Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển, Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội (Công ty xây dựng công trình Hưng Thịnh) đã có nhiều bước chuyển biến mới và đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Sản phẩm của Nhà Máy đã được ưa chuộng, chất lượng, mẫu mã sản phẩm không ngừng được cải thiện, máy móc thiết bị đang từng bước được nâng cao và đổi mới. Bên cạnh đó, qua sự phân tích ta có thể thấy được tình hình tài chính của Nhà Máy là chưa khả quan. Trước mắt Nhà Máy cần phải giải quyết, tháo gỡ các khó khăn về tài chính: tích cực thu hồi nợ phải thu để tranng trải các khoản nợ nhằm làm giảm gánh nặng về các khoản nợ, tăng sức mạnh tài chính giúp cho tình hình thanh toán của Nhà Máy thuận lợi hơn. Ngoài ra tài chính của Nhà Máy vững vàng hơn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt hiệu quả và phát triển hơn trong thời gian qua. Nhà Máy phải xác định rõ những thuận lợi và khó khăn của mình để có những giải pháp hữu hiệu nhằm tận dụng và phát huy hơn nữa những lợi thế đồng thời khắc phục những hạn chế khó khăn trước mắt để duy trì vị trí và vị thế trên thi trường trong nước nói riêng và thế giới nói chung. Cùng với những cố gắng trên Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội đang từng bước tiến xa trong nước và trên toàn thế giới. Để có thể theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thế giới đạc biệt là nền kinh tế thị trường, với sự đa dạng hoá của các thành phần kinh tế, với tính năng vốn có của cơ chế thị trường đã tạo ra một bối cảnh môi trường cạnh tranh gay gắt và khốc liệt giữa các doanh nghiệp với nhau. Để tồn tại và đứng vững trong cuộc cạnh tranh đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực vượt bậc với những bước bứt phá mới, phải quan tâm tới tất cả các khâu trong quá trình sản xuất (từ khi doanh nghiệp bỏ vốn ra đến khi doanh nghịêp thu hồi vốn về) làm thế nào để đạt hiệu quả cao nhất với chi phí bỏ ra là thấp nhất? Là một câu hỏi đối với tất cả các doanh nghiệp, có như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo có lãi, cải thiện đời sống người lao động, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà Nước, tăng tích luỹ và thực hiện tái sản xuất mở rộng. Vượt qua bao nhiêu khó khăn trong suốt hơn 30 năm qua Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội(Công ty xây dựng công trình Hưng Thịnh) đã phát triển hết mình để thu hút được nguồn vốn đầu tư nướ ngoài, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
68 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1679 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ tại công ty xây dựng công trình Hưng Thịnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vị, cá nhân khác. Tuy nhiên, nếu Nhà Máy cứ tiếp tục lợi dụng nguồn vốn này một cách lâu dài để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì sẽ rất nguy hiểm trong việc đối phó với các khoản nợ có thể diễn ra cùng một lúc, sẽ mất quyền tự chủ trong kinh doanh và điều quan trọng hơn là sẽ mất dần uy tín và lợi thế rong cạnh tranh.
Bên cạnh một số khoản mục trong các khoản phải trả tăng lên thì có khoản phải trả công nhân viên giảm đi một cách rất đáng kể: năm 2007 đã giảm đi được 383 299 nghìn đồng, đạt 51.9%. Điều này đã cho thấy một sự cố gắng của Nhà Máy trong việc trả lương cho công nhân viên. Mặc dù cáckhoản nợ phải trả của nhà máy tăng nhưng khoản trả công nhân viên lại giảm đã cho thấy Nhà Máy thực hiện tốt việc thanh toán lương cho công nhân viên trong Nhà Máy, tạo động lực thúc đẩy công nhân viên yên tâm, phấn khởi làm việc đem lại năng suất lao động cao.
Tuy nhiên, nhận xét trên chỉ thấy được thực trạng và xu hướng biến động chung của tình hình thanh toán giữa năm 2006 so với năm 2007 mà thôi. Còn để nhận biết được tình hình thanh toán có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hay không thì cần phải xem xét trên góc độ như bảng so sánh sau:
Bảng 9: Phân tích sự ảnh hưởng của tình hình thanh toán đến hoạt động SXKD
Đơn vị: nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
1. Tổng số các khoản phải thu
13 702 812
22 608 038
2. Tổng số các khoản phải trả
38 480 621
50 764 983
3. Tổng tài sản lưu động
22 438 866
35 060 419
4. % các khoản phải thu so vớiTSLĐ
61.1%
64.5%
5. % các khoản phải trả so với TSLĐ
171.5%
144.8%
6. % các khoản thu so với các khoản trả
35.6%
44.5%
Nguồn: Phòng TC – KT
Từ bảng so sánh trên ta có thể rút nhận xét sau: So với năm 2006 thì năm 2007, tỷ lệ các khoản thu so với TSLĐ đã tăng lên. Như vậy đã cho thấy tình hình tài chính nói chung và tình hình thanh toán nói riêng của Nhà Máy diễn ra theo chiều hướng xấu đi. Bởi vì khi tỷ lệ các khoản phải thu so với TSLĐ đã tăng lên, điều đó cũng có nghĩa là tốc độ tăng của các khoản phải thu tăng hơn tốc độ tăng của TSLĐ. Khi đó các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng TSLĐ và như vậy thì lượng tiền trong lưu thông của Nhà Máy giảm đi do bị ứ đọng vốn từ các khoản phải thu, gây khó khăn cho hoạt động thanh toán, hơn nữa Nhà Máy sẽ không có cơ hội đầu tư ngắn hạn để sinh lời. Mặt khác, việc trang chải cho các khoản mua sắmTSLĐ cũng bị hạn chế.Trong tương lai, Nhà Máy cần điề chỉnh lại tỷ lệ này để việc thanh toán của Nhà Máy được dễ dang và thuận lợi hơn.
Về tỷ lệ các khoản phải trả so với TSLĐ ở cả năm 2006 đều chiếm trên 100% là một tỷ lệ rất đáng lo ngại vì nó phản ánh tỷ lệ các khoản phải trả là vô cùng lớn, là quá sức chịu đựng so với TSLĐ của Nhà Máy tức là tổng TSLĐ không đủ để trang trải cho các khoản phải trả, khả năng trả nợ của Nhà Máy là rất yếu kém và đã đưa Nhà Máy vào hoàn cảnh rất khó khăn khi phải đối mặt với các chủ nợ, uy tín bị giảm sút, mất chủ động trong sản xuất kinh doanh, chi phí trả lãi vay cao. Đứng trước tình hình đó, Nhà Máy đã tích cực thu hồi các khoản nợ, hạn chế các khoản chi tiêu không cần thiết, tăng cường sản xuất các mặt hàng có khả năng sinh lợi cao nhằm tạo ra lợi nhuận cho Nhà Máy để tình hình thanh toán được cải thiện hơn, giúp cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà Máy tốt hơn, hiệu quả hơn. Điều này đã được Nhà Máy khăng định ở ngay năm 2007 là tỷ lệ các khoản trả so với TSLĐ đã giảm đi đáng kể từ 171.5% của năm 2006 đã giảm xuống còn 144.8% ở năm 2007. Như vậy, sau một năm, khi biết được nguy cơ về tình hình thanh toán thì Nhà Máy đã tích cực điều chỉnh, thay đổi cách thức làm ăn và đã đạt được hiệu quả. Phải nói rằng đây là một sự tiến bộ đáng biểu dương mà Nhà Máy cần tích cực phát huy.
ở chỉ tiêu 6 là tỷ lệ các khoản phải trả đều nhỏ hơn 100% ở cả hai năm 2006 và 2007. Điều này chứng tỏ Nhà Máy luôn đi chiếm dụng vốn ở các Công ty khác. Như vậy, hiệu quả hoạt động sản xuất của Nhà Máy sẽ không được bền vững bởi Nhà Máy luôn nằm trong tinh trạng lo nắng về việc trả nợ cho nên mọi hoạt động của Nhà Máy điều rất khó khăn vì thiếu thốn. Tuy nhiên, tình trạng này đã có dấu hiệu tốt dần lên, biểu hiện ở năm2007, tỷ lệ này đã tăng lên được 44.5% trong khi năm 2006 chỉ là 35.6%.
