Luận văn Hoạt động xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 1995 đến 2010

Liên Minh Châu Âu (EU ) là một trung tâm kinh tế , chính trị, văn hóa và khoa học –công nghệ hùng mạnh vào bậc nhất thế giới , đồng thời là một thị trường rộng lớn, phát triển ở trình độ cao. Từ lâu Việt Nam đã xác định EU là một đối tác quan trọng và thị trường EU là một thị trường chủ yếu của mặt hàng giày dép xuất khẩu . Sau khi Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao, ký Hiệp định Hợp tác và hợp đồng buôn bán với EU , quan hệ thương mại song phương đã phát triển mạnh. Để đẩy mạnh hơn nữa quan hệ kinh tế với EU , dặc biệt là hoạt động xuất khẩu giày dép Việt Nam vào thị trường này , Việt Nam cần phải nghiên cứu để nắm chắc đặc điểm và tính chất của thị trường EU , đặc biệt là về chính sách thương mại , các quy định về quản lý xuất khẩu –nhập khẩu , về thị hiếu và tập quán tiêu dùng , yêu cầu về mẫu mã giày dép , tính thời trang và chất lượng sản phẩm giày dép ,phải thấy hết được những thuận lợi và khó khăn khi thâm nhập vào thị trường này. Từ đó mà lựa chọn và định hướng đúng đắn các mặt hàng xuất khẩu vào từng thị trường cụ thể của khối này. Mặt khác cần có các giải pháp thích hợp và mạnh mẽ cả về phía Nhà nước và doanh nghiệp . Giải pháp của Nhà nước chủ yếu là mở đường , tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi, khuyến khích hỗ trợ mọi mặt cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường EU . Về phía các doanh nghiệp cần có các chính sách và giải pháp cụ thể phù hợp với từng doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng giày dép xuất khẩu và giành được khách hàng đối với các sản phẩm của mình. Thành công của việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường EU phụ thuộc vào cả hai phía Nhà nước và doanh nghiệp song chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp , Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1776 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 1995 đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tới thủ tiêu các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Hiện nay, Việt Nam là thành viên của tổ chức ASEAN - Hiệp hội các nước Đông Nam Á , Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á –Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM), và đang chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Sau khi trở thành thành viên của ASEAN (1995), Việt Nam lần lượt tham gia vào các cơ chế hợp tác kinh tế trong khuôn khổ tổ chức này, trong đó đặc biệt quan trọng là AFTA (từ tháng 1/1996), Hiệp định khung về dịch vụ (AFAS-từ 1997), Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA – tháng 10/1998) và sắp tới sẽ ký hiệp định khung về thông tin điện tử ASEAN (E-ASEAN ). Ngoài ra Việt Nam còn thực hiện việc cắt giảm thuế theo SEPT, ta đã triển khai thực hiện những bước đầu tiên của việc tháo gỡ các hàng rào phi thuế quan theo quy định của hiệp định CEPT; đặc biệt đã phối hợp vơí các nước ASEAN tiến hành hài hoà các biện pháp kỹ thuật, quản lý chất lượng hải quan, ký Hiệp định công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và đnáh giá phù hợp chuẩn bị thực hiện Hiệp định giá trị hải quan theo WTO, thực hiện hài hoà các thủ tục hải quan. Trong khuôn khổ APEC , hàng năm Việt Nam vẫn xây dựng chương trình hành động quốc gia trên tinh thần cắt giảm hàng rào phi thuế quan một cách tự nguyện. Việt Nam còn tham gia chương trình hành động tập thể , chương trình hợp tác kinh tế kỹ thuật và tham gia vào các nhóm công tác của APEC. Riêng với ASEM, Việt Nam chưa đưa ra cam kết cụ thể nào. Đối với WTO , kể từ khi nộp đơn xin gia nhập (năm 1995), Việt Nam đã tiến hành 10 phiên đàm phánvà hoàn thành về cơ bản quá trình minh bạch hoá chính sách .Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ làm tăng sự cọ xát giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp ASEAN ,APEC , ASEM, từ đó tạo cơ hội để các doanh nghiệp nước ta vươn lên và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế . 6. Nhà nước tiến hành hỗ trợ tối đa cho các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép Hội nhập là xu thế tất yếu của thời đại. Quá trình này diễn ra ở nhiều lĩnh vực và dưới nhiều hình thức- quốc tế hoá về thương mại , về vốn, về sản xuất ,và về hình thức dưới dạng tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế .Không nên coi công việc hôị nhập kinh tế quốc tế là công việc của Nhà nước , mà việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế còn cần quan trọng hơn là sự linh hoạt của các công ty, sự đa dạng các doanh nghiệp . Chính họ là đội quân xung kích của hội nhập quốc tế , quyết định thành công hay thất bại của hội nhập quốc tế . Nhà nước có thể hỗ trợ dưới dạng vĩ mô , tạo cho các doanh nghiệp có môi trường kinh doanh thuận lợi, họ có thể nâng cao khả năng của mình. Tuy nhiên , hỗ trợ không có nghĩ là thả nổi , để tránh lặp lại sai lầm của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua , Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ các nguồn tài trợ từ bên ngoài và nợ quốc gia ; khuyến khích tích luỹ nội bộ; duy trì tỷ giá hối đoái thực tế có sức cạnh tranh . IV.CÁC THẾ MẠNH CỦA VIỆT NAM KHI XUẤT KHẨU GIÀY DÉP SANG THỊ TRƯỜNG EU 1.Thế mạnh chung của hàng hoá Việt Nam EU là một thị trường lớn , sức tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có những khởi sắc về kinh tế trong thời kỳ từ nay đến 2010 nên việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU là một trong những trọng điẻm của chính sách thị trường xuất khẩu của Việt Nam . Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ , ngành xuất khẩu chủ đạo như da giầy đang có những chương trình cụ thể để phát triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu sang EU. Còn các doanh nghiệp là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của xuất khẩu cũng đang nỗ lực vươn lên để thâm nhập và đứng vững trên thị trường EU(cải tiến sản xuất : đẩy mạnh việc áp dụng tiêu chuẩn HACCP , ISO 14000 để nâng cao chất lượng sản phẩm , đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và môi trường ; phát huy tính năng động;…) .Giai đoạn 2000-2010 tuy không mấy thuận lợi , nhưng những cố gắng của Chính phủ và các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sang EU vẫn trên đà phát triển , quy mô buôn bán không ngừng gia tăng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có thể sẽ giảm xuống chút ít ( tăng 30%/năm ) so với thời kỳ 1995-1999 (tăng 36,6%/năm). Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ chuyển biến theo hướng tích cực : tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến lên 90% (có nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến sâu và tinh) và tăng tỷ lệ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nội địa. 2. Đối với mặt hàng giầy dép Hai mặt hàng giầy dép và dệt may sẽ có tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tăng lên và tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm tăng nhanh. Ngành da giầy nước ta có những yếu tố được coi lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực như: nguồn lao động giá rẻ , tay nghề khéo léo ,nắm bắt khá nhanh kỹ thuật công nghệ mới… CHƯƠNG BỐN: CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY MẶT HÀNG GIÀY DÉP CỦA VIỆT NAM VÀO EU GIAI ĐOẠN 2006-2010 I.CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NHÀ NƯỚC 1.Hoàn thiện tối đa hành lang pháp lý tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu giầy dép nói riêng 1.1.Những thay đổi trong luật thương mại Rà soát lại các hệ thống , bỏ những quy định khôg phù hợp với tình hình mới trong luật thương mại , luật đầu tư . Cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO, cần quy định cụ thể và chặt chẽ hơn cho mọi hoạt động thương mại phù hợp với xu hướng mở cửa thị trường và xu hướng hội nhậpn để khuyến khích sản xuất và xuất khẩu . Về luật đầu tư nước ngoài : (1) Cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại , dịch vụ ; (2) Cần mở cửa hơn, nhìn vào lâu dài hơn thì mới thu hút được đầu tư . Về luật khuyến khích đầu tư trong nước , cần quy định lại rõ hơn về ngành nghề khuyến khích đầu tư để khắc phục tình trạng không rõ ràng giữa “thay thế nhập khẩu” và “định hướng xuất khẩu”. Có lộ trình thống nhất hai luật đầu tư này thành một bộ luật chung về khuyến khích đầu tư . 1.2.Thay đổi căn bản phương thức xuất khẩu và nhập khẩu Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế quan “hợp lệ” như hàng rào kỹ thuật, hạn ngạch, thuế quan, thuế tuyệt đối , thuế mùa vụ, thuế chống bán phá giá , thuế chống trợ cấp. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách . Khắc phục triêt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ , cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng chú trọng bảo hộ giày dép . Sửa đổi biểu thuế và cải cách công tác thu thuế để giảm dần , tiến tới xóa bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu . Với phương thức quản lý nhập khẩu hợp lý, chúng ta có thể đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU, đặc biệt là công nghệ chế biến. 1.3.Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng có xóa bỏ các thủ tục phiền hà, và phấn đấu ổn định pháp lý để tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp , khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là cho chính sách thuế xuất nhập khẩu có định hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh . Giảm dần, tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm thời. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách ; áp dụng thí điểm mô hình liên kết 4 bên trong xây dựng các đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu (doanh nghiệp liên kết với các trường ,viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lý Nhà nước ). 1.4.Ký kết các Hiệp định thương mại với EU cần chi tiết hơn, cụ thể hơn, đầy đủ hơn. Hiệp định hợp tác Việt Nam –EU đã ký chỉ quy định chung chung về thương mại hàng hóa trong đó có mặt hàng giày dép . Sau khi có Hiệp định thương mại Việt-Mỹ , cả hai bên thấy cần phải có một Hiệp định chi tiết hơn không những về lĩnh vực thương mại hàng hóa mà còn về sở hữu trí tuệ, thương mại dịch vụ và đầu tư . Có nghĩa là hai bên cần phải ký Hiệp định thương mại Việt Nam –EU, tương tự như Hiệp định thương mại Việt-Mỹ. Việc thay đổi Hiệp định là cần thiết vì trong giai đoạn này chúng ta chắc chắn phải thương thảo với EU về việc gia nhập WTO, chính vì vậy cần phải có một Hiệp định mới ngang tầm trong đó những quy định chi tiết phải phù hợp với tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam . Chúng ta có thể đồng thời đàm phán Hiệp định với việc đàm phán gia nhập WTO. 2.Gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu Bấy lâu nay chúng ta chủ yếu nhập khẩu máy móc thiết bị của Châu Á , giá rẻ nhưng không lâu bền. Máy móc thiết bị tốt sẽ sản xuất ra hàng hóa chất lượng cao , cạnh tranh được trên thị trường . Trong buôn bán với EU, chúng ta xuất siêu khá lớn, chiếm 25,7% kim ngạch hai chiều, trị giá xuất siêu năm 2004 tăng hơn 5 lần so với năm 2001. Nếu chúng ta tăng cường nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU sẽ làm cân bằng cán cân thanh toán , phía EU sẽ không tìm cách cản trở giày dép xuất khẩu của ta ; đồng thời nhập khẩu công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất hàng giày dép xuất khẩu giúp nâng cao chất lượng đồ da giày xuất khẩu , nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nói chung , sang thị trường EU nói riêng, do đó mở rộng được thị trường xuất khẩu . Đây sẽ là một phương pháp hữu hiệu hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. 2.1.Nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU Nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU có thể được thực hiện bằng hai biện pháp sau đây: (1) đầu tư của Chính phủ ; (2) thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng giày dép xuất khẩu tại Việt Nam . Công nghệ nguồn của EU tiên tiến , hiện đại , chất lượng cao ,song giá lại quá cao so với khả năng thanh toán của các đối tác Việt Nam . Nên khi có nhu cầu đầu tư vào lĩnh vực nào đó doanh nghiệp Việt Nam thường nghĩ tới công nghệ của khu vực khác có giá thấp hơn mặc dù công nghệ kém hơn và trình độ thấp hơn. Vì vậy, có thể khẳng định rằng để nhập khẩu được công nghệ hiện đại từ EU chỉ có thể có hai biện pháp nêu trên. “ Đầu tư của Chính phủ” là biện pháp ưu việt để nhập khẩu được công nghệ hiện đại một cách nhanh nhất và theo đúng yêu cầu đặt ra . Nhưng đây không phải là biện pháp tối ưu đối với chúng ta hiện nay vì Việt Nam là một nước nghèo nên kinh phí dành cho đầu tư của Chính phủ còn rất hạn hẹp và chỉ ưu tiên cho những ngành trọng điểm của đất nước. Đó chính là mặt hạn chế của biện pháp này. 2.2. Thu hút các nhà đầu tư của EU vào Việt Nam “Thu hút các nhà đầu tư” EU tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam” là biện pháp tối ưu để Việt Nam nhập khẩu được công nghệ nguồn từ EU và sử dụng công nghệ này đạt hiệu quả cao trong điều kiện chúng ta rất thiếu vốn và trình độ hiểu biết còn hạn chế. Nếu đi vay tiền để nhập khẩu công nghệ thì chưa chắc các kỹ sư Việt Nam đã vận hành đạt kết quả như mong muốn, hơn nữa vay tiền thì phải có nguồn để trả. Còn ở đây vốn của phía EU góp (dây chuyền công nghệ , máy móc thiết bị lẻ…) sẽ trả bằng sản phẩm thu được từ quá trình sản xuất . Để thực hiện được biện pháp này , Nhà nước Việt Nam cần phải có những ưu đãi và quyền lợi mà họ sẽ được hưởng theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam như các nhà đầu tư thuộc các khu vực