CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NSNN
1.1 ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NSNN:
1.1.1 Đầu tư:
Khái niệm đầu tư:
Theo nghĩa rộng, đầu tư có thể hiểu là quá trình bỏ vốn bao gồm cả tiền, nguồn lực, công nghệ để đạt được một mục tiêu hay nhiều mục tiêu đã định trước mà các mục tiêu đó có thể là mục tiêu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội hay chỉ là mục tiêu về nhân đạo đơn thuần.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư được hiểu cụ thể hơn và mang bản chất kinh tế hoạt động đầu tư mang mục đích kiếm lời, tính sinh lời là đặc trưng cơ bản và chủ yếu của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực kinh tế. Hoạt động đầu tư khác với mua sắm, cất giữ hay nhằm mục đích tiêu dùng, cũng phân biệt hoạt động đầu tư với hoạt động bỏ vốn nhằm duy trì sự hoạt động thường xuyên của các tổ chức hoặc đảm bảo cho quá trình sản xuất được duy trì, mà hoạt động đó có thể gọi là hoạt động sản xuất kinh doanh. Trên quan điểm của quá trình tái sản xuất mở rộng, khái niệm đầu tư có thể hiểu là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra năng lực sản phẩm mới và các yếu tố cơ bản cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh. Đấy là hoạt động mang tính chất thường xuyên của mọi nền kinh tế và là nền tảng của sự phát triển của xã hội.
Hoạt động đầu tư nhằm tạo ra năng lực sản xuất cao hơn và thông qua nhiều nguồn vốn mà trong đó nguồn vốn tích luỹ của quá trình phát triển kinh tế xã hội là đặc biệt hết sức quan trọng.Với cách hiểu trên đây, ngày nay nhiều nước đang đứng trước những thách thức gay gắt cho đầu tư phát triển, do chưa có tích luỹ hoặc tích luỹ còn quá thấp. Đối với nước CHDCND Lào đang bước vào thời kỳ phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần nên đòi hỏi phải có một khối lượng vốn rất lớn, nhất là vốn để đầu tư xây dựng cơ bản. Nhưng với đồng vốn trong nước còn quá hạn hẹp cho nên rất cần sự huy động vốn từ bên ngoài để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Vấn đề này đang đặt ra cho nước CHDCND Lào cũng như các nước đang phát triển đều là tìm cách dựa vào các nguồn vốn từ bên ngoài để đầu tư và phát triển nhằm mục đích đem lại tiềm lực và cơ hội mới để hoà nhập với các khu vực và thế giới, trên nguyên tắc đảm bảo được kinh tế Nhà nước và trả được vốn vay. Đầu tư xây dựng cơ bản phải tuân thủ tính hiệu quả theo những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Vậy hoạt động đầu tư trong các lĩnh vực đều phải xác định được mục tiêu cụ thể về thời gian và không gian trên cơ sở phân tích, tính toán để đảm bảo hoạt động đầu tư mang lại hiệu quả ngày càng cao. Hai phương thức đầu tư chính: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp
97 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1939 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước ở tỉnh Xê Kông nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DP tăng lên 7,5 8%/năm
Trong đó:
+ Về nông lâm nghiệp: 5 5,5%/năm;
+ Về công nghiệp thủ công: 14 14,5/năm;
+ Về dịch vụ 8 8,5%/năm.
Đến năm 2015, phấn đấu thực hiện cơ cấu kinh tế (GDP) như sau:
+ Về nông lâm nghiệp chiếm 47,25% của GDP.
+ Về công nghiệp thủ công chiếm 20,6% của GDP.
+ Về dịch vụ chiếm 32.15% của GDP.
Phấn đấu tăng thu ngân sách đạt được 69.182,00 triệu kíp (trong năm
2015).
Hạ tỷ lệ phát triển của dân số chỉ còn 2,6%/ 1 năm (trong năm 2015).
Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người đạt được 385,49 USD/ người/
năm.
Những định hướng về đầu tư xây dựng cơ bản cho ngành và vùng kinh
tế:
Thứ nhất: Thực hiện việc đầu tư có trọng điểm để thúc đẩy phát triển
kinh tế và phải chú ý đến các khu vực công nghiệp tập trung và vùng miền núi
dân tộc thiểu số.
Thứ hai: Tăng cường thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước, quản lý
và sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong tỉnh là chủ yếu, đa dạng hoá các hình
thức hợp tác liên doanh, sớm hoà nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
52
3.1.2 Mục tiêu đầu tư phát triển của tỉnh đến năm 2015
a. Ngành nông lâm nghiệp:
Mục tiêu chính đến năm 2015 của ngành nông lâm nghiệp là làm cho
sản xuất nông lâm nghiệp phát triển liên tục và đáp ứng lương thực, thực
phẩm cho đầy đủ toàn xã hội và đồng thời tạo cơ sở làm nguyên vật liệu cho
công nghiệp chế biến và sản xuất hàng hoá.
Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất
hàng hoá gắn với thị trường và hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với sinh thái
trên những vùng địa hình khác nhau. Theo hướng nông lâm kết hợp đảm bảo
sự phát triển kinh tế bền vững, kết hợp thâm canh với mở rộng diện tích theo
định hướng khai hoang khác nhau, quay mùa vụ.
Phát triển cây công nghiệp chế biến nông sản trong nông thôn, cơ cấu
có sự chuyển đổi theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng
ngành chăn nuôi.
Cụ thể sản lượng lương thực đến năm 2015 đạt tới 54.266 tấn bình
quân đầu người 358kg thóc/người/năm, năng suất bình quân đạt 3,9T/ha.
Phát triển cây công nghiệp ngắn ngày như: lạc, mía, ớt, dâu tằm, ngô,
khoai, sắn,… tăng dần cây công nghiệp dài ngày như cafê, tiêu, điều, sa
nhân…. và đã đạt các mục tiêu sau đây:
+ Cafê: 7.162ha với sản lượng 3.435tấn.
+ Tiêu: 700ha với sản lượng 2T/ha.
+ Sa nhân: 985ha với sản lượng 384tấn.
Ngoài ra còn khuyến khích thúc đẩy trồng các loại cây ăn quả cho đạt
được 1.123ha với sản lượng 539 tấn.
Phát triển mạnh gia súc có sừng như trâu, bò, dê… theo hướng vừa đảm
bảo nhu cầu thịt cho nông dân trong vùng, đồng thời cung cấp sản phẩm thịt
cho thi trương các thành phố khác như Vieng chăn, Pakse và phần còn lại
hướng tới xuất khẩu trong tương lai. Đây cũng là mục tiêu mà Đảng bộ và các
53
cơ quan ban ngành tỉnh Xe Kong đặt ra là đến năm 2015 phải xuất khẩu được
như sau:
+ Trâu: xuất khẩu được 1.900 con.
+ Bò: xuất khẩu được 1.800 con.
Về lâm nghiệp:
Nhà nước Lào nói chung và các cơ quan như tỉnh ủy, hạt kiểm lâm tỉnh
đề ra là phải bảo vệ bằng được rừng phòng hộ, rừng đặc dụng hiện có trên địa
bàn tỉnh, khoanh nuôi, tu bổ điều chế rừng tự nhiên và đẩy mạnh trồng rừng
trên đất trống đồi núi trọc để làm tăng vốn rừng, tăng thêm độ che phủ, đến
năm 2015 phấn đấu đạt được mục tiêu sau:
+ Sản xuất các loại cây con như cao su, tếch, trầm hương đạt tới
3.400.000 cây.
+ Trồng rừng đạt tới 4200ha.
Trên cơ sở bảo vệ, tăng vốn rừng và thực hiện khai thác rừng cho hợp
lý để cân đối hệ sinh thái.