Về tồn tại các khoản nợ phải thu, nợ phải trả trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là tất yếu khách quan. Tuy nhiên, Nhà Máy cần theo dõi, điều tiết để các khoản này chiếm tỷ trọng vừa phải thì nó mới không ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.5.2. Phân tích nhu cầu và khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Nếu doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán thì tình hình tài chính sẽ khả quan và ngược lại. Để có cơ sở đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trước mắt và triển vọng trong thời gian tới, cần đi sâu vào nghiên cứu nhu cầu và khả năng thanh toán để đánh gía năng lực của doanh nghiệp. Đây là dấu hiệu thông tin rất cần thiết đối với các nhà đầu tư, ngân hàng trước khi quết định cung cấp vốn cho doanh nghiệp.
Trình tự phân tích bao gồm hai bước:
Bước 1: Lập bảng cân đối nhu cầu về khả năng thanh toán.
Từ tài liệu của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội ta lập được bảng sau:
Bảng 10: Cân đối nhu cầu và khả năng thanh toán
Đơn vị: Nghìn đồng
Nhu cầu thanh toán
Số tiền
Khả năng thanh toán
Số tiền
A. Các khoản cần thanh toán ngay
3 980 266
A. Các khoản dùng thanh toán ngay
319 400
I. Các khoản nợ quá hạn
361 465
I. Các loại tiền
319 400
1. Nợ ngân sách
357 336
1. Tiền mặt
318 350
2. Nợ khách hàng
4 129
2. TGNH
1 050
II. Các khoản nợ đến hạn
30 618 801
II. Đầu tư ngắn hạn
1. Nợ người bán
3 160 775
B. Các khoản dùng thanh toán trong thời gian tới
26 928 485
2. tiền lương CNV
416 351
I. Tháng tới
23 476 621
3.Nợ ngân hàng
27 041 675
1. Phải thu của khách hàng
20 881 035
B. Các khoản cần thanh toán
725 142
2. Hàng gửi bán
305 538
I. Tháng tới
301 615
3. NVL dự trữ vượt định mức
1 083 467
1. Nợ ngân hàng
63 082
4. Phải thu khác
99 693
2. Nợ khác
238 533
5. Hàng tồn kho
1 106 888
II. Quý tới
423 527
II. Quý tới
3 451 864
1. Nợ ngân hàng
123 527
1. Thành phẩm tồn kho
3 451 864
2. Nợ khác
300 000
2. Vay
Tổng
31 705 408
Tổng
27 247 885
Nguồn: Phòng TC – KT
Qua bảng phân tích trên ta dễ dàng thấy rõ nhu cầu và khả năng thanh toán của Nhà Máy theo từng mức độ khác nhau trong những khoảng thời gian khác nhau. Một cách tổng quát nhất thì khả năng thanh toán của Nhà Máy chưa đủ cho nhu cầu thanh toán, do nhu cầu thanh toán lớn hơn khả năng thanh toán tuy mức độ chênh lệch là thấp. Về các khoản thanh toán ngay thì Nhà Máy chỉ thanh toán được 319 400 nghìn đồng trong khi nhu cầu thanh toán là 30 980 266 nghìn đồng, như vậy là chênh lệch quá lớn. Điều đó có nghĩa là vào thời điểm hiện tại Nhà Máy đã mất khả năng thanh toán, nhưng đó chỉ là thời điểm tạm thời mà thôi, không thể chỉ nhìn vào đó mà kết luận ngay rằng Nhà Máy sẽ đi đến phá sản được. Vì ta phải xét vào thời điểm lúc đó là Nhà Máy đang tăng cường sản xuất với khối lượng sản phẩm lớn nhằm đáp ứng được nhu cầu cao của các đơn đặt hàng cũng như của thị trường. Do vậy mà chi phí về tiền lương công nhân rất lớn, lượng vốn vay ngân hàng nhiều, hơn nữa số tiền trả trước của khách hàng cũng nhiều dẫn tới nhu cầu thanh toán ngay chênh lệch nhiều như vậy. Chỉ trong một thời gian ngắn sau, sau khi Nhà Máy đã sản xuất hoàn thành xong sản phẩm. Đem đi bán thì sẽ thu hồi vốn và trang trải các khoản nợ. Và điều này đã được khẳng định ngay ở khoản mục (B) là khẳ năng thanh toán đã vượt rất xa so với nhu cầu thanh toán trong thời gian tới. Và như vậy là Nhà Máy sẽ còn tiếp tục tăng khả năng thanh toán nhiều hơn nữa và nhu cầu thanh toán sẽ ngày càng giảm đi, tình hình tài chính của Nhà Máy từ đó sẽ ngày càng vững mạnh.
Tuy nhiên, Để đánh giá xác định khả năng thanh toán cần thực hiện bước 2:
Bước 2: Tính một số chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp
Khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán tổng quát =
Nhu cầu thanh toán
Tỷ số này cần phản ánh mối quan hệ giữa khả năng thanh toán và nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp, là cơ sở để đánh giá khả năng thanh toán và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Nếu tỷ lệ này lớn hơn hoặc bằng 1 chứng tỏ khả năng thanh toán và tình hình tài chính một cách khả quan.
- Nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 1 thì có nghĩa là khả năng thanh toán và tình hình tài chính của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Hệ số này càng nhỏ càng chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán và tình hình tài chính không vững chắc và sẽ mất dần khả năng thanh toán. khi hệ số này tiến tới 0 thì doanh nghiệp có nguy cơ cơ phá sản.
TSLĐ
Khả năng thanh toán ngắn hạn =
Nợ ngắn hạn
Tỷ số này cho biết khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp phải thanh toán trong vòng một năm hay một kỳ doanh nghiệp là cao hay thấp. Các nhà tài trợ cho vay ngắn hạn luôn quan tâm tới chỉ số này để quyết định xem có nên cho doanh nghiệp vay hay không. Nếu hệ số này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và thể hiện lá tình hình tài chính của doanh nghiệp bình thường. Nếu chỉ số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong thanh toán ở thời gian tới.
Tỷ suất thanh toán nhanh (Tức thời) =
Thực tế cho thấy, tỷ suất này nếu lớn hơn 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, còn nếu nhỏ hơn 0,5 thi doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ và do đó có thể bán gấp hàng hoá để trả nợ vì không đủ tiền để thanh toán. Tuy nhiên, nếu tỷ suất này quá cao lai phản ánh một tình hình không tốt vay vốn bằng tiền quá nhiều sẽ phải chịu chi phí cơ hội đầu tư sinh lời, có thể thất thoát, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Tỷ suất thanh toán vốn lưu động =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của TSLĐ là nhanh hay chậm, từ đó xác định được doanh nghiệp có đủ tiền, thừa tiền hay thiếu tiền phục vụ cho việc thanh toán ngắn hạn. Thực tế cho thấy hệ số thanh toán của vốn lưu động tính ra mà lớn hơn 0.5 hoặc nhỏ hơn 0.1 thì đều không tốt. Vì khi hệ số này lớn hơn 0.5 thì lượng tiền của doanh nghiệp quá nhiều, Đảm bảo thừa khả năng thanh toán; còn nếu hệ số này nhỏ hơn 0.1 thì doanh nghiệp lại không đủ tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn. Như vậy thừa tiền hay thiếu tiền đều phản ánh một tình trạng tài chíng không bình thường. Nếu thừa tiền sẽ gây ứ đọng vốn, nếu gây thiếu tiền sẽ không đảm bảo được khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
Hệ số thanh toán nợ dài hạn =
Đây là chỉ tiêu để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ dài hạn bằng nguồn vốn khấu hao tài sản cố định mua sắm bằng nguồn vốn vay dài hạn của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Nếu hệ số này lớn hơn hoặc bằng 1 phải chứng tỏ doanh nghiệp đảm bảo khả năng thanh toán nợ dài hạn bằng vốn khấu hao tài sản cố định mua sắm bằng nguồn vốn vay dài hạn và ngược lại, nếu hệ số này vàng nhỏ hơn 1 càng chứng tỏ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp thấp, buộc doanh nghiệp phải dùng các nguồn khác để trả nợ.
