Luận văn Hoàn thiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai -tự nộp thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên

MỞ ĐẦU 1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Thanh tra, kiểm tra là một trong những hoạt động hết sức quan trọng nhằm đảm bảo an toàn, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh trong nền sản xuất hàng hoá, vận hành theo cơ chế thị trường. Trong đó, thanh tra, kiểm tra thuế là một trong những hoạt động mang tính chất đặc thù. Thanh tra, kiểm tra thuế trong thời gian qua không chỉ có những đóng góp đáng kể vào chống thất thu thuế mà còn nhằm đảm bảo công bằng, động viên đối với các chủ thể kinh tế phát huy nguồn lực của mình đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, thanh tra, kiểm tra thuế vẫn còn có những hạn chế đòi hỏi phải được nghiên cứu nhằm cải tiến, đổi mới và hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang đặt ra. Với sự đòi hỏi cấp thiết đó, chúng tôi chọn đề tài: “ HOÀN THIỆN THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI -TỰ NỘP THUẾ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN ” làm luận văn thạc sỹ kinh tế. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. - Góp phần làm rõ lý luận về thanh tra, kiểm tra nói chung và trong ngành thuế nói riêng. - Khẳng định sự cần thiết khách quan của việc tăng cường đổi mới, hoàn thiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên. - Nghiên cứu thực trạng thanh tra, kiểm tra thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên giai đoạn 2003-2007, trên cơ sở đó rút ra những thành tựu và những nguyên nhân hạn chế của thanh tra, kiểm tra thuế tại tỉnh Phú Yên. - Trên cơ sở định hướng đổi mới, hoàn thiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp và những nguyên nhân hạn chế, luận văn đề xuất giải pháp đẩy nhanh vững chắc thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

pdf89 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3724 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai -tự nộp thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa phát huy tác dụng trong thực tế vì thủ tục không thuận tiện. Việc phân quyền trong khen thưởng chưa thỏa đáng, dẫn tới một số quy định về khen thưởng trong các Luật thuế chỉ dừng lại ở lý thuyết mà không khuyến khích đáng kể các tập thể và cá nhân tham gia việc phát hiện và cung cấp thông tin cho cơ quan thuế. 2.4.5.2. Luật doanh nghiệp vẫn còn kẻ hở: Do luật doanh nghiệp quá thông thoáng, việc thành lập doanh nghiệp rất dễ dàng, không bị ràng buộc bởi các điều kiện về vốn, nhân thân, cơ quan cấp phép đăng ký kinh doanh không thực hiện tốt việc “hậu kiểm” do đó nhiều đối tượng lợi dụng thành lập doanh nghiệp để kinh doanh trốn thuế, mua bán hoá đơn . Nguyên nhân là do thiếu giám sát của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Yên, thiếu sự xác minh, đối chiếu của cơ quan thuế, thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan cấp giấy đăng ký kinh doanh và cơ quan quản lý thuế tạo kẻ hở cho ĐTNT thành lập doanh nghiệp kinh doanh nhưng không thực hiện nghĩa vụ thuế, trốn thuế. Qua phân tích thực trạng và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên đòi hỏi ngành thuế phải có phương hướng nhằm hoàn thiện thanh tra, kiểm tra trên mọi lĩnh vực từ tổ chức bộ máy, từ cách thức thanh tra, kiểm tra có tính đến mức độ rủi ro về thuế, về đội ngũ công chức thanh tra, kiểm tra thuế … để cho việc thực hiện cơ chế quản lý thuế mới mang lại hiệu lực, hiệu quả. - 63 - Kết luận chương II: Trong chương II, luận văn đã đề cập đến những đặc điểm kinh tế, xã hội của tỉnh Phú Yên trong tác động đến công tác thuế nói chung và thanh tra, kiểm tra thuế nói riêng. Luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức, bộ máy Cục thuế tỉnh Phú Yên trong thanh tra, kiểm tra thuế và những điều kiện trước yêu cầu đổi mới thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế. Trên cơ sở đó luận văn khẳng định những thành tựu và rút ra 5 nhóm nguyên nhân hạn chế đối với thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai tự nộp trên địa bàn tỉnh như: Nguyên nhân từ tổ chức bộ máy Cục thuế tỉnh Phú Yên trong tác động đối với thanh tra, kiểm tra; nguyên nhân từ các đối tượng nộp thuế; nguyên nhân từ nội bộ ngành thuế; nguyên nhân từ chính sách vĩ mô của Nhà nước và các nguyên nhân khác. - 64 - Chương III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ THEO CƠ CHẾ TỰ KHAI TỰ NỘP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN. 3.1. ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ CỦA TỈNH PHÚ YÊN ĐẾN NĂM 2015. 3.1.1. Định hướng quản lý thuế đến năm 2015: - Tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh phân cấp mạnh quản lý ngân sách cho các địa phương, tăng cường tính chủ động, tích cực trong tổ chức quản lý tăng thu cho ngân sách; - Thực hiện chính sách ưu đãi đầu tư nhằm khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mạnh dạn đầu tư vốn, đổi mới máy móc thiết bị, mở rộng qui mô sản xuất như xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng để thuận lợi cho việc thông tin liên lạc, giao thông, giảm chi phí vận chuyển, hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho công nhân, hỗ trợ xúc tiến thương mại; - Thông qua công tác quản lý thu, kịp thời phân tích những biến động của nền kinh tế - xã hội, tiền tệ, giá cả, hiệu quả kinh doanh để đánh giá nguồn thu, ổn định mức thu khoán cả năm cho các hộ kinh doanh để họ yên tâm làm ăn và làm tốt nghĩa vụ với Ngân sách nhà nước, từng bước hướng dẫn các hộ kinh doanh mở sổ sách kế toán và chuyển sang tính thuế Giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ; - Thực hiện tốt quản lý thu đi đôi với nuôi dưỡng nguồn thu, chống lạm thu; tổ chức khai thác tốt nguồn thu, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời các nguồn thu vào NSNN, phối hợp với các ngành hữu quan như Công an, quản lý thị trường tổ chức kiểm tra định kỳ và đột xuất nhằm tăng cường chống thất thu thuế, chống buôn lậu và gian lận thương mại; - Tăng cường cải tiến cơ chế quản lý thuế như: Tổ chức tốt việc đăng ký thuế theo mã số riêng; nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế với từng loại đơn vị kinh doanh gồm các hộ kinh doanh lớn và vừa, các hộ kinh doanh nhỏ; thay thế chế độ - 65 - thông báo thuế bằng cơ chế TKTN; tăng cường hiệu lực của thanh tra thuế; đề xuất xây dựng bộ máy cưỡng chế thuế. 3.1.2. Định hướng chủ yếu thanh tra, kiểm tra thuế đến năm 2015: Kiểm tra thuế, thanh tra thuế là một chức năng chủ yếu của quản lý thuế, đặc biệt là khi áp dụng cơ chế quản lý thuế mới, người nộp thuế tự khai, tự tính và tự nộp thuế. Có