LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Dự đốn khánh kiệt tài chính là đối tượng nghiên cứu của Quản trị tài chính DN. Kể
từ cơng trình nghiên cứu của Altman (1968), nhiều nhà nghiên cứu khác đã cố gắng
cải tiến và tái tạo lại những nghiên cứu trên trong các thị trường vốn khác nhau trên
thế giới (xem Altman (1968), Deakin (1972), Altman và các cộng sự (1977), Taffler
(1984), Zavgren (1985), Theodossiou (1993), Ginoglou và các cộng sự (2002)). Tuy
nhiên, trong bối cảnh các nền kinh tế mới nổi, đề tài này khơng được chú ý lắm chủ
yếu vì lịch sử ngắn ngủi của các thị trường tài chính của các nền kinh tế này. Dù
rằng tình trạng phá sản DN được thừa nhận là một vấn đề của các nước kinh tế phát
triển (Altman và cộng sự, 1979), các cơng ty hoạt động tại các nền kinh tế mới nổi
cũng khơng phải là ngoại lệ.
Kiệt quệ tài chính (financial distress) xảy ra khi doanh nghiệp khơng đáp ứng được
các hứa hẹn với chủ nợ hay đáp ứng một cách khĩ khăn. Đơi khi kiệt quệ tài chính
đưa đến phá sản, đơi khi nĩ chỉ cĩ nghĩa là cơng ty đang gặp khĩ khăn, rắc rối về tài
chính.
Kiệt quệ tài chính rất tốn kém. Các nhà đầu tư luơn lo ngại rằng các doanh nghiệp
cĩ vay nợ cĩ thể sẽ rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính, điều này được phản ánh
trong giá trị thị trường hiện tại của chứng khốn của doanh nghiệp đĩ.
Chi phí kiệt quệ tài chính bao gồm:
- Chi phí phá sản gồm các chi phí trực tiếp như lệ phí tịa án và các chi phí
gián tiếp phản ánh các khĩ khăn trong việc quản lý một cơng ty đang bị tái tổ
chức.
Chi phí kiệt quệ tài chính nhưng chưa phá sản: -
Các mâu thuẫn quyền lợi giữa trái chủ và cổ đơng của DN trong kiệt quệ tài
chính cĩ thể đưa đến các quyết định yếu kém về hoạt động và đầu tư. Các cổ
đơng hành động vì quyền lợi cá nhân cĩ thể chuyển rủi ro từ họ sang cho các
chủ nợ gánh chịu, bằng cách thi hành các trị chơi làm giảm tổng giá trị của
ã Các điều khoản trong hợp đồng nợ đươc thiết kế để ngăn ngừa các trị chơi
này. Nhưng các điều khoản này lại làm gia tăng chi phí soạn thảo, giám sát,
và thực thi hợp đồng nợ.
ã
Một câu hỏi được đặt ra là, trong thực tế làm thế nào để cĩ thể dự báo một cơng ty
cĩ khả năng bị kiệt quệ tài chính mà khơng phải tốn quá nhiều cơng sức để phân
tích một khối lượng “khổng lồ” các thơng tin định lượng và định tính của một doanh
nghiệp. Câu trả lời là “cĩ thể” bằng cách sử dụng mơ hình Z-Score. Đây là một mơ
hình tương đối đơn giản, nhưng cĩ khả năng phân biệt tốt một cơng ty kiệt quệ tài
chính sắp phá sản và một cơng ty lành mạnh. Một đặc tính chung của các cơng ty bị
phá sản là chỉ số Z tính theo mơ hình thể hiện một xu hướng xĩi mịn theo thời gian.
Do đĩ mức độ chỉ báo là khá rõ ràng.
