HUYỆN CHIÊM HOÁ -TUYÊN QUANG NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
1. Lý do chọn đề tài
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc Việt Nam, là địa bàn cư trú
của 22 dân tộc anh em. Từ buổi sơ khai của lịch sử nơi đây đã có người
nguyên thuỷ sinh sống. Đất lành chim đậu mảnh đất này đã thu hút các dòng
người từ bốn phương tìm về tụ lại .
Xứ Tuyên Quang mà trung tâm là vùng Chiêm Hoá xưa nay là một địa
bàn lãnh thổ có nhiều tộc người cộng cư bên nhau.
Chiêm Hóa là vùng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai tương
đối màu mỡ, giàu tài nguyên khoáng sản, các dân tộc Chiêm Hoá mặc dù có
nguồn gốc lịch sử khác nhau nhưng khi đã cùng nhau sinh sống tại nơi đây thì
các dân tộc đã tích cực khai phá, mở mang ruộng đồng, xây làng lập bản để
làm nơi sinh cơ lập nghiệp và phát triển lâu dài.
Tình hình cộng cư của nhiều thành phần dân tộc gắn liền với quá trình
phát triển lâu dài của đất nước.Việc xây dựng cộng đồng chính trị xã hội trong
lịch sử không tách rời với việc xây dựng cộng đồng quốc gia dân tộc gồm
nhiều thành phần dân tộc. Tình hình đó luôn gắn liền và bị chi phối bởi yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung, từng vùng miền nói
riêng và bởi yêu cầu chống ngoại xâm bảo vệ sự tồn tại của quốc gia độc lập.
Trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội ở các vùng dân tộc miền núi
nói chung và Chiêm Hoá nói riêng “Với yêu cầu của công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước, việc di dân gắn liền với việc phân bố dân cư, quy hoạch, xây
dựng các vùng kinh tế. Đảng và Nhà nước rất quan tâm tới việc xây dựng và
phát triển kinh tế xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số.Việc phân bố lại dân cư
gắn với xây dựng các vùng kinh tế nhằm khắc phục dần sự cách biệt về kinh
tế xã hội giữa các dân tộc, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, phát triển
1
kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, đồng thời góp phần khôi phục
rừng bảo vệ môi trường sinh thái” [26, tr43].
Là vùng đất rộng người thưa, núi non hiểm trở, có vị trí chiến lược về
quốc phòng Chiêm Hoá từ xa xưa luôn là một bộ phận của tổ quốc Việt Nam
thống nhất. Đồng bào các dân tộc nơi đây có truyền thống đoàn kết, yêu nước,
giàu lòng nhân ái, dũng cảm trong đấu tranh chống cường quyền, áp bức,
đánh giặc ngoại xâm; cần cù, sáng tạo trong lao động và có đời sống văn hoá
tinh thần khá phong phú, độc đáo.
Ngày nay, công cuộc đổi mới đất nước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” là sự nghiệp của toàn xã hội, toàn dân tộc trong đó có
phần đóng góp không nhỏ của những huyện miền núi như Chiêm Hoá vào
công cuộc phát triển chung của đất nước.
Bản thân tôi là một ngưòi dân địa phương cũng như bao người dân
khác sinh sống trên mảnh đất Chiêm Hoá lịch sử đều mong muốn hiểu biết về
một thời kỳ lịch sử của địa phương mình: Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội
cũng như đời sống tinh thần phong phú, độc đáo của nhân dân các dân tộc
Chiêm Hoá nửa đầu thế kỷ XIX.
Việc nghiên cứu về một thời kỳ lịch sử của Chiêm Hoá (nửa đầu thế kỷ
XIX) còn góp phần làm cơ sở cho việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta: đại đoàn kết dân tộc, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, xây dựng
con người mới, cuộc sống mới trên mảnh đất Chiêm Hoá giàu truyền thống.
Được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn khoa học là
PGS. TS Đàm Thị Uyên cùng các thầy, cô giáo trong tổ bộ môn Lịch Sử Việt
Nam và Ban Chủ nhiệm khoa Lịch Sử trường Đại học Sư Phạm - Đại học Thái
Nguyên, nên tôi đã chọn đề tài: “Huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang) nửa đầu thế
kỷ XIX”.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN CHIÊM HOÁ TỈNH TUYÊN QUANG 7
1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và các thành phần dân tộc . 7
1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên . 7
1.1.2. Các thành phần dân tộc trong huyện . 9
1.2. Lịch sử hành chính 16
Chương 2: KINH TẾ CHIÊM HOÁ NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX . 17
2.1. Vài nét về tình hình ruộng đất trước thế kỷ XIX 17
2.2. Tình hình ruộng đất Chiêm Hoá nửa đầu thế kỷ XIX theo địa
bạ Gia Long 4 (1805). 21
2.3. Tình hình ruộng đất Chiêm Hóa giữa thế kỉ XIX theo địa bạ
Minh Mệnh 21 (1840) 30
2.4. Tình hình hoạt động kinh tế . 36
2.4.1. Nông nghiệp . 36
2.4.2. Công thương nghiệp . 39
2.5. Thuế khóa . 43
Chương 3: TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA HUYỆN
CHIÊM HOÁ NỬA ĐẤU THẾ KỈ XIX 47
3.1. Chính trị - xã hội . 47
3.1.1. Các tầng lớp xã hội . 49
3.1.2. Thiết chế chính trị- xã hội . 58
3.2. Một số yếu tố văn hóa tộc người 60
3.2.1. Văn hoá vật chất. 61
3.2.2. Tục lệ xã hội . 68
3.2.3. Văn hóa tinh thần 75
KẾT LUẬN . 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 88
99 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2401 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Huyện Chiêm Hoá -Tuyên Quang nửa đầu thế kỷ xix, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý do trên đây, luận văn chỉ nêu
một số yếu tố văn hóa cơ bản của người Tày và người Nùng mà thôi.
3.2.1. Văn hoá vật chất.
Chiêm Hoá xưa vốn là nơi cư trú đông đảo của các dân tộc Tày, Kinh,
Nùng, Dao, Mông…, bên cạnh những yếu tố văn hoá chung, các dân tộc
Chiêm Hoá còn mang trong mình những yếu tố mang đậm sắc thái riêng, đặc
thù của vùng. “Phong tục mộc mạc quê mùa, nhiều người ngoan ngạnh, có
bệnh thì tin ma quỷ mà không tin chữa thuốc... ở bằng nhà sàn, mặc ưa màu
xám...” [21, tr342].
- Làng bản, nhà cửa
Làng bản của người Tày- Nùng thường tựa lưng vào sườn núi hoặc
xây dựng trên những đồi thấp dọc khe suối, có khi ở giữa đồng. Chỗ tiện nhất
là nơi có thể đưa nước máng đến nhà được.
Đồng bào ở thành từng bản, trung bình mỗi bản gồm 10 đến 15 nhà,
bản to có tới 50, 60 nhà.
Chỗ ở lý tưởng của đồng bào Tày, Nùng là tiện nước, gần ruộng, gần
các rừng cây, cao ráo, khi mưa xuống nước bẩn, rác rưởi có thể chảy xuống
ruộng làm cho đất thêm màu mỡ.
Nhà không chỉ là nơi che mưa, che nắng, tránh giá rét khi mùa đông về
mà nhà ở còn phải phù hợp với cảnh quan núi rừng tạo nên sự hài hòa giữa
ngôi nhà với khung cảnh thiên nhiên. Bởi vậy ngôi nhà truyền thống của đồng
bào Tày- Nùng ở Chiêm Hóa Tuyên Quang đã ra đời xuất phát từ điều kiện cư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
62
trú, đặc điểm văn hóa vùng quy định. Không chỉ vậy, ngôi nhà còn thể hiện
tâm tư tình cảm, phản ánh những giá trị mang đặc trưng văn hóa của mỗi dân
tộc. Cấu trúc và bố cục của mỗi ngôi nhà còn thể hiện phong tục tập quán và
tín ngưỡng dân gian của mỗi dân tộc đó.
Nhà của người Tày- Nùng có 2 loại: Nhà sàn, nhà đất.