Hệ số TSLĐ so với các khoản phải trả =
Do chức năng chủ yếu của TSLĐ là để dự trữ và thanh toán. Vì vậy chỉ tiêu trên cho thấy các khoản phải trả tối đa bằng 1/2 TSLĐ để trong trường hợp xấu nhất khi tất cả các chủ nợ đến đòi thì doanh nghiêp cũng chỉ huy động tối đa 50% TSLĐ cho việc trả nợ và vẫn còn 50% TSLĐ tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh được.
Tỷ số vòng quay hàng tồn kho =
Tỷ số này phản ánh: Trong một kỳ kinh doanh, hàng dự trữ quay được mấy vòng. Nếu giá trị của tỷ số này thấp chứng tỏ lượng hàng tồn kho cao so với doanh số bán, lượng hàng bán được chậm và ngược lại.
Thời gian thu hồi nợ bình quân =
Chỉ tiêu này phản ánh: Bình quân sau bao nhiêu ngày thì doanh nghiệp thu hồi hết nợ. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ hàng bán ta chưa thu được tiền, thời hạn thu hồi nợ kéo dài và rủi ro tài chính tăng cao. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ hàng bán ra theo phưong pháp thanh toán ngay thời gian thu hồi nợ ngắn, không bị ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, ít gặp các khoản nợ khó đòi, từ đó vốn được luân chuyển nhanh.
Tỷ số nợ =
Chỉ tiêu này cho biết: Trong tổng số tài sản hiện có của doanh nghiệp thì vay nợ chiếm bao nhiêu. Nếu tỷ số này càng lớn và có xu hướng gia tăng thì khả năng thanh toán sẽ bị giới hạn lại và chứa nhiều rủi ro về mặt tài chính. Nếu tỷ số này càng nhỏ thì càng tốt vì nó thể hiện tiầm lực tài chính của doanh nghiệp độc lập và ít bị lệ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài.
áp dụng việc phân tích các chỉ tiêu trên vào Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội ta có bảng phân tích các chỉ tiêu của Nhà Máy như sau:
Bảng 11: Phân tích các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán
Đơn vị: Nghìn đồng
Chi tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Tổng tài sản
42 269 062
59 223 254
Tài sản lưu động
22 438 866
35 060 419
Tiền mặt
433 705
1 367 817
Hàng tồn kho
7 955 466
10 698 976
Số dư bq các khoản phải thu
10 918 831
18 155 425
Tổng nợ phải trả
38 480 621
50 764 983
Nợ ngắn hạn
21 776 926
31 117 045
Nợ dài hạn
16 643 695
19 109 405
Giá trị còn lại cúaSTLĐ
19 306 686
22 740 102
Trị giá vốn bán hàng
8 654 830
9 851 692
Doanh thu thuần
12 388 364
12 739 012
Các tỷ số tài chính
1. tỷ số thanh toán hiện hành
1.1
1.17
2. tỷ số thanh toán nhanh
0.02
0.04
3.Tỷ số thanh toán ngắn hạn
1.03
1,13
4.Tỷ số thanh toán dài hạn
1,16
1.19
5. tỷ sôTSLĐ/ các khoản phải trả
0.58
0.69
6. Tỷ số thanh toán của VLĐ
0.02
0.04
7. Tỷ số vòng quay hàng tồn kho
1.09
0.92
8. Hệ số vòng quay khoản phải thu
1.13
0.7
9. Tỷ số nợ
0.91
0.86
Nguồn: Phòng TC -KT
Qua bảng số liệu trên ta có nhận xét như sau:
- Về tỷ số thanh toán hiện hành: ở năm 2006 và năm 2007 tỷ số này của Nhà Máy đều lớn hơn 1 và có xu hướng gia tăng. Như vậy tỷ số này đã nói lên được Nhà Máy đảm bảo được khả năng thanh toán và ngày càng biến đổi theo chiều hướng tốt lên.
- Về tỷ số thanh toán nhanh ( tức thời ) và tỷ số thanh toán của vốn lưu động của năm 2006 và năm 2007 của Nhà Máy đề rất thấp, không đủ để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn và cũng như để tài trợ cho TSLĐ là thấp hay nói cách khác là tính thanh khoản của Nhà Máy rất thấp, tuy nhiên đó chỉ là ở một thời điểm nhất thời thôi và có thể cải thiện được. Biểu hiện là ở tỷ số ngắn hạn và dài hạn ở cả hai năm 2006 và 2007 đều lớn hơn 1 và có chiều hướng tăng lên. Điều đó đã chứng tỏ các khoản nợ trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh (đối với nợ ngắn hạn) và trên một năm (đối với nợ dài hạn), Nhà Máy đảm bảo là sẽ trả mợ được. Đối với các nhà đầu tư cho vay, khi nhìn vào kết quả này thì họ có thể yên tâm cho Nhà Máy vay được, điều này đã tạo lên uy tín của Nhà Máy khi họ đã đảm bảo được hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Đối với tỷ số TSLĐ/ Nợ phải trả ta thấy là tỷ số này rất thấp chứng tỏ nợ phải trả vượt quá TSLĐ, tình trạng chính của Nhà Máy đang gặp rất nhiều khó khăn. Nếu bắt buộc Nhà Máy phải thanh toán hết các khoản nợ cùng một lúc thì Nhà Máy sẽ không tiếp tục hoạt động được nữa, nếu không có những biện pháp tài chính hữu hiệu. Tuy nhiên, trường hợp xấu nhất này rất ít khi xảy ra trong thực tế, vì các khoản nợ đều thanh toán khi đến thời hạn và có thể gia hạn thêm chứ không bao giờ các khoản nợ cũng đến cùng một lúc. Hơn nữa, với uy tín sẵn có của mình Nhà Máy còn có thể đi vay từ bên ngoài để trả nợ và còn rất nhiều biện pháp khác nữa… nhưng để tránh tình huống này, Nhà Máy cần tập trung sản xuất với khối lượng sản phẩm lớn, chất lượng, mẫu mã sản phẩm đẹp, tạo niềm tin cho khách hàng để bán được nhiều hàng, thu được nhiều doanh thu và lợi nhuận, giản tối đa các khoản chi tiêu không hợp lý nhằm giảm bớt gánh nặng.
- Số vòng quay hàng tồn kho và vòng quay các khoản thu đều cho thấy: Năm 2007 hai hệ số này đều giảm đi so với năm 2006. Điều này đã phản ánh được việc lượng sản phẩm của Nhà Máy bán ra là rất lớn và ngày càng được ưa chuộng. Đồng thời Nhà Máy đã đẩy nhanh thu hồi các khoản nợ để giảm số vốn bị chiếm dụng và Nhà Máy cũng tìm ra được chính sách bán hàng hợp lý nhằm thu được tiền luôn, tránh được các khoản nợ của khách hàng giúp tình hình thanh toán của Nhà Máy được cải thiện hơn.
- Về tỷ số nợ: Tỷ số này đang có xu hướng giảm đi. Đây là một dấu hiệu tốt cho tình hình tài chính của Nhà Máy. Tuy nhiên hệ số này là rất cao cho thấy tỷ lệ nợ trong tổng tài sản của Nhà Máy là rất cao, chiếm 91% ở năm 2006 và đến năm 2007 tỷ lệ này giảm xuống còn 86%. Như vậy số nợ của Nhà Máy là rất lớn nó cho thấy tình hình tài chính của Nhà Máy gặp rất nhiều khó khăn vì hầu như phải lệ thuộc nguồn vốn của bên ngoài.
Sau khi phân tích tình hình và khả năng thanh toán của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội ta có thể thấy được việc thanh toán các khoản nợ của Nhà Máy gặp rất nhiều khó khăn, số nợ của Nhà Máy là rất lớn. Một trong những lý do dẫn đến khả năng thanh toán yếu kém của Nhà Máy là do vốn bằng tiền chiếm tỷ trọng quá nhỏ. Ngoài ra Nhà Máy còn bị chiếm dụng vốn nhiều và tốc độ thu hồi các khoản phải thu chậm. Trong thời gian tới Nhà Máy cần thực hiện nghiêm túc hơn về các quy chế tài chính trong thu, chi nhằm hạn chế tình trạng khó khăn như hiện nay để tránh những rủi ro về tài chính có thể xảy ra.