Về thuỷ lợi: trong 5 năm tới là đảm bảo nước tưới cho 4000ha mùa vụ
và 3000 ha mùa khô, trong đó có 2500ha là tưới lúa chiêm.
b. Công nghiệp:
Ngành công nghiệp xây dựng giữ một vai trò hết sức quan trọng trong
phát triển kinh tế xã hội nên cần phải phát triển với tốc độ khá cao. Nhất là
phải phát triển các ngành có thế lực như ngành công nghiệp điện lực, ngành
công nghiệp chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp và đồng thời phát triển
nguồn điện lực ở vùng nông thôn để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và đời
sống của nhân dân. Ngoài ra phải quan tâm đến việc chế biến sản phẩm nông
lâm nghiệp như nhà máy bột giấy, làm sợi bông, tơ lụa, đồ gốm, sứ… đến
năm 2015 đạt được mục tiêu sau:
+ Điện lực: toàn tỉnh phấn đấu cho nhân dân được dùng điện chiếm tới
45% của tổng số dân toàn tỉnh.
54
+ Nhà máy chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp: xây dựng hoàn thành
nhà máy sản xuất thức ăn gia cầm và đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ các
cơ sở chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp hiện có để tăng thêm công suất.
Phát triển công nghiệp dệt may da:
Mạnh dạn đầu tư xí nghiệp may hiện đại, quy mô vừa và nhỏ để gia
công hàng tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nâng cao chất lượng sản phẩm
thuộc loại da bóng và thiết bị chế biến đồ da có chất lượng cao.
Ngoài ra, còn chú ý đến công nghiệp khoáng sản và luyện kim, phải
khảo sát để đánh giá các loại mỏ, khoáng vật loại nào có thế lực mạnh cho
việc phát triển kinh tế như các mỏ than, đá vôi và các loại mỏ khác. Đáng giá
mỏ nào sẽ đáp ứng làm nguyên liệu cho nhà máy xi măng hoặc làm số liệu
cho các nhà đầu tư để đầu tư vào khai thác.
c. Đầu tư cơ sở hạ tầng:
Về giao thông vận tải và bưu chính viễn thông:
Trong những năm trước mắt phải củng cố và nâng cấp xây dựng các
con đường và các cầu như đường 16, từ trung tâm tỉnh đi lên huyện Đặc
trưng, qua đến biên giới Việt Nam Lào (Đặc ốc), với chiều dài 124 Km. Phải
được nâng cấp để đi được thuận lợi trong 2 mùa. Trên đường đó phải xây
dựng cho hoàn thành cầu qua sông Xê Kông và cầu qua Xê Ka Man. Đoạn La
Man đến biên giới Việt Nam, phải được nâng cấp đạt tiêu chuẩn cấp V nền
đường rộng 7M, mặt đường rộng 5,5m, thảm nhựa. Tuyến đường này có ảnh
hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Xê Kông.
Đường thứ hai là từ trung tâm tỉnh đi đến huyện Ka Lưm cũng phải
được nâng cấp với tổng chiều dài là 65km.
Ngoài ra phải nâng cấp lại các đường từ trung tâm huyện đi đến các
vùng sản xuất làm cho thuận lợi trong việc vận chuyển hàng hoá và đi lại của
dân cư. Đồng thời hoàn thiện công trình xây dựng đường từ trung tâm huyện
Ka Lưm đi đến biên giới Lào Việt Nam (huyện A Lưởi).
55
Khảo sát, thiết kế sân bay mới, thiết kế lại mặt bằng các huyện như
Thà Teng, Ka Lưm và đặc trưng. Trong khi đó cũng phải xây dựng các hệ
thống nước máy cho các huyện đó để phục vụ cho đời sống sinh hoạt của
nhân dân.
Về Bưu chính viễn thông: tiếp tục phát triển hệ thống viễn thông đến
cơ sở địa phương như trung tâm các huyện Ka Lưm nhằm phục vụ cho việc
đưa đón thông tin được thuận tiện và nhanh hơn. Đồng thời phải phát triển
các hệ thống bưu điện đến vùng sâu vùng xa.
d. Ngành thương mại, du lịch, dịch vụ:
Thứ nhất cần phát triển thương mại theo hướng tìm kiếm thị trường, tạo
đầu nguồn đảm bảo phục vụ phát triển của các ngành kinh tế chủ đạo và các
địa bàn trọng điểm trên lãnh thổ.
Các mục tiêu chủ yếu:
Tổng mức luân chuyển hàng hoá bán buôn và bán lẻ thời kỳ năm 2015
tăng lên 15% trên 1 năm.
Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng lên từ 10 15% trên một năm. Đến
năm 2015 đạt được tổng giá trị là 37,2 triệu USD (trong năm 2015 phải đạt
5,9 triệu USD).
Thứ hai tập trung phát triển du lịch: tiến hành quy hoạch các trung tâm
du lịch, sắp xếp lại cho hợp lý với mạng lưới kinh doanh du lịch. Đặc biệt là
du lịch sinh thái, du lịch văn hoá dân tộc. Đồng thời xây dựng thêm khách sạn
đủ tiêu chuẩn trong nước và quốc tế, nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu của
khách quốc tế và trong nước. Xây dựng công viên trung tâm thành điểm vui
chơi giải trí và du lịch chính của tỉnh Xê Kông.
Thứ ba về tín dụng ngân hàng phải từng bước khuyến khích nhiều
thành phần tham gia hoạt động tín dụng ngân hàng mở rộng nhiều hình thức
huy động vốn và cho vay. Thành lập quỹ tín dụng nhân dân xuống tất cả các
huyện, các vùng trọng điểm.
56
Trong 5 năm tới vẫn thực hiện 8 chương trình quốc gia của Chính phủ
và chương trình xoá đói giảm nghèo cho nhân dân. Để bảo đảm việc tổ chức
thực hiện đúng hướng và đạt được mục tiêu về phát triển kinh tế xã hội trong
5 năm tới phải chú trọng huy động các nguồn vốn và khai thác mạnh các lợi
thế cho đạt tới 18,5% của GDP đầu tư từ NSNN tăng lên hàng năm 30
38%/năm để đến năm 2015 tổng vốn đầu tư đạt tới 197,65 tỷ kíp, với tổng số
vốn từ NSNN là 142,24 tỷ kíp, còn lại là các nguồn vốn khác là 76,59 tỷ kíp.
So với giai đoạn 2005 2010 tổng vốn đầu tư từ NSNN tăng lên 54,9%.
Trong đó đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế chiếm khoảng 49,1% với
tổng số vốn là 107,45 tỷ kíp.
3.2 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ VỐN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
CƠ BẢN TỪ NSNN
3.2.1 Giải pháp về huy động vốn đầu tư
3.2.1.1 Tạo nguồn vốn và tăng thu ngân sách
Thu ngân sách Nhà nước là sự phân phối nguồn tài chính quốc gia giữa
Nhà nước và các chủ thể khác, trong một quốc gia dựa trên quyền lực Nhà
nước. Thu ngân sách Nhà nước ở xã hội nào cũng gắn liền với quyền lực
chính trị, các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Với chức năng quản lý xã
hội, quản lý đất nước, Nhà nước sử dụng hệ thống pháp luật và bộ máy tổ
chức quản lý để thực hiện thu NSNN.
Thu ngân sách Nhà nước gắn chặt với thực trạng hoạt động của toàn bộ
nền kinh tế và sự vận động của các phạm trù giá trị như giá cả, thu nhập, lãi
suất…
Mức độ phát triển của nền kinh tế là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến thu
NSNN, tức là mức độ phát triển nền kinh tế càng lớn thì khả năng tiết kiệm,
đầu tư, tiêu dùng trong nền kinh tế càng lớn, làm cho số thu NSNN từ các lĩnh
57
vực càng cao. Qua yếu tố này cũng là một biện pháp cho tỉnh Xê Kông tích cực
mở rộng nền kinh tế trên địa bàn tỉnh để làm tăng thu NSNN.
Ngoài các biện pháp chống thất thu việc quan trọng là tạo nguồn thu
bằng phát triển sản xuất, các biện pháp hành chính, kinh tế, tài chính khuyến
khích phát triển sản xuất. Đây là biện pháp hữu hiệu để tăng nguồn thu ngân
sách trên địa bàn tỉnh.