thực hiện kiểm tra, thanh tra mới quản lý được đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, doanh thu, chi phí và kiểm soát được việc khai thuế, nộp thuế của người nộp thuế đầy đủ, chống thất thu cho NSNN. Để đạt được hiệu quả cao trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế và tránh gây phiền hà, hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của người nộp thuế, Cục thuế Phú yên xây dựng định hướng công tác thanh tra, kiểm tra trong thời gian đến như sau: + Chuyển đổi từ việc thanh tra theo diện rộng sang thanh tra theo hệ thống tiêu thức lựa chọn, đi vào chiều sâu theo mức độ vi phạm. + Chuyển hoạt động thanh tra, kiểm tra chủ yếu tiến hành tại cơ sở kinh doanh sang thanh tra, kiểm tra chủ yếu tiến hành tại cơ quan thuế. + Chuyển từ thanh tra, kiểm tra toàn diện sang thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề và nội dung vi phạm. [21] Từ những định hướng về phát triển kinh tế - xã hội địa phương, đinh hướng chủ yếu về thanh tra, kiểm tra thuế đến năm 2010, xuất phát từ thực trạng, nguyên nhân và hạn chế của thanh tra, kiểm tra trên địa bàn tỉnh Phú Yên, chúng tôi đưa ra những giải pháp góp phần hoàn thiện thanh tra, kiểm tra trong thời gian đến như sau: 3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THANH TRA, KIỂM TRA THUẾ THEO CƠ CHẾ TKTN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN: 3.2.1. Giải pháp đối với Cục thuế tỉnh Phú Yên: 3.2.1.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy thanh tra của Cục thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế: - 66 - Việc xây dựng bộ máy ngành thuế cấp Cục theo cơ chế TKTN với khối các phòng có liên quan trực tiếp đến người nộp thuế và khối công việc nội bộ ngành thuế thể hiện hướng xây dựng bộ máy thuế thực sự khoa học, hiện đại, mang tính chuyên sâu hơn và phân định rõ hơn chức năng của từng bộ phận với phương châm: khắc phục tối đa sự chồng chéo, một công việc chủ yếu do một bộ phận thực hiện. Ghép các bộ phận lại với nhau sao thích hợp hoàn cảnh cụ thể nhưng đáp ứng được yêu cầu chung như: Sáp nhập Phòng kê khai và kế toán thuế với chức năng chủ yếu là kiểm tra tính đầy đủ, pháp lý của hồ sơ khai thuế, nhập dữ liệu và kiểm tra lỗi số học của tờ khai thuế và Phòng Kiểm tra thuế với chức năng kiểm tra hồ sơ khai thuế, phân tích rủi ro về thuế, kiểm tra tại doanh nghiệp thành một phòng mới: Phòng kê khai & kiểm tra hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế với nhiệm vụ của hai phòng kê khai và phòng kiểm tra hợp lại nhưng bỏ nhiệm vụ kiểm tra tại doanh nghiệp của phòng kiểm tra trước đây. Với sự sáp nhập này sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc kiểm tra hồ sơ thuế ngay lúc ban đầu và tập trung một đầu mối kiểm tra, giám sát việc kê khai thuế ngay tại cơ quan thuế. Sửa đổi tên gọi và bổ sung chức năng Phòng thanh tra hiện nay thành Phòng thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp với chức năng:Giúp Cục trưởng Cục thuế triển khai thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế trong việc chấp hành pháp luật thuế; giải quyết tố cáo về hành vi trốn lậu thuế, gian lận thuế liên quan đến người nộp thuế thuộc phạm vi Cục Thuế quản lý; Thành lập Phòng thuế Thu nhập cá nhân để thực hiện Luật thuế TNCN từ ngày 01/01/2009. Khi thực hiện cơ chế tự khai tự nộp, ngành thuế có điều kiện tập trung nguồn nhân lực vào chức năng thanh tra, kiểm tra. Để đảm bảo thực hiện tốt quản lý thuế theo cơ chế mới chúng tôi kiến nghị tăng biên chế Phòng thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp tương ứng với 30 % tổng số công chức thuế tại Văn phòng Cục. - 67 - Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay để thực hiện tốt cơ chế tự khai tự nộp thuế của ĐTNT thì mô hình chức năng của Cục thuế gồm những phòng sau: - Khối bộ máy liên quan đến đối tượng nộp thuế (gồm 4 phòng): + Phòng Tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế. + Phòng Kê khai & kiểm tra hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế. + Phòng Thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp. + Phòng Cưỡng chế và thu nợ. + Phòng thuế Thu nhập cá nhân. - Khối bộ máy liên quan nội bộ ngành thuế (gồm 5 phòng): + Phòng Tổng hợp dự toán. + Phòng Kiểm tra nội bộ + Phòng Tổ chức cán bộ. + Phòng Hành chính - Quản trị - Tài vụ - Ấn chỉ. + Phòng Tin học. 3.2.1.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế TKTN: Theo kinh nghiệm của cơ quan thuế nước Anh, để có thể đủ sức thực hiện tốt công việc thanh tra, kiểm tra theo cơ chế tự khai tự nộp thì lực lượng cán bộ thanh tra, kiểm tra phải chiếm từ 25% - 30% trên tổng số công chức biên chế ngành thuế. Hiện tại lực lượng thanh tra, kiểm tra toàn ngành là 65 người chiếm 15,12% số lượng công chức trong biên chế toàn ngành (430 người). Vì vậy, để đảm bảo nguồn nhân lực cho công tác thanh tra, kiểm tra theo cơ chế tự khai tự nộp thì phải nâng số lượng công chức thanh tra, kiểm tra với biên chế từ 107 người đến 130 người (chiếm từ 25% đến 30% biên chế ngành thuế). Có như thế mới đảm bảo việc thanh tra, kiểm tra người nộp thuế theo chức năng chuyên sâu, nhất quán trong xử lý, không kiểm tra, thanh tra tràn lan, không dựa trên cơ sở phân tích đánh giá rủi ro về thuế. - 68 - Nguồn nhân lực không phải là lực lượng lao động theo bản năng, mà là lực lượng lao động đã qua đào tạo, huấn luyện, qua tích lũy kinh nghiệm để trở thành lực lượng lao động có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động sản xuất kinh doanh, thực nghiệm, nghiên cứu khoa học và quản lý xã hội. Chất lượng nguồn lực trở thành một trong những yếu tố của sự phát triển. Do đó để có nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp, thích ứng trong công tác quản lý thuế, tất yếu phải có một chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cho lực lượng lao động. Để phát triển nguồn nhân lực, ngành thuế Phú Yên cần phải: Một: Sắp xếp lại nội bộ Đây là công việc quan trọng, đòi hỏi công tác tổ chức cán bộ phải rà soát lại lực lượng công chức ngành thuế có kiến thức kỹ năng và kinh nghiệm thực tiễn như trình độ chuyên môn tối thiểu phải tốt nghiệp Đại học, am hiểu về: hệ thống pháp luật thuế, nội dung các sắc thuế hiện hành, luật kế toán, chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán doanh nghiệp, các luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, có khả năng đọc và phân tích báo cáo tài chính, có văn hoá ứng xử và có trình độ thật sự về tin học và ngoại ngữ, có thâm niên trên 5 năm, từ đó ưu tiên đưa vào đội ngũ công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra Người nộp thuế. Hai: Tuyển mới công chức thuế Theo báo cáo kết quả công tác thanh