+ Nhà sàn (rườn hay lườn): Nhà sàn của đồng bào phổ biến là nhà 3
gian 2 chái hoặc 5 gian 2 chái (nhưng chiếm số lượng ít). Vì kèo thường có
kết cấu kiến trúc kèo câu kẻ suốt 4 hàng chân cột (gồm 2 cột cái và 2 cột
quân). Các hệ vì liên kết với nhau bằng hệ thống xà xiên – một kết cấu mang
đậm phong cách kiến trúc của cư dân “văn hóa nương rẫy”, nó khác hẳn với
kiểu kết cấu mộng đuôi én của người Việt. Đây là điểm rất khác biệt, mang
tính bản sắc của kết cấu kiến trúc mái nhà vùn núi phía Bắc nước ta và là kiểu
mộng được coi là truyền thống của nhà sàn người Tày ở Tuyên Quang. Do
nhà sàn không có hệ thống tường chịu lực xung quanh, bởi vậy toàn bộ sức
nặng của mái được dồn xuống hệ thống cột và tảng kê chân cột (trước đây, hệ
thống cột của ngôi nhà thường được chôn thẳng xuống đất, ngày nay nhiều
nhà dùng đá để kê dưới chân cột nhưng vẫn có một cột trong nhà được chôn
thẳng xuống đất). Theo quan niệm của người Tày cho rằng cột đó là để âm
dương hòa hợp giúp ngôi nhà được bền vững, trường tồn với thời gian và các
thành viên trong gia đình được khỏe mạnh… Nhà của người Tày ở đây phần
lớn cột được đẽo tròn, ngày nay do nguồn nguyên liệu bị hạn chế nên có nơi
đồng bào còn làm cột vuông.
Sàn nhà thường được làm bằng gỗ hoặc dát bằng tre mai, mặt sàn cách
nền đất khoảng 1,8m. Xung quanh nhà được thưng bằng phên nứa đan nong
mốt hoặc nong đôi, những gia đình có điều kiện thì thưng bằng ván gỗ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
63
Mái của nhà sàn được lợp bằng lá cọ với nhiều lớp xếp chồng lên nhau
rất dày. Kết cấu này rất phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng
ẩm của khu vực miền núi phía Bắc. Có nơi nhà sàn được lợp ngói, phổ biến là
lợp ngói máng (ngói âm dương).
Cách bố trí nội, ngoại thất của nhà sàn ở Chiêm Hóa cũng khá tương
đồng với các vùng. Nhà sàn được bố trí cầu thang lên xuống ở đầu hồi, có 2
cửa được mở ở phía hai đầu thích, xung quanh có cửa sổ tạo sự thông thoáng.
Thích ngoài là nơi nghỉ chân của khách trước khi vào nhà, đồng thời là nơi để
người trên nhà xuống sân lên nhà tránh nhau, là nơi để giày, dép… Thích
trong thường là nơi bắc nước lần trên khe về, nơi tắm giặt, đặt cối xay, giã
gạo, bên ngoài là nơi phơi các nông sản như thóc, ngô, sắn…
Không gian trong nhà được chia mang tính ước lệ theo những chuẩn
mực nhất định:
Phía ngoài là phần trang trọng nhất của ngôi nhà, tại đây có đặt bàn thờ
ở gian giữa. Bên cạnh cửa sổ có các “thát”, là nơi dành cho nam giới.
Phía trong là phần dành cho sinh hoạt của gia đình, có bếp phụ để đun
nấu, giáp vách là các căn buồng dành cho con gái, con dâu, khách là phụ nữ.
Nhà sàn của người Tày- Nùng là loại nhà tổng hợp cao độ. Trừ sàn
phơi ra, tất cả những bộ phận nhà cửa dùng vào việc sinh hoạt và sản xuất
như: buồng ăn, buồng ngủ, buồng tiếp khách, bàn thờ tổ tiên, bếp, kho chứa
lương thực… đều nằm trong 1 chiếc nhà lớn.
Nhà sàn của người Tày mang bản sắc văn hóa tộc người đậm nét, là kết
quả của quá trình lao động và sáng tạo. Là nơi chứa đựng tình cảm, mối quan
hệ ứng xử thường nhật. Ngôi nhà mang dáng dấp vững chãi, thoáng đãng và
là niềm tự hào của người Tày.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
64
+ Nhà đất là 1 biến dạng của dạng của nhà sàn tường đất, kiến trúc
căn bản giống nhau. Nhưng tầng dưới đất thì dành cho người ở, mở thêm
nhiều cửa sổ, ngăn thành phòng riêng cho nam, nữ, còn sàn gác thì thu hẹp
lại, biến thành gác tối để để đựng thóc lúa, hòm xiểng và những đồ lặt vặt
trong gia đình. Bếp không để ở nhà chính nữa mà thường để ở gian đằng sau
hay giáp bên cạnh.
- Ăn uống
Văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam còn được
thể hiện khá đậm nét qua các bữa ăn truyền thống, nó phản ánh diện mạo và
đặc điểm kinh tế của mỗi dân tộc. Xuất phát từ hoạt động kinh tế mang tính
nông nghiệp trồng trọt đóng vai trò chủ đạo và cây lúa là cây trồng chính. Nên
trong bữa ăn của người Tày – Nùng thì thức ăn chính vẫn là cơm, lương thực
gồm: gạo nếp, gạo tẻ; ngô, khoai, sắn, ngô là món ăn phụ quan trọng nhất.
Trước kia ở 1 số vùng, đồng bào ăn cơm nếp là chính, khi giáp hạt cũng có
thể ăn ngô, khoai, sắn.
Người Tày ăn ngày hai bữa chính có thể có bữa phụ vào buổi sáng sớm.
Thực phẩm dùng trong bữa ăn của người Tày thường là các loại rau trồng, rau
thu hái ở tự nhiên như: rau dớn, mộc nhĩ, nấm hương; các loại thịt gia súc, gia
cầm do chăn nuôi: thịt thú rừng, chim săn bẫy được; các loại cá, tôm nuôi
hoặc đánh bắt được. Món ăn thường là xào, luộc, nấu canh, nướng trên than
hồng, vùi trong tro nóng.
Gia vị: đồng bào thiên về dùng gừng, nghệ, ớt, mẻ… Đồng bào thường
nấu cơm nhiều hơn nhu cầu ăn của gia đình, với quan niệm là phải để thừa thì
mới dư dật, ăn nên làm ra.
Đồng bào còn có tập quán dự trữ và để dành thực phẩm, họ có nhiều
cách giữ thịt để lâu hàng tháng có khi hàng năm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
65
Món thịt lạp: thịt lọc hết xương pha thành khổ dày khoảng 3 đầu ngón
tay dài khoảng 20 – 30 cm ướp thịt với muối, giềng giã nhỏ, một ít diêm sinh,
một ít rượu trộn đều cho vào chum đậy nắp, chừng 3 đến 4 ngày cho thịt
ngấm đều gia vị và muối. Lấy thịt ra xâu từng miếng treo lên gác bếp, khi ăn
cho vào nước ấm rửa sạch rồi thái để xào nấu.
Món thịt thính: thái thịt thành miếng vừa ăn cho muối, gia vị xào chín
bắc ra để nguội trộn với bột thính gạo nếp, đậu tương rang cho vào chum đậy
lại khi ăn cho bát thịt thính hấp trong nồi cơm cho nóng.
Món thịt hém: thái thịt, ướp muối, cho ít diêm sinh để ngấm gia vị đem
xào chín bắc ra để nguội, cho vào chum thêm ít rượu nếp ủ, đảo đều rồi đậy
kín. Thịt hém có thể ăn ngay không cần chưng.
Món hém cá (pja bẳm hay nặm bẳm): đây là món ăn đặc sản mang đậm
bản sắc của người Tày. Trước kia chưa có nước mắm mang từ miền xuôi
mang lên, đồng bào làm pja bẳm dự trữ thực phẩm, đồng thời là thức chấm
khi ăn xôi, ăn các món luộc. Để làm pja bẳm cần có: cá các loại, giềng, muối,
men rượu, gừng, lá cơm xôi đỏ, một ít diêm tiêu. Cách làm: cá mổ sạch cho
vào trộn đều ướp với các gia vị như trên, sau đó cho vào chum trộn đều với
men rượu, thường tỉ lệ 1 cá, 1 men rượu, bịt kín miệng chum đậy nắp hoặc
phơi chum ra chỗ nắng. Hém cá ủ khoảng 15 – 20 ngày có thể ăn được. Khi
ăn được hém cá có mùi thơm hấp dẫn, thịt cá không phân rã mà cứng có màu
đỏ ăn rất ngọt và thơm, cũng có khi đem chưng lên trước khi ăn.
Ngoài các món ăn trên, người Tày ở Chiêm Hóa còn biết làm nhiều loại
bánh như: bánh gừng, bánh gù, bánh chuối; chè lam, bỏng, xôi 5 màu…
Đồ uống: đồng bào thường uống các loại nước trà, là vối, chè dây, thân
lá lúc lắc… là những loại lá dễ kiếm, giải khát tốt.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
66
Người Tày thường có tập quán uống trà từ lâu, mùa đông người ta hay
vần ấm trà bên bếp lửa hồng, nhấm nháp tách trà thơm ngon, nóng già…
Trong sinh hoạt hàng ngày, ngoài uống nước thông thường, người Tày
còn uống rượu (kin lẩu) trong bữa ăn. Rượu là đồ uống không thể thiếu được
trong sinh hoạt văn hóa của cộng đồng người Tày nói chung và người Tày ở
huyện Chiêm Hóa nói riêng.