3.2.1.2 Thu hút nguồn vốn đầu tư trong tỉnh và trong nước
Vốn đầu tư trong nước bao gồm:
Vốn NSNN (kể cả tín dụng ưu đãi của Nhà nước);
Vốn của các doanh nghiệp Nhà ;
Vốn ngân hàng thương mại;
Vốn đầu tư của tư nhân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Vốn trong tỉnh có nguồn vốn trong dân khá lớn, thể hiện trong số dư
gửi tiết kiệm khá cao, cần được khuyến khích thu hút vào đầu tư phát triển
sản xuất, dịch vụ và giải quyết việc làm cho lao động. Theo tính toán sơ bộ,
nguồn vốn đầu tư trong dân có thể lớn hơn đầu tư từ NSNN. Cần phải được
linh hoạt vào điều kiện cụ thể của tỉnh các chính sách tài chính của Nhà nước
như cổ phần hoá, tín phiếu, trái phiếu, tín dụng… Để hình thành một thị
trường vốn hướng vào đầu tư phát triển, ước tính nguồn vốn trong nhân dân
có thể chiếm tới 10 15% tổng số vốn đầu tư từ NSNN trong tỉnh.
3.2.1.3 Thu hút nguồn vốn đầu tư ngoại Tỉnh và nước ngoài
Trong quá trình phát triển cần hết sức coi trọng việc thu hút nguồn vốn
đầu tư từ ngoại tỉnh và nước ngoài, nguồn vốn này chiếm khá lớn có thể đạt
tới 60 70% của tổng số vốn đầu tư toàn xã hội. Việc vận động thu hút đầu tư
từ nước ngoài còn rất mới đối với tỉnh Xê Kông. Một số giải pháp chính thu
hút như sau:
58
Tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng một số khu vực tạo môi trường hấp
dẫn thu hút đầu tư.
Tạo điều kiện ưu đãi về kinh tế cho các nhà đầu tư nước ngoài như áp
dụng tối thiểu mức giá đất trong khung quy định hoặc có thể xin Nhà nước áp
dụng mức thấp hơn hoặc miễn giảm thuế trong một thời gian nhất định.
Tạo điều kiện thuận lợi về thủ tục đầu tư theo hướng "một đầu mối"
và giảm bớt các thủ tục đầu tư phiền hà trong quá trình sản xuất, thương mại,
dịch vụ (tài chính, ngân hàng, thuế quan, chuyển tiền ra nước ngoài….).
Tổ chức mạng lưới tiếp thị rộng rãi trong nước và ngoài nước để vừa
tìm kiếm thị trường vừa giới thiệu về tiềm năng và các chính sách ưu đãi của
tỉnh Xê Kông đối với các nhà đầu tư.
Trước mắt phải nghiên cứu và ban hành các chính sách ưu đãi để thu
hút đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp,
sản xuất vật liệu xây dựng.
Ngoài ra còn có chính sách đổi mới cơ cấu nguồn nhân lực, một mặt
tăng về chất lượng nguồn nhân lực, trong khu vực nông thôn và nông nghiệp.
Mặt khác là thu hút một phần lao động nông nghiệp sang các lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ, trên cơ sở tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế từng
thời kỳ theo xu thế tăng lao động lành nghề và giảm lao động giản đơn.
3.2.2 Đổi mới cơ chế quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN:
3.2.2.1 Đổi mới kế hoạch đầu tư
Theo quy trình kế hoạch hoá kinh tế hàng năm, các ban ngành khi lập
kế hoạch phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ NSNN đều được ghi vào kế
hoạch và báo cáo lên sở kế hoạch đầu tư (Uỷ ban kế hoạch đầu tư), trong
báo cáo đó ghi rõ chi tiết từng dự án theo các thông tin:
+ Tổng số vốn đầu tư;
+ Thời gian đầu tư;
59
+ Phân bổ vốn cho từng thời kỳ.
Căn cứ vào kế hoạch hàng năm đã được Chính phủ và Quốc hội phê
duyệt, uỷ ban kế hoạch đầu tư (Sở kế hoạch đầu tư) phải thông báo kế hoạch
phân bổ vốn đầu tư xây dựng hàng năm cho các ban, ngành, các huyện… Sở
Tài chính căn cứ vào tổng vốn được phân bổ của các ban, ngành để tiến hành phân
bổ cho các chủ đầu tư, sau đó thông báo cho chủ đầu tư và kho bạc Nhà nước.
Đầu tư xây dựng cơ bản của tỉnh trong giai đoạn hiện nay, phải lấy hiệu
quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng phát
triển lựa chọn cho dự án đầu tư và công nghệ, coi trọng đầu tư chiều sâu để
khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong định hướng phát triển kinh
tế cần ưu tiên cho công nghệ tiên tiến như quy mô vừa và nhỏ, vừa ít vốn lại
có hiệu quả kinh tế cao, thu hồi vốn nhanh.
Đầu tư tập trung có trọng điểm các chương trình mục tiêu, tạo ra được
mũi nhọn về kinh tế, để công trình sớm đi vào hoạt động có hiệu quả, hạn chế
đầu tư rải mành, mà kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn NSNN phải tập
trung vào các vấn đề sau:
+ Ưu tiên ngành chế biến nguyên liệu từ sản phẩm nông lâm nghiệp,
các hoạt động du lịch.
+ Ngành công nghiệp ở tỉnh Xê Kông thì trong thời gian tới phải tập
trung vào xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc, gia cầm, xây dựng nhà
máy thủy điện và khai thác khoáng sản.
+ Để có những giải pháp thích hợp chúng ta cần xác định được phạm vi
quản lý các dự án sử dụng vốn NSNN, theo quy định của Chính phủ.
Các dự án sử dụng vồn NSNN bao gồm:
Dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng không có
khả năng thu hồi vốn, và được quản lý theo phân cấp về chi NSNN cho đầu
tư.
60
Hỗ trợ các dự án của doanh nghiệp đầu vào, các lĩnh vực cần có sự
tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Các dự án phục vụ chính sách xã hội và hoạt động công cộng khác…
3.2.2.2 Đổi mới công tác xác định nhu cầu về vốn:
Thứ nhất: Xác định nhu cầu về vốn đến năm 2015
Định hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ VI của tỉnh Xê
Kông giai đoạn 2011 2015. Trong 5 năm tới vẫn thực hiện theo chương trình
quốc gia và tập trung đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh như
nông lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ…để đảm bảo nhu cầu đầu tư phát
triển, dự kiến mức đầu tư từ năm 2011 2015 khoảng 218,84 tỷ kíp.
Trong đó:
+ Đầu tư vào nông lâm nghiệp khoảng 107.52 tỷ kíp;
+ Đầu tư vào công nghiệp khoảng 70,15 tỷ kíp;
+ Đầu tư vào thương mại dịch vụ khoảng 41,17 tỷ kíp.
Thứ hai: xác định chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế
Theo báo cáo tổng kết 5 năm, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội của tỉnh Xê Kông 2006 2010 lần thứ V. Cho thấy rằng, tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Tỉnh tăng lên cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế của Lào
trong giai đoạn 2006 2010 là 7,5%. Kết quả tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Tỉnh Xê Kông có xu thế tăng lên.
Căn cứ vào mức độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 7,5%
(2006 2010) có thể xác định tổng GDP hàng năm của tỉnh Xê Kông như sau:
61
Bảng 06. Dự tính GDP của Tỉnh xê kông qua các thời kỳ
+ Thời kỳ 2006 2010:
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng
2001 2005
GDP (%) 7,10 7,20 7,40 7,30 7,50 21,80
Nguồn: Sở KHĐT tỉnh Xê Kông
+ Thời kỳ 2011 2015:
Năm 2011 2012 2013 2014 2015 Tổng
2006 2010
GDP (%) 7,50 7,59 7,70 7,84 8,26 38,89
Nguồn: Sở KHĐT tỉnh Xê Kông
3.2.2.3 Hoàn thiện cơ chế quản lý nguồn vốn
Hiện nay, có nhiều loại vốn đầu tư được huy động vào tỉnh Xê Kông
nhưng việc quản lý các nguồn nói này chưa rõ ràng, gây khó khăn cho việc
quản lý và phân phối nên còn gây lãng phí kém hiệu quả. Vậy trong những
năm tới UBND tỉnh phải quy định rõ chức năng của các cơ quan chuyên môn:
+ Sở kế hoạch đầu tư, Ban đối ngoại phải có nhiệm vụ đàm phán và tìm
kiếm các nguồn vốn. Ngoài ra, Sở kế hoạch đầu tư phải tổng hợp các nguồn
vốn của tỉnh để cân đối và lồng ghép giữa các nguồn và đề ra các phương án
sử dụng vốn trong từng năm và có kế hoạch đến năm 2015 để trình lên cấp có
thẩm quyền phê duyệt.