2.6. Phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hoạt động tài chính là một phần quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tình hình tài chính của doanh nghiệp là tốt hay kém phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Do vậy, khi phân tích tình hình tài chính cần phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ quản lý và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với tổng chi phí thấp nhất. Nó là một đại lượng so sánh giữa chi phí kinh doanh bỏ ra so với kết quả kinh doanh thu được. Vì kết quả đạt được và chi phí bỏ ra có thể được phản ánh bằng nhiều loại chi tiêu khác nhau dẫn đến phân tích và đánh giá hiệu quả kinh doanh là một vấn đề phức tạp. Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học cần phân tích các chỉ tiêu tổng quát và các chỉ tiêu chi tiết.
2.6.1. Phân tích hệ thống chỉ tiêu tổng quát.
Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải phản ánh được sức sản xuất, sức hao phí cũng như sức sinh lợi của từng yếu tố, từng loại vốn và phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung:
Hiệu quả kinh doanh = Kết quả đầu ra
Yếu tố đầu vào
(Phản ánh sức sinh lời hay sức sản xuất của các chỉ tiêu đầu vào)
Hiệu quả kinh doanh =
(Phản ánh sức hao phí cho một đơn vị kết quả thu được)
Trong đó: - Kết quả đầu ra thường được đo bằng các chỉ tiêu như: Tổng giá trị sản lượng, doanh thu thuần, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận gộp…
- Yếu tố đầu vào bao gồm: Lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn vay, vốn chủ sở hữu …
Trước tiên ta phân tích một số chỉ tiêu quan trọng mà khồn một ngành kinh doanh nào, không một doanh nghiệp nào có thể bỏ qua những chỉ tiêu này.
Tỷ suất lợi nhuận doanh thu =
Chỉ tiêu này cho biết: Trong một đồng doanh thu thu được sẽ đem lại mấy đồng lợi nhuận. Lợi nhuận ở đây là lợi nhuận trước thuế hoặc lợi nhụân sau thuế.
Tỷ số doanh lợi vốn = Lợi nhuận trước thuế hoặc sau thuế
Tổng tài sản bình quân
Tỷ số này cho biết bình quân trong kỳ kinh doanh, cứ một đồng vốn (tài sản) mà doanh nghiệp sử dụng sẽ tạo ra mấy đồng lợi nhuận.
Khả năng tạo doanh thu của tổng tài sản =
Chỉ tiêu này cho biết: bình quân trong kỳ kinh doanh, cứ một đồng tài sản mà doanh nghiệp sử dụng sẽ tạo ra mấy đồng doanh thu. Hoặc bình quân trong kỳ kinh doanh, tổng tài sản của doanh nghiệp đã quay được mấy vòng.
Tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu =
Tỷ số này cho biết: Một đồng vốn chủ sở hữu đem lại mấy đồng lợi nhuận. Hệ số này dùng để đánh giá chung khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu.
Khả năng sinh lợi của vốn kinh doanh =
Chỉ tiêu này cho biết: Một đồng vốn kinh doanh mà doanh nghiệp bỏ ra có thể thu về mấy đồng lợi nhuận. Vốn kinh doanh ở đây có thể là vốn chủ sở hữu, vốn vay hoặc là tổng nguồn vốn.
Từ số liệu của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội ta có bảng phân tích các chỉ tiêu trên như sau:
Bảng 12: Phân tích hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh chung:
Đơn vị: Nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
2006/2007 (%)
Doanh thu thuần
12 388 364
12 739 012
102.8
Lợi nhuận thuần
483 168
596 567
123.5
Nguồn vốn CSH
3 788 441
8 485 271
223.3
Tổng TS bình quân
39 458 380
50 746 158
128.6
Nguồn vốn KD
1 960 107
5 960 107
304.1
1. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu
0.039
0.047
120.5
2. Hệ số doanh lợi vốn
0.012
0.012
100
3. Khả năng tạo DT của tổng TS
0.314
0.251
79.3
4. Hệ số doanh lợi vốn CSH
0.128
0.071
55.5
5. Khả năng sinh lợi của VKD
0.247
0,1
40.5
Nguồn: Phòng TC - KT
Qua bảng số liệu trên ta có nhận xét sau:
- Về tỷ suất lợi nhuận doanh thu (1) cho biết: Năm 2006 cúa một đồng doanh thu thì Nhà Máy lại có 0.039 đồng lợi nhuận, đến năm 2007 thì tăng lên được 0.047 đồng. Như vậy, tỷ suất lợi nhuận của Nhà Máy còn thấp và tăng chưa đáng kể chỉ đạt 120% so với năm 2006.
- Về tỷ suất doanh lợi vốn (2) cho biết cứ một đồng vốn của Nhà Máy chỉ tạo ra 0.012 đồng lợi nhuận ở năm 2006 và đến năm 2007 tỷ suất này vẫn giữ nguyên. Như vậy, việc sử dụng vốn của Nhà Máy là chưa có hiệu quả.
- Về khả năng tạo doanh thu của tổng tài sản (3) cho biết: ở năm 2006 cứ một đồng tài sản của Nhà Máy sử dụng sẽ thu được 0.314 đồng lợi nhuận. Điều này chứng tỏ khả năng tạo doanh thu của tài sản là rất lớn tuy năm 2007 tỷ suất giảm xuống chỉ còn 0.251 đồng và đạt 79.3%.
- Tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu (4) cho biết: Cứ một đồng vốn chủ sở hữu ở năm 2006 Nhà Máy thu được 0.128 đồng lợi nhuận, năm 2007 thu được 0.071 dồng lợi nhuận. Đây là tỷ số tương đối thấp và có chiều hướng đi xuống trong năm 2006. Điều này chứng tỏ lợi nhuận tăng không tương xứng với tỷ lệ tăng nguồn vốn chủ sở hữu. Lợi nhuận tăng chậm cũng là do Nhà Máy phải chịu chi phí chả lãi vay cao.
- Khả năng sinh lợi của vốn kinh doanh (5): Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn kinh doanh của Nhà Máy sẽ tạo ra được 0.247 đồng lợi nhuận ở năm 2006, nhưng đến năm 2007, tỷ lệ này đã giảm đi xuống còn 0.1 đồng và chỉ đạt 40.5% so với năm 2007. Như vậy khả năng sinh lợi của vốn kinh doanh giảm đi rất mạnh. Nguyên nhân là do lợi nhuận năm2006 tăng không đáng kể so với năm 2007 và chỉ đạt 123.5% trong khi nguồn vốn kinh doanh của Nhà Máy lại tăng rất cao ở năm 2007 và đật tới 304.1% so với năm 2006.
Xét một cách tổng quát thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của Nhà Máy là chưa cao và chưa ổn định, lợi nhuận còn thấp trong khi nguồn vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh lại cao. Trước mắt, đây có thể là một kết quả không mấy khả quan nhưng xét về dài hạn khi nguồn vốn được đầu tư tăng lên ngày càng nhiều thì lợi nhuận lúc đó sẽ tăng rất nhanh nhờ qui mô sản xuất được mở rộng, khi đó nguồn vốn vay sẽ giảm, chi phí trả lãi vay càng thấp, từ đó lợi nhuận sẽ tăng lên và lúc đó hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ được cải thiện hơn.
2.6.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn.
2.6.2.1. Phân tích hiệu ủa sử dụng vốn cố định (tài sản cố định).
Vốn cố định là vốn đầu tư vào TSCĐ của doanh nghiệp và nó nằm trong giá trị.
Hiệu quả sử dụng TSCĐ có thể được đánh giá bằng các chỉ tiêu sau:
Sức sản xuất của TSCĐ =
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng nguyên giá TSCĐ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần (hay giá trị tổng sản lượng).
Sức sinh lợi của TSCĐ =
Chỉ tiêu này cho biết: Để có một đông doanh thu hoặc lợi nhuận phải có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ.