tra, kiểm tra thuế 5 năm từ năm 2003 - 2007, tuổi đời bình quân của công chức ngành thuế Phú Yên nói chung và công chức làm công tác thanh tra nói riêng tương đối cao, từ 42 tuổi vào năm 2003 đến năm 2007 tuổi đời bình quân là 44. Như vậy, đã đến lúc ngành thuế Phú Yên nên có cơ chế tuyển mới bằng hình thức thi tuyển công chức hàng năm, ưu tiên cho sinh viên vừa tốt nghiệp đại học, yêu nghề, có năng lực, có đạo đức nghề nghiệp và nhiệt tình công tác. Một mặt tạo lực lượng kế thừa vững mạnh, một mặt trẻ hoá đội ngũ cán bộ và góp phần giải phóng lực lượng lao động trong tỉnh nhà. Ba: Đào tạo và bồi dưỡng nhân lực - 69 - Theo kinh nghiệm của cơ quan thuế nước Úc: một công chức thuế muốn trở thành một thanh tra viên yêu cầu kiến thức cần phải có mang tính bắt buộc gồm: Sự am hiểu về Luật thuế và các luật khác; nắm vững về nguyên tắc kế toán và có phong cách giao tiếp. Vì vậy, ngành thuế Phú Yên kiến nghị với Tổng Cục thuế mở các lớp đào tạo nghiệp vụ chuyên môn cho các ngạch thanh tra viên, thanh tra viên chính và thanh tra viên cao cấp. Mỗi học viên vào học các ngạch trên đều phải đảm bảo những chỉ tiêu và tiêu chuẩn theo quy định của Nhà nước. Khi học xong chương trình đều phải qua thi tuyển, nếu đạt thì mới công nhận là ngạch thanh tra tương ứng với trình độ đã đào tạo. Công chức làm công tác thanh tra tại các cơ quan thuế tự đối chiếu các tiêu chuẩn có nhu cầu chuyển ngạch sẽ phải đăng ký với cơ quan thuế nơi mình công tác. Cơ quan thuế căn cứ vào nhu cầu của đơn vị mình, cân đối số hiên có, số cần đào tạo bổ sung. Từ đó lựa chọn danh sách công chức đã đăng ký đưa đi đào tạo. Mặt khác, ngành thuế nên phối hợp với các Trường Đại học Kinh tế Tp HCM, Trường ĐH Luật để đào tạo tại chỗ (bằng cách mời giảng viên các trường) về kế toán, các luật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, tin học, ngoại ngữ và nhất là kỹ năng thanh tra, kiểm tra thuế để nâng cao trình độ, năng lực của công chức thuế. 3.2.1.3. Đổi mới quy trình lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra có tính mức độ rủi ro về thuế theo cơ chế tự khai tự nộp thuế: Kế hoạch là một trong những công cụ hết sức quan trọng trong hoạt động, nhất là đối với hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường. Một khi không có kế hoạch sẽ mất phương hướng, tùy tiện trong hoạt động. Kế hoạch đúng, phù hợp với thực tiễn sẽ dẫn dắt hoạt động có hiệu quả hơn. Do đó, tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch đối với thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế tự khai tự nộp thuế là một nội dung quan trọng cần phải được triển khai. Theo đó việc lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra phải trải qua các bước: - 70 - Bước 1: Cân đối nguồn nhân lực cần thiết để tiến hành thanh tra, kiểm tra từ đó xác định số lượng doanh nghiệp cho kế hoạch thanh tra, kiểm tra. Để đơn giản hoá cách tính toán và tiện theo dõi, chúng tôi thí dụ việc lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm tại Cục thuế. Các bước lập kế hoạch được tiến hành như sau: - Với tổng số biên chế Văn phòng Cục thuế là 80 người, do yêu cầu của công tác quản lý thuế và kinh nghiệm các nước có cơ chế quản lý thuế tự khai, tự nộp thì số lượng cán bộ thanh tra phải chiếm từ 25-30%. Để đảm bảo thực hiện cơ chế quản lý này tốt nhất chúng tôi chọn con số là 30%. Như vậy, số công chức làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế theo bộ máy mới đề xuất là 24 người. Số ngày làm việc thực tế thanh tra, kiểm tra trong năm là 172 ngày (bằng 365 ngày trừ 193 ngày không thanh tra) Các ngày không thanh tra, kiểm tra trong năm là 193 ngày. Trong đó: ngày thứ 7 và Chủ nhật là 104 ngày; Lễ, tết: 10 ngày; nghỉ phép 10 ngày; tập huấn 4 ngày; hội họp 10 ngày; phân tích dữ liệu lập kế hoạch : 30 ngày; ngày cho công việc khác (đối chiếu, xác minh) 25 ngày. Từ đó tính ra số ngày làm việc của phòng thanh tra là 4.128 ngày công (= 24 x 172 ngày). Căn cứ theo quy định tại điều 38 Luật thanh tra số 22/2004/QH11 ngày 15/6/2004, điều 15, điều 25, điều 27 Nghị định 61/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 và tài liệu tập huấn về công tác thanh tra, kiểm tra theo cơ chế TKTN của Cục thuế tỉnh Phú Yên. Theo kinh nghiệm thực tế của chúng tôi xin đề xuất số ngày cần thiết cho một cuộc thanh tra, kiểm tra về thuế tại doanh nghiệp Số ngày cần thiết cho một cuộc thanh tra DN lớn là 20 ngày do đó số người cần thiết là 3 người thực hiện trong 60 ngày thực tế (3 người x 20 ngày = 60 ngày), doanh nghiệp lớn chỉ được đưa vào diện thanh tra thuế chứ không đưa và diện kiểm tra thuế. - 71 - Số ngày cần thiết cho một cuộc thanh tra/kiểm tra DN vừa là 15 ngày do đó số người cần thiết là 3 người thực hiện trong 45 ngày thực tế (3 người x 15 ngày = 45 ngày) Số ngày cần thiết cho một cuộc kiểm tra DN nhỏ tối đa là 5 ngày do đó số người cần thiết là 3 người thực hiện trong 15 ngày thực tế (3 người x 5ngày = 15 ngày), doanh nghiệp nhỏ chỉ đưa vào kế hoạch kiểm tra. (Lưu ý: số ngày công làm công tác thanh tra, kiểm tra bao gồm từ bước đọc, phân tích…đến báo cáo, lưu hồ sơ) -Tổng số doanh nghiệp do Cục thuế quản lý hiện có khoảng 400 doanh nghiệp. Trong đó, 20 doanh nghiệp lớn; 200 doanh nghiệp vừa và 180 doanh nghiệp nhỏ. -Đối với đơn vị lớn, vừa, nhỏ tính theo tỷ trọng doanh nghiệp lớn cao, vừa thì trung bình, nhỏ thì thấp (theo quy định tại công văn số 2628TCT/HTKT ngày 18/8/2004 của Tổng Cục thuế) Vì vậy, căn cứ theo số lượng ngày công kế hoạch đã tính nêu trên, trong năm phòng thanh tra dự kiến đưa vào diện thanh tra, kiểm tra 60% doanh nghiệp lớn; 30% doanh nghiệp vừa và 26% doanh nghiệp nhỏ. Tương đương 12 doanh nghiệp lớn; 60 doanh nghiệp vừa và 45 doanh nghiệp nhỏ. Tổng số doanh nghiệp thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch là 152 doanh nghiệp. Chiếm khoảng 38% doanh nghiệp hiện có. Kiểm chứng: 4.128 ngày công. - Ngày công cho doanh nghiệp lớn: 60 ngày x 12 doanh nghiệp =720 ngày. - Ngày công cho doanh nghiệp vừa: 45 ngày x 60 doanh nghiệp =2.700 ngày. - Ngày công cho doanh nghiệp nhỏ: 15 ngày x 47 doanh nghiệp = 705 ngày. Tổng cộng 4.125 ngày công, vậy ngày công kế hoạch 4.128 ngày đủ để thực hiện thanh tra, kiểm tra số lượng doanh nghiệp trên. Bước 2: Lựa chọn đối tượng thanh tra, kiểm tra: - 72 - Xây dựng tiêu chí đánh giá phân loại ĐTNT để lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra. Việc tiến hành thanh tra, kiểm tra phải hướng vào đối tượng có gian lận thuế. Sử dụng các thông tin từ ĐTNT qua hồ sơ kê khai thuế qua các năm (ít nhất là 3 năm) và các kênh thông tin khác từ bên thứ ba: Ngân hàng, báo chí, Công an, Viện kiểm sát… có liên quan