khác. Những ưu đãi này có thể là những ưu đãi về thuế nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU , thuế suất lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận. Các đối tác EU chỉ được hưởng những ưu đãi này nếu góp vốn bằng công nghệ hiện đại được chế tạo tai Liên Minh và đầu tư vào các lĩnh vực sau: ngành công nghiệp sản xuất các thiết bị điện , ngành điện tử ,viễn thông… Quyền lợi và trách nhiệm của các nhà đầu tư EU phải được quy định cụ thể và chi tiết trong các văn bản. Việt Nam đã tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN , và sắp tới sẽ tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO) , do vậy vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng da giầy và doanh nghiệp da giầy Việt Nam trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế là hết sức cấp thiết. “Đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU” có lẽ là một giải pháp hữu hiệu nhất đối với chúng ta lúc này để trang bị cho hàng hóa Việt Nam nói chung và giày dép nói riêng sức cạnh tranh quốc tế (tại thời điểm này Việt Nam đang rất thiếu vốn; năng lực và trình độ quản lý ,sản xuất còn thấp và hạn chế). Như chúng ta đều biết , các doanh nghiệp Việt Nam đã từng đáp ứng tôt nhu cầu khắt khe của thị trường EU , vì vậy, có thể tin tưởng rằng giày dép Việt Nam có thể chiếm lĩnh thị trường này nói riêng và thị trường trên toàn cầu nói chung với chất lượng cao , kiểu dáng phong phú , đa dạng và đáp ứng tốt các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường . Thực hiện biện pháp này ,Việt Nam vừa thu hút được công nghệ nguồn của EU lại vừa nâng cao tiêu chuẩn hóa chất lượng giày dép sang thị trường EU . Với sự góp mặt của các nhà đầu tư EU trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu , chắc chắn hàng giày dép Việt Nam sẽ đáp ứng các tiêu chuẩn ISO9000 và ISO14000. Hàng Việt Nam sẽ có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu khắt khe của thị trường EU về chất lượng ,vệ sinh, bảo vệ môi trường , kiểu dáng đẹp và chủng loại phong phú. Đồng thời ,sẽ đem lại thành công lớn cho xuất khẩu của Việt Nam sang EU và quá trình sản xuất được thực hiện dưới sự điều hành giám sát của các doanh nghiệp EU nên hàng Việt Nam sẽ được trang bị tính cạnh tranh quốc tế cao. Hiện nay ở Việt Nam có gần 900 doanh nghiệp có vốn đầu tư của EU . Nếu thực hiện biện pháp này thì số doanh nghiệp có vốn của EU tại Việt Nam sẽ tăng lên rất nhanh . Nếu thực hiện tốt giải pháp “đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU”, Việt Nam sẽ nhanh chóng cải thiện được chất lượng hàng giày dép và thay đổi nhanh cơ cấu hàng hóa xuất khẩu , không những thế còn tạo được công ăn việc làm và nâng cao tay nghề cho người lao động Việt Nam . Nếu thực hiện chính sách này một cách hiệu quả nó sẽ góp phần không nhỏ cho tiến trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước. 3.Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh mặt hàng giày dép của Việt Nam xuất khẩu sang EU đều có quy mô vừa và nhỏ , nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu không cao; vì thế đẩy mạnh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất xuất khẩu sang thị trường này , Nhà nước cần có sự hỗ trợ về vốn thông qua hệ thống ngân hàng . Để triển khai hoạt động hỗ trợ này , Nhà nước Việt Nam nên thực hiện các biện pháp sau đây: 3.1.Hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp , giải quyết được khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị . Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu , tạo điều kiện cho doanh nghiệp thâm nhập được thị trường EU –một thị trường có yêu cầu rất khắt khe về hàng hóa và kênh phân phối phức tạp trên thế giới . 3.2.Đảm bảo sự bình đẳng trong quan hệ tín dụng của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đảm bảo bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng ngân hàng trên cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế (hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực tư nhân không được lấy giá trị quyền sử dung đất đai để thế chấp khi vay vốn ) . Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng như các định chế tài chính. Đơn giản hóa thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. -Xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ , thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp kể cả các doanh nghiệp lớn với sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức quốc tế . 3.3. Mở rộng các cơ hội tiếp cận các nguồn vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhà nước cần thành lập Quỹ bão lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện bão lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không có đủ tài sản để thế chấp vay vốn . Quỹ được thành lập dưới hình thức là một tổ chức tài chính của Nhà nước , hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất ,kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả vay vốn theo phương thức tự vay tự trả. Thực hiện lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh giày dép xuất khẩu sang EU có hiệu quả , sản xuất sản phẩm mới hoặc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ mới. 3.4.Thông qua ngân hàng linh hoạt hạ lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU . Ngân hàng thực hiện chiết khấu các kỳ phiếu và hối phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mà bị thiếu vốn ( đặc biệt đối với các thị trường Free Quota, như EU ) . Nếu lãi suất chiết khấu hạ thì giá giày dép xuất khẩu cũng hạ, do đó khả năng cạnh tranh của giày dép Việt Nam tăng lên và chúng ta mở rộng được xuất khẩu . Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU tăng nhanh hàng năm, nhưng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam được thực hiện theo con đường xuất khẩu trực tiếp chỉ đạt khoảng 50% tổng kim ngạch . Ngoài nguyên nhân là các doanh nghiệp Việt Nam thiếu thông tin về thị trường và kênh phân phối phức tạp, nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng này là do các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu rất thiếu vốn để đầu tư , cải tiến ,mở rộng sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra nguồn hàng có khối lượng lớn, ổn định thỏa mãn nhu cầu của thị trường này. Do vậy, thực hiện “chính sách tín dụng” sẽ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư cho sản xuất để nâng cao chất lượng , đa dạng hóa sản phẩm và cải tiến mẫu mã hàng giày dép nhằm đạt được mục đích là tăng nhanh khối lượng giày dép xuất khẩu sang thị trường EU . 4.