Hiệu quả sử dụng vốn =
Từ số liệu của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội ta có bảng phân tích các chỉ tiêu trên như sau:
Bảng 13: Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định
Đơn vị: Nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
% 2006/ 2007
Doanh thu thuần
12 38 364
12 739 012
102.8
Lợi nhuận sau thuế
483 168
596 567
123.5
Nguyên giá bình quân TSCĐ
26 561 42
28 163 459
106
1. Sức sản xuất của TSCĐ
20 952 79
21 559 681
102.9
2. Sức sinh lời của TSCĐ
0.466
0.452
97
3. Suất hao phí của TSCĐ
- Theo lợi nhuận
- Theo doanh thu
0.018
54.973
2.144
0.021
47.209
2.211
116.7
85.9
103.1
Nguồn: Phòng TC- KT
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
- Sức sản xuất của TSCĐ năm 2006 là 0.466 nghĩa là cứ 1 đồng TSCĐ đưa vào sản xuất sẽ tạo ra 0.466 đồng doanh thu thuần ở năm 2007, tỷ số này giảm và chỉ là 0.452 đồng, chỉ đạt 97% so với năm 2006. Tỷ số này thấp và có xu hướng giảm đi chứng tỏ hiệu quả sử dụng TSCĐ chưa cao, sự tăng lên của nguyên giá TSCĐ nhanh hơn sự tăng lên của doanh thu. Tuy nhiên, tỷ số này sẽ được cải thiện khi mà máy móc, thiết bị của Nhà Máy được nâng cấp, hiện đại hoá thì việc tăng năng suất lao động dẫn đến doanh thu và lợi nhuận của Nhà Máy tăng là điều đương nhiên.
- Sức sinh lợi của TSCĐ phản ánh bình quân trong kỳ kinh doanh, một đồng nguyên giá TSCĐ được sử dụng đã tạo ra cho Nhà Máy 0.018 đồng lợi nhuận ở năm 2006; 0.021 đồng ở năm 2007. Tỷ số này là quá nhỏ, sức sinh lợi của TSCĐ là thấp. Điều này cho thấy TSCĐ đã cũ nát, việc đáp ứng nhu cầu sản xuất thật khó khăn. Trong tình trạng này đòi hỏi Nhà Máy phải bảo dưỡng nâng cấp máy móc, nhanh chóng thay thế những máy móc đã hỏng làm việc kém năng suất, đầu tư máy móc có công nghệ kỹ thuật cao.
- Suất hao phí TSCĐ theo lợi nhuận: để có được 1 đồng lợi nhuận, Nhà Máy phải đầu tư tới 47.029 đến 54.973 đồng vào TSCĐ.
- Suất hao phí TSCĐ theo doanh thu: cho thấy để có 1 đồng doanh thu, Nhà Máy cần từ 2.144 đến 2.211 đồng TSCĐ.
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Phản ánh bình quân trong kỳ kinh doanh 1 đồng vốn CĐ đưa vào sản xuất tạo ra từ 0.023 đến 0.028 đồng lợi nhuận và 0.591 đến 0.59 đồng doanh thu.
Như vậy, nhìn chung các chỉ số trên đều cho thấy Nhà Máy hoạt động chưa có hiệu quả, TSCĐ sử dụng chưa hợp lý nên chưa đem lại được hiệu quả cao. Nhà Máy cần phân loại TSCĐ để đánh giá hiệu quả sử dụng của từng loại tài sản đó nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng. Giải quyết sớm những tài sản dôi dư không sử dụng tới.
2.6.2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Vốn lưu động là vốn đầu tư vào TSLĐ.Nó là số tiền ứng trước về TSLĐ nhằm đẩm bảo quá trình SXKD được liên tục. Đặc điểm của loại vốn này là luân chuyển không ngừng, luôn thay đổi hình thái biểu hiện, luân chuyển toàn bộ giá trị ngay một lần và hình thành một vòng tuần hoàn trong 1 kỳ kinh doanh.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng loại vốn này ta có các chỉ tiêu.
Sức sản xuất của vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn lưu động đem lại mấy đồng doanh thu thuần.
Sức sinh lời của vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra mấy đồng lợi nhuận.
Suất hao phí của vốn lưu động =
Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng doanh thu (lợi nhuận) thì doanh nghiệp phảI cần tới bao nhiêu đồng VLĐ.
VLĐ vận động không ngừng, thường xuyên qua các giai đoạn của quá trình sản xuất (dự chữ - sản xuất – tiêu thụ). Sự luân chuyển VLĐ một cách liên tục qua các giai đoạn khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh lặp đi lặp lại được gọi là chu chuyển VLĐ. Thời gian để VLĐ được một vòng hay số vòng chu chuyển vốn lưu động trong 1 năm gọi là tốc độ chu chuyênVLĐ. Đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tốc độ của VLĐ sẽ góp phần giải quyết nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển của VLĐ người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
Vòng quay của VLĐ =
Chỉ tiêu này cho biết mỗi kỳ VLĐ quay được mấy vòng. Tỷ số này cang cao thì tốc độ chu chuyển VLĐ càng tăng nhanh, từ đó doanh gnhiệp được tuyệt đối và tương đối vốn lưu động. Đây là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ rất quan trọng.
- Tiết kiệm tuyệt đối: Là do tăng nhanh tốc độ chu chuyển VLĐ mà doanh nghiệp có thể rút bới một số lượng VLĐ nhất định mà vẫn đạt được hiệu quả kinh doanh như kỳ gốc.
- Tiết kiệm tương đối: Do tăng nhanh tốc độ chu chuyển VLĐ mà với số lượng VLĐ như kỳ gốc nhưng doanh nghiệp vẫn đạt được kết quả kinh doanh cao hơn kỳ gốc.
=
Số ngày bình quân của một Thời gian của kỳ phân tích
vòng luân chuyển (TSN) Số vòng quay của VLĐ trong kỳ
Tỷ số này cho biết ngày binh quân của một vòng luân chuyển. Tỷ số này càng giảm thì càng tiết kiệm VLĐ.
Hệ số đảm nhiệm VLĐ =
Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng khi lập kế hoach tài chính, nhân sách ca doanh nghiệp. Từ các của số liệu của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội ta có thể tính các chỉ tiêu trên như sau.
Bảng 14: Phân tích hiệu quả sử dụng VLĐ
Đơn vị: nghìn đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
% 2006/2007
Doanh thu thuần
12 388 364
12 739 012
102.8
Lợi nhuận sau thuế
483 168
596 567
123.5
VLĐ bình quân
661 940
3 943 373
595.73
Thời gian của kỳ phân tích
360
360
1. Sức sản xuất của VLĐ
18.71
3.23
17.78
2. Sức sinh lời của VLĐ
0.73
0.15
20.72
3. Suất hao phí của VLĐ
- Theo doanh thu
- Theo lợi nhuận
0.05
1.37
0.31
6.61
620
482.48
4. Vòng quay VLĐ
18.2
17.73
5. TSN
19.23
111.45
579.58
Nguồn: Phòng TC- KT
Qua bảng số liệu trên ta thấy:
Sức sản xuất của VLĐ từ năm 2006 đến năm 2007 đã giảm sút rất mạnh. Nếu như năm 2006 một đồng TSCĐ được đầu tư bình quân sẽ đem lại 18.71 đồng doanh thu ở năm 2007 một đồng TSCĐ được đầu tư bình quân chỉ đem lại 3.23 đồng doanh thu. Như vậy chỉ đạt 17.78 % so với năm 2006.
Về sức sinh lời của VLĐ cũng giảm từ 0.73 xuống còn 0.15 đồng. Sức sinh lời của VLĐ giảm đi là do VLĐ tăng mạnh nhưng lợi nhuận thu về lại tăng nên không đáng kể.
Về suất hao phí về VLĐ theo doanh thu phản ánh: để có được một đồng doanh thu thì Nhà Máy phải bỏ ra 0.05 đồng VLĐ ở năm 2006 và 0.31 đồng VLĐ ở năm 2007. Suất hao phí của VLĐ theo lợi nhuận sau thuế phản ánh: để có được một đồng lợi nhuận thì Nhà Máy phải bỏ ra 1.37 đồng VLĐ ở năm 2006 và 6.61 đồng VLĐ ở năm 2007. Điều này cho thấy suất hao phí của VLĐ của Nhà Máy ngày càng tăng chứng tỏ yêu cầu về VLĐ ngày càng tăng lên. Chỉ tiêu này không những quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ mà còn quan trọng trong việc hoạch định tài chính. Hàng năm thông qua dự báo nhu cầu thị trường mà doanh nghiệp dự báo được doanh thu từ đó ước lượng được nhu cầu về VLĐ trong kỳ để có các án huy động vốn đầy đủ.
