Luận văn Hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU

Thuận lợi hoá và đơn giản hơn nữa thủ tục nhập cảnh của người nước ngoài vào khảo sát thị trường và cư trú ngắn hạn bằng cách lập các trung tâm thương mại cung cấp các thiết bị văn phòng, thông tin tư vấn cho các nhà đầu tư và nhập khẩu nước ngoài. Từng bước cho phép các công ty nhập khẩu nước ngoài mở chi nhánh ở Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích họ phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới. Tháo gỡ vướng mắc để doanh nghiệp có vốn nước ngoài tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời đàm phán với các nước hữu quan có chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư của họ tại Việt Nam. Ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân gây phiền hà, sách nhiễu đối với khách du lịch và thương nhân xuất, nhập cảnh. Tạo điều kiện thuận lợi về lãnh sự cho thương nhân. Thực tế cho thấy những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên một cách đáng kể, đóng góp không nhỏ vào việc tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.

doc121 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2075 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động xúc tiến xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thương mại điện tử trong thực tiễn hoạt động xúc tiến xuất khẩu cho các nhà quản lý và các doanh nghiệp Việt Nam sẽ góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Điều này sẽ rất rõ ràng, ở các nền kinh tế và các thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới hiện nay như Mỹ, EU và Nhật Bản, phương thức giao dịch B2B đã trở nên phổ biến. Một khi không tiếp cận được phương thức kinh doanh này thì rõ ràng không thể tận dụng được các cơ hội xuất khẩu mà thương mại điện tử mở ra để đẩy mạnh xuất khẩu. Các giải pháp để xây dựng năng lực thương mại điện tử và phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam bao gồm: Nâng cấp hạ tầng công nghệ (thông tin viễn thông, tin học và Internet) nhằm đảm bảo giá cả truy cập Internet thấp, khả năng truy cập nhanh, xử lý tốt một số vấn đề công nghệ chủ yểu của thương mại điện tử (chữ ký điện tử, thanh toán điện tử, bảo mật trong thương mại điện tử, hợp đồng thương mại điện tử). Ban hành và thực thi các văn bản quy phạm pháp luật để tạo môi trường thuận lợi cho thương mại điện tử hoạt động. Thúc đẩy, truyền thống nâng cao nhận thức về thương mại điện tử trong các doanh nghiệp, người tiêu dùng và các cơ quan. Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Làm thí điểm một số doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử để rút kinh nghiệm và nhân rộng. 2.1.8 Công tác xúc tiến xuất khẩu chỉ có thể thực hiện thành công với việc phát triển nguồn nhân lực thương mại và xúc tiến xuất khẩu Nhà kinh tế học E.F. Schumacher, trong cuốn sách “những nguồn lực” đã kết luận rằng “toàn bộ lịch sử cũng như kinh nghiệm hàng ngày một điều là chính con người chứ không phải thiên nhiên cung cấp một nguồn lực nền tảng. Nhân tố then chốt của toàn bộ nền phát triển kinh tế là kết quả của trí óc con người”. Bước sang thế kỷ XXI, thế giới đang bước vào một nền kinh tế mới (hay nền kinh tế số, nền kinh tế thông tin, kinh tế tri thức, kinh tế học hỏi…) với nội hàm: Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thông tin và tri thức trở thành nguồn tài nguyên quý giá hơn nhiều so với tài nguyên đất đai, khoáng sản và các tài nguyên vật thể khác, hàm lượng tri thức trong từng sản phẩm ngày càng tăng, công nghệ thông tin (đặc biệt là Internet) là phương tiện lao động phổ biến và có hiệu quả nhất. Như vậy, hơn lúc nào hết, nguồn nhân lực được đào tạo trở thành nhân tố quyết định nhất tới thành quả công tác xúc tiến xuất khẩu ngày nay. Việt Nam phải đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức và có kỹ năng thực hành thương mại quốc tế và xúc tiến xuất khẩu, có khả năng sử dụng các phương tiện điện tử và Internet để thực hiện xúc tiến xuất khẩu và phát triển xuất khẩu thành công. 2.2 Phương hướng hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam Hoạt động xuất khẩu đối với nước ta hiện nay có vai trò vô cùng quan trọng. Xuất phát từ tình hình nước ta cần đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nguồn thu cho đất nước, từ xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế và phân công lao động quốc tế, căn cứ các mục tiêu của chiến lược chung về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 – 2010 do Đại hội Đảng IX đề ra, chiến lược phát triển xuất khẩu của đất nước đã định hướng nội dung cơ bản của công tác xuất nhập khẩu trong giai đoạn 10 năm là: “Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Chớp thời cơ thuận lợi tạo ra sự phát triển đột biến, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa kinh tế nước ta và các nước trong khu vực”. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam thời gian 10 năm tới phải nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ. Thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ, tăng thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu trang thiết bị và công nghệ tiên tiến, nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất. Đảm bảo cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh sản xuất, ứng dụng mạnh mẽ thương mại điện tử trong kinh doanh xuất khẩu, hội nhập thắng lợi vào kinh tế thế giới. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 – 2010. Những nhân tố tác động tới khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 – 2010 3.1.1 Những nhân tố chung (1) Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế Xung lực chính của quá trình khu vực và toàn cầu hoá kinh tế là tự do hoá thương mại. Mục tiêu cuối cùng của tự do hoá thương mại là giảm dần và tiến tới xoá bỏ tất cả các rào cản về thuế quan cũng như phi thuế quan để tạo cho hàng hóa được lưu thông tự do giữa các nước, tiến dần tới một thế giới thống nhất. Do vậy mà khi tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, các nước thành viên phải mở cửa thị trường, giảm dần hàng rào thuế quan và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan để cho hàng hoá được tự do lưu chuyển giữa các nước, thúc đẩy mậu dịch quốc tế phát triển mạnh. Mở cửa thị trường là yêu cầu tất yếu của nền kinh tế mở. Nó liên kết sản xuất hàng hóa với chiến lược phát triển kinh tế. Mở của thị trường đòi hỏi không ngừng hoàn thiện hàng lang pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh từng bước theo tiêu chuẩn và tập quán quốc tế. Đồng thời phải xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ đắc lực cho việc đẩy mạnh giao lưu hàng hóa quốc tế. Hệ thống này bao gồm hệ thống luật pháp, hệ thống quản lý hành chính, ngoại thương, ngân hàng, hải quan, vận tải,… Mở cửa thị trường cũng chính là quá trình không ngừng nâng cao trình độ và năng lực quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp, khả năng tổ chức sản xuất, tiếp cận thị trường nước ngoài trong môi trường cạnh tranh sôi động của các doanh nghiệp trong và ngoài lãnh thổ. Tác động tích cực của xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế đối với các nước phát triển là thông qua việc xoá bỏ các rào cản tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Sức cạnh tranh của hàng hoá được nâng cao, tăng trưởng kinh tế trở nên ổn định và bền vững hơn nhờ các nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu quả hơn. Tiến trình này cũng tạo ra cơ hội lớn hơn cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển đẩy mạnh công nghiệp hóa trên cơ sở ứng dụng thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, tăng doanh thu ngoại tệ làm tiền đề phát triển kinh tế. Ngoài những tác động tích cực, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế cũng đặt ra nhiều thách thức cho các nước đạng phát triển. Thứ nhất, sẽ làm tăng sức ép cạnh tranh, không giữa các sản phẩm mà còn giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp do phải tuân thủ nguyên tắc đối xử quốc gia. Thứ hai, sẽ dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nước đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Thứ ba, sẽ dần dần đặt các nước đang phát triển vào trong tầm ảnh hưởng của các nước phát triển, cả về kinh tế và chính trị. Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế với các mặt tích cực và tiêu cực sẽ tiếp tục diễn biến thông qua sự hợp tác đấu tranh phức tạp giữa các đối tác. Cục diện này tạo thuận lợi cho ta mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU nơi thuế suất thấp và đỡ bị các rào cản phi thuế quan ngăn cản, đồng thời hàng xuất khẩu của ta sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường EU, trước mắt là việc Trung Quốc vốn có sức mạnh cạnh tranh cao vốn đã là thành viên của WTO, và đang tận dụng rất tốt những ưu đãi do tổ chức này đem lại. Vì vậy có thể nói rằng xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế là nhân tố quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU nói riêng. Nhưng đồng thời nó cũng đem lại thách thức rất lớn cho xuất khẩu Việt Nam. Nền kinh tế thế giới đang bước nhanh từ nền kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Tri thức đang trở thành yếu tố có sức sống và quan trọng nhất trong các yếu tố sản xuất, là hạt nhân của việc gắng liền việc tổ chức với việc lôi kéo, và thúc đẩy đổi mới các yếu tố khác. Cũng có nghĩa là trong điều kiện hiện nay, tài nguyên lao động và tư bản hữu hình ở thời đại kinh tế công nghiệp đang bị nguồn tài nguyên tri thức thay thế vai trò chủ đạo. Hàng hoá của nền kinh tế tri thức là sản phẩm của các ngành sản xuẩt có hàm lượng tri thức và công nghệ cao. Sự xuất hiện và phát triển của nền kinh tế tri thức sẽ làm thay đổi nhanh cơ cấu hàng xuất khẩu của các nước. (2) Phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU Năm 1995, Uỷ Ban Châu Âu đã ký một Hiệp định Hợp tác với Việt Nam nhằm mục tiêu hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường thông qua việc hình thành một “đối thoại có tổ chức” giữa hai bên. Các mục tiêu chính là: Đảm bảo phát triển và tăng trưởng thương mại và đầu tư; Hỗ trợ cho phát triển bền vững đặc biệt đối với những tầng lớp dân cư nghèo nhất; Tăng cường hợp tác kinh tế; Hỗ trợ cho bảo vệ môi trường và quản lý bền vững những tài nguyên thiên nhiên. Sau 5 năm thực hiện Hiệp định Hợp tác Việt Nam – EU (1997 – 2000) đạt được kết quả sau: EU đã trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam, là bạn hàng thương mại lớn thứ hai, chiếm khoảng 11% kim ngạch ngoại thương của Việt Nam, là nhà đầu tư lớn thư ba với 4,38 tỷ USD vốn đăng ký, và cũng là nhà tài trợ ODA cho Việt nam lớn thứ ba với hơn 2 tỷ USD. EU tài trợ cho tất cả các lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội của Việt Nam. Cơ sở để phát triển toàn diện quan hệ giữa hai bên là: Việt Nam là một quốc gia độc lập và có vị trí chiến lược quan trọng ở Đông Nam Á. Từ năm 1986, chính sách đổi mới đã làm cho phép Việt Nam thu được nhiều thành quả trong các lĩnh vực kinh tế và ngoại giao. Tỷ lệ tăng trưởng và trao đổi thương mại đã tăng lên, lạm phát giảm, đất nước đang hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, xã hội phát triển và đời sống nhân dân được nâng lên. Việt Nam từ nay được nhìn nhận như một thị trường lớn nhiều tiềm năng đối với đầu tư trung và dài hạn đối với đầu tư nước ngoài. Tại thời điểm này Việt Nam đang tiếp tục quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nên rất cần có sự hợp tác và hỗ trợ của EU. Với thế mạnh về vốn và công nghệ, EU có thể giúp Việt Nam tham gia khai thác có hiệu quả lợi thế về tài nguyên và lao động. Liên minh Châu Âu là một trung tâm văn hoá – kinh tế lớn trên thế giới. Các nước thành viên là những dân tộc yêu chuộng hoà bình, sẵn sàng làm bạn và giúp đỡ tất cả các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới. EU đã và đang giúp đỡ và hỗ trợ Việt Nam rất nhiều trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo và phát triển xã hội. Hơn nữa, với nhu cầu đòi hỏi từ quá trình phát triển kinh tế cao, EU rất cần thị trường đang phát triển và giàu tiềm năng, như Việt Nam. Ngược lại, EU lại có tiềm năng rất mạnh mẽ về vốn và công nghệ, cái mà Việt Nam đang thiếu, và đang rất cần để phát triển kinh tế, cho nên hợp tác kinh tế với Việt Nam là cần thiết vì nó mang lại lợi ích kinh tế cho cả hai bên. Cơ cấu kinh tế của Việt Nam và các nước thành viên EU hoàn toàn bổ sung cho nhau. Do vậy, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là những mặt hàng mà EU có nhu cầu nhập khẩu lớn và ngược lại. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu một khối lượng lớn hàng da giày, dệt may, thuỷ hải sản, đồ gỗ gia dụng, hàng thủ công mỹ nghệ,… sang EU; đồng thời chúng ta đã và đang nhập khẩu những máy móc thiết bị tiên tiến, kỹ thuật công nghệ cao, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu,… phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong khi các nước thành viên EU từng bước hoàn thiện thể chế chính trị và kinh tế của mình để trở thành một cộng đồng không biên giới, tự do buôn bán, sử dụng chung một đồng tiền. Cộng đồng này ngày càng mở rộng, ngày càng có uy tín và được đánh giá là khối kinh tế lớn nhất thế giới; thì Việt Nam, tự mình đang dần hoàn thiện cơ chế và chính sách quản lý kinh tế, mở cửa thị trường, cải tiến cơ chế xuất nhập khẩu, khuyến khích đầu tư và cố gắng đa phương hoá đầu tư, tạo mọi điều kiện để thu hút đầu tư từ các nước có công nghệ phát triển cao như từ các nước trong Liên minh Châu Âu. Chính phủ Việt Nam khuyến khích và dành ưu đãi đãi đặc biệt đối với các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng công nghệ cao, dự án đầu tư thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư và danh mục các địa bàn khuyến khích đầu tư. Tất cả các chính sách ấy là nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước để hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Trước tiên Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, rồi đến APEC năm 1997. Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến trình xin gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), hy vọng sẽ là thành viên của Tổ chức này trong năm 2006 này. Khi ấy, hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ được dỡ bỏ. Đây chính là cơ sở bền vững cho quá trình đẩy mạnh hợp tác kinh tế nói chung giữa Việt Nam và EU và trong lĩnh vực xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói riêng. 3.1.2 Nhân tố phát sinh từ phía Việt Nam - Quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập. Với yêu cầu đặt ra là tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 không thấp hơn mức tăng trưởng bình quân của các nước đang phát triển trong khu vực. Đó là vì chúng ta phải rút ngắn khoảng cách với các nước này, phát triển tạo ra tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Thời kỳ 2001 – 2010 có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình. Mục tiêu của thời kỳ này là đưa nền kinh tế vượt qua những thách thức gay gắt trước mắt, thực hiện đổi mới cơ bản cơ cấu kinh tế theo hướng xây dựng nền tảng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và định hình cơ chế thị trường, hội nhập các thể chế quốc tế và khu vực theo cam kết, xoá đói giảm nghèo, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ta, thực hiện từng bước tiến bộ và công bằng xã hội. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn theo hướng tăng dần công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cho giai đoạn 10 năm tới (2001 – 2010) đạt 7,2%, với cơ cấu kinh tế: nông nghiệp chiếm 16 - 17%, công nghiệp và xây dựng chiếm 40 – 41% và dịch vụ chiếm 42 – 43% trong GDP. Hội nhập là xu thế tất yếu của thời đại. Quá trình này diễn ra ở nhiều lĩnh vực - Quốc tế hoá về thương mại, về vốn, về sản xuất, và về hình thức dưới tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Đó là những diễn đàn vừa hợp tác vừa đấu tranh để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc. Song đấu tranh không phá vỡ hợp tác mà để nâng cao chất lượng hợp tác, bảo đảm tốt nguyên tắc “Bình đẳng và cùng có lợi”. Do vậy, để đảm sự thống nhất giữa nội dung cũng như hình thức không nên coi việc gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế chỉ là công việc của Nhà nước, mà cái quan trọng hơn là hoạt động linh hoạt, đa dạng của từng công ty, từng doanh nghiệp. Chính họ cần phải là đội quân xung kích của hội nhập quốc tế, quyết định thành công hay thất bại của hội nhập quốc tế, Nhà nước có thể hỗ trợ dưới dạng chính sách vĩ mô, tạo cho doanh nghiệp có môi trường kinh doanh thuận lợi, họ có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, hỗ trợ tối đa không có nghĩa là thả nổi. Đối với doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh rõ ràng, chuyển dần từ việc tập trung và những lợi thế so sánh dựa vào tài nguyên và chi phí lao động thấp sang lợi thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, công nghệ cao, quy trình sản xuất độc đáo. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần nhận rõ khả năng cạnh tranh của các nước trong khu vực đã được nâng lên khá nhiều sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Các doanh nghiệp cần có chiến lược hình thành những lợi thế cạnh tranh dài hạn hơn. Về thương mại, bước vào thế kỷ XXI thương mại Việt Nam phải hoà nhập được thương mại thế giới theo những xu thế sau: (a) Nâng cao tỷ trọng các mặt hàng hay dịch vụ mang tính trí tuệ làm thay đổi cơ cấu thương mại; (b) Từng bước nâng cao tỷ trọng sản phẩm công nghệ cao trong thương mại giữa Việt Nam và quốc tế; (c) Tham gia đầy đủ các tổ chức thương mại khu vực, củng cố vị trí của mình, tiến tới thủ tiêu các loại hàng rào thuế quan và phi quan thuế; (d) Phát triển dịch vụ này phát triển với tốc độ cao hơn so với thương mại hàng hoá. Việt Nam đã chủ trương thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu mà nòng cốt là phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại, từng bước mở rộng thị trường, tăng cường hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế “hướng về xuất khẩu” có liên quan mật thiết và gắn bó hữu cơ với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của đất nước. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở cửa nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới. Do vậy, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế “Hướng về xuất khẩu” ở Việt Nam là sự chuyển dịch cơ cấu “theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng mở cửa và hội hhập với kinh tế thế giới”. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế “hướng về xuất khẩu” đưa ra định hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu như sau: Việt Nam phấn đấu trong những năm tới chủ yếu xuất khẩu thành phẩm đã qua chế biến, giảm bớt xuất khẩu các sản phẩm nguyên liệu thô và các sản phẩm sơ chế. Theo đó, đặc biệt khuyến khích xuất khẩu thành phẩm sử dụng 100% nguyên liệu nội địa và khai thác tối đa các nguồn lực sẵn có trong nước. Hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô, chưa tinh chế dưới dạng xuất khẩu tài nguyên. Tận dụng lợi thế so sánh về sức lao động và tài nguyên thiên nhiên. Với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ cải thiện được về chất lượng và mẫu mã. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể cung cấp ra thị trường thế giới một khối lượng lớn hàng hoá và tương đối ổn định. Các xí nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, đầu tư các dây chuyền công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu, thị hiếu rất đa dạng và phong phú của thị trường thế giới. Như vậy, quá trình này sẽ giúp cho hàng Việt Nam khắc phục được những nhược điểm về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng và đáp ứng được nhu cầu thị hiếu khắt khe của thị trường EU. Quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập như đã nêu trên sẽ là tiền đề làm tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 – 2010. Đánh giá triển vọng phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2005 – 2010 Trong những năm 2000 – 2004, hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) của EU và chỉ riêng hàng dệt may bị quản lý bằng hạn ngạch. Xuất khẩu hàng năm vào thị trường này gần như phụ thuộc hoàn toàn vào hạn ngạch do EU quy định và những mặt hàng không bị ấn định hạn ngạch trong nhóm hàng dệt may xuất sang EU có kim ngạch nhỏ và không đang kể. Trong giai đoạn này, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU như giày dép, dệt may, và thuỷ hải sản đang có ưu thế hơn so với các mặt hàng cùng loại của của các nước ASEAN khác có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam như Thái Lan, Inđônexia,… vì những mặt hàng của họ đã bị loại khỏi danh sách được hưởng GSP. Thế nhưng nguy cơ đe doạ đối với hàng xuất khẩu Việt Nam lúc này là cực kỳ lớn bởi Trung Quốc và sự quay trở lại của các nước ASEAN sau thời kỳ khủng hoảng. Tuy có lợi thế về thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu vào EU, nhưng chúng ta lại đang ở vào tình trạng không mấy thuận lợi trong cạnh tranh. Đến cuối năm 2004, EU chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và xoá bỏ hạn ngạch đối với các nước là thành viên của WTO. Đối với Việt Nam không phải là thành viên của WTO, EU đã quyết định bỏ hạn ngạch, đồng thời vẫn cho Việt Nam hưởng GSP. Quyết định này là rất thuận lợi cho Việt Nam nhưng dù thuận lợi như vậy, thì không thể coi là chỉ có thuận lợi, giai đoạn 2005 – 2010 sẽ rất khó khăn và thử thách đối với các doanh nghiệp và hàng xuất khẩu Việt Nam. Nếu Việt Nam gia nhập WTO được trong năm 2006 này thì hàng xuất khẩu của ta sẽ thuận lợi khi thâm nhập vào EU so với thời kỳ 2000 – 2004. EU là thị trường lớn, sự tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có những khởi sắc về kinh tế trong thời kỳ 2001 – 2010 (nếu Liên Minh Tiền Tệ thành công) nên việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU đang là một trong những trọng điểm của chính sách thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ, các ngành chủ đạo như da giày, dệt may và thuỷ sản đang có những chương trình cụ thể để phát triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu sang EU. Còn các doanh nghiệp là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của xuất khẩu cũng đang có nỗ lực vươn lên để thâm nhập và đứng trên thị trường EU (cải tiến xuất khẩu: đẩy mạnh việc áp dụng tiêu chuẩn HACCP, ISO 14000 để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm và môi trường; phát huy tính năng động, …). Giai đoạn 2000 - 2010 tuy không mấy thuận lợi, nhưng với những cố gắng của Chính phủ và các doanh nghiệp, xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ vẫn trên đà phát triển, quy mô buôn bán không ngừng gia tăng, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng có thể giảm chút ít (tăng 30% /năm). Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam - EU sẽ chuyển biến theo hướng tích cực: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến lên 90% (có nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến sâu và tinh) và giảm mạnh hàng nguyên liệu thô xuống 10%. Trong nhóm hàng công nghệ phẩm, sẽ giảm mạnh tỷ lệ hàng gia công và tăng tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp (mua nguyên liệu của nước ngoài về sản xuất và xuất khẩu), và tăng tỷ lệ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nội địa. * Đối với nhóm hàng xuất khẩu truyền thống: Giày dép, dệt may và nông sản, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trưởng chậm lại. Riêng thuỷ sản sẽ có tốc độ tăng trưởng kinh ngạch cao hơn so với thời kỳ 1995 - 1999 vì mặt hàng này đang có cơ hội thuận lợi để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường EU (tháng 06/2000 EU đã công nhận 40 doanh nghiệp chế biến thuỷ hải sản của ta đạt tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh của EU). Trong nhóm hàng nông sản xuất khẩu sang EU, hạt điều sẽ có tốc độ tăng trưởng cao vì vùng nguyên liệu được phát triển mạnh; còn chè, cà phê và một số mặt hàng khác sẽ tăng trưởng chậm hơn so với những năm trước. Hai mặt hàng giày dép và dệt may sẽ có tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tăng lên và tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm cũng tăng nhanh. * Đối với nhóm hàng xuất khẩu đang được người tiêu dùng thị trường EU ưa chuộng, như: hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gia dụng, sản phẩm nhựa gia dụng, thực phẩm chế biến và hàng điện tử tin học sẽ có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao hơn nhiều so với những năm vừa qua vì nhu cầu của thị trường EU đối với nhóm hàng này đều rất lớn. Đặc biệt là mặt hàng điện tử, thực phẩm chế biến và đồ gỗ gia dụng, kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trưởng mạnh. Còn đối với một số mặt hàng mới phát triển trong thời kỳ này thì kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng rất nhanh. Sắp tới Việt Nam còn có khả năng xuất khẩu phần mềm tin học vào EU. Đây có thể sẽ là một trong những mặt hàng mới phát triển trong thời kỳ này. Hiện nay, Đức, Pháp, Bỉ, Hà Lan và một số nước khác trong EU đang báo động thiếu kỹ sư tin học và các sản phẩm tin học bắt đầu khuyến khích nhập khẩu lao động và sản phẩm tin học từ nước ngoài. Ấn Độ, Đài Loan và Malaysia đang mở rộng xuất khẩu mặt hàng này với giá thấp hơn so với Châu Âu. Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau, môi trường quốc tế thuận lợi, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế và nỗ lực của Việt Nam, hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào EU sẽ có bước chuyển biến vượt bậc và phát triển mạnh mẽ hơn trong những năm đầu thế kỷ mới. Quy mô xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này sẽ được mở rộng tương xứng với tiềm lực kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. Thị trường EU có thể chiếm tỷ trọng 25% - 27% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong thời kỳ 2005 - 2010. 4. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xúc tiến xuất khẩu 4.1 Nhóm giải pháp vĩ mô 4.1.1 Tạo môi trường quốc tế thuận lợi Để tạo ra môi trường marketing quốc tế thuận lợi nhằm hỗ trợ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, Nhà nước cần đẩy nhanh tiến trình gia nhập vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Chúng ta đã là thành viên của ASEAN, đã tham gia vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), đã tham gia với tư cách là thành viên sáng lập của Diễn đàn Hợp tác Á – Âu (ASEM), chúng ta cần tiến hành những việc làm cần thiết để trở thành thành viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc trở thành thành viên của WTO không những chúng ta hội nhập được với nền kinh tế thế giới mà còn tránh được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế, tranh thủ được sự ưu đãi mà WTO dành cho các nước đang phát triển. Gia nhập WTO sẽ làm cho khách hàng và các nhà đầu tư nước ngoài an tâm hơn khi làm ăn buôn bán với chúng ta, hàng hoá của chúng ta có thêm điều kiện để thâm nhập mở rộng thị trường nước ngoài và quan trọng hơn cả là chúng ta được hưởng chế độ ưu đãi mà các nước thành viên giành cho nhau. Đây là hình thức tốt nhất để Nhà nước giúp đỡ các doanh nghiệp làm công tác xúc tiến xuất khẩu. Tăng cường hơn nữa việc ký kết các Hiệp định song phương, đa phương giữa các quốc gia như Hiệp định thương mại Việt Mỹ, Hiệp định khung hợp tác với EU nhằm tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu từ đó sẽ nâng cao vị thế đất nước Việt Nam, tạo uy tín cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế. 4.1.2 Hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu Tăng cường quản lý Nhà nước đối với hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Quản lý Nhà nước đóng một vai trò quan trọng đối với các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Quản lý Nhà nước góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi công bằng khuyến khích các doanh nghiệp và tổ chức tham gia vào công tác xúc tiến xuất khẩu. Trong thời gian vừa qua công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này còn nhiều tồn tại: Chức năng của cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động xúc tiến xuất khẩu còn chồng chéo và không rõ ràng; các quy định về phạm vi trách nhiệm quản lý hoạt động xúc tiến xuất khẩu chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành hữu quan từ trung ương đến địa phương, do đó các doanh nghiệp, các tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu thường gặp phải những thủ tục phiền hà trong việc xin giấy phép hoạt động; quản lý Nhà nước chưa nghiêm mình gây nên tình trạng lộn xộn trong quản lý hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Vì vậy, Nhà nước cần kiện toàn bộ máy cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động xúc tiến xuất khẩu nhằm chuyên môn hoá việc ban hành luật, các văn bản pháp luật và quản lý giám sát các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Ngoài ra các Bộ, Ngành khác nhau tuỳ theo chức năng quản lý hoạt động xúc tiến xuất khẩu có tính chất đặc thù của ngành mình. Các cơ quan chính quyền địa phương có thể đưa ra những quy định riêng phù hợp với điều kiện, đặc điểm địa phương về văn hoá, kinh tế, song không được trái với các văn bản pháp quy về xúc tiến xuất khẩu của Nhà nước. Cần quy định chức năng nhiệm vụ rõ ràng cho các cơ quan quản lý Nhà nước về lĩnh vực xúc tiến xuất khẩu. Có vậy các doanh nghiệp, các tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu có thể biết đích xác cơ quan nào quản lý trực tiếp mình. Hộp 3.1: Thiếu đồng bộ trong xúc tiến thương mại 'Việc hình thành các trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh là do nhu cầu của mỗi tỉnh chứ chưa có sự kết hợp đồng bộ từ trung ương đến địa phương', bà Phan Thị Thúy Truyển, Giám đốc Trung tâm xúc tiến Thương mại Du lịch - Đầu tư tỉnh An Giang, nói. Theo bà Truyển, hiện nay hầu hết các tỉnh thành trên cả nước đều có một bộ phận chuyên về xúc tiến thương mại. Nhưng sự gắn kết giữa các bộ phận này với nhau theo khu vực và ngành hàng thì chưa hề có. Trong khi đó, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại) chưa thể hiện được vai trò là một đầu tàu định hướng và gắn kết các trung tâm này lại với nhau. Có rất nhiều UBND tỉnh vẫn chưa hiểu xúc tiến thương mại là trách nhiệm của mình. Tùy từng điều kiện mà UBND mỗi tỉnh hoạt động theo các kiểu khác nhau. Sự xuất hiện các hiệp hội ngành hàng ngày càng nhiều nhưng vẫn chưa có mối quan hệ hợp tác với trung tâm xúc tiến thương mại. Dẫn đến, công tác xúc tiến thương mại giữa tỉnh thành, hiệp hội và doanh nghiệp chưa có sự kết nối, còn manh mún, rời rạc. Trong khi đó, chính các hiệp hội là những người được hưởng lợi từ hoạt động của các Trung tâm xúc tiến thương mại. Chính những hạn chế này làm cho nguồn kinh phí Nhà nước đầu tư vào các trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh vẫn chưa đem lại hiệu quả. Ông Võ Trung Hòa, Phó giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho biết, đẩy mạnh xúc tiến tiến thương mại luôn là mục tiêu của tỉnh nhưng kết quả nhận được vẫn còn khiêm tốn. Lý do, khả năng đưa thông tin đến với khách hàng quá yếu kém, bởi nguồn nhân lực không được đào tạo một cách bài bản, nguồn kinh phí hạn hẹp, 120 triệu đồng/năm. Bên cạnh đó, Cục Xúc tiến thương mại chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể, thiếu sự nhất quán và lắm nhiêu khê. Trong chương trình hỗ trợ xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia năm 2004, Cục hứa hỗ trợ 50% kinh phí cho doanh nghiệp tham gia. Nhưng đến khi doanh nghiệp quyết toán kinh phí đó thì rất khó khăn, bởi các giấy tờ gốc đều do Bộ Thương mại giữ. Trung tâm xúc tiến thương mại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phấn khởi tham gia hội chợ ASEAN, vì được Cục hứa hỗ trợ 50%. Để kịp kịp thời trang trải chi phí, Trung tâm đã ứng trước số tiền hỗ trợ 50%, đến nay vẫn chưa quyết toán được. Nguồn: Cục xúc tiến thương mại – www.vnn.vn, cập nhật 8/2005 Cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là khâu giấy phép, giảm bớt những giấy phép không cần thiết. Nhà nước cũng cần chấn chỉnh lại công tác kiểm tra giám sát các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay theo đúng quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm minh những sai phạm. Tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Hành lang pháp lý điều tiết và quản lý các hoạt động xúc tiến xuất khẩu ở nước ta đã hình thành song còn đang trong quá trình hoàn thiện. Hệ thống pháp quy chi phối và quản lý các hoạt động xúc tiến xuất khẩu hiện nay rất rộng và tản mạn ở rất nhiều các văn bản khác nhau và còn nhiều bất cập. Do vậy Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện thêm và phải coi đây là công việc ưu tiên hàng đầu. Cần ban hành một hệ thống chính sách đầy đủ, chính xác, ổn định, tránh thay đổi quá nhiều, quá nhanh gây khó khăn cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Tăng cường phổ biến pháp luật, giám sát, kiểm tra và thanh tra các hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Điều này gián tiếp giúp các doanh nghiệp có hướng đi đúng trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu. 4.1.3 Sắp xếp lại các tổ chức xúc tiến thương mại nhằm tạo một hệ thống xúc tiến thương mại hữu hiệu