Đẩy mạnh công tác xúc tiến hoạt động xuất khẩu giày dép sang thị trường EU 4.1.Hỗ trợ của Nhà nước trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu giày dép sang EU Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép Việt Nam thâm nhập dễ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường EU , Nhà nước nên thực hiện một số hoạt động trợ giúp sau: -Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường EU thông qua việc đàm phán , ký kết các Hiệp định, thỏa thuận thương mại song phương và đa phương nhằm tạo ra các tiền đề , hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu giày dép . -Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường , trước hết là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam . Hiện nay , EU được coi là thị trường có mức bảo hộ cao nhất . Sự bảo hộ này dưới hai hình thức là thuế quan và phi thuế quan, đặc biệt là các biện pháp phi thuế quan ( rào cản kỹ thuật ) . Trong khi hàng Việt Nam đang rất khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường EU , Chính phủ nên tích cực và chủ động đề nghị Ủy ban Châu Âu mở rộng quy mô mậu dịch tự do và tạo điều kiện thuận lợi cho giày dép của ta vào thị trường này. Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường là một trong những biện pháp khá hiệu quả mà rất nhiều nước đang phát triển đã áp dụng thành công trong đàm phán với các nước phát triển để mở rộng thị trường xuất khẩu ở giai đoạn đầu thực hiện công nghệ hóa-hiện đại hóa, Thái Lan là một ví dụ. - Thành lập tổ tư vấn cấp cao của Bộ thương mại hai Chính phủ (Việt Nam và EU ) nhằm tìm hiểu những vấn đề pháp lý còn thiếu cho doanh nghiệp hai bên. Cập nhật thường xuyên thông tin về thị trường để thông báo cho doanh nghiệp . Điều chỉnh hoặc khắc phục những vướng mắc cho các doanh nghiệp trong khi thực hiện dịch vụ kinh doanh của mình. Giúp các doanh nghiệp tìm những đối tác trực tiếp và tin cậy lâu dài. -Nhà nước Việt Nam cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ , triển lãm hoặc hội thảo chuyên đề thị trường , giúp các doanh nghiệp trực tiếp tiếp cận thị trường , trực tiếp tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của thị trường và trực tiếp giao dịch với các nhà nhập khẩu chính của thị trường EU . - Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến và tiếp cận thị trường . Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay gặp rất nhiều kho khăn trong việc tìm đối tác EU , nhất là những đối tác đáng tin cậy. Do vậy, cần thiết phải nâng cao vai trò của các thương vụ trong việc xúc tiến thương mại , tìm các đối tác , ngân hàng tin cậy cho doanh nghiệp trong nước. Ngoài ra , do điều kiện đi lại xa xôi, chi phí tốn kém nên vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu thị trường cũng như những thay đổi trên thị trường diễn ra rất bị hạn chế. Thương vụ phải thường xuyên thông báo về Bộ Thương mại từng diễn biến trên thị trường: những thay đổi về hệ thống pháp luật , quy chế nhập khẩu , thuế quan , tỷ giá, lạm phát, xu hướng thương mại …đến những diễn biến cụ thể như dự báo cung, cầu, giá cả , vấn đề cạnh tranh , thị hiếu , kênh phân phối , cách tiếp cận thị trường …Tất cả những việc làm trên phải được Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí chứ không nên để doanh nghiệp chịu tất cả. Bộ thương mại phải yêu cầu các thương vụ giúp đỡ tích cực cho các doanh nghiệp , khi đi nghiên cứu, khảo sát thị trường tại EU để công việc triển khai có hiệu quả , tránh chi phí tốn kém. Chi phí đi lại và nghiên cứu thị trường của một số doanh nghiệp xuất khẩu giày dép phải được Chính phủ hỗ trợ một phần vì doanh nghiệp nước ta còn nghèo, trong khi các doanh nghiệp nước khác hơn hẳn ta mà vẫn được Chính phủ hỗ trợ cho việc xúc tiến và tiếp cận thị trường , như Trung Quốc và Thái Lan. -Cho phép thành lập môt trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam tại EU để hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp . Việc làm này có thể thu hút được các doanh nghiệp và cộng đồng người Việt Nam thuê diện tích tại trung tâm để giới thiệu sản phẩm , bán hàng, giao dịch mua hàng của EU , tạo đầu mối, xúc tiến cho các doanh nghiệp trong nước triển khai quan hệ buôn bán với các bạn hàng EU . -Mở rộng hình thức chợ xúc tiến xuất khẩu đối với mặt hàng giày dép xuất khẩu . Chợ xúc tiến xuất khẩu là nơi mua bán các loại giày dép xuất khẩu ; có sự tham gia của các nhà kinh doanh , ngân hàng ,các công ty giao nhận, các hãng bảo hiểm, các cơ quan giám định. Hàng ngày , chợ cung cấp thông tin miễn phí về giá cả , sản lượng giày dép trên thế giới . Tại đây còn được xem truyền hình trực tiếp thị trường mua bán giày dép ở Mỹ , Anh, Pháp, Italia. Chợ còn các thông tin bằng máy fax, và email theo yêu cầu . -Đẩy mạnh công tác trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức xuất khẩu , tỷ giá khuyến khích đối với ngoại tệ thu được nhờ xuất khẩu , hoặc gián tiếp dùng Ngân sách Nhà nước tuyên truyền xúc tiến thương mại . Mở rộng trợ cấp đối với mặt hàng giày dép . 4.2. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép sang thị trường EU Ngoài việc chú trọng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa , các doanh nghiệp xuất khẩu của ta phải nâng cao năng lực tiếp thị, tích cực thực hiện các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường EU : (1) Chủ động tìm kiếm đối tác , chào hàng thông qua việc tham gia các hội chợ , triển lãm và hội thảo chuyên đề được tổ chức tại Việt Nam hoặc EU , qua tham tán thương mại tại các nước thành viên EU và qua văn phòng EU tại Việt Nam ; (2) Tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU trực tiếp hoặc thông qua Phòng thương mại EU tại Việt Nam ( sẽ mở vào cuối năm 2000), Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam , Cục xúc tiến thương mại –Bộ thương mại , tham tán thương mại các nước thành viên EU , Tham tán thương mại Việt Nam tại các nước EU , Trung tâm thông tin thương mại –Bộ thương mại và qua tài liệu để biết được chính sách kinh tế và thương mại của EU , quy chế nhập khẩu của EU , nhu cầu thị hiếu về giày dép và những mặt hàng xuất khẩu nào của Việt Nam sang thị trường này sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao tại từng thời điểm. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải dành một khoản chi phí nhất định để thuê một diện tích nhỏ tại Trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam tại EU ( nếu Nhà nước Việt Nam thành lập Trung tâm này ) để làm nơi giao dịch tìm kiếm bạn hàng , trưng bày và giới thiệu sản phẩm , tìm hiểu và nghiên cứu thị trường EU tại hiện trường. Việc đầu tư này là rất cần thiết để giúp cho các doanh nghiệp có được thông tin chính xác về thị trường và bạn hàng . Do đó họ có thể sản xuất và xuất khẩu sang EU mặt hàng giày dép , hay nói cách khác là họ có thể đáp tốt nhất nhu cầu thị hiếu về giày dép của thị trường EU tại các thời điểm trong năm. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nghiên cứu ứng dụng các nghiệp vụ marketing để phát hiện những mặt hàng mới có khả năng tiêu thụ ở thị trường EU . Tăng cường đầu tư vốn và công nghệ hiện đại vào quá trình sản xuất để cho ra đời các sản phẩm đó thực hiện những hoạt động khuyêch trương cần thiết giúp cho mặt hàng giày dép tìm được chỗ đứng , duy trì và phát triển trên thị trường này (có chiến lược quảng cáo , marketing ). Tổ chức các hoạt động trước và sau khi bán hàng (cung cấp dịch vụ sau bán hàng để duy trì , củng cố uy tín của giày dép Việt Nam đối với người tiêu dùng EU ). 5.Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xuất khẩu giày dép 5.1.Về phía Nhà nước Nhà nước cần chú trọng tổ chức chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các công ty thương mại có tham gia vào mậu dịch quốc tế . Cần có chính sách và chế độ bồi dưỡng , đào tạo , đào tạo lại và tuyển chọn cán bộ thương mại một cách chặt chẽ nghiêm túc cả về phẩm chất đạo đức , năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ. Hàng năm, Nhà nước nên cử cán bộ sang học tập , nghiên cứu tại EU . Mặc dù trong giao dịch quốc tế hiện nay tiếng Anh được sử dụng khá phổ biến , nhưng chúng ta cũng cần có nhiều cán bộ thương mại giỏi cả tiếng Pháp , Đức , Bồ Đào Nha , Tây Ban Nha… và am hiểu cả về văn hóa của từng dân tộc. Có như vậy sẽ thuận lợi rất nhiều cho phía Việt Nam trong việc đàm phán , ký kết hợp đồng xuất khẩu , hợp tác kinh doanh , liên doanh với các bạn hàng EU nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU phát triển không ngừng. Bên cạnh nâng cao trình độ của cán bộ thương mại , Nhà nước cần phải tăng cường tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật . Chúng ta đang thiếu cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề trầm trọng. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật của ta trình độ không đồng đều và tiếp thu công nghệ mới còn chậm. Trong số này chỉ có một số cán bộ được đào tạo ở nước ngoài thì tay nghề cao. Nhiều cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật được đào tạo ở trong nước cũng rất có triển vọng phát triển cần phải được đào tạo nâng cao để phục vụ tiến trình công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước. Còn những cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có trình độ yếu cần phải được đào tạo lại để Việt Nam có được một đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật giỏi có trình độ cao, đồng đều. Cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao , đáp ứng tốt thị hiếu của người tiêu dùng và thỏa mãn các tiêu chuẩn về chất lượng , và bảo vệ môi trường của EU . Đồng thời , để đưa giày dép Việt Nam đến tận người tiêu dùng EU thì cần một đội ngũ cán bộ thương mại giỏi . Chính vì thế có thể khẳng định rằng nâng cao năng lực cán bộ kỹ thuật , công nhân kỹ thuật và cán bộ thương mại là một nhân tố góp phần không nhỏ trong việc tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường EU . Nhà nước cũng cần tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo nhằm nâng cao kiến thức kinh doanh và trình độ quản lý cho đội ngũ các nhà quản lý và chỉ đạo kinh doanh của các doanh nghiệp chuyên xuất khẩu hàng sang EU . Mở các khóa thuyết trình giới thiệu các thông tin mới nhất về chế độ, chính sách , thể lệ , liên quan đến kinh doanh thương mại cũng như các hướng dẫn về nghiệp vụ như : marketing, vận tải bao bì , bảo hiểm xuất khẩu , kỹ thuật đàm phán. Tổ chức các hội nghị , hội thảo với phía Liên Minh Châu Âu để trao đổi học tập kim nghiệm với giới kinh doanh của EU . 5.2.Về phía các doanh nghiệp Các doanh nghiệp phải chú trọng công tác đào tạo để nâng cao năng lực cán bộ và công nhân kỹ thuật vì họ là nhân tố quan trọng và không thể thiếu được trong việc nâng cao sức cạnh tranh của giày dép trên thị trường EU . Các doanh nghiệp phải luôn luôn nâng cao trình độ cán bộ và công nhân kỹ thuật , phát huy tính sáng tạo, năng động, nhạy bén, học hỏi… Từng doanh nghiệp phải dành một khoản chi phí nhất định cho hoạt động này và phải biết tận dụng các chương trình đào tạo cán bộ , công nhân kỹ thuật của Chính phủ để cử cán bộ mình tham gia . Các doanh nghiệp phải quan tâm đến đào tạo cán bộ quản lý ,cán bộ kỹ thuật , cán bộ thương mại và công nhân kỹ thuật , không những đào tạo lại đối với những cán bộ và công nhân kỹ thuật đã qua đào tạo nhưng trình độ còn hạn chế mà còn phải đào tạo chuyên sâu cho những cán bộ và công nhân kỹ thuật trẻ có năng lực để có một đội ngũ cán bộ giỏi và công nhân kỹ thuật lành nghề . Đối với cán bộ thương mại , các doanh nghiệp phải nâng cao cả trình độ ngoại ngữ vì ngoại ngữ kém sẽ rất khó thành công trong đàm phán và thường bị ở thế yếu trong giao dịch kinh doanh . Các doanh nghiệp phải thường xuyên (có định kỳ cụ thể ) kiểm tra trình độ cán bộ và công nhân kỹ thuật của mình để có những phương hướng đào tạo thích hợp: Đối với những cán bộ và công nhân kỹ thuật có năng lực còn hạn chế thì phải đào tạo lại, đối với những cán bộ và công nhân kỹ thuật trẻ có năng lực thì phải đào tạo chuyên sâu… Ngoài việc tự lo kinh phí đào tạo , các doanh nghiệp cần phải tăng cường xin hỗ trợ từ Chính phủ và xin tài trợ từ các tổ chức quốc tế và khu vực . 5.3.Quy hoạch về các vùng sản xuất nguyên phụ liệu Để tạo điều kiện cho ngành da giầy trong việc tổ chức hệ thống sản xuất liên hoàn từ khâu cung ứng nguyên phụ liệu đến các vùng sản xuất giày dép tập trung , đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu cho sản xuất giày dép , hạn chế nhập khẩu , nâng cao chất lượng sản phẩm , đáp ứng nhu cầu thị trường . Để tận dụng lao động có tay nghề từ các làng nghề truyền thống , Bộ Thương mại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công nghiệp cần quan tâm hỗ trợ các làng nghề về thị trường tiêu thụ, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước đầu tư để hiện đại hóa trang thiết bị của các làng nghề nhằm tạo ra các sản phẩm giày dép vừa mang tính thời trang quốc tế , vừa mang tính văn hóa của các làng nghề truyền thống Việt Nam . Cần kết hợp với các ngành công nghiệp có liên quan như dệt may, cơ khí, hóa chất, để hình thành những vùng sản xuất tương đối hoàn chỉnh. Tại đây cần có các cơ sở sản xuất giày dép , sản xuất nguyên phụ liệu và cơ khí chuyên ngành. Hiện tại 70% số doanh nghiệp da giầy tập trung vào 3 thành phố lớn là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, ở miền trung rất ít. Ngành da giầy cần kết hợp với các tỉnh để có quy hoạch phát triển các vùng sản xuất giày dép tại những địa điểm thuận lợi. Để phát huy tiềm năng mọi thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển , cần kết hợp các doanh nghiệp da giầy quy mô nhỏ , các xí nghiệp cổ phần, xí nghiệp tư nhân và các hộ cá thể với từng vùng làng nghề truyền thống , để xây dựng khu công nghiệp da giầy liên hoàn. Đối với các công trình mới , đầu tư hạ tầng giảm chi phí vận chuyển. Để tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa công nghiệp thuộc da , sản xuất các nguyên phụ liệu với sản xuất giày dép và các sản phẩm chế biến từ da thuộc, Chính phủ cần tổ chức điều hành phối hợp hoạt động giữa Bộ công nghiệp và Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, khuyến khích phát triển mô hình kinh tế trang trại, chăn nuôi giết mổ gia súc nhằm hai mục tiêu: phục vụ cho công nghiệp chế biến thực phẩm và công nghiệp giày dép . II .CÁC GIẢI PHÁP TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU GIÀY DÉP VIỆT NAM 1.Lựa chọn phương thức thích hợp để chủ động thâm nhập vào các kênh phân phối trên thị trường EU 1.1.Các phương thức xâm nhập thị trường EU Có nhiều phương thức để các doanh nghiệp Việt Nam có thể thâm nhập vào thị trường EU , như: xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu trực tiếp , liên doanh, đầu tư trực tiếp . Mỗi phương thức thâm nhập thị trường trên đây có những ưu thế và hạn chế riêng. Xuất khẩu qua trung gian là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng để thâm nhập thị trường EU ở thời kỳ ban đầu , mới khai phá thị trường này . Khi đó thị trường EU còn rất mới mẻ và bở ngỡ đối với các doanh nghiệp , hơn nữa lại thiếu kinh nghiệm về thương trường nên không thiết lập được quan hệ bạn hàng trực tiếp với các đối tác này . Do vậy, các doanh nghiệp đã phải xuất khẩu sang EU qua các bạn hàng trung gian mà chủ yếu là ở Châu Á. Hình thức này chỉ thích hợp với thời kỳ đầu khai phá thị trường EU ( những năm 80 và đầu thập niên 90). Xuất khẩu trực tiếp là con đường chính thâm nhập thị trường EU hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam . Hình thức này thích hợp với thời kỳ sau khai phá ( từ giữa thập niên 90 đến nay ) khi quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé và chủng loại giày dép còn phân tán, nhưng dễ tạo ra thế bị động đối với nhà xuất khẩu do khó nắm bắt kịp thời những thông tin về thị trường ( những thay đổi chính sách ngoại thương , quy chế xuất khẩu ...của EU có ảnh hưởng tới xuất khẩu giày dép Việt Nam ) , cần áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp và liên doanh. Đầu tư trực tiếp không phải là hướng chính trong thời gian trước mắt, nhưng chí ít nó cũng cần thiết trong một số lĩnh vực , như các cơ sở tiếp thị và dịch vụ . Liên doanh có thể dưới hình thức sử dụng giấy phép , nhãn hiệu hàng hóa , chẳng hạn kinh nghiệm của Đài Loan trong lĩnh vực này rất đáng chú ý đó là sử dụng nhãn hiệu hàng hóa của các hãng đã rất nổi tiếng. Chúng ta cũng cần tính đến xu hướng đang nổi lên là sự gia tăng buôn bán trong nội bộ công ty và tái xuất của các doanh nghiệp EU để triển khai các hình thức liên doanh, cũng như tham gia trực tiếp vào mạng lưới phân công lao động quốc tế của các công ty xuyên quốc gia EU . Nếu không liên doanh theo kiểu này thì các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó thâm nhập thị trường EU . Hình thức này không chỉ giúp cho sự gia tăng xuất khẩu của Việt Nam sang EU mà còn sang các thị trường khác hiện các công ty của EU đang có mặt ở đó. Đầu tư trực tiếp chưa phải là hướng chính để xâm nhập thị trường EU hiện tại và trong tương lai gần của doanh nghiệp Việt Nam vì tiềm năng kinh tế còn hạn hẹp. Tuy nhiên, ta cũng cần xem xét và nghiên cứu hình thức thâm nhập này vào thị trường EU để chuẩn bị trước cho giai đoạn phát triển cao hơn của nền kinh tế Việt Nam trong tương lai. 1.2.Giải pháp về sản phẩm giày dép xuất khẩu Chú trọng nâng cao chất lượng và hạ giá thành xuất khẩu . Đầu tư máy móc thiết bị , công nghệ tiên tiến, hiện đại, đồng bộ, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm , nâng cao năng suất lao động , hạ giá thành sản phẩm . Đào tạo công nhân có tay nghề -kỹ thuật cao, đủ trình độ tiếp thu công nghệ mới để sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt, nhằm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm và chủ động trong sản xuất , đảm bảo thời gian giao hàng , một trong những nhân tố nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm . Phấn đấu sản xuất nguyên phụ liệu trong nước , tăng tỷ lệ nội địa hóa trong cơ cấu giá trị sản phẩm để hạ giá thành sản phẩm và được hưởng ưu đãi về thuế quan góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm . Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế : khắc phục tình trạng yếu kém về trình độ và thiếu điều kiện trang bị kiểm nghiệm đo lường để kiểm tra chất lượng sản phẩm giày dép xuất khẩu . Đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tại nhà máy có khả năng kiểm tra chất lượng sản phẩm giày dép trước khi xuất khẩu , tránh tình trạng chỉ đánh giá theo cảm nhận và kinh nghiệm . 1.3.Tổ chức tốt khâu lưu thông phân phối hàng giày dép Tổng công ty và Hiệp hội da giầy Việt Nam làm tốt hơn nữa vai trò tổ chức liên kết hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp da giầy trên cả nước và tham gia vào thị trường quốc tế , từng bước khắc phục khoảng cách khá xa về vốn, về thị trường tiêu thụ và tài lực của ngành da giầy . Trong thời gian tới , để mở rộng thị trường và nâng cao hiệu quả xuất khẩu của ngành , để từng bước vững chắc chuyển từ gia công sang xuất khẩu trực tiếp cần nhanh chóng xây dựng quy hoạch định hướng phát triển . Để đạt được mục tiêu chiến lược , sự nỗ lực của ngành là quan trọng , sự hỗ trợ của Nhà nước bằng môi trường pháp lý là không thể thiếu. 2.Phân khúc thị trường Bên cạnh xuất khẩu trực tiếp , để tăng kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường EU trong thời gian tới , các doanh nghiệp cũng cần phải biết chọn cho mình một phân khúc thị trường hợp lý. Việc chọn phân khúc thị trường là để tránh đối đầu với những hàng sản xuất ồ ạt của Trung Quốc, tránh cạnh tranh với những sản phẩm chất lượng cao các nước nội khối EU . Phân khúc thị trường Việt Nam được xem là hiệu quả nhất và tránh được các đối thủ kể trên là những sản phẩm có chất lượng tốt nhưng phải mang tính độc đáo, phong cách và kiểu dáng riêng biệt. Có thể đó là những sản phẩm công nghệ cao kết hợp với những chi tiết phức tạp nhờ vào trình độ thủ công. 3.Liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau Một trong những giải pháp hữu hiệu cho việc tăng nguồn hàng giày dép xuất khẩu trực tiếp hiện nay là các doanh nghiệp da giầy nên liên kết lại với nhau để đáp ứng những đơn đặt hàng của EU , cũng như hỗ trợ nhau nâng cao chất lượng , mẫu mã , giảm giá thành. Mặt khác để tăng nguồn hàng xuất khẩu trực tiếp của các nhà sản xuất Việt Nam nên thường xuyên quan hệ với các văn phòng đại diện của EU tại Việt Nam . Các văn phòng này có mạng lưới phân phối rộng ở EU và có thể mang lại nhiều đơn đặt hàng cho các nhà sản xuất khi sản phẩm đáp ứng đủ nhu cầu tìm nguồn hàng của họ. 4.Tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý để tạo nguồn hàng thích hợp với thị trường EU EU