Rượu được nấu từ gạo, ngô, trước kia nấu cả bằng sắn, đồng bào tự làm
men bằng lá, gọi là men lá, sau này người ta ít dùng men lá. Tuy nhiên, đồng
bào ở Chiêm Hoá chủ yếu là uống rượu nếp. Người Tày còn có một loại rượu
đặc sản – rượu ngô, người ta dùng ngô chưa xay trộn với thân cây móc rừng
đã đẽo bỏ phần vỏ, băm nhỏ nấu chín cả ngô với móc, bỏ ra để nguội, tra men
vào ủ, khoảng 5- 6 ngày đem nấu cất thành rượu, rượu có mùi thơm với
hương vị đặc trưng.
Nhìn chung thì đồng bào các dân tộc ở Chiêm Hoá cũng giống như các
dân tộc miền núi ở các địa phương khác đều biết dùng những sản vật của tự
nhiên để chế ra các loại đồ uống hợp với mùa, hợp với điều kiện sinh hoạt của
gia đình, của cộng đồng.
- Y phục và trang sức
Mỗi dân tộc đều có những y phục thể hiện nét đực trưng, độc đáo của
dân tộc mình.
Trang phục truyền thống của người Tày được làm bằng vải bông tự dệt,
nhuộm chàm. Từ người già đến trẻ em, nam, nữ đều mặc màu chàm và hầu
như không thêu hoa văn trang trí.
Y phục của nam giới gồm có áo dài 5 thân buông vạt trùm qua cạp
quần xuống đến đầu gối, thân trước bên trong ngắn hơn bên ngoài, có 5 cúc
cài sang nách phía phải, áo dài mặc đi lễ, hội, đình đám; áo ngắn có 4 thân cổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
67
tròn xẻ giữa ngực, có 7 cúc và khuy, có túi ở 2 vạt trước. Quần ống rộng, cạp
rộng nhưng không có dải rút, khi mặc búi tại vị trí bụng, ống chùng đến mắt
cá chân, đũng kiểu chân què, giống quần của nam giới người Việt. Khăn đội
đầu khổ nhỏ, dài, bằng loại vải sợi bông hoặc tơ tằm; khi quấn xếp thành chữ
nhân trên trán.
Y phục của phụ nữ gồm nhiều loại và kiểu cách phức tạp hơn. Áo dài 5
thân giống nam giới nhưng chùng đến mắt cá chân, được thắt eo và tay áo nhỏ
hơn, cổ tròn ôm khít cổ, khi mặc áo dài chị em thường đeo vòng cổ, vòng tay,
vấn tóc, thắt lưng. Họ thường mặc áo dài trong các lễ hội, đình đám. Áo ngắn
bốn thân cổ tròn, xẻ ngực cài cúc có túi nhỏ ở 2 vạt trước, may bó tạo co.
Quần phụ nữ ống nhỏ hơn quần nam giới và may giáp đũng. Phụ nữ Tày hay
mặc váy có cạp, có gấu, dài đến mắt cá chân. Thắt lưng là dải vải có màu
chàm hoặc màu hồng. Khăn đội đầu là một vuông vải nhuộm chàm không
thêu, khi đội chít khăn kiểu mỏ quạ ôm gọn tóc hoặc buộc theo vấn tóc trông
rất gọn. Phụ nữ Tày còn đi giày vải, thân giày làm bằng vải, đế làm bằng mo
cau hoặc mo tre khâu lại nhiều lớp làm đế.
Đồ trang sức của người Tày trước đây được cả nam và nữ sử dụng,
nhưng nhìn chung phụ nữ dung nhiều hơn như: khuyên tai, vòng cổ, vòng đeo
tay, chủ yếu là bằng bạc.
Trang phục của người Nùng có phần phức tạp hơn, vì mỗi ngành Nùng
có những đặc điểm trang phục của riêng mình.
Người Nùng mặc quần áo rộng. Phụ nữ mặc áo quần vải dệt tay,
nhuộm chàm, áo dài đến đầu gối, cài khuy nách, ống tay rộng co vièn
khoanh tráng, nẹp áo trước ngực có viền vải xanh, thắt lưng vải nhuộm
chàm. Khi đi lao động thường đeo chiếc tạp dề trước bụng. Đầu cuốn tóc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
68
ngang, đội khăn nhuộm chàm in hoa trắng (người Nùng buộc miếng vải
thành từng túm nhỏ rồi đem nhuộm chàm, nhuộm xong cởi túm ra sẽ được
hoa trắng hình ngôi sao). Cổ tay và tay đeo vòng bạc, đeo hoa tai bạc… Nam
giới mặc áo cánh, cũng có khi mặc áo dài 5 thân nhưng ngắn như áo cánh
vậy, mặc quần dài. Trước kia, để búi tóc, cuốn khăn dài. Khăn, áo, quần đều
bằng vải nhuộm chàm.
3.2.2. Tục lệ xã hội
- Cưới xin
Việc cưới xin là 1 sự kiện hết sức quan trọng trong đời sống của đồng
bào Tày- Nùng.
Hôn nhân của người Tày theo kiểu hôn nhân một vợ một chồng bền
vững nghi lễ về cưới xin của đồng bào Tày gồm có các nghi thức sau: Dạm
hỏi, Lễ dạm, Lễ ăn hỏi, Lễ xin cưới, Lễ cưới.
Các nghi thức cưới của người Tày ở Chiêm Hóa:
+ Dạm hỏi: Đây là bước đầu tiên, nhà trai chủ động nhờ một người thân
thiết với gia đình dùng lời lẽ hình tượng để ướm hỏi, ý định xin lấy dâu. Nếu
thuận nhà gái cũng dùng lời lẽ khiêm nhường ngụ ý đồng ý, sau đó 2 bên mới
đi vào hỏi cụ thể. Nhà trai xin biết ngày tháng năm sinh của người con gái.
Buổi gặp này nhà trai không mang lễ vật gì, nhà gái cũng không phải làm cơm
mời. Nhà trai xem tuổi của cô gái nhờ thầy tử vi xem có hợp số hay khắc với
con trai. Nếu hợp, nhà trai chủ động đến xin làm lễ dạm hỏi, nếu không hợp
cũng trả lời cho nhà gái biết.
+ Lễ dạm: Nhà trai nhờ người thân trong họ sang nhà gái chính thức
bàn việc hôn thú của đôi trẻ. Người đại diện của nhà trai gọi là “tai thống”,
cùng đi với tai thống có một đến hai người trong gia đình chú rể và người
gánh lễ vật. Lễ vật dạm gồm: trầu, cau, thịt, gạo, rượu. Nhà gái mời đại diện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
69
nội ngoại của gia đình mình. Hai bên bàn bạc chuyện trò, thăm hỏi gia cảnh
nhưng việc quan trọng nhất là việc nhà trai chính thức đặt vấn đề với nhà gái
xin bản lục mệnh của cô gái cho nhà trai, trao bản lục mệnh tức là đính ước,
nếu trắc trở nhà trai trả bản lục mệnh, cô gái mới có thể đi lấy chồng khác. Tại
lễ dạm hai bên định ngày làm lễ ăn hỏi.
+ Lễ ăn hỏi được tiến hành sau: Nhà trai có tai thống, người thân của
chú rể, người mang lễ vật. Lễ vật gồm trầu cau, thịt, gạo, rượu, bánh dày. Nhà
gái cũng mời đại diện nội ngoại của gia đình. Trong lễ ăn hỏi hai bên bàn về
ngày giờ tổ chức đám cưới, lễ vật dẫn cưới.
+ Lễ xin cưới: Nhà trai định được ngày tổ chức đám cưới, đến nhà gái
bàn bạc thống nhất. Sang nhà gái gồm có tai thống, người trong gia đình nhà
trai, người mang lễ vật. Lễ vật gồm có 6 con gà, 12 chiếc bánh dày, 6 chai
rượu. Nhà gái mời đại diện họ nội, ngoại đến dự. Trong buổi lễ này nhà trai
thong báo cho nhà gái ngày tháng làm đám cưới, giờ đến đón dâu, ngày đưa lễ
vật. Nhà gái cũng thông báo cho nhà trai giờ cô dâu về nhà chồng. Lễ xin
cưới thường được tiến hành trước khi cưới vài ba tháng để hai bên có điều
kiện chuẩn bị cho lễ cưới.
+ Lễ cưới: được tổ chức ở cả hai bên, nhà gái và nhà trai đều mời họ
hàng dân bản đến ăn cỗ. Lễ cưới là lễ quan trọng nhất của việc cưới hỏi, có
nhiều nghi lễ nhất và mang tính quan hệ xã hội rộng hơn.
Đoàn đi đón dâu gồm có quan làng, chú rể, phù rể, người mang lễ vật.