để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra đạt hiệu quả. Tiến hành phân tích thông tin để xác định rủi ro về thuế: như phân tích theo chiều ngang về các yếu tố doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thuế phải nộp trong báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, và các yếu tố chính trong báo cáo tài chính như quỹ tiền mặt, tài sản cố định, hàng tồn kho, chi phí dở dang v.v... để thấy được yếu tố bất hợp lý, yếu tố đột biến bất thường để từ đó xác định rủi ro về thuế do những nguyên nhân nào. Kết hợp với thông tin từ bên thứ ba để xác định lựa chọn những đơn vị nào có khả năng rủi ro về thuế cao nhất để đưa vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp. 3.2.1.4. Đổi mới bộ phận lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm: Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm dựa trên cơ sở phân tích rủi ro về thuế đối với người nộp thuế sẽ chiếm thời gian rất lớn. Muốn cho việc lập kế hoạch mang lại hiệu quả và đảm bảo đúng tiến độ, đòi hỏi bộ phận lập kế hoạch phải có đầy đủ hồ sơ khai thuế, dữ liệu về thuế của doanh nghiệp qua nhiều năm để phân tích, so sánh, đánh giá rủi ro. Hiện nay, hồ sơ về thuế của doanh nghiệp bao gồm tờ khai thuế GTGT hàng tháng, bảng kê thuế GTGT đầu vào, đầu ra, tờ khai quyết toán thuế TNDN năm, thuế tài nguyên, thuế TTĐB v.v.., số liệu sau khi nhập tại phòng kê khai thì hồ sơ doanh nghiệp được lưu giữ tại phòng kê khai, vì vậy bộ phận thanh tra không có đủ hồ sơ, dữ liệu để tiến hành phân tích rủi ro về thuế của doanh nghiệp, khi cần phân tích phải mượn hồ sơ thuế. - 73 - Như vậy, để tiện cho việc phân tích đánh giá, đỡ hao phí cho việc nhập dữ liệu nhiều lần cho trên một doanh nghiệp, về lâu dài nên thay đổi bộ phận đánh giá phân tích rủi ro về thuế thay vì phòng thanh tra doanh nghiệp thực hiện như hiện nay thì hồ sơ của doanh nghiệp được phân tích ở Phòng kê khai & kiểm tra hồ sơ thuế tại cơ quan thuế. Việc này vừa tiết kiệm thời gian, vừa đảm bảo chất lượng lập kế hoạch để phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp hiệu quả hơn. 3.2.1.5. Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp qua việc thực hiện kiểm tra người nộp thuế tại trụ sở cơ quan thuế: Qua thực tế công tác thanh tra, kiểm tra, chúng tôi nhận thấy không nhất thiết phải thanh tra, kiểm tra thuế tại trụ sở doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp hoạt động với quy mô rất nhỏ, các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, báo sổ, các đơn vị hoạt động vãng lai, hoặc chỉ những vấn đề nghi vấn trên hồ sơ thuế qua phân tích rủi ro thuế: như kê khai sai chỉ tiêu, xác định miễn giảm thuế không đúng quy định, số liệu trên báo cáo quyết toán thuế không khớp với số liệu trên báo cáo tài chính, hoặc kiểm tra việc sử dụng, ghi chép hoá đơn có đúng theo quy định thì chỉ cần thông báo những nội dung nghi vấn để doanh nghiệp giải trình hoặc điều chỉnh sai sót. Nếu người nộp thuế không giải trình, hoặc không điều chỉnh thì mời đến trụ sở cơ quan thuế để kiểm tra và xử lý vi phạm nếu có. Việc kiểm tra người nộp thuế tại trụ sở cơ quan thuế là một cách làm mới, làm giảm chi phí của ngành thuế cũng như doanh nghiệp, cần có thay đổi trong suy nghĩ, nhận thức đối với người làm công tác thanh tra, kiểm tra thuế: kiểm tra không nhất thiết phải tiến hành tại trụ sở của ĐTNT, muốn thực hiện được điều này đòi hỏi nhiều vào sự quyết tâm của Ban lãnh đạo Cục thuế và sự ủng hộ của tập thể cán bộ công chức ngành thuế. Việc kiểm tra thuế người nộp thuế tại cơ quan thuế là việc tiếp xúc trực tiếp với người nộp thuế mà công chức thuế phải thực hiện trong quá trình tập hợp và phân tích rủi ro các thông tin chuyên sâu, nhằm kiểm tra tính xác thực đối với các hồ sơ, thông - 74 - tin, các nghi vấn về DN, đề xuất kiến nghị và giải pháp xử lý đối với những nội dung đã được làm rõ (yêu cầu DN thực hiện điều chỉnh theo qui định của các Luật thuế). Chúng tôi đề xuất quy trình kiểm tra người nộp thuế tại cơ quan thuế mà công chức kiểm tra thuế phải thực hiện như sau, công việc kiểm tra doanh nghiệp tại cơ quan thuế do Phòng Kê khai & kiểm tra hồ sơ thuế tại cơ quan thuế thực hiện: 1. Bước 1. Chuẩn bị nội dung làm việc với đơn vị được kiểm tra 1.1. Công chức thuế chuẩn bị đầy đủ những thông tin liên quan để lập hồ sơ người nộp thuế được kiểm tra, lập danh mục hồ sơ, chứng từ tài liệu dự kiến yêu cầu người nộp thuế được kiểm tra cung cấp. Dự kiến câu hỏi, các tình huống có thể xẩy ra và các thông tin, tài liệu cần thu thập thêm. 1.2. Trình Trưởng phòng về kết quả chuẩn bị nội dung làm việc, dự kiến kết quả kiểm tra và bố trí thời gian làm việc với người nộp thuế được kiểm tra. 2. Bước 2. Mời người nộp thuế được kiểm tra đến làm việc tại trụ sở 2.1. Trình Cục trưởng ký giấy mời người nộp thuế được kiểm tra đến làm việc tại trụ sở cơ quan thuế. 2.1.1. Giấy mời cần nêu rõ nội dung cần giải trình và các loại hồ sơ chứng từ mà người nộp thuế được kiểm tra cần cung cấp. 2.1.2.Gửi giấy mời cho người nộp thuế được kiểm tra bằng đường bưu chính hoặc công chức thuế chuyển trực tiếp cho người nộp thuế được kiểm tra. 2.2. Người nộp thuế được kiểm tra có thể lựa chọn và thực hiện các hình thức giải trình sau: 2.2.2. Gửi văn bản kèm tài liệu chứng minh, giải trình theo đường bưu chính hoặc; 2.2.3. Đến trụ sở cơ quan thuế xuất trình hồ sơ, chứng từ để giải trình hoặc; - 75 - 2.2.4. Mời cơ quan thuế (bằng văn bản) đến trụ sở của mình để giải trình. Trường hợp này phải được sự đồng ý, chấp thuận của Cục trưởng. 2.3. Kiểm tra lại kết quả tự kiểm tra của người nộp thuế được kiểm tra: 2.3.1. Sau khi nhận được giấy mời của cơ quan thuế và trong thời gian quy định, người nộp thuế được kiểm tra tự kiểm tra, rà soát đối với các chỉ tiêu kê khai trong hồ sơ khai thuế và phát hiện có sai sót, tự giác thông báo cho cơ quan thuế những sai sót về nội dung khai thuế, tính thuế, nộp thuế. 2.3.2. Đội kiểm tra phải kiểm tra lại những sai sót người nộp thuế được kiểm tra đã tự phát hiện, tự khắc phục hậu quả và trình Cục trưởng quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận cách thức và kết quả tự khắc phục hậu quả của người nộp thuế được kiểm tra. Không xử phạt trường hợp này. 3. Bước 3. Làm việc với người nộp thuế được kiểm tra 3.1. Đối chiếu hồ sơ, tài liệu và chứng từ: 3.1.1. Giới thiệu thành phần công chức kiểm tra, lý do và nội dung chính cần làm việc và kiểm tra văn bản, giấy tờ chứng minh quyền của cá nhân đại diện hợp pháp của người nộp thuế được kiểm tra theo quy định pháp luật. 3.1.2. Yêu cầu người nộp thuế được kiểm tra xuất trình hồ sơ, tài liệu cần kiểm tra và trả lời các câu hỏi của cơ quan thuế. 3.1.3. Thực hiện