Về số vòng quay VLĐ của Nhà Máy khá cao ở năm 2006 nhưng lại giảm đi rất nhiều ở năm 2007. Nếu như năm 2006 VLĐ của Nhà Máy quay được 18.72 vòng thì năm 2007 chỉ quay được 3.23 vòng và chỉ đạt 17.3% so với năm 2006. Cũng từ đó mà thời gain của một vòng luân chuyển vốn tăng rất mạnh từ năm 2006 đén năm 2007.
Từ sự phân trên cho thấy việc sử dụng VLĐ của Nhà Máy ở năm 2006 có hiệu quả hơn năm 2007. VLĐ sử dụng ít hiệu quả hơn chứng tỏ nó đã bị tồn đọng, chậm luân chuyển ở một khâu nào đó và làm cho suất hao phí tăng, sức sản xuất giảm. Trong thời gian tới Nhà Máycần xem xét việc sử dụng VLĐ vào các mục đích khác nhau để có các biện pháp khắc phục hợp lý, tăn nhanh vòng quay VLĐ, tránh làm lãng phí vốn.
2.7. Đánh giá tổng quát về tình hình tài chính tại Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy được một số kết quả đạt được cũng như những tồn tại cần được giải quyết của Nhà Máy.
2.7.1 Những kết quả đạt được
ở năm 2006 Nhà máyđã đạt được một số kết quả như sau:
- Tổng tài sản đã tăng lên một cách đáng kể kéo theo doanh thu và lợi nhuận tăng góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu. Như vậy việc sản xuất của Nhà Máy khá hiệu quả.
- Thu nhập bình quân đầu người của công nhân viên trong Nhà Máy ngày càng tăng. Nhà Máy đã có sự quan tâm đến ssời sống của cán bộ công nhân viên trong Nhà Máy, góp phần thúc đẩy người lao động hăng hái. nhiệ tình làm việc.
- Nhà Máy đã giải quyết việc làm cho một nguồn lao động lớn cho xã hội.
- Quy mô sản xuất tăng 40.1% đã chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp đã được thị trường ưa chuộng và ngày càng nhiều đơn đặt hàng tìm đến.
Như vậy với sự năng động nhạy bén của các nhà quản lý trong Nhà Máy là sự nỗ lực hết mình của toàn bộ cán bộ công nhân viên trong Nhà máy góp phần phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh đã đưa Nhà Máy thoát khỏi tình trạng nợ lần chồng chất, tỷ lệ nợ của Nhà Máy ngày càng một giảm đi, từ đó chi phí trả lãI vay sẽ ngày càng giảm xuống và lợi nhuận ngày càng tăng thêm.
2.7.2. Những tồn tại cần được giải quyết.
Bên cạnh những thành công đáng khích lệ như đã kể trên, tình hình tài chính của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội còn có nhiều tồn tại và bất cập cần khắc phục.
Nhược điểm đầu tiên có thể kể đến là cơ cấu tài sản không hợp lý. Mặc dù quy mô vốn tăng mạnh nhưng số vốn đầu tư vào tài sản cố định là tăng không đáng kể. Việc này dẫn đến TSCĐ không đủ đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất và sẽ làm tăng số lượng lao động thủ công, công nghệ sản xuất thì thô sơ. Điều này tráu với quy luật phát triển chung của các ngành công nghiệp, không phù hợp với công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong thời gian tới, nếu cơ cấu tài sản này không thay đổi thì doanh thu và lợi nhuận sẽ giảm do năng suất lao động không cao.
Việc phân bổ cơ cấu vốn của Nhà Máy cũng không hợp lý. Tỷ trọng nợ phải trả là rất lớn trong khi tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu quá nhỏ bé. Theo kinh nhiệm của các nhà kinh doanh tư bản thì tỷ lệ:
≤ 0.33
Û
≤
≤
Tổng nợ 1 Tổng nợ
Tổng tài sản 3 Tổng tài sản
Với tỷ lệ trên mới đảm bảo độ an toàn và tính linh hoạt cho doanh nghiệp. Nhưng ở đây, tỷ lệ này của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội là 0.85. Như vậy,tỷ lệ này là rất lớn cho thấy hiện nay Nhà Máy đang thiếu tính chủ động, phụ thuộc vào nhièu từ nguồn tài chính từ bên ngoài…
Thực tế, Nhà Máy luôn vấp phải khó khăn trong thanh toán. Biểu hiện ở trong các khoản múcTSLĐ từ đầu tư ngắn hạn: Như “tiền mặt”…
Như vậy, tình hình tài chính của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội mặc dù năm sau có tiến bộ hơn năm trước nhưng nhìn chung là chưa tốt. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà Máy chưa có hiệu quả.Sức sản xuất và sức sinh lời của TSCĐ và TSLĐ chưa cao và ổn định, hiệu suất làm việc của máy móc thiết bị ngày càng giảm đi do đã cũ kĩ và lạc hậu.
Để tình hình tài chính của Nhà Máy vững vàng hơn, để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả và phát triển hơn thì trong trời gian tới, Nhà Máy phải xác định rõ những thuận lợi và khó khăn của mình để có những giải pháp hữu hiệu nhằm tận dụng và phát huy hơn nữa những lợi thế đông fthời khắc phục những hạn chế, khó khăn trước mắt để duy trì vị trí và vị thế trên thị trường.
Chương 3
Phương hướng phát triển và giảI pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tàI chính tại Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội
3.1. Phương hướng và mục tiêu phát triển.
Mặc dù gặp phải những khó khăn và hạn chế nhưng những thành tích mà Nhà Máy đạt được là không thể phủ nhận. Những khó khăn đó cũng chính là một phần kinh nghiệm để Nhà Máy tự hoàn thiện mình và xác định hướng đi đúng đắn hơn. Trong năm 2007, Nhà Máy đã đề ra một số phương hướng hoạt động sau:
- Tăng cường sản xuất để đạt tới giá trị sản lượng tăng 10% hàng năm.
- Đẩy mạnh công tác thiết kế, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Gia tăng sản lượng tiêu thụ nội bộ trong Nhà Máy cũng như quản bá thương hiệu sản phẩm rộng rãi trên thị trường.
- Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm (Giá cả, chất lượng, mẫu mã, phân phối) với các sản phẩm trong trong nước cũng như quốc tế.
- Tiếp tục duy trì những lĩnh vực kinh doanh tài chính đã làm ăn hiệu quả: sản xuất bao bì carton và má phanh các loại. Đồng thời không ngừng tái đầu tư và mở rộng qui mô, chất lượng kinh doanh.
- Tăng cường xây dựngcơ sở vật chất kỹ thuật nhằm phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh ngày càng mở rộng, nhanh chóng giảm bớt các chi phí thuê trụ sở, văn phòng làm việc, nhà xưởng sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
- Khắc phục, hạn chế những rủi ro trong vấn đề tài chính, tìm hướng đi mới trong việc huy động vốn, tránh việc phụ thuộc vón vào bên ngoài rõ nhiều.
- Chú trọng vào công tác đào tạo, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghệp vụ để cán bộ công nhân viên trong nhà máy có trình độ, tay nghề làm việc tốt.
- Đầu tư cảI tiến máy móc thiết bị công nghệ hiện đại theo chiều sâu, tạo cơ sở vật chất vững chắc cho sự phát triển hoạt động lâu dài, mở rộng các kênh phân phối tiêu thụ, các đại lý bán hàng theo nhiều hình thức, tạo lập nhiều mối quan hệ bạn hàng, để có nhiều mối quan hệ đặt hàng.
- Xây dựng các chương trình marketing quản bá sản phẩm, gây được niềm tin với khách hàng: Dịch vụ sửa chữa, bảo hành…
Hiện nay, người tiêu dùng trong nước đã bắt đầu ưu thích các sản phẩm nội địa, hơn nữa cùng với sự phát triển của đời sống phát triển xã hội, số lượng chạy bằng động cơ đã tăng lên tất nhiều, do vậy nhu cầu má phanh là rất lớn. Đây là một cơ hội để nhà máy phát triển thị trường má phanh tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận cho nhà máy.