Quan làng là người đại diện cao nhất của họ nhà trai, thay bố mẹ chú rể và họ
nhà trai ứng xử một việc, mọi nghi lễ tại nhà gái. Phù rể phải là người thanh
niên nhanh nhẹn lễ phép, chưa có vợ. Người mang lễ vật thường là các em
gái, em trai. Lễ vật dẫn cưới gồm trầu, cau, thịt lợn hơi, gạo rượu, gà trống
thiến. Ngoài số lễ vật trên, còn có một tấm vải khô ướt chiều rộng bằng một
khổ vải, chiều dài chừng 8 đến 10m.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
70
Bên nhà gái mời họ hàng đến dự và chứng kiến lễ cưới. Cử đoàn đại
diện đưa tiễn cô gái về nhà chồng. Đại diện nhà gái là pả mẻ, cũng như quan
làng của nhà trai, pả mẻ được toàn quyền thay mặt cho nhà gái. Có người đi
theo phù dâu, người phù dâu phải là người chưa chồng, họ chỉ phù dâu cho
người bạn thân nhất, phù dâu gọi là “lùa tôi”. Có một vài người cùng đi mang
đồ dùng của cô dâu gồm quần áo, chăn màn, gối.
Hát quan làng trong đám cưới nười Tày mang bản sắc rất độc đáo vì
người ta đều dùng lời ca hình tượng, ví von rất giàu chất trữ tình để thực các
nghi lễ, đối đáp giữa nhà trai và nhà gái.
Trình tự các tục, nghi lễ và hát quan làng trong đám cưới của người Tày:
Tục căng dây chặn đường: (Hát để xưng danh, chào hỏi): Khi đoàn đón
dâu của nhà trai đến ngõ nhà gái, nhà gái cho chăng dây qua đường, có nơi
đóng cổng hoặc chăng dải vải, cho người giả vờ gặng hỏi, chất vấn… Đây là
thẻ thách đầu tiên, tuỳ ý hỏi của nhà gái, nhà trai phải hát đối cho hợp ý, hợp
cảnh mới được nhà gái cho dỡ dây, mở cổng.
Tục giữ cửa: Chân cầu thang được đặt 4 chén rượu, nhà gái hát viện lý
do và thách thức, nhà trai phải hát đối hợp với lý do mới được nhà gái cho dọn
4 chén rượu. Đến sàn thích, nhà gái lại đặt các chướng ngại vật như: chậu thau,
chổi, thớt… nhưng phổ biến hơn là chiếc đó đơm cá và để vào giữa chiếc đó
cái đòn gánh tượng trưng cho con rắn. Quan làng nhà trai phải hát hình tượng
như thế nào, ví như thế nào để nàh gái dỡ bỏ các chướng ngại vật đi.
Tục xin trải chiếu: Trên sàn nhà chưa trải chiếu hoặc trải xộc xệch, vị
quan làng nhà trai phải hát giối thiệu mình, nhác gia chủ trải chiếu chưa
ngay ngắn hoặc chưa trải chiếu. Pả mẻ- quan làng nhà gái kiếm cớ xin lỗi
khách và xin được trải chiếu ngay, xin mời khách vào chiếu ngồi rồi hát thên
một hai bài chào hỏi tỏ lòng mến khách. Trước khi ngồi xuống chiếu quan
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
71
làng nhà trai hát đối 1 hai bài ca ngợi sự mến khách của gia chủ rồi mới ngồi
xuống chiếu.
Hát mời nước, mời trầu: Sau khi quan làng và người họ nhà trai đã ngồi
yên vị xuống chiếu, các cô gái bên nhà gái mang trầu, nước ra mời, quan làng
nhà gái hát bài mời nước, mời trầu. Nước và trầu được mời từng nười. Quan
làng nhà trai hát bài cám ơn sự chu đáo thịnh tình của gia chủ, khen trà, trầu
ngon, têm khéo rồi mới uống nước ăn trầu.
Lễ trình tổ và nộp gánh: Quan làng nhà trai dẫn chú rể và phù rể đến
trước bàn thờ tổ tiên của gia đình nhà gái. Gánh lễ vật “háp theo khươi” được
chuyển đặt trước bàn thờ. Cha mẹ cô dâu, ông bà, các già bản, quan làng nhà
gái đứng 2 bên trước bàn thờ chứng kiến. Quan làng nhà trai trịnh trọng hát
bài nộp gánh. Nội dung bài hát ca ngợi tổ tiên, công đức cha mẹ đã sinh
thành, xin có lễ vật mọn dâng cúng tổ tiên, và biết ơn cha mẹ. Nhà gái mở
gánh lễ vật và trịnh trọng hát bài nhận gánh, xếp lễ vật lên mâm lễ để đặt lên
bàn thờ. Mâm lễ được lót giấy đỏ, đặt 2 bông lúa nếp, một đĩa trầu cau, đôi
que hương, 2 cành thanh táo và bát nước lã, một đĩa đựng tiền, 1 đèn chưa
thắp. Sau khi sắp lễ đặt lên bàn thờ xong, chú rể và phù rể cùng quan làng nhà
trai đứng trước bàn thờ tổ tiên hát trình tổ tiên. Quan làng nhà gái hát bài cho
phép chú rể vái tổ tiên, chú rể hát trình thắp hương, châm đèn, các bài: Táng
vương bảng đen, chầm hương, bẩu ban thản dị, mơi đăm táng tổ tiên, mơi
ham, mơi me cuốc mậu thưa thinh, mơi cơi trầu, giải vế mơi phụ mậu rở rinh,
nhận họ hàng, nộp hằng biêng (nếu không thờ ham, thờ then thì không hát các
bài mơi ham, mơi then) gồm 14 bước.
Sau lễ trình tổ, quan làng nhà trai trịnh trọng hát bài dâng tấm vải ướt
khô, chú rể lễ phép dâng tấm vải ướt khô lên mẹ của cô dâu. Nếu mẹ cô dâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
72
không còn thì dâng cho người trực tiếp nuôi dưỡng cô dâu từ tấm bé. Tấm vải
ướt khô được nhuộm hồng một đầu- tượng trưng cho phần ướt, đầu còn lại để
trắng tượng trưng cho phần khô. Dâng vải ướt khô mang ý nghĩa đền ơn
người mẹ đã mang nặng chín tháng mười ngày, chăm sóc nuôi con, chỗ ướt
mẹ nằm, chỗ khô dành cho con. Trong các lễ vật dẫn cưới không thể thiếu
tấm vải ướt khô, đây là nét đẹp trong phong tục cưới của đồng bào Tày, mang
ý nghĩa sâu sắc về lòng hiếu thảo của người con đối với công lao sinh thành
và giáo dưỡng của người mẹ. Nhận tấm vải ướt khô nhiều bà mẹ đã khóc, tấm
vải được cất kỹ, khi có cháu ngoại bà nhuộm chàm may tã lót, làm địu cho
cháu. Tấm vải ướt khô mang tính nhân văn sâu sắc.
Lễ bái tổ họ hàng: Chú rể và cô dâu đứng trước bàn thờ, quan làng nhà
trai hát bài hát lễ tổ. Người Tày xưa cho rằng tổ tiên của mình ngự ở trên trời,
vì vậy quan làng hát bài cử sứ giả lên thiên đình mời tổ tiên về nhận mặt chú
rể mới. Chú rể, cô dâu phải lễ họ hàng thân tộc.
Lễ lạy bố mẹ vợ: sau lễ bái tổ họ hàng là lễ lạy bố mẹ vợ. Quan làng
hát xong, con rể và con gái cùng đến lạy bố mẹ, nếu còn ông bà phải lạy
ông bà trước.
Lễ xin đón dâu: Đây là nghi lễ trang trọng cuối cùng tại lễ cưới. Vị
quan làng nhà trai trịnh trọng hát bài cảm ơn sự chu đáo của nhà gái. Xin thưa
với ông bà, cha mẹ và họ hàng cho phép nhà trai được đưa cô dâu về nhà.
Thường lễ này được tính toán sao cho viêc đưa tiễn cô dâu về nhà chồng đúng
giờ đã định trước. Bài hát xin dâu gọi là “So lùa lòng lang”.
Đến nhà trai: Quan làng nhà trai hát bài mời nước, mời trầu, mời rửa
tay, mời ăn cơm. Mỗi khi quan làng nhà trai hát các bài trên, quan làng nhà
gái đều hát đối lại phù hợp với nội dung nhã nhặn và lịch thiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
73
Quan làng nhà gái, chú rể cô dâu cũng phải thực hiện nghi thức hát
trình bày trước bàn thờ như ở bên nhà gái gồm 14 bước. Sau khi hát trình
trước bàn thờ, quan làng nhà gái hát bài nộp dâu. Quan làng nhà trai đại
diện hát nhận.
Quan làng nhà gái hát nộp chăn gối, của hồi môn. Họ khiêm tốn được
nhà trai vui lòng nhận các đồ dùng do người con gái đã tự tay làm ra không
được khéo…Quan làng nhà trai hát nhận xét, ca ngợi các đồ dùng đẹp đẽ, ca
ngợi sự chu đáo… Quan làng nhà gái khiêm tốn hát chối từ, không dám nhận
sự ngợi ca.