các nội dung, phương pháp kiểm tra 3.2. Thực hiện các bước tiếp theo như xác minh tại các tổ chức cá nhân liên quan. 4. Bước 4. Kết luận kiểm tra 4.1. Trên cơ sở kết quả kiểm tra nêu tại bước 3, Đội trưởng kiểm tra hồ sơ khai thuế đề xuất để Cục trưởng ký "Biên bản kết luận kiểm tra". - 76 - 4.2. Biên bản kết luận phải có chữ ký của đại diện đủ thẩm quyền, hợp pháp của đơn vị được kiểm tra và Cục trưởng. Đơn vị được kiểm tra có quyền ghi ý kiến của mình vào biên bản kết luận, đây là ý kiến để cơ quan thuế tham khảo khi xử lý kết quả kiểm tra. 5. Bước 5. Xử lý kết quả kiểm tra 5.1. Trường hợp người nộp thuế được kiểm tra chấp nhận sai phạm thì yêu cầu chấn chỉnh kịp thời, khắc phục hậu quả, cập nhật thông tin vào hệ thống cơ sở dữ liệu và chuyển hồ sơ sang bộ phận lưu trữ. 5.2. Trường hợp người nộp thuế được kiểm tra không giải trình, hoặc có giải trình với nội dung không chấp nhận sai phạm nhưng không nêu được căn cứ thuyết phục thì Đội trưởng báo cáo Trưởng phòng, Cục trưởng để chuyển hồ sơ qua Phòng thanh tra, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế lên kế hoạch thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp 3.2.1.6. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ mới vào thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế TKTN: Nâng cao trình độ tin học cho cán bộ thanh tra nhằm đáp ứng yêu cầu phân tích thông tin, đánh giá độ rủi ro về thuế của doanh nghiệp như: Thu nhập và xử lý thông tin đầu vào: trước mắt là cơ sở dữ liệu từ báo cáo tài chính doanh nghiệp, từ hồ sơ khai thuế theo tháng như thuế GTGT, tài nguyên, TTĐB và các sắc thuế khác của năm phân tích. Khai thác thông tin trên mạng Internet liên quan đến ngành nghề hoạt động, giá cả mặt hàng, thị trường mua bán… Phương pháp ban đầu các rủi ro: trước mắt do cán bộ phân tích làm việc với doanh nghiệp qua việc yêu cầu giải trình tại cơ quan thuế. Để đáp ứng được yêu cầu trên, đòi hỏi cán bộ thanh tra ngoài trình độ nghiệp vụ phải bổ sung kiến thức tin học, ngoại ngữ đạt trình độ B. - 77 - 3.2.1.7. Xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế TKTN: Đáp ứng yêu cầu thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế TKTN, cùng với việc đổi mới mô hình chức năng tại Cục thuế tỉnh Phú Yên, do vậy lực lượng cán bộ thanh tra, kiểm tra phải tăng lên từ 25% đến 30% biên chế toàn ngành. Phòng làm việc cũng phải tăng theo tương ứng về số lượng. Công việc thanh tra dựa trên phân tích mức độ rủi ro về thuế nên cần trang bị đầy đủ máy móc phục vụ cho công tác phân tích, phấn đấu thời gian đến mỗi cán bộ thanh tra, kiểm tra đều được trang bị máy vi tính, trang bị phần mềm phân tích để đảm bảo công việc được nhanh và chính xác. Việc kiểm tra được tiến hành tại cơ quan thuế nên phải trang bị thêm phòng tiếp đối tượng kiểm tra, tủ đựng hồ sơ do đối tượng kiểm tra cung cấp, bàn làm việc của cán bộ thanh tra… 3.2.2. Giải pháp đối với người nộp thuế: 3.2.2.1. Giải pháp đối với các doanh nghiệp là đối tượng nộp thuế: Với chủ trương của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế ngoài quốc doanh, chính sách pháp luật thuế cũng đã được sửa đổi bổ sung theo hướng tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tăng ưu đãi đầu tư, giảm thuế suất…sẽ tạo ra nhiều cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp tăng tích lũy, mở rộng quy mô kinh doanh, tạo ra nhiều lợi nhuận, góp phần thực hiện tốt nghĩa vụ cho NSNN. Do đó ngành thuế cần có những giải pháp đối với doanh nghiệp như sau: Thứ nhất: Phân cấp quản lý doanh nghiệp cho phù hợp với đặc điểm, ngành nghề, trình độ hạch toán, ý thức tuân thủ pháp luật thuế. (Một): Đối với doanh nghiệp mới thành lập nên có một hệ thống tiêu thức thống nhất để phân cấp quản lý ngay từ khi đăng ký mã số thuế. (Hai): Đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn (về vốn); các doanh nghiệp có các chi nhánh liên tỉnh, liên huyện; các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu thường xuyên phát sinh hoàn thuế nên giao cho Cục thuế quản lý để tiện cho việc đối chiếu so sánh, phân tích rủi ro, phát hiện kịp thời hành vi gian lận của ĐTNT. - 78 - (Ba): Đối với các dịch vụ đầu ra thuộc diện lập bảng kê như kinh doanh ăn uống, bán lẻ, các doanh nghiệp thường hay bị ấn định thuế thì nên giao cho cấp Chi Cục thuế theo dõi quản lý, thuận tiện trong công tác quản lý doanh số của hộ kinh doanh nộp thuế khoán, hạn chế được thất thu thuế. Thứ hai: Phân loại đối tượng thanh tra, kiểm tra (Một): Cần phân loại ĐTNT thành hai nhóm chính: * Nhóm ĐTNT cố ý sai phạm để trốn thuế: Cần tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm minh. Thậm chí việc thanh tra đối với những đối tượng này phải làm hàng năm, hàng quý, có cơ chế giám sát đặc biệt với những đối tượng này cho tới khi chấp hành tốt pháp luật thì mới giảm bớt thanh tra. Đồng thời, cần chú trọng thanh tra các ĐTNT có khả năng trốn thuế lớn, có thể gây hậu quả nghiêm trọng, gây thất thu lớn cho NSNN như các trường hợp hoàn thuế GTGT lớn của những doanh nghiệp không có uy tín trong kinh doanh. *Nhóm ĐTNT sai sót vô tình, do không nắm hết chính sách pháp luật: Cần tăng cường hướng dẫn, tuyên truyền và phổ biến pháp luật, việc thanh tra chỉ cần thực hiện theo phương châm đột xuất. (Hai): Khuyến khích các doanh nghiệp tự in hóa đơn Hiện nay, hiện tượng doanhnghiệp thành lập để mua bán hóa đơn bất hợp pháp ngày càng gia tăng đã ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý của cơ quan thuế, mặt khác ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác. Vì vậy, ngành thuế phải tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp phát huy năng lực bằng cách khuyến khích doanh nghiệp tự in hóa đơn phục vụ cho việc kinh doanh, thường xuyên thông báo trên trang web danh sách ĐTNT bỏ trốn, ĐTNT mua bán hóa đơn bất hợp pháp, ĐTNT chậm nộp thuế kéo dài không khả năng thanh toán… để doanh nghiệp có sự chuẩn bị và hơn lúc nào hết doanh nghiệp cần phải biết tự bảo vệ mình, góp phần ngăn ngừa và phát hiện doanh nghiệp “ma” cùng với cá loại hóa đơn bất hợp pháp. - 79 - 3.2.2.2. Giải pháp đối với hộ kinh doanh cá thể: Đổi mới chính sách thuế đối với hộ kinh doanh cá thể theo hướng đơn giản, công khai, minh bạch nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh, đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các hộ kinh doanh và giữa hộ kinh doanh với các doanh nghiệp. Đến nay, luật thuế thu nhập cá nhân đã được Quốc hội thông qua, theo đó các hộ kinh doanh phải chuyển sang nộp thuế thu nhập cá nhân từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Để giúp cho hộ kinh doanh chấp hành, tuân thủ luật thuế mới, thời gian đến Cục thuế tỉnh