trong cả nước. Sắp xếp lại các tổ chức xúc tiến thương mại hiện có ở Việt Nam để khắc phục tình trạng đông nhưng không mạnh do thiếu phối hợp trong hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại. Mạng lưới xúc tiến thương mại sẽ có các tổ chức nòng cốt và các tổ chức vệ tinh. Các tổ chức nòng cốt là: Cục xúc tiến thương mại, các bộ ngành liên quan đén thương mại như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư…, các hiệp hội ngành hàng, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam. Các tổ chức này tập trung vào xây dựng, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện, theo dõi, đánh giá và điều chỉnh các chiến lược và kế hoạch xúc tiến xuất khẩu, gắn những mặt hàng cụ thể với những thị trường cụ thể. Ngoài ra, các tổ chức này cũng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo, nâng cao năng lực xúc tiến xuất khẩu ở các cấp. Các tổ chức vệ tinh của mạng lưới là các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Nhà nước cấp tỉnh/thành phố, các chi nhánh của các hiệp hội ngành hàng, hiệp hội kinh doanh địa phương và các tổ chức cung ứng dịch vụ xúc tiến xuất khẩu. Các tổ chức này sẽ tập trung vào việc tổ chức thực hiện chiến lược xúc tiến xuất khẩu dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của các tổ chức nòng cốt nói trên. 4.1.4 Tăng cường hỗ trợ tài chính cho công tác xúc tiến xuất khẩu Tháng 08/2001 Bộ Tài chính ban hành Thông tư 61 thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Ngày 27/09/2002 Bộ Tài chính lại ban hành Thông tư 86 hướng dẫn chi hỗ trợ cho các doanh nghiệp tham gia xúc tiến xuất khẩu. Tuy nhiên chỉ những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn mới được hưởng trợ cấp từ quỹ này và thủ tục duyệt xin trợ cấp rất phức tạp. Nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có kim ngạch xuất khẩu nhưng rất có tiềm năng xuất khẩu và rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong công tác xúc tiến xuất khẩu thì lại không thuộc diện được trợ cấp. Do vậy cần phải thành lập quỹ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu riêng để hỗ trợ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, việc duyệt cấp kinh phí từ Quỹ hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu phải dựa trên các chương trình hoạt động cụ thể phục vụ chung cho cả cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là các hoạt động mà bản thân doanh nghiệp không tự làm được hoặc làm không hiệu quả bằng Nhà nước. Tích cực khai thác nguồn vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến xuất khẩu. Nguồn vốn này có thể do các doanh nghiệp, các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Phi Chính phủ, các tổ chức xã hội nghề nghiệp đóng góp và cũng có thể trích số phần trăm nhất định (0,25%) từ kim ngạch xuất khẩu. 4.1.5 Nhà nước giúp cải tiến và nâng cao chất lượng các dịch vụ xúc tiến xuất khẩu. Dịch vụ cung cấp thông tin thương mại: Theo điều tra, có đến 90% doanh nghiệp cảm thấy thiếu thông tin về thị trường quốc tế. Nhu cầu về thông tin rất lớn đa dạng và luôn biến động. Để đáp ứng nhu cầu này, Nhà nước cần mở rộng và phát huy vai trò của các đại diện thương mại và ngoại giao của nước ta ở nước ngoài, đào tạo nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, thu thập, xử lý và phân tích thông tin, tạo điều kiện cho họ làm việc. Chỉ nên lấy phí đối với các thông tin chuyên sâu, được thu thập và xử lý theo yêu cầu của doanh nghiệp. Nhà nước nên khuyến khích và hỗ trợ cho các tổ chức như các hiệp hội ngành hàng, các công ty dịch vụ thông tin, các công ty tư vấn kinh doanh…cung cấp thông tin bằng nguồn hội phí hoặc theo cơ chế thị trường. Các trung tâm thông tin thương mại của Nhà nước như Viện nghiên cứu thương mại và Trung tâm thông tin Thương mại của Bộ Thương mại cần chuyển thành các doanh nghiệp độc lập. Các cơ quan quản lý Nhà nước có thể đặt mua thậm chí đấu thầu mua thông tin đầu ra ở bất kỳ tổ chức dịch vụ thông tin nào mà họ thấy tốt nhất. Làm như vậy sẽ đẩy mạnh thị trường cung cấp thông tin phát triển, nhất định sẽ nâng cao được chất lượng cung cấp thông tin cũng như chất lượng nguồn tin. Nhà nước cũng cần sớm ban hành những hướng dẫn cụ thể về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet;… Hoạt động hội chợ triển lãm: Nhà nước cần nhanh chóng thành lập hiệp hội Hội chợ triển lãm và hỗ trợ cho hiệp hội này phát triển thành một Diễn đàn chung của các tổ chức kinh doanh hội chợ triển lãm. Sử dụng hiệp hội như một trợ thủ đắc lực của các cơ quan quản lý Nhà nước về xúc tiến xuất khẩu trong việc đào tạo nâng cao năng lực tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm, lập kế hoạch tổ chức hội chợ triển lãm hàng năm cũng như giám sát và kiểm tra các hoạt động hội chợ triển lãm. Nhà nước thông qua Bộ Thương mại chỉ đạo các đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài lựa chọn các hội chợ triển lãm quốc tế truyền thông hàng năm phù hợp và có hiệu quả đối với hàng xuất khẩu của nước ta để hướng dẫn; giúp đỡ các doanh nghiệp tham gia; tổ chức đào tạo nâng cao kỹ năng tổ chức hội chợ triển lãm, nhất là tổ chức ở nước ngoài cho các doanh nghiệp và tổ chức và tham gia hội chợ triển lãm; giúp đỡ và hỗ trợ cả về mặt kỹ thuật lẫn tài chính để các doanh nghiệp tăng cường hơn nữa các cuộc hội chợ triển lãm ở nước ngoài Việt Nam. Đối với các hoạt động quảng cáo và xúc tiến bán hàng: Nhà nước cần sớm ban hành và hướng dẫn thực hiện một cách chi tiết những quy định pháp luật và quảng cáo và xúc tiến bán hàng để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh doanh dịch vụ quảng cáo biết và thực hiện để tránh những vi phạm không chủ ý; xem xét nới lỏng mức khống chế được phép chi cho quảng cáo và xúc tiến bán hàng của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có những sản phẩm mới cần quảng cáo hay muốn xây dựng thương hiệu trên thị trường thế giới; sớm ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý các hoạt động quảng cáo, nhất là trong việc xin và cấp giấy phép quảng cáo, nếu làm được như vậy thì sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí trong lĩnh vực này nhất là cho những người xin giấy phép; tổ chức đào tạo nâng cao kỹ năng về quảng cáo cho các doanh nghiệp cũng như tổ chức các dịch vụ quảng cáo để khắc phục những yếu kém trong quảng cáo. 4.1.6 Khuyến khích và tạo cơ chế để các tổ chức nước ngoài tham gia xúc tiến xuất khẩu từ Việt Nam Thuận lợi hoá và đơn giản hơn nữa thủ tục nhập cảnh của người nước ngoài vào khảo sát thị trường và cư trú ngắn hạn bằng cách lập các trung tâm thương mại cung cấp các thiết bị văn phòng, thông tin tư vấn cho các nhà đầu tư và nhập khẩu nước ngoài. Từng bước cho phép các công ty nhập khẩu nước ngoài mở chi nhánh ở Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu, khuyến khích họ phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới. Tháo gỡ vướng mắc để doanh nghiệp có vốn nước ngoài tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời đàm phán với các nước hữu quan có chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư của họ tại Việt Nam. Ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các tổ chức, cá nhân gây phiền hà, sách nhiễu đối với khách du lịch và thương nhân xuất, nhập cảnh. Tạo điều kiện thuận lợi về lãnh sự cho thương nhân. Thực tế cho thấy những năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên một cách đáng kể, đóng góp không nhỏ vào việc tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. 4.1.7 Tăng cường xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho công tác xúc tiến xuất khẩu ở trong và ngoài nước Một khó khăn lớn nhất cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu hiện nay là cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu không chỉ ở các địa phương mà ở cả các thành phố và các trung tâm thương mại lớn trong cả nước đều yếu kém và thiếu. Hiện nay, trung tâm quảng cáo lớn nhất của Việt Nam - Triển lãm Giảng Võ, Hà Nội mới chỉ có 650 gian hàng tiêu chuẩn 3mx3m. Trang thiết bị cũng như phòng hội nghị quốc tế của các địa điểm triển lãm quá nghèo nàn hoặc hầu như không có. Do hạn chế về nguồn lực, kể cả nguồn nhân lực, tài lực và phương tiện kỹ thuật, các hoạt động xúc tiến xuất khẩu do các cơ quan thương vụ tiến hành đang gặp những khó khăn lớn. Để khắc phục tình trạng này hiện nay Chính phủ đã phê duyệt cho Bộ Thương mại thành lập 3 trung tâm giới thiệu sản phẩm tại Mỹ, Nga và Dubai. Đây là một bước tiến lớn trong công tác xúc tiến xuất khẩu để phục vụ các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Chính phủ nên tiếp tục thành lập thêm các trung tâm ở các nước khác nữa và hỗ trợ cho các trung tâm này về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực để các trung tâm này thực sự là đầu mối xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. 4.1.8 Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xúc tiến xuất khẩu Cho đến nay Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ to lớn của các tổ chức xúc tiến thương mại trên thế giới như Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC), nhóm đặc trách về xúc tiến thương mại của APEC, tổ chức xúc tiến thương mại của Nhật Bản (JETRO), của Thụy Sỹ (SIPPO), của Hàn Quốc (KOTRA), Đài Loan (CETRA), Australia (AUSTRADE)… và đến nay Việt Nam đã là thành viên chính thức của Trung tâm xúc tiến thương mại - Đầu tư – Du lịch Nhật Bản – ASEAN (AJC), của Diễn đàn các tổ chức xúc tiến thương mại Châu Á (ATPF). Dự án VIE-98-021 về xúc tiến thương mại và phát triển xuất khẩu đã được tiến hành xong giai đoạn đầu và đang chuẩn bị bước vào giai đoạn chính. Đây là những nỗ lực lớn trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về xúc tiến thương mại. Tuy nhiên, để hoạt động xúc tiến thương mại thực sự có hiệu quả, nhằm đẩy nhanh kim ngạch xuất khẩu, Chính phủ cần thiết phải tăng cường hơn nữa việc thiết lập quan hệ hợp tác song phương, đa phương giữa các tổ chức xúc tiến thương mại trên thế giới nhằm tranh thủ tối đa sự trợ giúp từ bên ngoài. Thiết lập lại quan hệ chính thức cấp bộ với các bộ phận kinh tế thương mại của các sứ quán tại Hà Nội, các văn phòng đại diện của các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài ở Việt Nam, phát triển hơn nữa quan hệ trực tiếp với các tổ chức xúc tiến thương mại ở nước ngoài. Hiện nay trên thế giới có trên 150 nước có cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia tạo thành một hệ thống các tổ chức xúc tiến thương mại. Việc học hỏi kinh nghiệm các tổ chức này về cách thức tổ chức, về quy mô hoạt động…; việc thiết lập quan hệ hợp tác song biên, đa biên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là trong điều kiện hiện nay khi nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 4.2 Nhóm giải pháp vi mô Để các hoạt động xúc tiến xuất khẩu thực sự có hiệu quả, phát huy vai trò là động lực chính thúc đẩy xuất khẩu, ngoài sự giúp đỡ của Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp và các tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu phải nỗ lực nhiều hơn nữa mới có thể có những bước đột phá trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Vì vậy đối với các doanh nghiệp và các tổ chức làm công tác xuất khẩu, những kiến nghị sau đây cần được thực hiện: 4.2.1 Cần nâng cao nhận thức về xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Nhận thức và hiểu biết về xúc tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung và các tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu nói riêng còn yếu, chưa đầy đủ hoặc chưa hệ thống. Do vậy, cần phải nâng cao nhận thức và hiểu biết về xúc tiến xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu không chỉ dừng lại ở chỗ tìm kiếm, mở rộng thị trường và khách hàng mà phải biết gắn kết với hoạt động cải tiến và phát triển sản phẩm mới để bán ra cái mà thị trường cần chứ không phải cái mà mình có. Phải đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu thị trường, phát hiện lợi thế cạnh tranh, tạo ra những sản phẩm độc đáo. Kết hợp hoạt động mở rộng thị trường với các biện pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá, tạo chỗ đứng vững chắc cho hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. 4.2.2 Cần đưa ra chiến lược, kế hoạch và mục tiêu xúc tiến xuất khẩu cụ thể Cần phải xây dựng chiến lược, kế hoạch cụ thể rõ ràng cho mỗi chương trình xúc tiến xuất khẩu. Xác định mục tiêu phù hợp với công cụ xúc tiến xuất khẩu. Các công cụ này phải phù hợp với mục tiêu đã đưa ra trong chiến lược và kế hoạch marketing, kế hoạch và chiến lược xúc tiến xuất khẩu và nhất là đặc điểm của từng công cụ xúc tiến xuất khẩu. Hướng xúc tiến xuất khẩu cần phải nhằm vào việc nâng cao chất lượng hàng hoá, cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu và xây dựng uy tín cho sản phẩm của công ty. Các hoạt động xúc tiến xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn bao gồm các hoạt động tình thế, ngắn hạn, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực hội chợ triển lãm, quảng cáo và khuyến mại ở các thị trường trong nước, thiếu tầm nhìn và định hướng chiến lược lâu dài và rõ ràng cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu, nhiều hoạt động xúc tiến xuất khẩu không có mục tiêu cụ thể, không có trọng tâm, trọng điểm, được tiến hành một cách bị động hoặc chưa gắn những mặt hàng cụ thể để có những hình thức xúc tiến cụ thể phù hợp hơn. Do vậy, xúc tiến xuất khẩu thường ào ào, dàn trải gây tốn kém mà không đạt được hiệu quả trong kinh doanh. 