Hát căn dặn: Quan làng nhà gái hát căn dặn cô dâu chịu khó nết na,
chăm chỉ chăm sóc chồng, gia đình nhà chồng để sứng đáng là vợ hiền con
thảo, cám ơn họ nhà trai đã chu đáo đón tiếp và xin cáo lui về nhà. Quan làng
nhà trai hát đáp mong nhà gái không phải lo lắng nhiều cho cô dâu, chúc nhà
gái lên đường trở về nhà gặp nhiều may mắn.
Lễ lại mặt: sau cưới 3 ngày, đôi vợ chổng trẻ mang lễ vật đến thăm
cha mẹ vợ. Lễ vật gồm 1 con gà trống thiến, 2 chai rượu, hai chiếc bánh
dầy, lễ này gọi là lễ tạ ơn cha mẹ, tuy nó đơn sơ nhưng mang nặng tình
nghĩa và rất quan trọng. Bên nhà gái cũng mời ông bà, bác, chú, cô, dì đến
cùng ăn cơm với đôi vợ chồng trẻ. Khi về, vợ chồng trẻ chào ông bà, cha
mẹ, cô dì, chú bác một lần nữa, họ hàng nhận biết cháu rể và ngược lại. Kết
thúc buổi lễ lại mặt coi như việc cưới đã hoàn thành, vợ chồng trẻ bắt đầu
cuộc sống chung hạnh phúc.
- Ma chay
Đồng bào Tày quan niệm con người có phần hồn và phần xác. Khi chết
hồn lìa khỏi xác, hồn lúc ấn gọi là “khoăn”, khi chết biến thành “phi” (ma).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
74
Lúc sống người có 12 hồn thì khi chết cũng có 12 loại ma. Vì vậy, việc
tang ma phải có nhiều công đoạn, nghi lễ: lễ tắm rửa cho người chết, lễ khâm
liệm, lễ đại siêu, lễ nhập quan, lễ tang khay lò (dây đèn hoa cho người chết),
lễ đại háo (thụ tang), lễ xám pjầu ngày (dâng cơm), lễ xiên đàn phá ngục (đưa
linh hồn người chết ra khỏi ngục), lễ mùng san, lễ mài xe, lễ xuất phi, lễ hạ
huyệt, lễ khay tu mả (mở cửa mồ), lễ chuộc hồn mãn tang. Tục lễ của người
Tày không cải táng, vì vậy áo quan cúng phải chọn loại gỗ tốt. Tục lệ làm ma
(ma tươi hay ma khô) đều giống nhau. Ở gia đình khá giả không trùng vào
mùa vụ, người ta tiến hành làm ma ngay sau khi người chết đã tắt thở, linh
cữu còn quàn trong nhà làm ma, như vậy gọi là ma tươi. Trường hợp do hoàn
cảnh khó khăn, bận rộn mùa vụ, hoặc do con cái đi vắng xa, sau khi chôn cất
vài tháng, vài năm sau người ta mới tổ chức làm ma, như vậy gọi là ma khô.
Để tượng trưng cho linh cữu người ta phải làm nhà xe, làm xong nhà xe người
ta tổ chức ma khô, mời thầy cúng đến, không phải một thầy mà là nhiều thầy
để viết sớ cúng, công việc này cũng tốn nhiều thời gian. Thầy cúng viết sớ
bằn chữ Nôm, rồi cúng khấn, tang chủ đội khăn, mặc áo tang khấn vái cùng
thầy cúng bên cạnh nhà xe. Đám ma tươi hoặc ma khô diễn ra khoảng 2 ngày
2 đêm.
Tổ chức đám ma rất tốn kém, nhiều nghi lễ diễn ra trong nhiều ngày
đêm, nếu làm ma khô thì việc chuẩn bị càng mất nhiều công sức, chi phí tốn
kém. Các vật để cúng tế gồm thịt lợn, trâu, bò, gà vừa là để hiến tế vừa là thực
phẩm cho người phục vụ, trả công cho thầy cúng.
Người Tày cũng có tục xem đất để mai táng, nơi mai táng thường theo
gia đình và dòng họ, không cải táng, do vậy họ không có tập quán giỗ, sau
đám ma và lễ mãn tang (sau 3 năm), mọi việc tang ma cho người chết được
coi là đã xong xuôi. Đến ngày thanh minh 3 – 3 người ta mới sắm lễ đưa ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
75
mộ cúng. Trước khi cúng người ta dọn sạch cỏ trên các mộ. Hàng tháng ngày
rằm, mồng một họ thắp hương cho người thân quá cố cùng với tổ tiên.
3.2.3. Văn hóa tinh thần
- Tín ngưỡng, tôn giáo
Đồng bào Tày- Nùng từ xa xưa thờ đa thần nguyên thuỷ, xuất phát từ
quan niệm “Vạn vật hữu linh”, muôn vật, muôn loài đều có Pựt Luông - Ngọc
Hoàng tạo ra và đều có linh hồn. Linh hồn cũng đồng nghĩa với linh thiêng,
nếu như người Kinh có rất nhiều từ để chỉ sự linh thiêng như: thần, thánh, với
các tà linh, ma quỉ, thổ công, thổ địa… thì người Tày - Nùng đều dùng 1 từ
gọi là “phi” (dịch ra tiếng Việt là ma - một danh từ rất cổ, bao hàm quan niệm
bình đẳng về nhân cách trong thế giới thần linh, ma quỉ), phi có nghĩa rất rộng
rãi chỉ tất cả các thần thánh, ma quỷ có mặt trên trời, dưới đất. Tựu chung có
2 loại ma: ma lành và ma dữ.
Ma lành: gồm tổ tiên, ma bếp lửa, ma mụ, ma mường, ma bản bảo vệ
người và súc vật. Nói chung loại ma lành, thiện đều phù hộ cho con cháu,
nhưng con người không được phép làm phật ý, nếu không có thể bị trừng phạt
đến chết.
Ma dữ: Ma rừng, ma sông, ma rú, ma sấm sét, ma thuồng luồng, ma
những người chết vì tai nạn, hay người chết bất đắc kì tử, chết đuối, ma yêu
tinh từ những cây cổ thụ. Ngoài ra còn có một loại ma mà người Tày rất sợ đó
là “ma gà” (Phi cáy). Những thầy Tào, thầy Then chết không được con cháu
làm ma, cũng lễ tử tế linh hồn lai vãng ở trần gian nhập vào người sống thành
ma gà “phi cáy”. Người chết tuyệt tự, mồ mả không ai trông nom, trẻ em chết
vào giờ thiêng cũng bị coi là ma gà. Người sống bị ma gà nhập và, mang ma
gà trong người gọi là “phi đíp”, loại này chuyên hại người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
76
Đồng bào lưu truyền rất nhiều câu chuyện ly kỳ xoay quanh về chuyện
ma gà như: “khi trời tối sẽ bay tới các nhà để hút máu người, ăn thịt trẻ
em”… Vì vậy, gia đình nhà nào bị coi là ma gà thì rất khó lấy vợ, lấy chồng,
luôn bị hàng xóm xa lánh, thậm chí bị đánh đập.
Người Tày còn có quan niệm về ma thổ công “phi thổ công” không thờ
trong nhà mà ở ngoài vườn, khi trong bản hay trong nhà có việc lớn như dựng
nhà, cưới gả, mua trâu bò, có người chết… người ta thường cúng báo cho thổ
công biết, để được bảo vệ.
Đồng bào Tày – Nùng còn tin một số người, một số thầy Tào, thầy Mo
có ma thuật hại người. Những người đó có thuật “ Pối kim xương ngọ quỷ”
tức là thả mũi nhọn bằng kim khí, thả âm binh hại những người thù hằn với
họ hoặc giúp người quen báo thù.
Từ chỗ sợ hãi ma thuật đã nảy sinh ra tục tin có ma người sống như mà
gà (đã nói ở trên) trong người Tày, ma kỳ lân (Phi hang cắn) trong người
Nùng. Một số gia đình, một số người bị gán là có những con ma đáng sợ nói
trên thì trở thành nguy hiểm đối với bà con hàng xóm mặc dù họ không biết gì
về ma thuật. Đồng bào cho rằng những người có “ma” trông thấy người ốm
có thể làm cho người ốm nặng thêm hoặc chết, trông thấy hoa quả hoặc thức
ăn đang thơm ngon có thể làm cho nó trở thành ôi thối… Những người bị
mang tiếng là có “ma” thì bị coi là người nguy hiểm, không trong sạch, con
cái của họ kho lấy vợ, lấy chồng.