Phú Yên cần có những giải pháp sau: - Tuyên truyền và tổ chức những lớp tập huấn về thuế thu nhập cá nhân riêng cho đối tượng hộ cá thể, mở nhiều lớp theo từng địa phương của Chi Cục thuế. - Tổ chức những lớp hướng dẫn về việc thực hiện sổ sách kế toán hộ. - Chỉ đạo các Chi Cục thuế thường xuyên kiểm tra, đối chiếu, xác minh việc ghi chép và sử dụng hóa đơn nhằm chống thất thu thuế ở lãnh vực này. 3.2.2.3. Giải pháp đối với cá nhân là người có thu nhập cao: Cùng với luật thuế thu nhập cá nhân đã ra đời, ngành thuế tập trung tuyên truyền các nội dung luật qua các phương tiện thông tin đại chúng, các lớp tập huấn, giới thiệu về luật thuế thu nhập cá nhân. Thời gian qua, đa số những người có thuế thu nhập cao còn chưa có ý thực tự giác kê khai nộp thuế do việc chế tài xử phạt chưa cao, do đó cơ quan thuế phải thực hiện xử phạt nghiêm minh, kể cả nếu phát sinh số thuế trốn lớn đủ mức tội phạm thì chuyển cơ quan công an để khởi tố, xử lý hình sự. Từ đó mới nâng cao được ý thức tự giác kê khai nộp thuế của người dân. 3.2.3. Giải pháp đối với các đối tượng trong nội bộ ngành thuế:Tăng cường kiểm tra việc thực hiện các nghiệp vụ quản lý theo quy định của nhà nước: (Một): Thực hiện xử phạt nghiêm minh (pháp chế trong lĩnh vực thuế): phòng kiểm tra nội bộ thuế hàng năm phải có kế hoạch kiểm tra lại các biên bản thanh tra, - 80 - kiểm tra của các Đoàn kiểm tra để kiểm tra việc thực hiện xử lý vi phạm về thuế có đúng và đầy đủ theo quy định. (Hai): Tăng cường công tác tuyên truyền chính sách thuế: * Nâng cao chất lượng và hình thức tuyên truyền chính sách thuế Tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế là một việc làm rất cần thiết nhằm giúp đối tượng nộp thuế hiểu rõ trách nhiệm của mình, tuyên truyền là một trong những biện pháp hữu hiệu làm giảm thất thu cho NSNN. Thời gian vừa qua công tác tuyên truyền đã có những đóng góp tích cực cho công tác quản lý thuế như phát hành tờ bướm tuyên truyền về Luật thuế, tuyên truyền chính sách thuế thông qua các lớp tập huấn, tham gia chương trình trả lời thư bạn đọc trên báo chí hay kênh truyền hình của tỉnh… Tuy nhiên, giải pháp tối ưu để quản lý thuế thành công là nên đưa Thuế vào học đường. Giáo dục cho trẻ nhỏ từ khi đến trường rằng việc nộp thuế là nghĩa vụ rất bình thường của người công dân. Và phải làm sao để bất cứ người công dân nào trong xã hội có hành vi trốn thuế đều nhận thấy rằng đó là tội lỗi, có vậy mới đảm bảo thực thi tốt pháp luật thuế. Chương trình tuyên truyền chính sách thuế thông qua kênh truyền hình cũng phải cải tiến sao cho có đông đảo quần chúng đón nhận, chẳng hạn như kịch vui có lồng ghép chủ đề về thuế, chính sách thuế; chương trình trả lời chính sách thuế có thưởng.. * Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra dịch vụ hỗ trợ ĐTNT Với mục đích giúp đỡ người nộp thuế, cơ quan thuế luôn cố gắng làm đúng nhưng không thể tránh khỏi những sai sót. Nếu như hỗ trợ sai, ĐTNT làm sai nhưng chứng minh được do cán bộ thuế hướng dẫn sai thì ĐTNT chỉ bị truy thu thuế mà không bị phạt thuế. - 81 - Để tránh trường hợp trên, khi nhận được khiếu nại của ĐTNT và xác định được việc hướng dẫn, xử lý vi phạm của cơ quan thuế là có sai sót thì đội xử lý khiếu nại sẽ yêu cầu bộ phận hỗ trợ tiến hành các bước cụ thể sau: (1). Xin lỗi, nếu lỗi về cách ứng xử; (2). Xin lỗi và hướng dẫn lại cho chính xác (nếu có sai sót); (3). Xin lỗi, hướng dẫn lại và tính trả lại tiền lãi cho ĐTNT nếu việc hướng dẫn hoặc xử lý vi phạm sai gây thiệt hại đối với người nộp thuế. (Bốn): Đổi mới việc tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo * Đổi mới cách thức giao tiếp với ĐTNT Ngành thuế nên bố trí các phòng tiếp dân ở vị trí thuận tiện để người dân có thể tiếp xúc với cơ quan thuế được dễ dàng khi có nhu cầu. Mở hộp thư, địa chỉ liên lạc bằng đường dây nóng để người dân có thể trình bày tâm tư khi không có điều kiện đến trực tiếp cơ quan thuế. Bố trí cán bộ có trình độ, năng lực, có phong cách ứng xử trong giao tiếp để tiếp xúc và trao đổi với ĐTNT. Giải quyết các sự việc nhanh và hiệu quả. 3.2.4. Giải pháp đối với quản lý vĩ mô: 3.2.4.1-Nghiên cứu hoàn thiện Luật thuế phù hợp với cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế: Thứ nhất: sớm ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra thuế thực hiện theo quy định của Luật quản lý thuế thay thế quy trình đã ban hành kèm theo Quyết định 1166/QĐ-TCT ngày 31/10/2005 của Tổng Cục thuế. Luật quản lý thuế được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 10, ngày 29/11/2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Đây là đạo luật đầu tiên thay thế cho tất cả các quy định quản lý thuế trước đây được nêu rải rác trong các văn bản pháp luật. - 82 - Thực hiện Luật quản lý thuế, ngành thuế chính thức thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế, đề cao vai trò người nộp thuế. Người nộp thuế tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của mình, cơ quan thuế chủ yếu thực hiện hai chức năng chính là tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế và chức năng thanh tra, kiểm tra thuế nhằm giám sát tuân thủ pháp luật thuế của người nộp. Thời gian qua các quy trình như tuyên truyền và hỗ trợ Người nộp thuế, quy trình hoàn thuế, quy trình quản lý nợ, quy trình kê khai đều đã được ban hành. Riêng công tác thanh tra, kiểm tra vẫn thực hiện theo quy trình cũ 1166/QĐ-TCT ngày 31/10/2005 của Tổng Cục thuế còn nhiều điểm chưa phù hợp với luật quản lý thuế. Do đó, Tổng cục thuế cần sớm ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra mới theo cơ chế tự khai, tự nộp. Thứ hai: Mở rộng phạm vi áp dụng thuế GTGT Theo quy định của Luật thuế GTGT hiện hành ở Việt Nam, phạm vi áp dụng thuế GTGT bao gồm các đối tượng thuộc diện chịu thuế, các đối tượng không thuộc diện chịu thuế và các đối tượng nộp thuế GTGT. Quy định của luật thuế có quá nhiều đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT (bao gồm 29 nhóm hàng hóa, dịch vụ). Nguyên nhân là do hệ thống chính sách thuế vừa nhằm mục tiêu đảm bảo nguồn thu cho NSNN, vừa thực hiện các chính sách kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ, vừa thực hiện chính sách xã hội, làm cho chính sách thuế trở nên phức tạp. Theo quy định của Luật thuế, đối tượng nộp thuế GTGT là tất cả các cơ sở kinh doanh có hoạt động cung ứng hàng hóa, dịch vụ và người nhập khẩu hàng hóa đều là đối tượng nộp thuế GTGT, với các thuế suất tuỳ loại hàng hóa, dịch vụ là 0%, 5%, 10%. Riêng giữa nhóm thuế suất 5% và 10% dễ gây tâm lý bóp méo hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ hoạt động ở lĩnh vực có mức thuế thấp… Trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, việc