hiện đang là thị trường tiêu dùng khắt khe nhất trên thế giới và có hàng rào kỹ thuật mà hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển rất khó vượt qua. Qua đặc điểm của thị trường EU có thể nhận thấy rằng nguồn hàng thích hợp với thị trường EU là nguồn hàng đa dạng, phong phú về chủng loại , khối lượng lớn, cung ổn định, thỏa mãn thị hiếu tiêu dùng và đáp ứng tốt nhất 5 tiêu chuẩn của sản phẩm ( theo quy định của EU ). Các doanh nghiệp Việt Nam muốn xâm nhập và mở rộng thị phần tại EU thì không còn cách nào khác là phải tạo được nguồn hàng xuất khẩu thích hợp với thị trường này. Trên thị trường , giá cả có thể rất quan trọng , nhưng tại EU chất lượng là yếu tố được quan tâm hàng đầu đối với phần lớn các mặt hàng được tiêu thụ. Người tiêu dùng tại đây không chỉ quan tâm tới chất lượng sản phẩm mà còn cả dịch vụ khách hàng, bao gồm cả dịch vụ sau khi bán hàng. Nét độc đáo và đặc biệt của sản phẩm so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh sẽ có sức hút với họ. Do đó cần đầu tư cho các khâu quảng cáo, tiếp thị cải tiến công nghệ , nghiên cứu và phát triển để tạo ra sự khác biệt giữa sản phẩm của mình với đối thủ cạnh tranh , bí quyết ở đây chính là sự sáng tạo. Muốn đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường EU , chúng ta phải sản xuất và bán những sản phẩm mà thị trường cần chứ không phải bán những sản phẩm mà chúng ta có. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường đầu tư : mở rộng quy mô sản xuất và chú trọng đầu tư chiều sâu để nâng cao năng suất, chất lượng , giá trị gia tăng, đa dạng hóa sản phẩm và hạ giá thành đối với từng mặt hàng cụ thể nhằm tạo ra nguồn hàng thích hợp với thị trường này. Muốn tạo ra được một nguồn hàng thích hợp với thị trường EU thì các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng cường đầu tư và hoàn thiện quản lý vì đây là hai yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất , có tính quyết định đối với việc cho ra đời một sản phẩm như thế nào. Nếu một doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư vốn và công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất , lại áp dụng hệ thống quản lý thích hợp sẽ tạo ra sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao đáp ứng tốt các nhu cầu của người tiêu dùng và vượt được rào cản kỹ thuật của bất kỳ thị trường nào cho dù đó là thị trường khó tính nhất. Tại thời điểm này, các doanh nghiệp sản xuất hàng giày dép xuất khẩu của Việt Nam hướng vào thị trường EU thì không còn cách nào là phải tăng cường áp dụng các hệ thống quản lý :ISO 9000, ISO 14000. EU là một thị trường nhập khẩu lớn trên thế giới , nhưng khi thâm nhập vào thị trường này, hàng Việt Nam phải vượt qua được hai hàng rào : thuế quan và phi thuế quan (hàng rào kỹ thuật ) . Tuy nhiên từ năm 1996 đến nay , EU đã dành cho hàng xuất khẩu Việt Nam thuế quan ưu đãi GSP, do vậy hàng rào kỹ thuật mới chính là rào cản thực sự kho vượt qua đối với hàng của ta khi vào thị trường EU . Để vượt qua rào cản này, các doanh nghiệp Việt Nam phải trang bị cho hàng giày dép đủ sức cạnh tranh , hay nói cách khác là đáp ứng tốt nhất bốn tiêu chuẩn trên. Đến cuối năm 2004 đầu năm 2005 , EU sẽ chấm dứt giai đoạn 2 thực hiện GSP và hiện chưa có chính sách cụ thể cho giai đoạn sau. Để tránh tình trạng xấu nhất có thể xảy ra đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU sau năm 2004 ( chẳng hạn hàng giày dép Việt Nam sẽ không được hưởng GSP nữa), thì áp dụng ISO 9000, ISO 14000 là biện pháp tốt nhất để các doanh nghiệp Việt Nam có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của giày dép Việt Nam trên thị trường này, nhằm giữ vững và mở rộng thị phần. Với khách hàng EU , bốn nguyên tắc thâm nhập thị trường thành công cũng chính là nội dung căn bản có liên quan đến hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000, đó là: nắm bắt được thị hiếu , hạ giá thành sản phẩm , bảo đảm thời hạn giao hàng và duy trì chất lượng sản phẩm . 5.Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép . 5.1.Kết nối Internet Các doanh nghiệp Việt Nam nên đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện tử vì thương mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích to lớn. Website của doanh nghiệp được ví như là Trung tâm thông tin , văn phòng đại diện và cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp đó ở mọi nơi, mọi lúc trên mọi phương tiện. Kết nối internet, nhờ các công cụ tìm kiếm như Yahoo, AOL,Alta Vista ,doanh nghiệp có thể tìm được hầu hết thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. 5.2.Lập trang Web của doanh nghiệp Trang Web của doanh nghiệp được coi là văn phòng ảo , bởi nó góp phần xây dựng uy tín , đẳng cấp cho doanh nghiệp . Hiện nay, trang Web của doanh nghiệp có ý nghĩa như một văn phòng trong tòa cao ốc đắt tiền trong những năm gần đây. Trong khi đó chi phí duy trì văn phòng ảo này rất thấp nếu so sánh với một văn phòng đại diện thực sự ở nước ngoài . 5.3.Các giai đoạn áp dụng thương mại điện tử Để áp dụng thương mại điện tử , mỗi doanh nghiệp cần tiến hành theo ba bước: soạn thảo , thiết kế , triển khai. Ở giai đoạn soạn thảo chiến lược , vấn đề quan trọng là làm thế nào để khách hàng mua hàng của doanh nghiệp mình chứ không phải của các đối thủ và xác định khách hàng của doanh nghiệp mình trong hiện tại và tương lai. Đồng thời, doanh nghiệp cần xác định cụ thể sản phẩm như thế nào , thị trường nào ,đối tượng khách hàng , mục tiêu… để bán trên mạng. Bước tiếp theo là thiết kế trang Web. Theo các chuyên gia tin học , để thiết kế trang Web không phải là khó, cái khó là làm sao trang Web được thiết kế có sức hấp dẫn, tiện dụng. Muốn vậy, doanh nghiệp nên tìm cách đến các nhà thiết kế trang Web chuyên nghiệp. Bước cuối cùng là phải lưu ký đến trang Web. Về nguyên tắc , nếu doanh nghiệp đã có mạng riêng, có đường kết nối tốc độ , thì có thể lưu ký trên máy chủ. Còn nếu không có mạng riêng, doanh nghiệp nên thuê một nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp để thực hiện công việc này. Khi chọn nhà cung cấp dịch vụ , doanh nghiệp cần lưu ý các tiêu chuẩn: phải có máy chủ tốt , có đường kết nối với tốc độ cao và có khả năng hỗ trợ về kỹ thuật . 