là địa chỉ đầu tiên của Việt Nam trong lĩnh vực này. Các thông tin được CIC cung cấp cho các đối tượng có nhu cầu sẽ bao gồm thông tin cung cấp tập trung về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, về Ban lãnh đạo, các chi nhánh, văn phòng đại diện, thông tin về quan hệ tín dụng (danh sách tổ chức tín dụng quan hệ, diễn biến dư nợ trong kỳ, tình hình vay nợ và nợ không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp), tình hình tài chính qua các năm, bảng so sánh chỉ tiêu tài chính qua các năm, bảng tính điểm tình hình hoạt động doanh nghiệp qua các năm, các chỉ tiêu phi tài chính, nhận xét chung về tình hình hoạt động và vay nợ của doanh nghiệp. Về xếp hạng tín dụng, CIC tiến hành đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, theo 3 loại quy mô (lớn, vừa và nhỏ). Thông tin phân tích và xếp hạng tín dụng được phép cung cấp cho các đối tượng là các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng và một số đơn vị khác có yêu cầu. Ngoài ra, các doanh nghiệp có nhu cầu tự xếp hạng có thể sử dụng thông tin của CIC để làm tài liệu tham khảo khi có nhu cầu vay vốn các tổ chức tín dụng, hoặc để tự đánh giá năng lực hoạt động của mình. Thực tế triển khai cho thấy, Trung tâm Thông tin tín dụng bước đầu đã cung cấp được một số thông tin hữu ích cho các đối tượng quan tâm. Tuy nhiên, dưới giác độ là một cán bộ ngân hàng, đề nghị Trung tâm thu thập chi tiết và đầy đủ hơn nữa thông tin phi tài chính như: ngành nghề doanh nghiệp đang hoạt động (triển vọng ngành, ảnh hưởng của các chính sách của các nước, khả năng gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới…), thị phần của doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh chủ yếu, nguồn cung cấp nguyên vật liệu… Để làm được điều này, ngoài việc đầu tư thời gian, công sức hơn nữa để nâng cao chất lượng thông tin cung cấp cho khách hàng, đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm đầu mối để CIC phối hợp với các ngân hàng thương mại trong việc chia sẻ dữ liệu, cập nhập thông tin định tính về khách hàng. Đây cũng chính là cách làm mà các tổ chức tín dụng một số nước đã thực hiện nhằm xây dựng một hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. 3.2. Kiến nghị 3.2.1. Đối với nhà nước Kiến nghị với Tổng cục thống kê về việc xây dựng và công bố các chỉ tiêu tài chính trung bình ngành Trong quá trình phân tích các chỉ tiêu tài chính, để đảm bảo độ chính xác, ngân hàng cần phải so sánh với hệ số trung bình của từng ngành, nhóm ngành. Hiện nay, hệ số trung bình của từng ngành, nhóm ngành hàng năm vẫn chưa có. Vì vậy, Tổng cục thống kê cần sớm xây dựng và ban hành hệ số trung bình từng ngành hàng năm để phục vụ cho việc đánh giá xếp hạng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Kiến nghị với Chính phủ về việc thành lập tổ chức XHTD chuyên nghiệp tại Việt Nam Tại các nước có thị trường tài chính phát triển trên thế giới như Mỹ, Nhật… đều có các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện xếp hạng doanh nghiệp đi vay trong và ngoài nước. Hoạt động của các tổ chức này không chỉ mang lại lợi ích cho nhà đầu tư, cho tổ chức phát hành chứng khoán mà còn cho các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp nguồn thông tin tham khảo quan trọng, đáng tin cậy. Theo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, các tổ chức xếp hạng chuyên nghiệp hoạt động dưới sự quản lý của Ủy ban chứng khoán (phổ biến) hoặc Ngân hàng Nhà nước; được tổ chức theo mô hình công ty cổ phần (NICE- Hàn Quốc) hoặc công ty