cắt giảm mức thuế suất nhập khẩu theo các cam kết hội nhập sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách. - 83 - Vì vậy, thuế GTGT là sắc thuế chính để bảo vệ nguồn thu cho NSNN trong tương lai. Do đó đối với luật thuế GTGT để đảm bảo tính trung lập, công bằng và giảm bớt phiền hà trong công tác quản lý thuế nên thu hẹp đối tượng không thuộc diện chịu thuế và áp dụng ở hai mức thuế suất 10% và 0%. Thứ ba: Giảm mức thuế Thu nhập doanh nghiệp và thời gian chuyển lỗ: Về thuế TNDN: Giảm mức thuế phổ thông xuống còn 22%; chuyển các ưu đãi, miễn giảm thuế sang thực hiện các giải pháp tài chính khác (sẽ không ảnh hưởng đến giảm tổng thu) vì việc thực hiện miễn giảm sẽ làm ảnh hưởng cạnh tranh trên thương trường; làm lu mờ ý thức thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế; dẫn đến khó khăn phức tạp trong quản lý thu thuế, là mảnh đất màu mỡ phát sinh tiêu cực về phía doanh nghiệp lẫn cán bộ, công chức thuế; miễn giảm thuế là nhân tố đặc biệt quan trọng làm suy yếu công tác kế toán doanh nghiệp bởi lẽ trong thực tế các doanh nghiệp cho rằng mình được miễn, giảm thuế nên không quan tâm đến công tác kế toán, nên tính minh bạch và chính xác của số liệu kế toán không được đảm bảo. Bổ sung các quy định nhằm bao quát hết tất cả chi phí để tính thuế của doanh nghiệp cũng như loại bỏ những chi phí bất hợp lý, nhất là các khoản chi phí như tiền ăn ca, tiền lương, tiền công, và chi phí khác liên quan đến người lao động, chi phí tiêu hao nguyên vật liệu …là những khoản chi phí mà các doanh nghiệp hay vi phạm trong việc xác định, kê khai sai để trốn thuế. Rút ngắn thời gian cho phép chuyển lỗ từ 5 năm như hiện nay xuống còn 3 năm để buộc các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả nỗ lực phấn đấu và đồng thời giảm bớt áp lực cho công tác quản lý thuế. Bổ sung vào luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định về việc thanh toán qua ngân hàng đối với doanh thu từ mức 10 triệu trở lên. Thứ tư: Xử phạt vi phạm pháp luật về thuế Xử phạt hành chính về thuế nhằm đảm bảo cho các thủ tục hành chính thuế, nghĩa vụ thuế được thi hành nghiêm chỉnh.Các nguyên tắc xử phạt được quy định phù - 84 - hợp với pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, chúng tôi đề xuất cần sửa đổi một số quy định về xử phạt vi phạm về thuế như sau: - Sửa đổi Thông tư số 120/2002/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 30 tháng 12 năm 2002, Hướng dẫn thi hành Nghị định số 89/2002/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 7 tháng 11 năm 2002, về xử phạt trong lĩnh vực quản lý và sử dụng hoá đơn những điểm không phù hợp, bỏ quy định phạt hành vi vi phạm sử dụng hóa đơn dẫn đến trốn thuế vì như thế không phù hợp với Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, một hành vi chỉ bị xử phạt một lần. - Kiến nghị sửa đổi Luật quản lý thuế: Không phân biệt hành vi khai sai, trốn thuế mà gọi chung là trốn thuế vì người nộp thuế có thể khai sai để nhằm gian lận, trốn thuế (vì thực tế khó phân biệt được cố ý hay do lỗi không cố ý, nếu không cố ý thì đây được xem là tình tiết giảm nhẹ) nhưng nếu cơ quan thuế không kiểm tra, kiểm tra nhưng không phát hiện sai sót dẫn đến thất thu thuế. Để việc răn đe, phòng ngừa vi phạm phạm pháp luật về thuế chúng tôi kiến nghị sửa đổi việc phạt hành vi khai sai dẫn đến thiếu thuế phải nộp, tăng số thuế được hoàn, được miễn, giảm như hiện nay thành phạt trốn thuế với mức xử phạt 50% trên số thuế trốn thay vì xử phạt 10% và phạt chậm nộp như hiện nay. 3.2.4.2- Bổ sung chức năng cho ngành thuế tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế trong việc điều tra thuế: (Một): Bổ sung thẩm quyền điều tra về thuế cho cơ quan thuế Cơ quan thuế có thể thực hiện tốt chức năng điều tra về thuế vì có những thuận lợi sau: Cơ quan thuế trực tiếp quản lý các ĐTNT, có hệ thống dữ liệu về từng ĐTNT. lực lượng cơ quan thuế khá lớn, phân bổ ở khắp các địa bàn trong cả nước, do đó có điều kiện tổ chức phối hợp điều tra nhanh chóng. Thanh tra thuế có chuyên môn cao, nắm vững chính sách, pháp luật thuế, các thủ tục hành chính thuế, có trình độ tài chính - 85 - - kế toán, phân tích tài chính doanh nghiệp. Thông tin trên mạng của hệ thống thuế ngày càng hoàn chỉnh. Tuy nhiên, hiện nay cơ quan thuế không có chức năng điều tra, khởi tố tội trốn thuế như các nước đang áp dụng. Do đó, đã hạn chế việc ngăn chặn kịp thời các trường hợp cố ý trốn thuế với số thuế lớn hoặc có hành vi chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước thông qua việc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp. Vì vậy cần thiết phải bổ sung thẩm quyền của cơ quan thuế trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi trốn thuế là cần thiết để nâng cao hiệu lực trong quản lý thuế. (Hai): Ban hành thẻ thanh tra viên cho cán bộ thanh tra Để hệ thống thuế ngày càng hoàn thiện theo hướng đơn giản, dễ thực hiện, nâng cao tính tự giác của ĐTNT và tăng số thu trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, xin mượn lời của Wallschutzsky [4]như sau: Giữ cho Luật càng đơn giản càng tốt. Hãy hướng tới một cơ cấu thuế tổng hợp với rất ít các quy định về miễn giảm, khấu trừ, hoàn thuế. Không cố sử dụng hệ thống thuế để đạt quá nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội. Kiểm soát liên tục toàn bộ hệ thống. Tập trung vào các nhiệm vụ chủ yếu như thu thuế tại nguồn và mã số người nộp thuế. Không thu thập nhiều thông tin hơn khả năng xử lý. Tích cực khuyến khích việc duy trì hệ thống sổ sách kế toán tốt. Hãy hướng tới tự khai - nộp thuế. 3.2.5. Những giải pháp bổ trợ: Để công tác thanh tra, kiểm tra thuế ngày càng hoàn thiện theo cơ chế hành thu mới, bên cạnh những giải pháp từ cơ quan thuế, đối tượng nộp thuế, giải pháp từ chính sách vĩ mô của Nhà nước còn phải kể đến những giải pháp khác nhằm hỗ trợ tốt cho công tác thanh tra, kiểm tra trên địa bàn tỉnh Phú Yên như: 3.2.5.1. Kiện toàn chính sách khen thưởng và kỷ luật thích đáng: Khen thưởng và kỷ luật đối với công chức cũng như khen thưởng và kỷ luật người lao động nói chung là những hình thức rất cần thiết, tạo điều kiện cho mọi người - 86 - làm việc tốt hơn. Nếu thiếu các hình thức khen thưởng và kỷ luật thoả đáng thì đánh giá công chức hàng năm không có ý nghĩa, mang tính hình thức. Thứ nhất: Đối với công chức ngành thuế (Một): Khen thưởng công chức: Khen thưởng là sự khẳng định việc hoàn thành tốt nghĩa vụ của công chức thông qua hiệu quả thực thi các công vụ cụ thể. Khen thưởng sẽ giúp cho công chức cũng như người sử dụng công chức có được những cơ hội để hiểu công chức hơn. Vì vậy, để động viên và nâng cao năng lực công