Với những phương hướng đặt ra như trên, Nhà Máy đang cố gắng thực hiện từng bước. Muốn vậy mỗi phòng ban, phân xưởng và từng cá nhân trong Nhà Máy cần đặt ra mục tiêu riêng và nhiệm vụ rõ ràng. Có thực hiện được tốt các mục tiêu trên, Nhà Máy mới tiếp tục tồn tại và phát triển được.
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính của Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội.
3.2.1. Về phía Nhà Máy.
* Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
Hoạt động trong cơ chế thị trường Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội cũng như bao doanh nghiệp nhà nước khác phải tự hoạch toán kinh tế, cân đối thu chi, huy động vốn sao cho có hiệu quả kinh tế cao nhất. Hiện nay nguồn vốn kinh doanh của Nhà Máy là do các nguồn vay từ bên ngoài, do ngân sách cấp… Nhà Máy cần tăng cường bổ xung thêm vốn tự có và lựa chọn nguồn vốn dựa trên nguyên tắc hiệu quả kinh tế, tránh tình trang đi chiếm dụng vốn quá nhiều như hiện nay.
- Nắm vững điều kiện thị trường và nhu cầu khách hàng để định lượng một số lượng đơn đặt hàng nhất định cũng như chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật kịp thời đáp ứng nhu cầu cần phát triển. Qua phân tích ta thấy: Nhà Máy chưa thực sự có những đánh giá nhận định chính xác về tình hình thị trường đã dẫn tới tình trạng bị động trong sản xuất kinh doanh vốn không đáp ứng được nhu cầu sản xuất mở rộng, khả năng thanh toán suy giảm… Như vậy cần xác định đúng nhu cầu vốn cho từng kỳ kinh doanh, từ đó có kế hoạch huy động vốn một cách hợp lý, tránh tình trạng huy động quá nhiều vốn dẫn đến thừa vốn và bị chiếm dụng vốn gây lãng phí, làm giảm tốc độ chu chuyển vốn, giảm bớt những khoản chi tiêu không hợp lý. Muốn lượng vốn vay phát huy hết tác dụng để hoạt động kinh doanh của nhà máy không bị gián đoạn thì một mặt Nhà Máy cần cân đối nhu cầu về vốn nhằm xác định số vốn thực sự cần thiết phải vay. Mặt khác số vốn tạm thời chưa sử dụng đến nên đem đầu tư vào lĩnh vực tài chính ngắn hạn để sinh lợi. Bên cạnh đó, Nhà Máy còn có thể sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư kinh doanh vào một số mặt hàng phụ trợ cho hoạt động kinh doanh chính nhằm thu thêm lợi nhuận.
- Nhà Máy cần lựa chọn các biện pháp huy động vốn tốt nhất: Tìm nguồn tàI trợ vốn có nhiều ưu đãi, lãi suất thấp, thời gian thanh toán ngắn hạn.
- Xây dựng cơ cấu tào sản hợp lý: cần đầu tư nhiều hơn vào tài sản cố định nhằm phát triển Nhà Máy theo chiều sâu, mua sắm các máy móc thiết bị với công nghệ kỹ thuật hiện đại, để có thể khai thác hết được sức sản xuất của máy móc, tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm cao.
* Nâng cao hiệu quả hoạt động thu nợ.
Qua phân tích ta thấy: Nhà Máy có khoản vốn chiếm dụng lớn. Vì vậy, Nhà Máy cần áp dụng các biện pháp để thu hồi được các khoản khách hàng nợ: Tăng cường giám sát, theo dõi từng khoản nợ của từng khách hàng, đốc thúc thu hồi các khoản nợ phải thu. Đối vớ những khách hàng có số nợ quá hạn lớn mà khả năng thanh toán bị hạn chế thì Nhà Máy không cho mua hàng theo phương thức tín dụng trả chậm mà chỉ đồng ý bán khi họ trả tiền ngay. Bên cạnh đó, Nhà Máy cần xác định một thời hạn ưu đãi nhất định đối với hình thức bán hàng trả chậm. Nếu khách hàng nào nợ đến thời hạn quy định nhưng vẫn chưa trả tiền thì phải chiu một khoản phí tổn nào đó. Ngoài ra, Nhà Máy cũng phảI theo dõi tuổi nợ để dự phòng nợ khó đòi.
Thực hiện tốt hoạt động thu nợ thì Nhà Máy sẽ nhanh chóng thu hồi được các khoản tiền và có thể trả dần các khoản vay nợ của Nhà Máy từ đó tình hình tài chính của Nhà Máy sẽ được cải thiện dần và ít chịu lệ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài hơn.
*Trích lập các khoản dự phòng.
Hiện nay khi hoạt động kinh doanhcảu các doanh nghiệp ngày càng đương đầu với khó khăn nhiều hơn, khả năng rủi ro tài chính lớn thì trong hoạt động tài chính, doanh nghiệp phải chú trọng với việc trích lập quỹ dự phòng các khoản phảI thu khó đòi tính vào chi phí sản xuất kinh doanh nhằm hạn chế những đột biến về kết quả kinh doanh trong kỳ kế toán. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng nên trích một số phần trăm nào dố từ lợi nhuận của mình để lập ra các quỹ dự phòng tàI chính nhằm đảm bảo cho doanh nghiệp có thể hoạt động bình thường khi gặp rủi do, thua lỗ trong kinh doanh hoặc đề phòng những tổn thất, những thiệt hại bất ngờ do những nguyên nhân khách quan, bất khả kháng như: thiên tai, hoả hoạn, lạm phát, sự biến động kinh tế, chính trị trong và ngoài nước. ở Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội như đã phân tích thì thấy khả năng xảy ra các khoản phả thu khó đòi là rất lớn. Hơn nữa, Nhà Máy lại đang dơi vào tình trạng mất dần khả năng thanh toán nên nhiệm vụ cần thiết trong thời gian tới là nhanh chóng lập kế hoạch theo từng kỳ ngắn hạn nhằm ngăn ngừa các rủi do có thể gặp phải. Như vậy, việc lập quĩ dự phòng và dự phòng dự chữ là điều cần thiết để đảm bảo an toàn cho hoạt động tài chính nói riêng và hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung.
* Năng cao hiệu quả quản lý hàng tồn kho.
Quản lý hoạt động trong doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là quản lý các nghiệp vụ đã và đang xảy ra mà nhà quản trị phải có tầm nhìn xa, có những tài chính chiến lược để luôn giữ vị thế chủ động trong mọi hạot. Lượng hàng tồi kho quá nhiều sẽ gây ứ đọng vốn, phải mất thêm nhiều chi phí cho việc vận chuyển, bảo quản, kho, bãi…Ngược lại, nếu hàng tồn quá ít sẽ làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh, không đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho nhu cầu khách hàng khi cần thiết. Vì nhu cầu của khách hàng luôn thay đổi, do đó phòng tài chính – toán phải lên kế hoạch hàng năm về việc đảm bảo nguồn dự trữ đúng quy định, hợp lý, tránh lãng phí cũng như thiếu hụt, nhằm cung cấp đầy đủ nhu cầu tiêu thụ để tăng vòng luân chuyển của vốn, tiết kiệm vốn đầu tư cho quá trình kinh doanh. Ngoài ra, để xây dựng định mức cho phù hợp với thực tế, Nhà Máy còn cần xây dựng định mức hao hụt tự nhiên trong vận chuyển, bảo quản và định mức phế phẩm. Công tác bảo quản nguyên vậ liệu phải được thực hiện nghiêm ngặt, không để hao hụt, mất mát, kém chất lượng. Đặc biệt phòng TC- KT cần theo dõi giá cả của các nguôn vật liệu trên thị trường để lựa chọn thời điểm và nhà cung cấp vừa đáp ứng được tiêu chuẩn, quy cách về nguyên vật liệu, vừa có giá cả hợp lý. Đối với những thành phẩm tồn kho quá lâu ngày, Nhà Máy lên có hướng giải quyết như bán hạ giá nhằm thu hút vốn, tiếp tục đầu tư vào sản xuất.