+ Quỹ hỗ trợ phát triển quản lý toàn bộ tất cả nguồn vốn tín dụng đầu
tư kể cả vốn vay, vốn vay thương mại.
+ Sở tài chính quản lý các nguồn thuộc ngân sách Nhà nước, kể cả vốn
viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài.
+ Nếu NSNN cấp huyện dành cho đầu tư thì UBND cung cấp đó chỉ
đạo và giao cho ngành tài chính cung cấp quản lý, UBND tỉnh phân cấp và
phê duyệt.
62
+ Khi xác định được nhu cầu vốn và nguồn vốn thì UBND tỉnh phải
phối hợp với các ngành có chức năng phân phối và phê duyệt dự án.
Trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng ngành, từng cấp
nhưng Nhà nước cũng cần tạo ra cho họ một cách cơ chế vận hành hợp lý.
Đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn NSNN được thực hiện thông qua các cơ
quan trực tiếp quản lý bao gồm:
+ Sở kế hoạch đầu tư;
+ Sở tài chính;
+ Cơ quan dự toán (chủ đầu tư).
Các cơ quan quản lý phải vận hành theo cơ chế thích hợp như sau:
Phải tổ chức lại quy trình kỹ thuật, thủ tục thực hiện cấp phát vốn theo
hướng đơn giản và thuận lợi. Vốn sẽ được cấp phát trực tiếp từ nguồn đầu tư
đến đơn vị thực hiện dự án thông qua khối lượng hoàn thành được xác nhận.
Việc quản lý các dự án đầu tư được phân công rõ ràng cho các cơ quan
chức năng trên nguyên tắc đảm bảo trình tự xây dựng cơ bản đã được quy
định của Nhà nước. Không trùng lặp, không để sót, xoá bỏ những tồn tại
trước đây như việc thẩm tra khối lượng hoàn thành, để cấp phát vốn vừa đúng
mức.
Trong quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ vốn NSNN quan trọng
nhất là cơ chế quản lý khâu cấp phát, cho nên việc quản lý vốn cấp phát phải
thể hiện qua các nội dung:
Phải xác định nguồn hình thành và đối tượng sử dụng của vốn đầu tư
xây dựng cơ bản từ NSNN.
Phải tuân theo nguyên tắc quản lý cấp phát vốn
Phải thực hiện đúng cơ chế quản lý cấp phát vốn
3.2.2.4 Cải tiến khâu chuẩn bị và quy trình quản lý vốn đầu tư
63
Việc quản lý sử dụng vốn đầu tư trong những năm qua còn nhiều lãng
phí, thất thoát. Một trong những nguyên nhân gây lãng phí đó là do chủ
trương đầu tư không đúng đắn. Vì vậy, cải tiến khâu chuẩn bị đầu tư là một
trong những biện pháp quan trọng để giảm bớt lãng phí trong đầu tư xây dựng
cơ bản.
Công tác chuẩn bị đầu tư bao gồm 5 nội dung:
1. Nghiên cứu sự cần thiết đầu tư và quy mô đầu tư.
2. Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong hoặc ngoài nước, để xác
định nhu cầu tiêu thụ hoặc khả năng cạnh tranh, tìm nguồn cung ứng vật tư,
thiết bị cho sản xuất.
3. Tiến hành điều tra khảo sát, chọn địa điểm xây dựng.
4. Lập dự án đầu tư.
5. Gửi hồ sơ và các văn bản lên người có thẩm quyền phê duyệt quyết
định đầu tư, vay vốn đầu tư.
Việc cải tiến khâu chuẩn bị đầu tư là cải tiến quản lý đối với 5 nội dung
trên là điều quan trọng. Nhưng ở đây chỉ tập trung phân tích một số khâu như
khâu lập dự án đầu tư và thẩm định dự án,… để quyết định đầu tư.
Thứ nhất: lập dự án đầu tư
Muốn lập dự án đầu tư mang lại hiệu quả cao, phải xác định sự cần
thiết của dự án trước, sau đó mới tiến hành lập báo cáo nghiên cứu tiền khả
thi.
Đối với dự án nhóm A phải nghiên cứu tiền khả thi và khả thi, còn
nhóm B nếu cần thiết phải lập cả hai bước là do người có thẩm quyền quyết
định. Vậy để nâng cao hiệu quả đầu tư phải quản lý tốt khâu nghiên cứu tiền
khả thi mà nội dung chủ yếu của nó bao gồm:
· Nghiên cứu hồ sơ về sự cần thiết phải đầu tư và phải phân tích sự
khó khăn và thuận lợi trong khi tiến hành đầu tư.
· Dự kiến quy mô đầu tư và chọn hình thức đầu tư.
64
· Dự kiến địa điểm xây dựng và nhu cầu về diện tích.
Dự án đầu tư phải phân tích sơ bộ, chọn dây chuyền công nghệ, phân
tích lựa chọn kỹ thuật, đánh giá giải pháp xây dựng, điều kiện cung cấp vật tư,
thiết bị, dịch vụ và điều kiện hạ tầng. Phân tích chỉ tiêu tài chính, tổng mức
đầu tư, các điều kiện huy động vốn, và hiệu quả đầu tư của dự án.
Trong báo cáo tiền khả thi phải nêu rõ:
· Căn cứ để xác định phải đầu tư
· Chọn hình thức đầu tư
· Đánh giá chương trình sản xuất
· Địa điểm xây dựng
· Chọn phương án kỹ thuật công nghệ
· Đưa ra các giải pháp xây dựng và phương án chọn
· Phân tích tổ chức khai thác quản lý và sử dụng lao động
· Phân tích các chỉ tiêu về kinh tế
Thứ hai: Thẩm định dự án đầu tư
Để các dự án có khả năng thực thi, thì tất cả các dự án đều phải thẩm
định về mặt quy hoạch xây dựng và phương án kiến trúc. Việc sử dụng đất đai
tài nguyên, môi trường và các khía cạnh xã hội của dự án.
Đối với dự án đầu tư sử dụng vốn NSNN cần phải thẩm định về tài
chính và hiệu quả kinh tế của dự án.
Khi thẩm định cần chú ý những nội dung sau:
Các điều kiện pháp lý
Kết luận về sản phẩm
Điều kiện cơ bản về thị trường
Khả năng thâm nhập thị trường
Kết luận về tính khả thi
Vấn đề giải quyết việc làm
Kết luận về địa điểm
65
Kết luận về giải pháp và tiến độ xây dựng
Đánh giá về mặt kinh tế xã hội
Vai trò dự án trong phát triển kinh tế xã hội
Kết luận về công nghệ lựa chọn giải pháp xử lý chất thải
Đánh giá tài chính
Thực hiện thẩm định dự án phải đảm bảo được tính khả thi, tính khoa
học trung thực và khách quan. Phải có đội ngũ chuyên gia giỏi, đạo đức tốt,
có phương án khoa học chặt chẽ, tránh được hiện tượng vì quyền lợi cá nhân
mà làm sai các điều kiện khả thi thua làm cho hiệu quả kinh tế dự án. Dẫn đến
đầu tư đã xuất hiện khả năng thua lỗ, nhưng không đưa ra phân tích để lựa
chọn.
Thứ ba: Tổ chức đấu thầu và chọn thầu
Trong thực tế vừa qua việc đấu thầu và chọn thầu cho thấy rằng nhiều
dự án đã xảy ra các tiêu cực và mang tính hình thức. Bởi nội dung bên trong
đó có sự liên kết giữa các nhà thầu tham gia đấu thầu để giảm giá thầu. Thậm
chí có trường hợp chủ đầu tư thông đồng với nhà thầu để lộ giá thầu. Việc đấu
thầu như vậy không khách quan, vừa gây thất thoát lớn cho NSNN, vừa làm
chất lượng công trình giảm.