Thêm vào đĩ, trong thực tế, hành vi của DN sẽ như thế nào khi lâm vào tình trạng
khánh kiệt tài chính? là một câu hỏi cĩ rất nhiều đáp án khác nhau, chủ yếu là do
đặc điểm của DN và mơi trường vĩ mơ ở các quốc gia khác nhau là khơng giống
nhau. Ví dụ cụ thể như luật pháp về phá sản. Trên thế giới hiện nay luật pháp phá
sản cĩ ba gốc chính là gốc từ luật nước Pháp, Đức hay Anh. Những bộ luật cĩ
nguồn gốc Anh và Đức nghiêng về bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, trong khi bộ luật
cĩ nguồn gốc từ Pháp lại nghiêng về bảo vệ quyền lợi của con nợ. Những yếu tố
này quy định lối ứng xử cho các DN hoạt động trong mơi trường đĩ.
Trong điều kiện Việt Nam, những kiến thức nĩi trên là vơ cùng cần thiết. Theo La
Porta và Lopez de Silanes, khi quyền theo luật pháp của giới chủ nợ được bảo đảm
tốt, con đường tín dụng của các DN được mở rộng khá đáng kể, cũng như thế đối
với bề rộng và bề sâu của thị trường nợ. Đây là điều hết sức quan trọng đối với một
thị trường khát vốn và đang tăng trưởng nĩng như ở Việt Nam.
Ở giác độ vĩ mơ hơn, các chính phủ phải hành động như thế nào trong tường hợp
khủng hoảng tài chính hệ thống, như trường hợp khủng hoảng tài chính Đơng Á vào
năm 1997-1998, khi mà hàng loạt DN cùng lâm vào tình trạng khánh kiệt ở cùng
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Thứ nhất, giới thiệu quá trình thiết lập mơ hình Z-Score và các thử nghiệm về sức
mạnh dự báo của mơ hình về khả năng phá sản của DN.
Thứ hai, giới thiệu các đặc điểm và phương cách giải quyết khánh kiệt tài chính ở
một số nước Châu Á.
Thứ ba, giới thiệu các đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, Luật phá sản trong tương
quan với vấn đề khánh kiệt tài chính, đồng thời đề cập đến mơ hình xử lý nợ xấu
của Việt Nam như là một phương cách cấu trúc tài chính DN khơng dùng phương
cách phá sản qua tịa án.
Thứ tư, áp dụng mơ hình Z-Score cho các DN Việt Nam trong việc dự báo khả năng
phá sản.
Thứ năm, đề xuất một số biện pháp hỗ trợ dự báo và giải quyết hiệu quả tình trạng
khánh kiệt tài chính ở Việt Nam thơng thơng qua những cải cách vĩ mơ về kinh tế.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, tài chính, luật
pháp cả ở phạm vi trong và ngồi nước. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung vào các
vấn đề chính về dự báo, giải quyết tình trạng khánh kiệt tài chính cho DN kèm theo
những giải pháp ở tầm vĩ mơ và vi mơ gắn liền với nĩ. Các vấn đề khác chỉ đĩng
vai trị liên quan.
136 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4039 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khánh kiệt tài chính và ứng dụng mô hình Z-Score trong dự báo khánh kiệt tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ang bị kiệt quệ tài
chính theo tiêu chuẩn của mô hình Z-Score. Nói cách khác, công ty luôn ở vào tình
trạng không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Theo tiêu chuẩn của mô hình Altman Z-Score thì công ty có khả năng phá sản rất
lớn, thế nhưng trong thực tế điều đó không xảy ra, công ty luôn có được sự hỗ trợ
về dòng tiền của các công ty liên kết nhóm với nó, đặc biệt là Công ty TNHH Nhà
thép PEB, là đơn vị cung cấp đơn đặt hàng gia công cho Công Ty. Chuyện mất khả
năng thanh toán đã chưa bao giờ xảy ra.
Đây là một tình huống sai điển hình của mô hình Z-Score khi áp dụng ở các nước
có tỷ lệ công ty liên kết nhóm và có sở hữu chủ là ngân hàng cao như các nước
Đông Á như đã trình bày ở phần II.