* Nâng cao hiệu quả quản lý nhân sự.
Nguồn nhân lực đóng vai trò vô cùng quan trọng, là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vì con người vừa là nguồn lực của sản xuất vừa là nhân tố tạo ra những thay đổi trong phương thức sử dụng các nguồn lực khác. Hoạt động quản lý nhân sự trong doanh nghiệp được thực hiện càng tốt thì hiệu quả sản xuất kinh doanh càng cao.
Để đem lại hiệu quả trong quản lý nguồn nhân lực cần: Tuyển chọn, bố trí, sử dụng lao động hợp lý cho phù hợp với khả năng chuyên môn của từng người, đào tạo, nâng cao tay nghề, trình độ cho người lao động, thi hành chính sách đãi ngộ thưởng phạt, tạo mọi điều kiện cho người lao động phát huy hết được khả năng, trí tuệ của mình trong công việc. Mặt khác, Nhà Máy cần nâng cao hiệu suất lao động, hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị. Quản ký tốt đội ngũ cán bộ công nhân viên chặt chẽ về thời gian, tiến độ hoàn thành công việc, an toàn lao động … Tiến hành kiểm tra chéo giữa các thành viên trong tổ, phân xưởng để làm giảm và mất hẳn tình trạng trốn việc, người lao động nghỉ việc sớm. Bên cạnh đó cũng nên đưa ra các chế độ thưởng phạt thích đáng để tạo động lực cho nhân viên làm việc có hiệu quả. Trong thời gian tới Nhà Máy cũng nên trang bị các loại máy móc thiết bị với công nghệ kỹ thuật cao nhằm giảm bớt lao động thô sơ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
Nhà Máy cũng nên chủ động thay đổi cơ cấu tổ chức sao cho gọn nhẹ, phù hợp với tình hình hiện nay. Cụ thể, các phòng ban cần chuyên môn hoá hơn nữa, Mỗi cá nhân phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với công việc chính của mình và nên trao cho họ một số quyền hạn nhất định để kịp thời đối phó với những diễn biết bất ngờ của sự việc có thể xảy ra.
* Một số giải pháp:
- Nhà Máy cần xúc tiến bán hàng với chính sách quảng cáo, khuyến mại nhằm khuyến khích khách hàng mua sản phẩm của mình … Vì thị trường rộng mở là là tương lai tươi sáng cho quá trình phát triển mở rộng của doanh nghiệp.
- Tiết kiệm chi phí trong quá trình kinh doanh cần phải được quan tâm hơn nữa, đặc biệt là chi phí bán hàng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của Nhà Máy.
- Hoàn thiện công tác kế toán: Kế toán là một bộ phận chức năng thu thập thông tin từ hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các chứng từ kế toán rồi thực hiện tác nghiệp của mình nhằm đưa ra các thông tin tổng hợp và chi tiết dưới dạng dễ tiếp nhận hơn để các nhà quản lý có căn cứ đưa ra các quyết định. Thực tế cho thấy, nếu công tác kế toán được thực hiện tốt thì thông tin mà các nhà quản lý nhận được sẽ chính xác, kịp thời, hữu ích hơn, từ đó sẽ đưa ra các quyết định đúng đắn cho hoạt động của Nhà Máy ngày càng hiệu quả hơn.
3.2.2. Về phía Nhà Nước.
Hiện nay, các doanh nghiệp hoạt động xản xuất đều chịu sự quản lý vĩ mô của Nhà Nước. Quản lý vĩ mô của Nhà Nước có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nói chung và Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội nói riêng, Nhà nước nên có những chính sách hợp lý, cụ thể là:
- Do Nhà Máy hiện nay đang thiếu vốn trầm trọng trong việc mở rộng quy mô hoạt động. Vì vậy, Nhà nước cần xem xét cấp vốn bổ xung giúp Nhà Máy hoàn thanh các nhiệm vụ được giao, tăng hiệu quă sản xuất kinh doanh, tăng tích luỹ vốn đầu tư chiều sâu tăng nộp ngân sách Nhà Nước, giúp tình hình hình tài chính của Nhà Máy được cải thiện hơn, tránh việc phải đi vay vốn quá nhiều vào bên ngoài. Bên cạnh đó Nhà Nước cần cho phép Nhà Máy tạm thời sử dụng nguồn vốn khấu hao của tài sản cố định thuộc quyền sở hữu của Nhà Nước trước khi huy động được các nguồn vốn khác.
- Tăng cường quản lý thị trường và chống buôn lậu bảo vệ quyền sở hữu cônng nghiệp. Hiện nay, tuy chính phủ đã có nhiều biện pháp nhưng tác dụng vẫn còn rất nhiều hạn chế nên thị trường nội địa, hàng ngoại nhập lậu vẫn tràn ngập vào thị trường Việt Nam tăng sức cạnh tranh không lành mạnh khiến nhà máy gặp nhiều khó khăn. Do vậy, Nhà Nước cần tăng cường bộ máy thị trường quản lý về hai phương diện chống buôn lậu hàng nước ngoài và kiểm soát chống hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu của các doanh nghiệp có uy tín trên thị trường.
- Nhà Nước nên giảm thuế VAT đầu vào cho nguyên vật liệu thu mua trong nước để khuyến khích sử dụng vật tư nội địa. Đồng thời, giảm tối đa thuế nhập khẩu đối với thiết bị vật tư của ngành mà trong nước chưa sản xuất được.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế (luật sở hữu, chuyển giao công nghệ…)
Kết luận
Trải qua hơn 30 năm hình thành và phát triển, Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội (Công ty xây dựng công trình Hưng Thịnh) đã có nhiều bước chuyển biến mới và đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Sản phẩm của Nhà Máy đã được ưa chuộng, chất lượng, mẫu mã sản phẩm không ngừng được cải thiện, máy móc thiết bị đang từng bước được nâng cao và đổi mới. Bên cạnh đó, qua sự phân tích ta có thể thấy được tình hình tài chính của Nhà Máy là chưa khả quan. Trước mắt Nhà Máy cần phải giải quyết, tháo gỡ các khó khăn về tài chính: tích cực thu hồi nợ phải thu để tranng trải các khoản nợ nhằm làm giảm gánh nặng về các khoản nợ, tăng sức mạnh tài chính giúp cho tình hình thanh toán của Nhà Máy thuận lợi hơn. Ngoài ra tài chính của Nhà Máy vững vàng hơn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt hiệu quả và phát triển hơn trong thời gian qua. Nhà Máy phải xác định rõ những thuận lợi và khó khăn của mình để có những giải pháp hữu hiệu nhằm tận dụng và phát huy hơn nữa những lợi thế đồng thời khắc phục những hạn chế khó khăn trước mắt để duy trì vị trí và vị thế trên thi trường trong nước nói riêng và thế giới nói chung. Cùng với những cố gắng trên Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội đang từng bước tiến xa trong nước và trên toàn thế giới. Để có thể theo kịp sự phát triển của nền kinh tế thế giới đạc biệt là nền kinh tế thị trường, với sự đa dạng hoá của các thành phần kinh tế, với tính năng vốn có của cơ chế thị trường đã tạo ra một bối cảnh môi trường cạnh tranh gay gắt và khốc liệt giữa các doanh nghiệp với nhau. Để tồn tại và đứng vững trong cuộc cạnh tranh đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực vượt bậc với những bước bứt phá mới, phải quan tâm tới tất cả các khâu trong quá trình sản xuất (từ khi doanh nghiệp bỏ vốn ra đến khi doanh nghịêp thu hồi vốn về) làm thế nào để đạt hiệu quả cao nhất với chi phí bỏ ra là thấp nhất? Là một câu hỏi đối với tất cả các doanh nghiệp, có như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo có lãi, cải thiện đời sống người lao động, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà Nước, tăng tích luỹ và thực hiện tái sản xuất mở rộng. Vượt qua bao nhiêu khó khăn trong suốt hơn 30 năm qua Nhà Máy Gạch Lát Hoa và Má Phanh Ô Tô Hà Nội(Công ty xây dựng công trình Hưng Thịnh) đã phát triển hết mình để thu hút được nguồn vốn đầu tư nướ ngoài, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10491.doc