Để chọn nhà thầu có 2 hình thức:
Hình thức chỉ định thầu là hình thức chủ đầu tư căn cứ vào yêu cầu
mục tiêu, điều kiện thực hiện dự án để chỉ định nhà thầu cho hợp lý.
Hình thức đấu thầu là hình thức chọn theo cơ chế cạnh tranh cho phép
chọn được nhà thầu hợp lý, với yêu cầu điều kiện thực hiện dự án.
Hiện nay trừ những dự án đặc biệt quan trọng, liên quan đến bí mật
quốc gia như:
· Dự án có tính nghiên cứu thử nghiệm
· Dự án có tính cấp bách do thiên tai, dịch họa
· Dự án có tính bí mật quốc gia
66
· Dự án đặc biệt do Chính phủ cho phép
Còn tất cả các dự án khác đều thực hiện đấu thầu theo hình thức đấu
thầu.
Từ thực tế trên để đổi mới cơ chế quản lý đấu thầu, bảo đảm khai thác
triệt để yếu tố cạnh tranh, chọn được nhà thầu hợp lý và hạn chế tham nhũng
tiêu cực trong đấu thầu, cần thực hiện một số vấn đề sau:
Cần có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, các nhà thầu kể cả qua hồ sơ
đấu thầu và trong thực tế, để tránh tình trạng mua hồ sơ của các nhà thầu.
Cần có sự cân nhắc nhiều yếu tố, cần xem xét kỹ các điều kiện thực
hiện đầu tư như kỹ thuật, công nghệ, lao động. Đặc biệt cần lưu ý và nếu giá
thầu quá thấp thì sẽ không cho phép đáp ứng được yêu cầu chất lượng công
trình. Thực tế chỉ rất rõ vấn đề này.
Do giá thầu chỉ là một yếu tố để chọn nhà thầu.
Để nhằm đảm bảo cho việc đấu thầu khách quan lựa chọn nhà thầu
đáp ứng được các yêu cầu thi công thực lực dự án phải kiên quyết xóa bỏ các
trường hợp điều chỉnh thiết kế, bổ sung trong quá trình thực hiện dự án.
Luật hóa hoạt động đấu thầu theo hướng cụ thể, đồng bộ, trong đó cần
có chế tài, trừng trị mạnh đối với các tiêu cực, vi phạm trong đấu thầu. Điều
này cho phép nâng cao trách nhiệm của cán bộ liên quan đến đấu thầu dự án sử
dụng vốn NSNN, hạn chế những tiêu cực, tham nhũng trong đấu thầu.
Thứ tư: Đảm bảo đúng trình tự xây dựng và điều kiện xây dựng công trình
Các công trình muốn được khởi công phải có giấy phép để xây dựng,
với các công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước phải có tổng dự toán
được phê duyệt. Trong quá trình quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản phải
đảm bảo như sau:
Tổng mức
đầu tư
Tổng dự
toán
Dự toán
chi tiết
Quyết
toán > > >
67
Đối với công trình xây dựng quy mô lớn, thời gian xây dựng kéo dài
chưa lập được ngay tổng dự toán phải có thiết kế kỹ thuật và dự tóan các hạng
mục khởi công.
Để công trình khởi công được, chủ đầu tư phải giải phóng mặt bằng
trước khi xây dựng. Đây cũng là một vấn đề rất quan trọng trong quản lý đầu
tư xây dựng cơ bản.
3.2.2.5 Cải tiến quy trình cấp phát vốn
Đây là một trong những yêu cầu cải tiến và nâng cao chất lượng quản
lý trong đầu tư xây dựng cơ bản, phải thực hiện đúng quy định của Nhà nước
về quy trình cấp phát vốn đầu tư. Bộ tài chính thực hiện chức năng quản lý
Nhà nước về tài chính, nghiên cứu các chính sách về quản lý vốn đầu tư để
ban hành theo thẩm quyền. Căn cứ vào định hướng, kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội hàng năm của cả nước và cân đối trong nền kinh tế quốc dân, chủ
động phối hợp với UB kế hoạch đầu tư, phân bổ kế hoạch cấp phát vốn cho
các bộ, ngành, địa phương và các công trình quan trọng của Nhà nước. Quy
trình cấp phát phải thực hiện theo cơ chế quản lý cấp phát vốn như sau:
Một là: điều kiện cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Phải có đầy đủ thủ tục đầu tư và xây dựng, thủ tục đầu tư và xây dựng
là những quyết định, các văn bản… của các cấp có thẩm quyền cho phép được
đầu tư theo chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Dự án đầu tư phải được ghi vào kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản
trong năm của Nhà nước.
Phải có ban quản lý dự án được thành lập theo quy định của cấp có
thẩm quyền.
Đã tổ chức đấu thầu và tuyển chọn tư vấn, mua sắm vật tư, thiết bị
xây lắp theo đúng quy chế đấu thầu của Nhà nước.
Hai là: Những căn cứ để cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản
68
+ Đối với dự án quy hoạch ngành, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị,
nông thôn.
Phải có quyết định cấp có thẩm quyền cho phép tiến hành.
Dự tính chi phí được cấp, do cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Quyết định thành lập dự án, quyết định bổ nhiệm trưởng ban, kế toán
trưởng.
Hợp đồng giữa chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu.
Kế hoạch đầu tư và kế hoạch cấp phát vốn quy hoạch hàng năm.
+ Đối với dự án chuẩn bị đầu tư:
Phải có quyết định của cấp có thẩm quyền cho phép tiến hành công
tác chuẩn bị đầu tư.
Dự tín chi phí đầu tư được duyệt.
Quyết định giao nhiệm vụ của chủ đầu tư.
Hợp đồng kinh tế ký giữa chủ đầu tư và nhà thầu.
Kế hoạch chuẩn bị đầu tư trong năm do cấp có thẩm quyền ra.
Kế hoạch cấp phát vốn chuẩn bị đầu tư trong năm.
+ Đối với dự án thực hiện đầu tư:
Phải có báo cáo nghiên cứu tiến độ khả thi, và quyết định đầu tư.
Tổng dự toán và quyết định phê duyệt tổng dự toán, dự toán từng
hạng mục công trình.
Hợp đồng kinh tế giữa chủ đầu tư với các nhà thầu.
Có quyết định thành lập ban quản lý dự án, bổ nhiệm trưởng ban, kế
toán trưởng.
Kế hoạch đầu tư hàng năm của dự án, do cấp có thẩm quyền giao.
Có giấy phép sử dụng đất.
Đối với cấp phát thanh toán vốn, từng lần vốn cấp phát cùng với giấy
đề nghị cấp phát, thanh toán chủ đầu tư gửi đến Sở kế hoạch đầu tư và các tài
liệu liên quan theo quy định của Nhà nước.
69
Căn cứ vào quy định trên, Sở kế hoạch đầu tư thẩm tra tính hợp lý, hợp
pháp của thủ tục nhất là bộ hóa đơn chứng từ phải theo đúng quy định về
quản lý hóa đơn chứng từ do Bộ tài chính ban hành. Và sau đó làm thủ tục
cấp phát vốn cho chủ đầu tư
Ngòai ra, còn phải thực hiện tốt chế độ kiểm tra báo cáo, Sở kế hoạch
đầu tư có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn các chủ đầu tư tạm
ứng cấp phát đúng mục đích chế độ, có hiệu quả. Sau khi được tạm ứng Sở kế
hoạch đầu tư phải phân công các phòng chức năng kiểm tra giám sát việc sử
dụng vốn đầu tư của các dự án phát hiện kịp thời những sai phạm của chủ đầu
tư để xử lý theo quy định.
3.2.3 Đổi mới tổ chức quản lý và công tác cán bộ
3.2.3.1 Đổi mới hình thức tổ chức quản lý đầu tư
Đây là một trong những khau quan trọng để nhằm thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản. Biện pháp quan trọng
là áp dụng ngay các hình thức tổ chức quản lý thực hiện dự án:
Hình thức chủ đầu tư trực tiếp quản lý thực hiện dự án, chủ đầu tư
chọn và hợp đồng với cơ quan tư vấn thiết kế soạn thảo, mời thầu, tổ chức
đấu thầu, chọn thầu, ký hợp đồng xây lắp, mua sắm thiết bị, giám sát và quản
lý thi công.