4.2.3 Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và các tổ chức xúc tiến xuất khẩu Hoạt động xúc tiến xuất khẩu ngày càng đông song sự phối hợp giữa các tổ chức này còn yếu nên dẫn đến tình trạng đông nhưng không mạnh. Do vậy, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, hợp tác và liên kết hoạt động giữa các tổ chức này để tránh tình trạng trùng lặp, chỗ thừa, chỗ thiếu, chỗ cần thì không đáp ứng đủ và kịp thời và ít tổ chức đứng ra đảm nhiệm (dịch vụ thông tin, dịch vụ nghiên cứu và phát triển sản phẩm). Phối hợp và liên kết các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sẽ tạo ra một sức mạnh chung với mục tiêu mà các bên cùng hướng tới đó là tăng sức mạnh cạnh tranh trên thị trường quốc tế để có thể đối đầu với các công ty quốc tế.4.2.4 Cần ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động xúc tiến xuất khẩu Khoa học công nghệ và thông tin góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường trao đổi thông tin xuất khẩu và phối hợp các hoạt động xúc tiến xuất khẩu giữa các tổ chức xúc tiến xuất khẩu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và cạnh tranh gay gắt như hiện nay yếu tố điện tử trong công nghệ thông tin hỗ trợ một cách đắc lực cho các hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. Cần thiết phải lập thêm các trang Web cung cấp thông tin xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng Internet để phục vụ các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Cung cấp các trang thiết bị như hệ thống máy vi tính, fax, photocopy, điện thoại, kết nối mạng Internet với các trung tâm cung cấp dữ liệu quốc tế và địa phương cũng như quốc gia. 4.2.5 Xác định và tăng ngân sách cho các hoạt động xúc tiến xuất khẩu Khó khăn mà các doanh nghiệp và tổ chức xúc tiến xuất khẩu gặp phải là thiếu ngân sách cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Một phần là nguồn lực tài chính của các tổ chức này còn rất hạn chế, một phần do ràng buộc pháp lý trong vấn đề chi cho hoạt động xúc tiến xuất khẩu theo quy định của Nhà nước. Ngay khi đề ra kế hoạch xúc tiến, các doanh nghiệp cần phải cân đối các khoản chi tiêu, xác định ngân sách cho từng khâu cụ thể trong xúc tiến, ưu tiên những mục tiêu quan trọng. 4.2.6 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực Hiện nay nguồn nhân lực làm công tác xúc tiến xuất khẩu ở tất cả các cấp đều thiếu và yếu. Thiếu cán bộ có chuyên môn, có kinh nghiệm, có kỹ năng, có tâm huyết trong hoạt động xúc tiến xuất khẩu. Hơn nữa, xúc tiến xuất khẩu là một lĩnh vực tương đối mới ở Việt Nam, vì vậy hầu hết cán bộ làm công tác này chuyên môn còn rất non kém, bỡ ngỡ trong việc sử dụng các công cụ xúc tiến xuất khẩu lại hạn chế về trình độ ngoại ngữ nên gặp nhiều khó khăn trong việc giao tiếp với người nươc ngoài, với các chuyên gia giỏi hạn chế trong việc đọc các tài kiệu, các sách nói về kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu của các nước tiên tiến. Do vậy, việc làm cấp bách trước mắt là phải năng cao năng lực, trình độ, kỹ năng xúc tiến xuất khẩu của cán bộ làm công tác xúc tiến xuất khẩu. Tổ chức các khoá đào tạo và đào tạo lại cán bộ làm công tác xúc tiến xuất khẩu cả về nghiệp vụ xúc tiến xuất khẩu lẫn ngoại ngữ, có thể ở trong nước, có thể gửi đi nước ngoài, ngắn hạn, dài hạn, tuỳ tình hình và mục tiêu cụ thể. Ngoài ra, cần tuyển mới đội ngũ những người có kinh nghiệm xúc tiến xuất khẩu, có trình độ ngoại ngữ giỏi, có chuyên sâu về nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, có thể là những sinh viên mới tốt nghiệp đạt loại khá trở lên của các trường đại học thuộc khối kinh tế. Nhìn chung, để hoạt động xúc tiến xuất khẩu mang lại hiệu quả tốt nhất, các cá nhân và tổ chức làm công tác xúc tiến xuất khẩu phải đảm bảo các tiêu chí sau: Là người cung cấp thông tin; Là người môi giới; Là người chắp mối; Là nhà tư vấn và đào tạo; Là nhà tài trợ cấp tín dụng xuất khẩu; Là người tổ chức đoàn ra, đoàn vào, các chuyến du lịch, các cuộc hội thảo, hội nghị,… để tìm cơ hội xuất khẩu; Là người phát hiện thị trường mục tiêu, ngành hàng mục tiêu,…; Là người sử dụng thành thạo các công cụ xúc tiến xuất khẩu như quảng cáo, hội chợ triển lãm, xúc tiến bán hàng, quan hệ công chúng, dịch vụ đường dây nóng, bảng quảng cáo, các phương tiện thông tin đại chúng,… Và cuối cùng, phải là người biết lựa chọn những thị trường có vị trí địa lý thuận lợi để thâm nhập. KẾT LUẬN Liên minh Châu Âu (EU) hiện nay là tổ chức có hình thức liên kết khu vực phát triển nhất trên thế giới, có đồng tiền chung, chính sách chính trị, kinh tế, an ninh dựa trên các quy tắc chung cho cả khối. Kể từ khi hình thành EU đã không ngừng mở rộng và phát triển, góp một vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế thế giới. Hoạt động thương mại hai chiều nói chung và xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU nói riêng đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn liền với những chuyển biến kinh tế của cả hai phía. EU là thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam. EU đã và đang thúc đẩy hoạt động hợp tác kinh tế thương mại song phương và mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng Việt Nam. Với một thị trường phát triển và tiềm năng như vậy, Việt Nam cần phải hết sức nỗ lực hoạt động để chiếm lĩnh, một trong những biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh và củng cố hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang EU là thực hiện tốt các biện pháp xúc tiến xuất khẩu. Luận văn đã đưa ra thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU đồng thời Luận văn cũng chỉ ra các hoạt động cụ thể của Nhà nước và các Tổ chức xúc tiến xuất khẩu, các Hiệp hội ngành nghề, các tổ chức Phi Chính phủ và các doanh nghiệp trong việc hỗ trợ, cung cấp các biện pháp xúc tiến xuất khẩu như: cung cấp thông tin thị trường, tổ chức hội chợ triển lãm, tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với các đối tác, bạn hàng,… cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Từ đó, xây dựng những định hướng và giải pháp cả ở tầm vĩ mô, về phía Nhà nước và giải pháp ở tầm vi mô, về phía doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xúc tiến xuất khẩu, từ đó đẩy mạnh hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Với nỗ lực và thiện chí của cả Việt Nam và EU, tin rằng quan hệ thương mại, đặc biệt là đối với xuất khẩu hàng hoá, Việt Nam – EU sẽ được cải thiện cả bề rộng và bề sâu. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28579.doc
Tài liệu liên quan