Như vậy, tín ngưỡng của đồng bào Tày – Nùng xuất phát từ quan niệm
đa thần, do con người nhỏ bé bất lực trước những thần bí và sức mạnh của tự
nhiên. Những thần bí và sức mạnh chưa lý giải được đều được xem là ma, đồng
thời do quan niệm vạn vật đều có linh hồn, tin là có thần, có phi – ma nhưng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
77
chưa có giáo lý. Như vậy, tín ngưỡng của đồng bào là dạng thức tín ngưỡng
bản địa nguyên thuỷ, tín ngưỡng dân gian thờ đa thần vạn vật hữu linh.
Các tục thờ cúng:
Người Tày ở Chiêm Hóa thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ trong nhà.
Thường thắp hương vào ngày rằm và mùng một hàng tháng với nghi lễ và đồ
tế lễ đơn giản bằng hoa quả và nước sạch.
Trước đây, gia đình người Tày nào ở Chiêm Hóa cũng có bàn thờ “bà
mụ” (mẹ bjoóc) và tục thờ cúng Táo quân (thổ công).
Bà mụ được coi là vị thần cai quản và hộ mệnh cho trẻ em. Theo quan
niệm dân gian, người ta có con là do mẹ bjoóc phân chia từ cây hoa vàng (con
trai), hoa bạc (con gái). Khi người phụ nữ có thai khoảng 3 tháng người ta
làm lễ báo cho mẹ bjoóc biết và cầu xin phù hộ…
Người Tày cũng thờ Táo quân - là vị thần bảo vệ người và gia súc, coi
việc quản lý hộ khẩu trong gia đình. Ngoài ra con thờ 1 loại “phi” ở trong nhà
nữa đó là phi tiên slư (tổ sư) như : thầy dạy làm thầy cúng, thầy tào, thầy phù
thuỷ, mo, then, pụt…
Tuy nhiên, hiện nay chỉ còn rất ít gia đình giữ nghi lễ này. Phần lớn các
gia đình chỉ có bàn thờ tổ tiên.
Người Nùng cơ bản giống người Tày, ngoài ra họ còn thờ “ma Ham”,
cả xóm lập đình thờ thần nông, đặc biệt có nhiều hộ thờ Phật bà quan âm...
Ảnh hưởng của các tôn giáo ngoại lai:
Với sự du nhập của các tôn giáo như: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo
hay Thiên chúa giáo… vào thì người Tày cũng ít nhiều ảnh hưởng và tiếp thu
nhưng không mạnh mẽ như một số tộc người khác.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
78
Đạo Phật đã du nhập và đi vào đời sống tâm linh của đồng bào nơi đây
từ khá lâu đời, người Tày cổ đã tiếp thu giáo lý của nhà Phật, phù hợp với tín
ngưỡng dân dã, bản địa như: tư tưởng từ bi bắc ái, với các đấng từ tôn cứu khổ
cứu nạn, siêu độ chúng sinh thoát khỏi bề khổ trầm luân để về với cõi cực lạc…
để làm phong phú thêm đời sống tinh thần của mình.Điều này được thể hiện rõ
trong thờ cúng ông bà, các lễ tiết, lễ nghĩa trong gia đình và cộng đồng.
Ví dụ: thờ ông bà cùng với tổ tiên, thờ Phật. Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni cứu khổ cứu nạn cho loài người khi thẩm thấu vào đời sống của người Tày
thành bụt “pụt”. Do vậy, ở một số nơi đã xuất hiện một số đình chùa, trong đó
tiêu biểu là chùa Bảo Ninh Sùng Phúc ở xã Yên Nguyên (Chiêm Hoá) được
dựng vào năm 1107 dưới thời Lý. Nội dung của tấm bia thì viết về Hà Hưng
Tông và lược thuật về công đức của gia tộc họ Hà qua 15 đời… Ngoài ra, tấm
bia còn thể hiện quan niệm của đạo phật và những triết lý về phật pháp như:
chân không, diệu hữu, hữu hình, thường - lạc…
“Rằng xưa phật tổ,
Dắt dạy quần sinh.
Không vương không mắc,
Có duyên có tình.
Chân tính sáng suốt
Căn tuệ vững bền…”
“Việc dựng chùa thờ Phật- quốc giáo của nước Đại Việt thời Lý, tại nơi
xa xôi hẻo lánh như Vị Long cũng chứng tỏ rằng dưới triều Lý, kinh tế miền
núi phát triển mạnh. Đồng thời, sự giao lưu văn hoá với miền xuôi cũng rất
được chính quyền phong kiến đương thời quan tâm” [3, tr5].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
79
Tuy nhiên, tín ngưỡng của người Tày là tín ngưỡng “đa thần giáo”, họ
tin vào thuyết “vạn vật hữu linh” cho nên ảnh hưởng của Phật giáo khá mờ
nhạt mà tới nay hầu như chỉ còn trong các tranh thờ của các thầy Tào nơi đây.
Về ảnh hưởng của Đạo giáo thì được thể hiện qua hệ thống các tranh
thờ của người Tày, có nhiều tranh thờ các nhân vật của Đạo giáo như: Thái
thượng Lão quân, Đặng Nguyên sư, Tam Thanh, Tam Nguyên…
- Văn học dân gian
Kho tàng văn học dân gian của dân tộc Tày rất phong phú về thể loại và
nội dung, phản ánh thế giới quan dân tộc, mang tính nhân văn và tính giáo
dục sâu sắc. Về thể loại gồm truyên kể truyền miệng còn gọi là truyền thuyết
hay ở dạng truyện cổ; hát truyền miệng như hát quan làng, hát sli lượn, hát
then, hát đồng dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố. Trong phạm vi đề tài chúng
tôi chỉ giới thiệu được một số thể loại trong kho tàng văn học dân gian của
người Tày ở Chiêm Hóa như sau:
+ Truyện kể truyền miệng
Đặc điểm cư trú của đồng bào các dân tộc ở Tuyên Quang nói chung và
đăc biệt là vùng Chiêm Hóa nói riêng là ở vùng rừng núi hùng vĩ và hoang sơ,
đồn bào đã khai phá hoang vu chinh phục tự nhiên, đánh dẹp giặc dữ… để tồn
tại và phát triển, đó là khởi nguồn cho sự sáng tạo văn học dân gian, thổi vào
các câu chuyện ấy đời sống tâm linh và ý thức người đã làm cho vốn truyện
kể truyền miệng mang dấu ấn đậm nét của dân tộc. Nhìn chung chủ đề của
các câu chuyện kể truyền miệng là giải thích nguồn gốc của vũ trụ như
“truyện vịt không biết ấp trứng”, nguồn gốc của loài người như “truyện quả
bầu”, truyện giải thích về địa danh, về các sự vật và hiện tượng tự nhiên trong
vùng thì rất nhiều. Truyện do ai sáng tác? Không có truyện nào nói về tác giả
và ra đời từ khi nào (quần chúng sáng tác qua nhiều đời, nhiều thế hệ). Chiêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
80
Hóa và Na Hang (trước thuộc Chiêm Hóa) là hai huyện vùng cao, vùng sâu
của tỉnh, nơi đồng bào Tày chiếm đa số dân cư trong huyện, còn lưu lại rất
nhiều truyện kể truyền miệng. Truyện về truyền thuyết hang Tiên trên dãy núi
Thẳm Pẩu xã Lang Can kể về sự tích nghề trồng bông dệt vải. Sự tích Kéo
Nàng (Đèo Nàng) – con đèo hiểm trở thách thức con người ở giữa xã Khuôn
Hà và Lang Can. Sự tích cây cầu Da gắn với núi Chuyên và núi Thần Trâu
Trắng – Nàng tiên Chú Khách (hay sự tích hoa Phặc Phiền), một tổ hợpcác
câu chuyện miêu tả sự hùng vĩ của dãy núi phía bắc xã Thượng Lâm. Với các
chuyện “Đăng Vài” cọc trâu của ông Tài Ngào người trời đứng sừng sững
giữa cánh đồng xã Thúy Loa. Truyện về luống cày của ông Tài Ngào và lòng
chảo trên núi đá Bản Cài xã Đức Xuân, truyện Gió hang Pù Gia Sỏ miêu tả
hiện tượng lốc thường xuyên phá hoại vùng đất “ruộng ở cuối hang này”.
Xuôi về phía nam truyền thuyết về núi Pắc Tạ… [25, tr 90 - 91]
+ Ca dao, tục ngữ, thành ngữ
Trong kho tàng văn hóa dân gian, thì loại hình tục ngữ, thành ngữ, ca
dao của người Tày ở Chiêm Hóa nói riêng và ở Tuyên Quang nói chung hết
sức phong phú phản ánh tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong quan hệ con
người với con người, con người với thiên nhiên…
Trước hết là trong ca dao: Ca dao nói về sự lạc quan yêu đời của con
người đã được khắc họa bằng những hình ảnh rất đẹp như:
Cần ké khoăn bấu ké
Khoăn mừa dặng cóc ké nhằng hon
Pan slấc mèng mà tan biéc nuốc.