Hình thức này thường được áp dụng cho các dự án nhóm C và một số
dự án cải tạo mở rộng sản xuất (nhóm B)
Hình thức chủ nhiệm điều hành dự án:
Chủ nhiệm điều hành dự án là Giám đốc ban quản lý dự án, Ban quản
lý này một bộ phận là thuộc doanh nghiệp tư vấn chủ nhiệm điều hành dự án,
có nhiệm vụ giúp chủ đầu tư lựa chọn tổ chức tư vấn thiết kế và các hợp đồng
liên quan khác, hình thức này tổ chức với dự án nhóm A và B.
Hình thức chìa khóa trao tay:
70
Loại hình thức này được áp dụng cho việc xây dựng nhà ở, công trình
dân dụng, công trình sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản.
Hình thực tự làm:
Hình thức này chủ đầu tư trực tiếp thực hiện xây dựng công trình thuộc
dự án của mình. Đó là những công trình thuộc dự án do đơn vị tự bỏ vốn
nhưng phải sử dụng lực lượng được phép hành nghề xây dựng thường là sửa
chữa, cải tạo nhỏ, hoặc công trình chuyên ngành đặc biệt
Bảng 07. Tổng hợp các hình thức quản lý dự án đầu tư
Hình thức tổ chức Đặc trưng Đối tượng áp dụng
1. Chủ đầu tư trực
tiếp quản lý
Sử dụng bộ máy hiện có để quản lý
Ký hợp đồng với tổ chức tư vấn xây dựng
Tổ chức đấu thầu
Dự án nhóm C
Một số dự án mở rộng sản
xuất
2. Chủ nhiệm điều
hành dự án
Chủ nhiệm điều hành dự án kiêm Giám đốc
quản lý dự án
Ban quản lý dự án
Dự án nhóm B
3. Chìa khóa trao
tay
Chủ đầu tư chọn tổ chức tư vấn xây dựng
chọn tổng thầu
Công trình nhỏ
4. Tự làm Chủ đầu tư trực tiếp xây dựng dự án của mình
Tự bỏ vốn sửa chữa nhỏ
Công trình chuyên ngành
3.2.3.2 Đổi mới công tác cán bộ quản lý
Cán bộ có vai trò quyết định mọi mặt, những thất thoát, lãng phí kém
hiệu quả vốn NSNN. Thời gian qua thì công tác cán bộ quản lý là một trong
những nguyên nhân quan trọng để gây ra ảnh hưởng tiêu cực. Để đổi mới
công tác này cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau đây:
71
Một là: Phải đảm bảo về chất lượng đối với cán bộ công chức, thực
hiện quản lý vốn đầu tư từ NSNN
Về chuyên môn, phải thông qua hệ đào tạo chính quy, đảm nhiệm
đúng theo chuyên môn đã được học
Về bản lĩnh chính trị, phải đảm bảo yêu cầu năng động trung thực.
Những người có con em nghiệm hút, người có lý lịch không rõ ràng (đã làm
sai trái trong thời gian qua) tuyệt đối không được tham gia vào quản lý trong
lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Cán bộ công chức thực hiện quản lý phải được nhận thức cụ thể,
không phải là lý luận chung chung mà thực hiện.
Hai là: Phải thường xuyên được đào tạo lại, tập huấn, bồi dưỡng những
quy định về pháp luật có liên quan cần phải chú ý, cập nhật thông tin về chế
độ, chính sách… cho những cán bộ thực hiện quản lý đầu tư xây dựng cơ bản.
Ba là: Phải tạo lập cơ chế hợp lý về nhiệm vụ và thù lao của cán bộ
công chức quản lý:
Đổi mới cơ chế tiền lương, phần thưởng, có thu nhập hợp lý, ổn định,
thỏa đáng, để tạo ra sự yên tâm trong công tác và có trách nhiệm cao trong
thực thi công vụ.
Phải có chế tài về kinh tế, để hạn chế hành vi tiêu cực của đội ngũ cán
bộ công chức quản lý vốn đầu tư.
Bốn là: Quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ từng người. Cần thiết cụ
thể hóa trách nhiệm và nghĩa vụ cho từng cán bộ công chức trong công tác
quản lý.
3.2.3.3 Cải tiến công tác nghiệm thu và bàn giao công trình đưa vào sử dụng
Công tác nghiệm thu công trình phải tiến hành từng đợt ngay sau khi
làm xong những khối lượng kỹ thuật. Những kết cấu chịu lực, từng bộ phận
và tòan bộ công trình, để sớm phát hiện những điểm thiếu sót và xử lý kịp
72
thời. Việc nghiệm thu này là do chủ đầu tư tổ chức thực hiện và phải có tham
gia các tổ chức tư vấn và cơ quan giám định chất lượng công trình.
Đối với những công trình quan trọng có yêu cầu kỹ thuật phức tạp,
Thủ tướng Chính phủ phải lập Hội đồng nghiệm thu Nhà nước.
Công trình được bàn giao tòan bộ cho chủ đầu tư, khi đã xác lập hòan
chỉnh theo thiết kế được duyệt, đúng kỹ thuật và nghiệm thu đạt yêu cầu về
chất lượng.
Trong quá trình bàn giao phải bàn giao tòan bộ hồ sơ tài liệu và các
vấn đề liên quan đến công trình.
Việc tổ chức bàn giao phải làm gọn nhẹ, không làm tốn kém chi phí
nhiều nhưng phải đúng theo yêu cầu và đảm bảo chất lượng cao.
Phải tiến hành bàn giao cho kịp thời và chu đáo để tạo điều kiện tốt
cho việc đưa vào sử dụng một cách có hiệu quả. Đối với công trình sử dụng
vốn NSNN thì UBND Tỉnh phải chuẩn bị bộ máy tiếp nhận và vận hành công
trình như dự án đã lập.
Việc tổ chức nghiệm thu bàn giao chuẩn mực, không những tác động
đến công trình đã bàn giao mà còn tác động đến công trình đang thi công. Bởi
sự đòi hỏi về chất lượng và kỹ thuật khi xây dựng công trình là trách nhiệm
về vật chất đối với bên nhận thầu thi công.
3.3 NHỮNG KIẾN NGHỊ:
3.3.1 Kiến nghị đối với các bộ ngành cấp trung ương:
Về đấu thầu:
Việc đấu thầu công trình xây dựng cơ bản còn là vấn đề bức xúc trong
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ
bản từ NSNN nói riêng, cần phải đổi mới một số nội dung sau đây:
73
Việc thành lập tổ tư vấn chuẩn bị các phương án và tài liệu mời thầu
không nên cho chủ đầu tư chỉ đạo tổ tư vấn này, thậm chí còn phụ thuộc vào
chủ đầu tư. Vì vậy, mới có hiện tượng dù chuẩn bị tài liệu, tổ chức đấu thầu ra
sao thì cuối cùng bên nhận thầu cũng là do chủ đầu tư lựa chọn mà giá thành
công trình thì vẫn là giá cao, hiệu quả thấp, vốn NSNN vẫn lại bị thất thoát.
Từ đó chúng ta cần có một tổ chức tư vấn có tư cách pháp nhân riêng phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Khi tổ tư vấn này có được một hồ sơ mời thầu, chuẩn mực để tổ chức
đấu thầu thì sau đó biên bản tổng hợp kết quả đấu thầu và ý kiến của Hội
đồng sẽ phải chuyển về cơ quan có thẩm quyền quyết định đơn vị trúng thầu,
không nhất thiết phải qua đề nghị của chủ đầu tư và Sở kế hoạch đầu tư.
Chính sách thu sử dụng vốn:
Nhà nước cần đổi mới chính sách thu sử dụng vốn, đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư từ NSNN. Nhằm góp phần sử dụng vốn NSNN một
cách hiệu quả hơn và đảm bảo hoàn vốn cho ngân sách thông qua chính sách
thuế và góp phần đảm bảo sự công bằng giữa doanh nghiệp được đầu tư bằng
vốn NSNN và doanh nghiệp được đầu tư bằng vốn tín dụn ngân hàng.