Nếu phân tích sâu hơn ta có thể thấy là tình hình tài chính công ty đang dần được
cải thiện theo thời gian, thông qua việc chỉ số Z các năm sau cao hơn các năm
trước, tức là không thể hiện xu hướng xói mòn theo thời gian. Biểu hiện xói mòn
của chỉ số Z là một trong những bằng chứng rõ nhất để báo hiệu tình hình đang tồi
tệ đi và khả năng phá sản tăng lên.
Trường hợp Công Ty Cổ Phần Cơ Điện Lạnh REE
xem phụ lục 4 đính kèm
Mô hình Alman Z-Score áp dụng cho các DN không sản xuất (non-manufacturer)
Z’’ = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4
Điểm ngưỡng cho mô hình này như sau:
Phá sản: Z’’ < 1.1
Không rõ ràng : 1.1 <Z’’ < 2.6
112
Page - 113
Lành mạnh: 2.6 < Z’’
Có thể thấy rằng các chỉ số Z-Scores cho công ty REE đều khá tốt báo hiệu rằng
công ty có tình hình tài chính lành mạnh.
4.1.2. NHỮNG ĐIỀU CẦN LƯU Ý KHI SỬ DỤNG MÔ HÌNH Z-SCORE
Ngày nay mô hình Z-Score được sử dụng bởi các kiểm toán viên, các nhà tư vấn
quản trị tòa án cũng như một phần của các hệ thống dữ liệu dùng để đánh giá cho
vay. Những người nói trên tán thành việc sử dụng các mô hình thống kê dựa vào các
lập luận sau:
- Chúng chính xác hơn và dẫn đến một kết luận rõ ràng hơn đa phần các chỉ số
thông thường. Chúng khoanh vùng phạm vi của những đánh giá không chắc
chắn.
- Chúng tương đối nhất quán và làm bớt các đánh giá không chính xác và ngẫu
nhiên mà một vài cá nhân có thể mắc phải.
- Tính tin cậy của chúng có thể được đánh giá theo thống kê. Chúng dựa vào
kinh nghiệm quá khứ hơn là đơn thuần dựa vào ý kiến không rõ ràng của một
ai đó.
- Chúng nhanh hơn và ít tốn kém hơn so với các công cụ truyền thống.
- Chúng có thể loại trừ hai thái cực của một nhóm mẫu DN. Chúng cho phép
các nhà phân tích tập trung vào khu vực chưa rõ ràng nơi mà kinh nghiệm và
phán đoán là cần thiết để bù đắp cho những gì mà máy tính thiếu hụt.
- Dựa trên kinh nghiệm với các mô hình tài chính, những người sử dụng phải
ý thức đầy đủ về những điểm hạn chế liên quan. Một vài điểm hạn chế trong
số đó là:
+ Nhiều điểm số kết quả có thể rất lạ; khi các chỉ số thể hiện các giá trị bất
thường chúng thường tạo ra những kết quả sai lầm. Thật rất nguy hiểm khi cho
rằng các công cụ phức tạp có thể được sử dụng bởi những người chưa qua đào
tạo. Họ có thể bị che mắt bởi sự phức tạp và chính xác bề ngoài. Những mô hình
giúp chúng ta cải thiện một bước so với dữ liệu kế toán thô. Chỉ có những người
113
Page - 114
sử dụng kinh nghiệm mới có thể nhận ra mức độ không chính xác của thông tin
như thỉnh thoảng vẫn xảy ra.
+ Các mô hình thông thường không cho một kết quả rõ ràng. Mỗi khi có nghi
ngờ phát sinh chúng ta phải kiểm chứng bổ sung bằng các thông tin định tính.
+ Hầu hết những người sử dụng thiếu một cơ sở dữ liệu đầy đủ để xây dựng
những mô hình cho riêng mình. Hệ quả là họ phải mua một mô hình được xây
dựng sẵn (rất đắt tiền) hoặc dựa vào những mô hình chung như mô hình đã được
đề cập ở đây và chúng có thể không đáp ứng được các yêu cầu cụ thể một cách
chính xác.