(Người già hồn không già
Hồn đứng bên cạnh gốc quế còn thơm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
81
Trăm loài ong bướm đậu hoa dâu). [25, tr96]
Hay:
Slam slíp đang mả
Hả slip đang pan
Slốc slíp bjooc bồ đàn đang phông
Chất slíp chăng vật vơ đuổi lản
Cẩu slíp chắt hất rườn slâng thì.
(Ba mươi tuổi đang lớn
Năm mươi tuổi chưa già
Sáu mươi tuổi như hoa bồ đàn mới nở
Bảy mươi tuổi vẫn còn xuân
Chín mươi tuổi mới lập gia đình). [25, tr96]
Trong tục ngữ: Kho tàng tục ngữ của người Tày rất phong phú, nói về
thời vụ, họ tổng kết việc làm ăn thành bại để có câu:
Bươn chiềng tò mạy rị
Bương nhỉ tò mạy phai
(Tháng giêng kiếm cây để rào vườn
Tháng hai tìm cây để đắp đậ.). [25, tr92]
Hoặc:
Bươn slam lồng chả
Bươn hả đăm nà.
(Tháng ba gieo mạ
Tháng năm cấy ruộng). [25, tr92]
Nói về kinh nghiệm sản xuất, đồng bào Tày có câu:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
82
Hết rẩy hẩư ôốm chà
Hết nà hấư ôốm nặm
Co khấu táy côc phec,
Ruộng khấu táy ec mò, ec vài.
(Làm nương phải ủ chà
Làm ruộng phải đều nước
Cây lúa như bụi xả
Bông lúa to như vạy trâu, vạy bò). [6, tr132]
Nói về độ thì của con gái:
Moóc toóc tông chàu au bấu au
Giờ nạy moóc khửn khau chẳng vạng
(Người con gái còn duyên thì kiêu
Hết duyên thì muốn tìm chồng cũng khó,) [25, tr92]
Nói về quan hệ tình cảm:
Pi noọng tàng quây bấu đày vằn phầy đẩu bản
(Anh em xa không bằng ngọn khói xóm giềng) [25, tr93]
Hoặc:
Nẳng ngay bấu lao ngầu páy
Cần ngay bấu lao sai
(Ngồi ngay không lệch bóng
Người ngay không sợ sai). [25, tr93 - 94]
Thành ngữ:
Nói về hoàn cảnh éo le:
Mác kheo lấn, mác lúc nhằng dú co
(Quả xanh rụng, quả chin còn ở trên cây) [25, tr94]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
83
Nói về tình cảm, tình thương của bố mẹ và con cái:
Lục điếp pả mẻ điếp nâu chậu
Pả mẻ điếp lục điếp chang khừn.
(Con thương bố mẹ thương buổi sớm
Bố mẹ thương con thương buổi chiều). [25, tr95]
Câu này đồng bào giải thích rằng: tình thương phải thể hiện bằng sự
hiện hữu (hành động nghe thấy, nhìn thấy). Nhưng bố mẹ thương con đừng để
cho con cái biết, nếu biết được thương, được chiều chuộng con cái hay lấn tới
và hư.
+ Câu đố
Người Tày cũng có rất nhiều câu đố, câu đố dân gian Tày bắt nguồn từ
đời sống thường nhật, trong lao động và sinh hoạt. Có các loại câu đố về con
người, về đồ vật…
Đố về con người:
Trên rậm dưới thưa
Thuyền lưới giữa dòng
Quả cau quay tít (con mắt người)
Đố về con vật:
Cần nâng héo héo
Béc slí kếp vản khảm kéo
(Một người gầy gầy
Vác bồn tấm ván vượt đèo – con chuồn chuồn)
Đố về đồ vật:
Phầy mảy nựa pù / Sưa vèa tẩu loỏng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
84
(Lửa cháy trên đồi / Hổ gào dưới khe – cái điếu cày) [25, tr97]
KẾT LUẬN
1. Chiêm Hoá là một huyện vùng cao của tỉnh Tuyên Quang, nơi “đất
lành chim đậu”, thu hút nhiều các dòng người tìm về tụ lại, là vùng đất đai
tương đối màu mỡ, giàu tài nguyên, có đủ điều kiện thuận lợi để cho các dân
tộc sinh cơ lập nghiệp và phát triển lâu dài. Các dân tộc Chiêm Hoá mặc dù
có nguồn gốc lịch sử, phong tục tập quán, đặc điểm văn hoá khác nhau nhưng
khi cùng nhau sinh sống trên mảnh đất lịch sử này thì các dân tộc đã tích cực
khai phá, mở rộng ruộng nương, xây làng, lập bản, cùng nhau lao động, sản
xuất, trao đổi kinh nghiệm... để từ đó tạo nên sự thống nhất trong đa dạng
không chỉ về huyết thống mà còn cả tâm hồn, trí tuệ, văn hoá...
Là vùng đất lam sơn thuỷ tú, có vị trí quốc phòng quan trọng để lại dấu
ấn không phai mờ trong sử sách, Chiêm Hoá từ xa xưa luôn là bộ phận của tổ
quốc Việt Nam thống nhất. Đồng bào các dân tộc nơi đây có truyền thống
đoàn kết, yêu nước, giàu lòng nhân ái, dũng cảm trong đấu tranh chống cường
quyền, áp bức, đánh giặc ngoại xâm. Tấm bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi (Yên
Nguyên – Chiêm Hoá) ghi tạc công đức của dòng họ Hà đã thể hiện rõ truyền
thống tốt đẹp của nhân dân các dân tộc Chiêm Hoá. “Dòng họ này đã có nhiều
công lao trong việc giữ vững an ninh và xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá
ở một vùng đất rừng núi giáp biên giới, nơi mà triều đình nhà Lý khó kiểm
soát. Điều này cũng nói lên rằng đồng bào các dân tộc thiểu số Việt Nam nói
chung và Tuyên Quang nói riêng có ý thức tự cường và lòng yêu nước vô hạn
và nhà Lý đã thành công trong việc tập hợp khối đoàn kết dân tộc trong chiến
đấu bảo vệ cũng như xây dựng tổ quốc”.[3, tr5]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
85
2. Qua việc nghiên cứu tài liệu địa bạ ở 2 thời điểm Gia Long 4 (1805)
và Minh Mệnh 21 (1840) cho thấy: ruộng đất của Chiêm Hoá nửa đầu thế kỉ
XIX mặc dù ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân (tư điền) chiếm 100% tổng diện
tích cả huyện song trên thực tế phần thực trưng chỉ chiếm 1 phần nhỏ còn lại
là lưu hoang, trong đó phần bỏ hoang đều là điền chứ không phải thổ. Điều
này có thể lý giải là do các nguyên nhân như: Chiến tranh, nạn thổ phỉ; ở
Chiêm Hoá đa số là ruộng bậc thang (dựa vào nguồn nước tự nhiên là chủ
yếu) các cọn nước dẫn nước hầu như không đủ khả năng cung cấp nước cho
ruộng đồng... Ruộng đất lưu hoang được đưa vào sử dụng dưới hình thức sở
hữu của các chủ là một đặc điểm của Chiêm Hóa. Điều này có thể gợi mở
suy nghĩ là, triều đình nhà Nguyễn không chỉ quan tâm đến việc sử dụng đất
hoang trong sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng mà còn ở cả miền núi.
Qua nghiên cứu về tình tình ruộng đất ở Chiêm Hóa nửa đầu thế kỉ
XIX qua địa bạ Gia Long 4 và Minh Mệnh 21, chúng ta có thể thấy được thế
lực của Quằng Mường cùng bộ máy hành chính phục vụ cho Quằng thể hiện
qua sở hữu đất đai là rất lớn. Đa số chức dịch đều có mức sở hữu tương đối
lớn. Điều này không chỉ thấy vai trò của các thổ tù đối với các dân tộc miền
núi phía Bắc nói chung mà còn thấy được sự quản lý của triều đình nhà
Nguyễn trong việc giải quyết vấn đề ruộng đất ở nửa đầu thế kỉ XIX. Ruộng
đất ở đây hoàn toàn do Quằng nắm giữ và chủ động toàn quyền phân chia,
ảnh hưởng của triều đình còn khá mờ nhạt. Đây cũng là một trong những lý
do khiến cho ruộng đất tư ở đây phát triển mạnh mẽ.
3. Về mặt văn hoá thì Chiêm Hóa nói riêng và Tuyên Quang nói chung
là khu vực mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Các dân tộc Chiêm Hóa, bên
cạnh việc duy trì và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống vật thể, phi vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
86
thể của dân tộc mình đã tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân tộc anh em sống
cộng cư để làm giàu thêm vốn văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Đồng
thời những tinh hoa văn hóa của mỗi dân tộc được hun đúc lại và phát huy
thành cái tinh hoa chung của cả cộng đồng.