Đó là việc thu tiền sử dụng vốn với sự phát triển kinh tế và quản lý vốn
đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn NSNN.
Nhìn chung, chế độ thu sử dụng vốn NSNN có nhiều tác động tốt đối
với nền kinh tế nhưng vẫn còn có những điểm cần phải bàn thêm như:
Chưa phận biệt rõ việc thu sử dụng vốn đối với mua sắm máy móc,
thiết bị và thuế vốn đối với xây dựng vật kiến trúc… Điển hình như chính
sách thu sử dụng vốn hiện hành bình quân vào khoảng 0,4%/tháng mà trong
khi đó lãi tiền vay ngân hàng đối với ngành sản xuất kinh doanh khoảng
1,5%/tháng. Vậy nó sẽ không cân bằng giữa các doanh nghiệp sử dụng vốn
NSNN và doanh nghiệp vay vốn tín dụng ngân hàng. Do đó làm có các doanh
nghiệp nảy sinh lên những tâm lý xin cấp vốn ngân sách để được lợi nhiều
74
hơn . Điều này nó làm cho việc quản lý giá thành, giá cả và quản lý tiền vốn
càng khó khăn hơn.
3.3.2. Kiến nghị về quan hệ giữa các ngành ở TW và chính quyền địa
phương
Thứ nhất: Phân định chức năng của các ngành, các cấp trong quản lý
vốn đầu tư XDCB:
UBND các huyện phải thực hiện việc quản lý vốn đầu tư XDCB đúng
theo sự phân công của tỉnh, tổ chức quản lý các dự án có giá trị dưới
100.000USD.
Sở Kế hoạch Đầu tư chịu trách nhiệm trước uỷ ban Kế hoạch Đầu
tư, Bộ Tài chính, UBND tỉnh về quản lý Nhà nước đối với vốn đầu tư xây
dựng cơ bản tổng hợp báo cáo tình hình xây dựng cơ bản với UBND tỉnh, Bộ
Tài chính và Uỷ ban Kế hoạch Đầu tư.
Sở Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện quản lý vốn đầu tư
XDCB đúng theo Luật NSNN quy định và sử dụng vốn đầu tư đúng mục
đích, đúng chế độ.
Kho bạc Nhà nước chịu trách nhiệm thanh toán khối lượng đầu tư
XDCB hoàn thành kịp thời và đúng chế độ, kiểm soát việc chi tiêu của các dự
án tạm ngừng chưa thanh toán những khoản bất hợp lý, chi sai nguyên tắc chế độ
tài chính khi cần thiết xuất toán những khoản mục đó khỏi giá thành công trình.
Thứ hai: UBND tỉnh cần có những quy định cụ thể hơn về việc thực
hiện quy chế đấu thầu các dự án đầu tư trên địa bàn của tỉnh.
Về kế hoạch đấu thầu và nhân sự đấu thầu phải được cấp có thẩm
quyền quyết định đầu tư phê duyệt.
Việc nhân sự thành lập tổ chuyên gia hoặc phải thuê tư vấn, tổ chuyên
gia này độc lập với chủ đầu tư trong việc thực hiện nhiệm vụ theo đúng quy
định của Nhà nước.
75
Các thành viên trong tổ chuyên gia được lựa chọn đủ và đúng với yêu
cầu đòi hỏi của các dự án.
Trong thực tế đơn vị trúng thầu không nhất thiết chỉ có giá rẻ mà cần
phải đảm bảo chất lượng công trình. Do đó UBND tỉnh cần phải tăng cường
nhiệm vụ và trách nhiệm quyền hạn của Hội đồng đấu thầu. Hội đồng thẩm
định kết quả đấu thầu và trình lên UBND tỉnh quyết định không cần phải qua
Sở Kế hoạch Đầu tư và Chủ đầu tư.
3.3.3. Về khen thưởng và xử phạt
Trong việc chấp hành luật NSNN điều quan trọng nhất là thực hiện
quốc sách tiết kiệm. Trong thực hiện đó giải pháp quan trọng nhất là có chính
sách thưởng, phạt cho thật nghiêm minh, nhất là thực hiện bằng hình thức
kinh tế.
Về khen thưởng: từ trước đến nay, tất cả hình thức khen thưởng
thường là: bằng khen, giấy khen… mà không kèm theo khuyến khích vật chất.
Vậy, hình thức khen thưởng trên đây không đủ làm sức mạnh để thúc đẩy sự
tiết kiệm trong khoản chi NSNN. Cho nên, để đủ sức trong tiết kiệm thì cần
phải thực hiện hình thức khen thưởng này bằng vật chất, đối với đơn vị dự
toán: các đơn vị hưởng thụ NSNN cấp tỉnh, huyện đã thực hiện quốc sách tiết
kiệm, đảm bảo chi NSNN đúng, chi đủ, chi kịp thời hoàn thành được theo
nhiệm vụ khối lượng mà không lãng phí, và lại tiết kiệm được nên thưởng cho
các tập thể, cá nhân đó một số khoản tiền đã được tiết kiệm đó. Do vậy, vấn
đề này Nhà nước nên quy định vào trong chính sách về khen thưởng.
Trong chính sách đó cũng có qui định nhưng chưa được qui định rõ về
mức khen thưởng. Vậy nên qui định chi tiết thực hành pháp lệnh về tiết kiệm
để chống lãng phí.
Để có hiệu quả lâu dài, những tập thể hoặc cá nhân có thành tích trong
việc quản lý thi công công trình có chất lượng cao vừa được thưởng tinh thần
76
(bằng khen, giấy khen) vừa được thưởng vật chất (tiền). Còn các đơn vị thi
công phải được ưu tiên về điểm tham gia đấu thầu.
Do vậy Nhà nước phải được qui định chi tiết hơn và cụ thể hơn về cấp
công trình có chất lượng cao như cấp quốc gia, cấp Tỉnh…. Để phạm vi ảnh
hưởng của nó tốt hơn.
Cùng với chính sách khen thưởng đó thì cũng phải qui định dưới luật
đối với trường hợp vi phạm. Đối với hình thức vi phạm thì có vi phạm về vật
chất và tinh thần.
Trong qui định phải ghi rõ mức phạt cụ thể:
+ Phạt do không hoàn thành nhiệm vụ
+ Phạt do khối lượng công trình kém.
3.3.4. Đào tạo, đào tạo lại và bố trí đúng người đúng việc cho quá
trình quản lý vốn đầu tư và hoạt động đầu tư:
Đội ngũ cán bộ là lực lượng quan trọng nhất quyết định thắng lợi trong
tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng Nhân dân cách mạng và
Nhà nước Lào. Bởi vậy, cán bộ là những người nắm vững đường lối chính
sách của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước về phổ biến, giáo dục nhân
dân và lãnh đạo nhân dân tổ chức thực hiện có hiệu quả. Như vậy, có đội ngũ
cán bộ tốt mới có thể làm cho đường lối, nhiệm vụ chính trị của Đảng trở
thành quá thực sự, mới có thể xây dựng và bảo vệ đường lối chính trị của
Đảng đúng đắn, luôn luôn phát triển và làm cho đường lối chính trị trở thành
chi tiết phù hợp với lợi ích của quần chúng.
Do đó đào tạo đội ngũ cán bộ là một khâu mang tính chất chìa khoá cho
các khâu công việc cán bộ, nhờ có sự tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ mới có
thể mở rộng và nâng cao số lượng cũng như chất lượng của đội ngũ cán bộ.
Trên cơ sở đó, có thể củng cố và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, đảm
bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng dẫn đến thành công và
thắng lợi.
77
Riêng nước CHDCND Lào nói chung và tỉnh Xê Kông nói riêng là một
tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế chậm, xây dựng kinh tế xuất phát từ nền kinh
tế tự nhiên và nửa tự nhiên, thu nhập bình quân đầu người còn quá thấp, đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân
thành thạo tay nghề còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu về vấn đề đào tạo đội
ngũ cán bộ càng có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý vốn đầu tư XDCB, có một vị trí rất
quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, vốn đầu tư. Nhưng thực tế ở ỉnh Xê
Kông, nước CHDCND Lào thì bộ máy quản lý này còn bị phân tán, chưa đủ
hoàn thành nhiệm vụ. Mặt khác, còn nhiều cán bộ chưa được qua đào tạo
hoặc đào tạo không có hệ thống. Ngoài ra, còn có một số bộ phận bố trí cán
bộ còn trái ngành, trái nghề chuyên môn mà họ đã học qua. Do vậy, trước mắt
cần phải soát lại đội ngũ cán bộ này để bố trí cho đứng hướng sau:
Những cán bộ chưa qua đào tạo hoặc không đúng ngành nghề phải
đào tạo lại cho phù hợp.