6.Tăng cường khai thác Quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của Liên minh Châu Âu 6.1.Loại hình tài trợ Quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam ( SMEDF) là một phần trong “chương trình Trợ giúp kỹ thuật của Châu Âu trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam” ( EURO-TAPVIET ). Quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ( SMEDF) được thành lập theo thỏa thuận tài chính giữa Chính phủ Việt Nam và Ủy Ban Châu Âu (EC) ngày 6/6/1996. Tổng số nguồn vốn của Quỹ SMEDF khoảng 275 tỷ đồng Việt Nam (tương đương 25 triệu USD tại thời điểm năm 1996 ) do EC cung cấp nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phát triển sản xuất và tạo thêm việc làm cho xã hội . Bộ lao động – thương binh và xã hội là cơ quan quản lý thực hiện dự án. Quỹ đã cung cấp các khoản vay trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các ngân hàng thương mại Việt Nam để đầu tư thay thế , đổi mới trang thiết bị ,máy móc nhằm mục đích thành lập doanh nghiệp mới , hoặc mở rộng sản xuất , hiện đại hóa cơ sở vật chất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ . Loại hình tài trợ : Nguồn tài trợ từ Quỹ được dùng để tái tài trợ cho các khoản vay trung và dài hạn mà các ngân hàng thương mại cấp cho các doanh nghiệp đáp ứng các điều kiện quy định của dự án. Như vậy, nguồn vốn này mang lại cho các ngân hàng một kiểu phương tiện tài chính cần thiết để cấp tín dụng có kỳ hạn nhiều hơn cho các doanh nghiệp . 6.2.Mục đích sử dụng các khoản tài trợ Qua hiệp định tham gia (hiệp định tài trợ ) ký kết với các ngân hàng thương mại , nguồn tài trợ này dành cho các doanh nghiệp sản xuất để giúp họ mua: tài sản thiết bị (thiết bị và phụ kiện, phương tiện vận tải… ), các dịch vụ ( chuyển giao công nghệ và kỹ năng… ). Nguồn vốn vay không để dùng làm vốn lưu động , cũng không để dùng làm vốn góp. 6.3. Điều kiện có thể vay vốn -Điều kiện liên quan đến ngành nghề hoạt động của doanh nghiệp . Các khoản vay tái tài trợ có thể được cung cấp cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần ngành nghề hoạt động , đảm bảo đúng pháp luật -Điều kiện liên quan đến đặc điểm nội bộ của doanh nghiệp : các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân, quốc doanh, hỗn hợp sản xuất hàng hóa và dịch vụ cho mục đích thương mại đều thuộc diện được cấp các khoản vay được tái tài trợ. Theo những quy định trong Hiệp định tái tài trợ , những doanh nghiệp vừa và nhỏ được coi là thuộc diện được vay là những doanh nghiệp đáp ứng được những điều kiện như sau: số lượng nhân viên từ 10-500 người , vốn đăng ký từ hơn 50.000 đến 300.000 USD . Tuy nhiên cũng có trường hợp ngoại lệ. - Điều kiện liên quan đặc điểm của dự án đầu tư : những dự án sau đây có thể đạt được các khoản tái tài trợ : các dự án được mở rộng – hiện đại hóa doanh nghiệp đã tồn tại , các dự án đã thành lập doanh nghiệp nếu như đã có toàn bộ các giấy tờ cần thiết cho việc thực hiện dự án do các cơ quan có thẩm quyền cấp. 6.4. Đặc điểm của khoản tài trợ: Giá trị tối thiểu của khoản vay là 20.000 USD và trị giá tối đa là 400.000 USD . Các khoản vay không vượt quá 80% so với tổng chi phí thực hiện dự án đầu tư . Thời hạn các khoản vay tối đa là 5 năm, và tối thiểu là 3 năm. Khoản vay có thể chấp nhận ân hạn theo từng trường hợp cụ thể . 6.5.Chi phí khoản vay Lãi suất tối đa được tái tài trợ từ nguồn SMEDF bằng 6,28%+ lãi suất tối đa được phép . Kỳ hạn trả lãi tùy thuộc vào từng trường hợp và căn cứ theo kỳ hạn trả vốn. Kỳ hạn trả gốc tính theo quý hay 6 tháng , được ấn định tùy thuộc vào các luồng tiền “lãi góp từ tài trợ” được rút ra từ nghiên cứu khả năng sinh ngoại thương lãi dự tính của dự án đầu tư . 6.6. Điều kiện đảm bảo đi kèm với khoản tài trợ Cấp các khoản vay tín dụng đi kèm với điều kiện đảm bảo phù hợp với quy định hiện hành của Việt Nam ( thế chấp , cầm cố , bảo lãnh cá nhân ) . Ngoài ra , ngân hàng còn có thể yêu cầu doanh nghiệp vay vốn phải mua bảo hiểm cho những thiết bị mua được nhờ vay vốn cho đến khi thanh toán nợ xong. Quỹ SMEDF đã góp phần bổ sung một nguồn vốn trung và dài hạn cho thị trường tín dụng Việt Nam . Các doanh nghiệp nhờ vào vay vốn của SMEDF đã đầu tư thêm máy móc thiết bị , nâng cao năng lực sản xuất , tăng cường chất lượng , số lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và thế giới . Hầu hết các doanh nghiệp đã sử dụng đúng mục đích, sản xuất kinh doanh có hiệu quả , hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng và cho SMEDF KẾT LUẬN Liên Minh Châu Âu (EU ) là một trung tâm kinh tế , chính trị, văn hóa và khoa học –công nghệ hùng mạnh vào bậc nhất thế giới , đồng thời là một thị trường rộng lớn, phát triển ở trình độ cao. Từ lâu Việt Nam đã xác định EU là một đối tác quan trọng và thị trường EU là một thị trường chủ yếu của mặt hàng giày dép xuất khẩu . Sau khi Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao, ký Hiệp định Hợp tác và hợp đồng buôn bán với EU , quan hệ thương mại song phương đã phát triển mạnh. Để đẩy mạnh hơn nữa quan hệ kinh tế với EU , dặc biệt là hoạt động xuất khẩu giày dép Việt Nam vào thị trường này , Việt Nam cần phải nghiên cứu để nắm chắc đặc điểm và tính chất của thị trường EU , đặc biệt là về chính sách thương mại , các quy định về quản lý xuất khẩu –nhập khẩu , về thị hiếu và tập quán tiêu dùng , yêu cầu về mẫu mã giày dép , tính thời trang và chất lượng sản phẩm giày dép ,phải thấy hết được những thuận lợi và khó khăn khi thâm nhập vào thị trường này. Từ đó mà lựa chọn và định hướng đúng đắn các mặt hàng xuất khẩu vào từng thị trường cụ thể của khối này. Mặt khác cần có các giải pháp thích hợp và mạnh mẽ cả về phía Nhà nước và doanh nghiệp . Giải pháp của Nhà nước chủ yếu là mở đường , tạo hành lang pháp lý và môi trường thuận lợi, khuyến khích hỗ trợ mọi mặt cho các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường EU . Về phía các doanh nghiệp cần có các chính sách và giải pháp cụ thể phù hợp với từng doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mặt hàng giày dép xuất khẩu và giành được khách hàng đối với các sản phẩm của mình. Thành công của việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường EU phụ thuộc vào cả hai phía Nhà nước và doanh nghiệp song chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp , Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ. Tác giả hy vọng rằng , các kết quả nghiên cứu của đề tài phần nào giúp cho công tác hoạch định chính sách phát triển thị trường xuất khẩu giày dép của Nhà nước và của từng doanh nghiệp . DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kinh tế quốc tế . PGS.TS: Đỗ Đức Bình-TS: Nguyễn Thường Lạng. NXB Lao Động-Xã Hội. Hà Nội-2004 2. Giáo trình kinh doanh quốc tế . Tập 1 và 2. PGS-TS. Nguyễn Thị Hường. NXB Lao Động-Xã Hội. Hà Nội-2004 3. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX .NXB Chính trị Quốc Gia . Hà Nội-2001 4. Tạp chí Ngoại thương 5. Tạp chí Thương mại 6. Tạp chí Phát triển kinh tế 7. Tạp chí kinh tế và dự báo 8. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu 9. Doanh nghiệp Việt Nam với hội nhập kinh tế thế giới . NXB văn hóa thông tin.2004 10. Tạp chí Cộng sản 11.Tạp chí công nghiệp Việt Nam 11. Các trang WEB: www.dan tri.com. vn www.mofa.com.vn www.mpi.com.vn www.economi.com.vn www.tuoitre.com.vn MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32556.doc
Tài liệu liên quan