liên doanh (TRIS- Thái Lan) hoặc doanh nghiệp tư nhân (R&I- Nhật Bản) hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn (RAM- Malaysia). Từ kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trên thế giới và từ thực tế nền kinh tế nước ta hiện nay (thị trường tài chính mới hình thành, thị trường chứng khoán còn sơ khai); đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định cho phép thành lập công ty chuyên nghiệp xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp đi vay, đặt dưới sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước và khi thị trường chứng khoán phát triển sẽ chuyển giao vai trò này cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Mô hình hoạt động là công ty cổ phần, trong đó có vốn góp của Uỷ ban chứng khoán nhà nước, một số ngân hàng thương mại và các tổ chức xếp hạng tín dụng có uy tín trên thế giới. Việc lựa chọn mô hình này sẽ tận dụng tốt các lợi thế: (1) Có cơ hội tiếp cận, học hỏi kinh nghiệm, tranh thủ sự tài trợ về kỹ thuật, cách thức quản lý từ các đối tác; (2) Đảm bảo tính chuyên nghiệp, độc lập, khách quan khi đánh giá. Thông tin về xếp hạng tín dụng các doanh nghiệp vay vốn của các công ty chuyên nghiệp sẽ là tài liệu tham khảo để các Ngân hàng thương mại nói chung và BIDV nói riêng tham khảo. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và thực hiện hệ thống XHTD nội bộ tại các ngân hàng. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, quy định.. là một trong những nhiệm vụ cấp bách mà NHNN cần nhanh chóng thực hiện nhằm đưa hoạt động của các ngân hàng ngày thêm phù hợp tiến gần chuẩn mực chung của quốc tế. Trong những năm gần đây NHNN đã có những nỗ lực nhất định trong việc ban hành và hoàn thiện các văn bản mang tính pháp lý như quy định về cho vay bất động sản, cho vay đầu tư chứng khoán, quy định đối với hoạt động ngân hàng,… nhằm nâng cao năng lực hoạt động của ngân hàng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hệ số nguồn vốn huy động so với vốn điều lệ… đã có những tác động tích cực đến các hoạt động kinh tế đồng thời làm cho hoạt động ngành ngân hàng ngày thêm năng động và hiệu quả. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của ngân hàng chưa được ban hành một cách đồng bộ, các hướng dẫn chưa thật sự rõ rang và vẫn còn các điều khoản có thể gây hiểu nhầm, thiếu nhất quán. Hoàn thiện, thúc đẩy hoạt động của trung tâm Thông tin tín dụng: Một số phần nhập số liệu trong hệ thống XHTD của BIDV hiện nay phải lấy thông tin cừ CIC nhưng hạn chế lớn nhất của trung tâm Thông tin tín dụng này là chất lượng thông tin không chính xác, lỗi thời. Sự thiếu chính xác của CIC thường thể hiện ở các thông tin sau: số lượng các tổ chức tín dụng mà khách hàng đang có quan hệ, dư nợ phát sinh quá hạn, số lần cơ cấu nợ,… Nguyên nhân của những sai sót này là do CIC còn rất thụ động trông chờ vào nguồn thông tin mà các NHTM cung cấp. Do vây, để nâng cao chất lượng thông tin tại CIC, NHNN cần có những quy định cụ thể: Quy định bắt buộc các tổ chức tín dụng phải cung cấp thông tin khách hàng định kỳ hàng tháng hàng quý cho CIC. Đồng thời nên có những quy định cụ thể về các hình thức xử phạt đối với việc cung cấp thông tin giả, chậm trễ trong việc cung cấp thông tin. Thông tin về khách hàng vay vốn phải được thu thập toàn diện, đầy đủ và không giới hạn bất kì mức vay nào CIC cần tiến hành phân chia và quản lý thông tin KH theo vùng, miền, khu vực cũng như ngành nghề để dễ tra cứu, tránh được sự nhầm lẫn, chồng chéo đối với khách hàng có tên, má số thuế khá giống nhau. Cần phối hợp, chia sẻ, cập nhật thông tin với các cơ quan thuế, cơ quan thống kê. Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ chuyên viên có chất lượng để thực hiện thu thập, xử lý, cập nhật thông tin. Liên kết hợp tác với các định chế tài chính nước ngoài nhằm mở rộng công tác thu thập thông tin, cập nhật thông tin lien quan đến các khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. NHNN cần khuyến khích các tổ chức tín dụng liên kết với nhau, thành lập trung tâm thông tin tín dụng độc lập với CIC, tạo nguồn thông tin đa dạng phục vụ cho công việc xếp hạng. Kiến nghị với bộ tài chính: Phát triển các công ty kiểm toán độc lập tại Việt Nam nhằm tăng tính chính xác, minh bạch trong nguồn thông tin được sử dụng để xếp hạng. Cần hoàn thiện chế độ kế toán phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Hiệu quả của hệ thống XHTD của BIDV phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của chế độ, chuẩn lực kế toán do Bộ tài chính ban hành cũng như mức độ tuân thủ pháp luật về kế toán kiểm toán của doanh nghiệp. Nguồn thông tin tài chính để chấm điểm KH chủ yếu được căn cứ vào báo cáo tài chính của khách hàng. Tuy nhiên, mức độ tuân thủ chế độ kế toán, độ chính xác trung thực của số liệu… khách hàng lại chịu sự tác động từ các chính sách, các quy định do các cơ quan quản lý chi phối. Do đó, để kết quả chấm điểm của hệ thống XHTD có cơ sở hoàn thiện hơn nữa thì hệ thống kế toán cần phải được các cơ quan quản lý ban hành quy định chế độ kế toán phù hợp với chuẩn mực quốc tế, các quy định về kế toán thống kê cần phải có tính thống nhất, công bằng và ổn định trong một khoảng thời gian nhất định. 3.2.2. Đối với Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam Theo chủ trương của BIDV, BIDV không thực hiện XHTD đối với những khách hàng mới thành lập, những khách hàng có kết quả kinh doanh yếu kém… Trong thực tế, tại ngân hàng, có những đối tượng là những đơn vị đầy tiềm năng, thông tin phi tài chính tốt, tuy nhiên thông tin tài chính lại chưa đầy đủ hoặc chưa có; những khách hàng được thành lập để thực hiện dự án, hoặc khách hàng là các đơn vị thực hiện các chủ trương chính sách thuộc sự quản lý của UBND Tỉnh, Thành, khách hàng là tổ chức nước ngoài… đối với những đối tượng này hệ thống XHTD hiện nay của BIDV không thể thực hiện việc xếp hạng được. Do đó để đảm bảo tính toàn diện và hiệu quả về lâu dài, hệ thống XHTD nội bộ nên bổ sung thêm các chỉ tiêu cần thiết hoặc loại bỏ đi các chỉ tiêu không thể thực hiện được nhằm phục vụ cho đánh giá, xếp hạng cho các đối tượng nêu trên nhất là khách hàng mới đặt quan hệ lần đầu, các khách hàng mới thành lập.. BIDV cần xác định lại sự cần thiết của nguồn thông tin từ báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong việc xếp hạng khách hàng. BIDV nên ban hành tài liệu chi tiết đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính cho toàn hệ thống. Xây dựng thang điểm chi tiết hơn đối với các chỉ tiêu phi tài chính. Bên cạnh đó, BIDV có thể tiến hành bổ sung các chỉ tiêu phi tài chính mới trên cơ sở tiến hành điều tra khảo sát trên diện rộng, lựa chọn, sang lọc các yếu tố phi tài chính có tác động mạnh đến các tổ chức kinh tế để làm cơ sở xác định các tiêu chí phi tài chính. Các chỉ tiêu trong hệ thống XHTD của BIDV chủ yếu đánh giá tình trạng của khách hàng trong quá khứ và hiện tại, ngân hàng cần nghiên cứu bổ sung thêm các chỉ tiêu có tính chất đánh giá tiềm năng trong tương lai của KH để hoàn thiện chức năng dự báo của hệ thống