chức cần phải: + Xây dựng một cơ chế khuyến khích động viên bằng vật chất, tinh thần kịp thời, thiết thực cho công chức thuế nói chung và công chức thanh tra nói riêng dưới các hình thức như: tôn vinh danh dự; vật chất và kết hợp tôn vinh danh dự và vật chất. + Đề cao và khen thưởng kịp thời các sáng kiến góp phần nâng cao hiệu quả quản lý thuế, đặc biệt là trong công tác thanh tra, kiểm tra thuế. (Hai): Kỷ luật công chức thuế: Công chức thuế gắn trực tiếp với quyền lực công, nguồn tài chính công và phải giải quyết các quyền, lợi ích, nghĩa vụ công dân, tổ chức nên họ thường có khả năng lạm dụng quyền lực khi thực thi công vụ. Khi công chức có sai phạm thì phải chịu kỷ luật công vụ. Tuy nhiên, ngoài các quy định kỷ luật cán bộ, công chức đã được nêu trong Pháp lệnh cán bộ, công chức, ngành thuế Phú Yên nên bổ sung thêm một số hình thức kỷ luật như sau: + Nghiêm cấm công chức thuế thu thuế trực tiếp. Bắt buộc ĐTNT nộp thuế thông qua hệ thống kho bạc, hạn chế tình trạng xâm tiêu tiền thuế. + Nghiêm cấm công chức thuế, vợ hoặc chồng làm dịch vụ kế toán, khai thuế cho doanh nghiệp thuộc lĩnh vực mình quản lý + Xây dựng quy chế xử phạt đối với từng hành vi cụ thể như: vi phạm đạo đức nghề nghiệp, vi phạm 10 điều kỷ luật ngành thuế, vi phạm pháp lệnh cán bộ công chức … - 87 - + Thành lập quỹ bồi thường của cơ quan thuế và cho công chức thanh tra bằng cách trích quỹ lương gửi tại Ngân hàng, nếu công chức thanh tra có vi phạm, bắt buộc phải bồi thường bằng tiền thì có thể trích từ tài khoản tiền gửi này. Trường hợp công chức thanh tra không có vi phạm, chuyển công tác khác sau 5 năm hoặc đến khi về hưu thì công chức thanh tra được lĩnh toàn bộ số tiền của mình và được cộng thêm số tiền tính theo lãi suất không kỳ hạn tính trên vốn cộng lãi. (Ba): Thực hiện luân phiên, luân chuyển công chức thanh tra theo từng vị trí công việc. Theo như hiện nay quy định luân chuyển đối với công chức thanh tra thuế là 3 năm. Nhưng theo chúng tôi là chưa hợp lý, vì phải luân chuyển công việc trong thời gian quá ngắn gây lãng phí nguồn nhân lực, tốn kém chi phí đào tạo cho công chức thanh tra mới, khi một người công chức thanh tra sau một thời gian đã có kinh nghiệm, thạo việc lại phải luân chuyển sang bộ phận, phòng ban khác mặc dù người ấy không vi phạm kỷ luật. Do đó, chỉ luân chuyển công chức thanh tra khi không hoàn thành tốt nhiệm vụ, có vi phạm kỷ luật ngành…để tạo tính chuyên nghiệp, chuyên sâu của đội ngũ thanh tra thuế. Thứ hai: Đối với Người nộp thuế (Một): Nên áp dụng một cơ chế khuyến khích tất cả người nộp thuế áp dụng chế độ sổ sách, chứng từ kế toán đầy đủ, nghiêm chỉnh. Cơ chế này được thiết lập bằng việc đưa ra chính sách ưu đãi nhất định đối với những daonh nghiệp, hộ kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ sổ sách, hoá đơn chứng từ . Còn đối với người nộp thuế cố ý không thực hiện chế độ sổ sách, chứng từ đầy đủ thì phải có biện pháp ấn định thông qua khảo sát. (Hai): Có cơ chế khen thưởng đối với công dân có công trong công tác chống trốn lậu thuế, giúp cho cơ quan thuế phát hiện trốn thuế, gian lận về thuế để khuyến khích đáng kể các tập thể và cá nhân tham gia chống trốn lậu thuế. Cơ quan thuế phải có nguồn quỹ trích thưởng cho các cá nhân, tập thể đã giúp cho cơ quan thuế về thông tin để phát hiện khai man trốn thuế theo một tỷ lệ % trên số thuế truy thu. - 88 - 3.2.5.2. Xây dựng quy chế phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc kiểm tra việc đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp: Phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, với chính quyền địa phương làm tốt công tác hậu kiểm sau khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp mới thành lập nhằm ngăn chặn kịp thời những doanh nghiệp lợi dụng sự thông thoáng của Luật doanh nghiệp để kinh doanh bất hợp pháp. Kết luận chương III: Chương III trên cơ sở những định hướng và những nguyên nhân hạn chế luận văn đưa ra 5 nhóm giải pháp đảm bảo thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế TKTN trên địa bàn tỉnh Phú Yên góp phần phát triển kinh tế xã hội bao gồm: Giải pháp đối với Cục thuế tỉnh Phú Yên: kiện toàn tổ chức bộ máy thanh tra của Cục thuế; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đổi mới công tác lập kế hoạch; đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ mới vào kiểm tra, thanh tra; xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo thực hiện tốt thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế TKTN. Giải pháp đối với người nộp thuế; giải pháp đối với các đối tượng trong nội bộ ngành thuế; những giải pháp vĩ mô và những giải pháp bổ trợ khác. Luận văn trình bày những kiến nghị nhằm thực hiện hữu hiệu các giải pháp. - 89 - KẾT LUẬN Căn cứ vào những mục tiêu, mục đích đề ra, luận văn đã đạt được những kết quả chủ yếu sau: Một: Góp phần làm rõ lý luận về cơ chế tự khai tự nộp thuế, về khái niệm thanh tra, kiểm tra thuế và khẳng định sự cần thiết khách quan của việc hoàn thiện thanh tra, kiểm tra theo cơ chế TKTN trên địa bàn tỉnh Phú Yên theo xu thế chung. Hai: Luận văn nghiên cứu thực trạng, rút ra những thành tựu và những nguyên nhân hạn chế đối với công tác thanh tra, kiểm tra thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên thời gian qua: Nguyên nhân từ tổ chức bộ máy thanh tra của Cục thuế; nguyên nhân từ người nộp thuế, nguyên nhân từ các đối tượng trong nội bộ ngành thuế; nguyên nhân từ chính sách vĩ mô của Nhà nước và các nguyên nhân khác. Ba: Luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm chung từ công tác thanh tra, kiểm tra thuế của một số nước trên Thế giới có giá trị tham khảo đối với Việt Nam. Bốn: Trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh và từ những nguyên nhân hạn chế đối với đổi mới thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế TKTN, luận văn đề xuất 5 nhóm giải pháp đảm bảo hoàn thiện thanh tra, kiểm tra theo cơ chế TKTN là: Giải pháp đối với Cục thuế tỉnh; giải pháp đối với người nộp thuế; giải pháp đối với đối tượng trong nội bộ ngành thuế; giải pháp đối với quản lý vĩ mô và các giải pháp bỗ trợ nhằm thực hiện tốt quá trình hoàn thiện thanh tra, kiểm tra thuế theo cơ chế TKTN thuế trên địa bàn tỉnh Phú Yên góp phần phát triển kinh tế, xã hội tỉnh. Tuy đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện luận văn song khó tránh khỏi những hạn chế nhất định, chúng tôi mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và những người quan tâm đến nội dung nghiên cứu của đề tài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_thanh_tra_kiem_tra_thue_theo_co_che_tu_khai_tu_nop_thue_tren_dia_ban_tinh_phu_yen.pdf
Tài liệu liên quan