Các dân tộc Chiêm Hoá hầu hết đều tin vào thuyết “Vạn vật hữu linh”
(mọi vật đều có linh hồn). Xuất phát từ quan niệm đa thần, do con người nhỏ
bé, bất lực trước những thần bí và sức mạnh của tự nhiên. Những thần bí và sức
mạnh chưa lý giải được đều được đồng bào xem là ma. Tin vào “phi”- ma
trong dân tộc Tày, niềm tin vào nhiều thứ quỷ thần có thể làm hại con người,
tin vào thầy cúng có khả năng bói, cúng, phù phép để trừ được ma, tà, chữa
được bệnh... từ đó sinh ra những tín ngưỡng mà mục đích, ý nghĩa không rõ
ràng, hoặc dẫn đến việc thờ cúng, bói toán, kiêng kị rườm rà, tốn kém, thiếu
cơ sở khoa học. Tục thờ cúng tổ tiên, thờ thổ công, thổ địa, thờ tổ sư của các
dân tộc cũng tương tự như các dân tộc ở các vùng miền, địa phương khác...
Ngoài ra, tín ngưỡng của các dân tộc còn chịu ít nhiều ảnh hưởng của Tam
giáo như thờ cúng Phật bà Quan âm, một số chùa thờ Phật được xây dựng...
4. Cùng với chính sách dân tộc đúng đắn của Đảng và Chính phủ, phát
huy truyền thống quê hương Chiêm Hoá anh hùng trong thời kì công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, nhân dân các dân tộc nơi đây ra sức phấn đấu, hăng hái thi
đua học tập, lao động sản xuất, phát huy nội lực sáng tạo trên các lĩnh vực
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đã giành được nhiều thành
tựu quan trọng, làm cho bộ mặt của Chiêm Hoá đã có thay đổi lớn lao, đời
sống của nhân dân các dân tộc Chiêm Hoá đã có những tiến bộ về mọi mặt :
Đời sống vật chất được cải thiện, trình độ giác ngộ chính trị được nâng cao,
các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội đều phát triển.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
87
Tuy nhiên, Chiêm Hoá là 1 huyện vùng cao, do vậy điều kiện đi lại vẫn
còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí của vùng vẫn còn thấp hơn so với các
vùng khác, một số tập quán lạc hậu vẫn còn được duy trì, các tiềm năng của
vùng vẫn chưa được khai thác triệt để... nên đó cũng là những trở ngại kìm
hãm con đường tiến lên của nhân dân Chiêm Hoá.
Bản thân tôi - một người dân địa phương xin được đưa ra một số giải pháp sau:
Đảng và Chính phủ cần quan tâm hơn nữa đối với các vùng dân tộc thiểu
số, có các chính sách ưu đãi, khuyến khích, để phát triển kinh tế và văn hoá,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Cần có những biện pháp tuyên truyền, vận động nhân dân các dân tộc
thiểu số để xoá bỏ những tập tục lạc hậu, xây dựng đời sống văn hóa mới góp
phần gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của địa phương.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Chiêm Hoá, Lịch sử Đảng bộ huyện Chiêm
Hoá (1943 - 1991).
2. Ban dân tộc Tuyên Quang (1972), Các dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang.
3. Bảo tàng Tuyên Quang (1997), Lý lịch di tích bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi.
4. Nguyễn Trọng Báu (2006), Truyện kể về phong tục truyền thống, văn hoá
Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo Dục.
5. Vũ Xuân Bân (1972), Tìm hiểu vài nét về chế độ quằng ở vùng Mường
Giàng thuộc Chiêm Hoá - Tuyên Quang trước năm 1945, Phòng tư liệu
khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
6. Bộ Văn hóa thông tin – Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam (2006),
“Văn hóa phi vật thể của các dận tộc vùng lòng hồ thủy điện Tuyên
Quang”, Nxb VHTT – Công ty Văn hóa trí tuệ Việt.
7. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người, Nxb
VHNT tạp chí văn hoá nghệ thuật- Hà Nội.
8. Phan Huy Chú (1999), Lịch chiều hiến chương loại chí, tập I. Nxb KHXH, HN.
9. Đại học Tổng Hợp Hà Nội (1973), “Thổ ty ở Bảo Lạc – Cao Bằng”_ Báo
cáo điền dã của sinh viên dân tộc học khoa Lịch sử.
10. Lê Quí Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, tập II, Nxb KHXH, HN.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
89
11. Đồng Khánh dư địa chí - Tỉnh Tuyên Quang, Viện Hán Nôm.
12. Đỗ Danh Huấn, Nghiên cứu về làng xã ở châu thổ Bắc Bộ trên Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử (1954- 2008), Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 393- 2009.
13. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang (1940- 1975), (2000), Nxb Chính trị
quốc gia- Hà Nội.
14. Ngô Sĩ Liên (1973), Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
15. Lã Văn Lô- Hà Văn Thư (1980), Bàn về cách mạng tư tưởng và văn hoá ở
vùng các dân tộc thiểu số, Nxb Văn hoá.
16. Lã Văn Lô- Nguyễn Hữu Thấu-Mai Văn Trí- Ngọc Anh- Mạc Như Đường
(1959), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
17. Lã Văn Lô (1973), Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb KHXH.
18. Lã Văn Lô- Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược các nhóm dân tộc Tày ,
Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb KHXH.
19. Phù Ninh (2003), Di tích lịch sử Tuyên Quang, Nxb VHDT-HN.
20. Phù Ninh (2006), “Truyện cổ Nà Hang”, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
21. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, tập IV, Nxb
Thuận Hoá, Huế .
22. Đàm Thị Uyên (2007), “Chính sách dân tộc của các triều đại phong kiến
Việt Nam”, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
23. Đàm Thị Uyên (1999), Huyện Quảng Hòa (tỉnh Cao Bằng) từ khi thành
lập đến giữa thế kỉ XIX. Luận án TS Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội I.
24. Đặng Nghiêm Vạn- Hoàng Hoa Toàn- Ngô Vĩnh Bình- Đặng Văn Hường,
Bộ đội cần biết về các dân tộc ở biên giới phía bắc, Quân đội nhân dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
90
25. Văn hoá truyền thống các dân tộc: Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang
(2003), Nxb Văn hoá dân tộc.
26. Văn hóa tùng thư, “Đại Nam nhất thống chí – Tỉnh Tuyên Quang”, Nhà
Văn hóa, Phủ Quốc-Vụ-Khanh đặc trách văn hóa.
27. Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta (1995),
Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội.
28. Viện dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở miền Bắc (Việt Nam).
29. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2006), Chép từ : An Nam tạp chí “Bài phú về
tỉnh Tuyên Quang” (niên hiệu Tự Đức thứ 14 - 1861), Hà Nội.
30. Việt sử thông giám cương mục (1957), tập II, Nxb Văn - Sử - Địa, Hà Nội.
- Tài liệu địa bạ:
31. An Lãng xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8086 F1: 8.
32. Bình Long xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8077 F1: 7.
33. Chung Khánh xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8106 F3: 8.
34. Cổ Linh xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8101 F1: 8.
35. Côn Lôn xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8084 F1: 8.
36. Đà Vị xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8088 F1: 8.
37. Đài Mãn xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8087 F1: 8.
38. Đài Xá xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8079 F1: 7.
39. Gia Thận xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8093 F1: 8.
40. Hà Lương xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8073 F1: 10.
41. Hùng Thôn xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8102 F1: 8.
42. Khai Quán xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8104 F3: 8.
43. Khánh Ninh xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8099 F1: 8.
44. Khúc Phụ xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8074 F1: 10.
45. Khuôn Hà xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8076 F1: 10.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
91
46. Kim Đài xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8092 F1: 10.
47. Kim Mã xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8075 F1: 10.
48. Kim Tương xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8081 F1: 9.
49. Miện Dương xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8082 F1: 10.
50. Ninh Dương xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8083 F1: 8.
51. Phúc Linh xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8103 F3: 7.
52. Phương Chử xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8105 F3: 7.
53. Thân Xá xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8098 F1: 10.
54. Thổ Hoàng xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8096 F1: 10.
55. Thượng Lâm xã địa bạ năm Minh Mệnh 21, TTLTQGI, 8107 F3: 11.
56. Thượng Nông xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8078 F1: 7.
57. Tùng Hiên xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8085 F1: 8.
58. Vi Sơn xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8080 F1: 10.
59. Vĩnh Gia xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8090 F1: 8.
60. Xuân Hương xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8089 F1: 8.
61. Xuân Quang xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8094 F1: 8.
62. Yên Viễn xã địa bạ năm Gia Long 4, TTLTQGI, 8097 F1: 8.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC
Bia mộ của dòng họ Ma Doãn ở xã Thổ Bình huyện
Chiêm Hoá Tuyên Quang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Quần thể bia mộ của dòng họ Quằng Ma Doãn ở xã Thổ
Bình huyện Chiêm Hoá Tuyên Quang
Hang Bó Cuống ở xã Thổ Bình huyện Chiêm Hoá Tuyên Quang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV2010_SP_NguyenThiHa.pdf