XHTD. Một điểm cần lưu ý nữa đối với hệ thống XHTD xủa BIDV đó là vấn đề đánh giá khách hàng trong mối quan hệ gắn kết với tài sản đảm bảo cho khoản nợ tín dụng. Hiện nay, hệ thống XHTD của BIDV hoàn toàn không đề cập đến các chỉ tiêu liên quan đến phần giá trị tài sản đảm bảo cho khoản nợ trong khi đối với phần đông khách hàng của BIDV hiện nay khi thiết lập giao dịch đều phải thỏa mãn điều kiện tài sản đảm bảo do BIDV yêu cầu. Do đó, ngân hàng cần bổ sung một số chỉ tiêu về TSĐB trong hệ thống xếp hạng tín dụng. Hệ thống các yếu tố phi tài chính của hệ thống XHTD cũng chưa làm nổi bật vai trò của các yếu tố thị trường. do đó, để đảm bảo hệ thống XHTD của ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế, đáp ứng được tính toàn diện về mọi mặt khi đánh giá rủi ro tín dụng khách hàng, ngân hàng cần phải xem xét, bổ sung thêm các chỉ tiêu có lien quan đến tính rủi ro thị trường của từng đối tượng khách hàng. BIDV cần chú trọng xây dựng hệ thống thông tin tín dụng thống nhất toàn hệ thống để các chi nhánh có thể tiếp cận, hưởng lợi từ nguồn thông tin từ cả hệ thống. Đồng thời BIDV cần tiến hành lập mạng lưới chia sẻ thông tin với các ngân hàng khác để tích lũy được nguồn thông tin dồi dào, phong phú hơn. Trong công tác nhập số liệu còn tồn tại hạn chế đó là hệ thống XHTD của ngân hàng không cho phép việc nhập số liệu dưới dạng ngoại tệ và không nhập các số liệu mà nguồn cung cấp các số liệu đó không theo phương pháp chuẩn mực kế toán Việt Nam. Do vậy, đối với khách hàng có hệ thống báo cáo tài chính theo phương pháp kế toán Mỹ hoặc hạch toán bằng ngoại tệ thì chắc chắn nguồn số liệu đó phải qua một bước gián tiếp chuyển đổi hoặc chấp nhận có sự sai sót về số liệu. Điều này gây khó khăn cho việc xếp hạng đúng khách hàng. Do đó, để hệ thống XHTD của mình có khả năng bao quát phản ánh đúng hạng của khách hàng, ngân hàng cần phải lưu tâm đến việc xây dựng một công cụ chấm điểm cho phép chấp nhận được các đơn vị có giá trị khác VND, đồng thời phải có phân hệ mới cho phép đánh giá thông tin tài chính của khách hàng từ nguồn số liệu được lập bằng các phương pháp kế toàn phổ biến khác. BIDV cần sớm khắc phục sự gượng ép khi nhập thông tin. Mặc dù đã xây dựng khá đầy đủ các chỉ số tuy nhiên khi vận hành hệ thống có những chỉ tiêu khách hàng không thể đáp ứng được nhưng hệ thống yêu cầu phải nhập mới tính được. Trong trường hợp này hệ thống không thể cho ra kết quả đầy đủ chính xác và thường xuyên báo lỗi khi nhập dữ liệu. Do vậy, để kiện toàn hệ thống XHTD, ngân hàng cần có phương hướng khắc phục như xây dựng thêm một số lựa chọn ban đầu trước khi nhập các thông tin chính cho khách hàng. Do các doanh nghiệp vừa và nhỏ có rất nhiều điểm khác biệt so với các doanh nghiệp lớn, việc áp dụng quy trình xếp hạng doanh nghiệp lớn đối với doanh nghiệp nhỏ nhiều trường hợp trở nên dư thừa và không cần thiết. Do đó, BIDV nên xây dựng quy trình xếp hạng doanh nghiệp vừa và nhỏ tách biệt với quy trình xếp hạng của doanh nghiệp lớn. BIDV cần tổ chức các khóa tập huấn cho cán bộ trong toàn hệ thống về việc thực hiện hệ thống XHTD, mở hội thảo nâng cao nhận thức, trao đổi kiến thức cho các CBTD tại các chi nhánh, tiếp thu góp ý của các chi nhánh về hệ thống XHTD. KẾT LUẬN Xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn tại ngân hàng thương mại đã trở thành một trong những công cụ quản lý rủi ro tín dụng được các cơ quan giám sát ngân hàng quốc tế khuyến nghị sử dụng. Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức ban hành quy định về lộ trình bắt buộc các ngân hàng thương mại phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng để đánh giá và dự báo mức độ rủi ro đối với khách hàng vay vốn. Theo yêu cầu này, hệ thống xếp hạng tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được xây dựng, triển khai áp dụng. Mục tiêu cơ bản của công tác xếp hạng tín dụng các khách hàng vay vốn theo hệ thống xếp hạng tín dụng là nhằm thực hiện kiểm soát toàn bộ danh mục tín dụng cũng như đánh giá khách hàng vay một cách có hệ thống trên cơ sở tập hợp các thông tin chuyên ngành và thông tin tổng hợp về nền kinh tế nói chung trong mối liên hệ đến quy mô khách hàng hiện tại của ngân hàng. Công tác xếp hạng tín dụng cũng đã giúp các cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định, ban lãnh đạo của ngân hàng có cơ sở đánh giá thống nhất và mang tính hệ thống trong suốt quá trình tìm hiểu khách hàng, xem xét dự án đầu tư, đánh giá phân tích, thẩm định và phê duyệt hoặc từ chối các đơn xin vay của khách hàng, trên cơ sở đó, các hạn mức tín dụng, lãi suất đối với khách hàng vay cũng sẽ được quyết định sau khi có các phân tích trên nhiều khía cạnh thông tin thu thập được. Trong quá trình thực tế triển khai áp dụng tại các chi nhánh, hệ thống xếp hạng tín dụng này của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam còn gặp phải một số hạn chế cần bổ sung, hoàn thiện về: hệ thống các chỉ tiêu phân tích, cách thức thực hiện công tác xếp hạng tín dụng (đối với các doanh nghiệp hoạt động trong nhiều lĩnh vực và các đơn vị hạch toán phụ thuộc), về công tác tổ chức triển khai xếp hạng tín dụng, về hệ thống thông tin phục vụ cho công tác phân tích, xếp hạng tín dụng... Từ những vướng mắc trong thực tế triển khai tại các chi nhánh nêu trên, luận văn đã đưa ra được những giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Tấn Bình (2004), Phân tích hoạt động doanh nghiệp, NXB Thống kê. 2. Phan Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Thu Thảo (2002), Ngân hàng thương mại Quản trị và nghiệp vụ, NXB Thống kê. 3. Lưu Thị Hương (2002), Tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục 4. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2006) Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. 5. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (2009) Báo cáo thường niên 2009. 6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Quyết định số 493/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng 7. Nguyễn Công Nghiệp (1998), “Xếp hạng tín nhiệm và sự cần thiết phải hình thành ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, (Số 12/1998), trang 36-38. 8. Nguyễn Công Nghiệp, Lê Tiến Phúc (1998), Xếp hạng tín nhiệm- Nguyên lý và thực tiễn, NXB Tài Chính 9. Lê Thị Khoa Nguyên (1998), “Các yếu tố cần thiết khi phân tích để xếp hạng tín nhiệm các tổ chức kinh tê”, Tạp chí Tài chính, (Số 12/1998), trang 42-43. 10. Lê Thị Khoa Nguyên (2005), Xây dựng phương pháp xếp hạng tín nhiệm các tổ chức kinh tế trong quan hệ tín dụng tại Việt Nam, Luận án Tiến sỹ, TP HCM 11. Lê Thị Phụng (1998), “Hiểu rõ hơn về Xếp hạng tín dụng”, Tạp chí Tài chính, (Số 12/1998), trang 39-40. 12. Nguyễn Hải Sản (1999), Đánh giá doanh nghiệp, Xưởng in Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia TP HCM 13. Trần Đắc Sinh (2002), Định mức tín nhiệm tại Việt Nam, NXB TP HCM 14. Peter Rose (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Thống kê 15. Lê Văn Tư (2003), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc45892 .doc
Tài liệu liên quan