Những cán bộ trái ngành nghề cần có kế hoạch thuyên chuyển đi nơi
khác cho phù hợp với chuyên môn của họ và nếu tuổi cao thì nên cho chờ về
hưu.
Có kế hoạch tuyển chọn cán bộ được đào tạo chính qui, ở các trường
đại học, có ưu tiên đối với những em học lực khá, giỏi để phục vụ lâu dài
trong ngành.
Phải có chính sách đãi ngộ đối với những cán bộ giỏi, có nhiều cống
hiến trong lĩnh vực này.
Phải mở rộng giao lưu trao đổi kinh nghiệm với các chuyên gia đầu
ngành của Trung ương và những kinh nghiệm quản lý các tỉnh bạn bè, lân
cận, nhất là các tỉnh kết nghĩa với với nước CHXHCN Việt Nam. Để góp
phần thiết thực việc nâng cao năng lực thực tiễn cho cán bộ quản lý trong
tỉnh.
78
Phải thường xuyên kiểm tra và kiểm soát những kiến thức cơ bản, kỹ
năng làm việc, trình độ nghiệp vụ, năng lực và thái độ làm việc của các nhân
viên hành chính.
Phải luôn luôn đổi mới và chuyển đổi một cách hợp lý. Tùy theo sự
phát triển của tình hình khách quan mà không ngừng điều chỉnh, đổi mới cơ
cấu ngành nghề và cơ cấu trí thức của các nhân viên hành chính. Phải dựa vào
thay đổi tuổi tác của các nhân viên hành chính mà làm tốt việc thay thế các
nhân viên hành chính mới. Đồng thời điều chỉnh cơ cấu chất lượng của cơ
quan hành chính các cấp. Làm như vậy có thể theo kịp trào lưu tiến độ của
thời đại.
Muốn làm cho chất lượng cán bộ, công chức nhà nước ngày càng tốt
hơn phải đào tạo, bồi dưỡng, phải coi trọng việc đào tạo và quyền lợi nghĩa
vụ.
Khi đào tạo cần quán triệt các nguyên tắc nhất trí giữa kết quả học tập
với sử dụng. Dạy theo đúng nhu cầu mà vươn tới hiệu quả thực sự và chủ yếu
là để nâng cao năng lực.
Cán bộ lãnh đạo cùng với cán bộ quản lý phải nắm chắc và hiểu rõ
các công cụ quản lý trong việc hoạt động quản lý vốn đầu tư từ NSNN, phải
có chế độ xuống cơ sở để kiểm soát nắm chắc tình hình thực tiễn xảy ra trong
từng địa phương. Đồng thời phải có biện pháp giúp đỡ và giải quyết các vấn
đề đã xảy ra cho thích hợp nhất.
Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong
mọi lĩnh vực, trên cơ sở đó, sự lãnh đạo của Đảng phải đặc biệt chú trọng về
giáo dục tư tưởng và nâng cao trình độ cán bộ từng cấp, đồng thời quan tâm
củng cố xây dựng hệ thống quyền lực Nhà nước.
79
Kết luận chương 3
Chương 3 đã căn cứ vào cơ sở những phân tích và rút ra được hạn chế
trong trương trước và kết hợp với định hướng phát triển của tỉnh trong những
năm tới, luận văn đã đưa ra các giải pháp hoàn thiện quản lý vốn đầu tư
XDCB từ vốn NSNN của tỉnh Xê Kông trong thời gian tới như:
- Đổi mới kế hoạch đầu tư.
- Đổi mới nhu cầu xác định về vốn.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý nguồn vốn.
- Cải tiến khâu chuẩn bị và quy trình quản lý vốn đầu tư.
- Cải tiến quy trình cấp phát vốn.
- Đổi mới hình thức tổ chức cấp phát vốn.
- Đổi mới công tác cán bộ quản lý.
- Cải tiến công tác nghiệm thu và bàn giao công trình đưa vào sử dụng.
80
KẾT LUẬN
Nước CHDCND Lào từ khi chuyển đổi, từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của
Nhà nước, Nhà nước đã thực sự có những thay đổi quan trọng trong phương
thức và cách thức điều tiết, can thiệp vĩ mô thông qua các chiến lược phát
triển định hướng qua hệ thống pháp lệnh. Nhằm đảm bảo cho các thành phần
kinh tế được bình đẳng, trong các hoạt động kinh doanh, Nhà nước can thiệp
điều tiết không kìm hãm quá trình phát triển kinh tế – xã hội với mục tiêu
“Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh” để tiến lên XHCN.
Qua phân tích tình hình quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN nói chung
và vốn NSNN ở tỉnh Xê Kông nói riêng, có thể thấy ở lĩnh vực này có nhiều
bức xúc nhất là vấn đề thất thoát vốn, hiệu quả vốn còn thấp.
Có nhiều nguyên nhân trong đó quản lý tài chính có vị trí rất quan
trọng.
Từ những lý luận và thực tiễn nếu ở trên hoàn thiện quản lý vốn đầu tư
XDCB từ NSNN cần phải được đặt trong mối quan hệ liên quan đến nhiều
cấp từ Chính phủ, các Bộ, Ngành của Trung ương đến các huyện và từng cán
bộ trong bộ máy quản lý ở lĩnh vực này. Đồng thời hoàn thiện quản lý vốn
đầu tư XDCB từ vốn NSNN và khắc phục những tồn tại trong tình hình hiện
nay cần phải có những giải pháp đồng bộ trên những phạm vi toàn quốc.
Trong phạm vi của luận văn này với trọng tâm là hoàn thiện quản lý
vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở tỉnh Xê Kông và luận văn hoàn thành một số
nhiệm vụ sau:
Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư, quản lý đầu tư,
quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN.
Đánh giá việc quản lý đầu tư XDCB từ NSNN ở tỉnh Xê Kông đã tìm
ra mặt mạnh, mặt yếu, và nguyên nhân tích cực, tiêu cực để giải quyết.
81
Từ sự phân tích cơ chế quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở cấp
tỉnh, luận văn phân tích được nội dung cơ chế quản lý và phương pháp chung
về quản lý vốn đầu tư của Nhà nước trên địa bàn tỉnh và thành phố.
Đề xuất được một số giải pháp quản lý vốn đầu tư XDCB nói chung
và vốn NSNN nói riêng.
Luận văn đã mạnh dạn kiến nghị với Ban quản lý các cấp từ Trung
ương đến chính quyền địa phương. Những kết luận khoa học trên của luận
văn chắc chắn sẽ có giá trị nhất định cả về lý luận lẫn thực tiễn cho công tác
quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN ở tỉnh Xê Kông nói riêng và cả nước Lào
nói chung.
Do nhiều lý do khác nhau luận văn chưa đáp ứng được đầy đủ tất cả các
yêu cầu được đặt ra trong việc hòan thiện quản lý vốn đầu tư XDCB nói
chung và vốn NSNN nói riêng, điều đó sẽ được hòan thiện tiếp trong tương
lai.
Xin vô cùng trân trọng cảm ơn lãnh đạo Trường đại học kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh, các thầy, các cô ở Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
đã giảng dạy và đặc biết là GS.TS. Trần Hoàng Ngân đã hướng dẫn, giúp đỡ
em trong quá trình hòan thiện luận văn này.
Xin cảm ơn Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã tạo điều kiện cho tôi được học tập,phấn
đấu để hòan thành luận văn này. Chúc tình hữu nghị Việt Lào ngày càng bền
chặt.
Xin chân thành cảm ơn!
Phom Ma Sen Boun Ma
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoan_thien_quan_ly_von_dau_tu_xay_dung_co_ban_tu_nsnn_o_tinh_xe_kong__lao.pdf