4.2. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG DỰ BÁO VÀ GIẢI QUYẾT
MỘT CÁCH HIỆU QUẢ TÌNH TRẠNG KHÁNH KIỆT TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
4.2.1. NÂNG CAO TÍNH MINH BẠCH VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA THÔNG
TIN
Tính minh bạch là nguyên tắc tạo lập một môi trường, trong đó các thông tin về
thực trạng hiện tồn, về các quyết định và các hoạt động đều dễ dàng tiếp cận, đều có
thể thấy được và hiểu được đối với tất cả đối tượng tham gia thị trường. Việc công
bố liên quan tới quá trình và phương pháp luận cung cấp thông tin, làm cho các
quyết định chính sách được mọi người biết đến nhờ quá trình truyền bá kịp thời và
công khai.
Tính trách nhiệm là yêu cầu đối với các đối tượng tham gia thị trường, bao gồm cả
các cơ quan quản lý, phải lý giải đuợc các hoạt động và các chính sách của mình và
phải chịu trách nhiệm đối với quyết định và kết quả tạo ra.
Tính minh bạch là điều kiện cần để duy trì tính trách nhiệm giữa ba nhóm thành
viên thị truờng chính: những người đi vay và những người cho vay, các tổ chức phát
hành và nhà đầu tư, các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tài chính quốc tế.
114
Page - 115
Tính minh bạch và tính trách nhiệm là những chủ đề được tranh cãi sôi nổi trong
nhiều cuộc thảo luận về các chính sách kinh tế trong hơn mười lăm năm qua. Các
nhà hoạch định chính sách đã quen với tính bảo mật. Tính bảo mật đã được xem
như là một yếu tố cần thiết cho việc thực thi quyền lực, cùng với lợi ích kèm theo là
che dấu được khả năng yếu kém của các nhà hoạch định chính sách. Tuy nhiên, tính
bảo mật còn ngăn không cho các chính sách có được những ảnh hưởng đáng có.
Nền kinh tế thế giới và các luồng tài chính thay đổi, theo hướng khiến quá trình
quốc tế hóa và phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, đã và đang đặt vấn đề công khai
lên hàng đầu khi hoạch định chính sách kinh tế. Các chính phủ mỗi nước, bao gồm
cả các ngân hàng trung ương, nhận định ngày càng rõ ràng tính minh bạch (tức là sự
công khai chính sách) sẽ làm tăng khả năng dự đoán và, vì thế, nâng cao hiệu quả
của các quyết định chính sách. Tính minh bạch còn buộc các định chế phải đối mặt
với tình hình thực tế và làm tăng trách nhiệm của các quan chức, đặc biệt là khi họ
biết họ phải luận chứng quan điểm, quyết định và cuối cùng là hành động của mình.
Do vậy sẽ khích lệ được việc đưa ra những điều chỉnh chính sách kịp thời.
Việc nâng cao tính minh bạch và tính trách nhiệm phần nào cũng còn là yêu cầu của
các tổ chức thuộc khu vực tư nhân để hiểu và chấp nhận những quyết định chính
sách có ảnh hưởng tới hành vi của họ. Tính minh bạch được nâng cao sẽ củng cố
các quyết định kinh tế do các cơ quan khác trong nền kinh tế đưa ra. Tính minh
bạch còn là một phương tiện để duy trì mức trách nhiệm, kỷ luật nội bộ và nâng cao
chất lượng quản lý. Tính minh bạch và tính trách nhiệm nâng cao chất lượng của
việc ra quyết định trong các cơ quan hoạch định chính sách cũng như là trong các
cơ quan mà những quyết định của họ còn phụ thuộc vào việc hiểu và dự đoán các
quyết định trong tương lai của các cơ quan hoạch định chính sách. Chi phí giám sát
sẽ giảm thấp nếu các hành động và quyết định đều rõ ràng và dễ hiểu. Việc công
chúng giám sát các tổ chức nhà nước, các cổ đông và người lao động giám sát việc
quản lý công ty, các chủ nợ giám sát người đi vay và những người gửi tiền giám sát
các ngân hàng đều trở nên dễ dàng hơn. Vì vậy, những quyết định kém chất lượng
sẽ không được bỏ qua và phải được giải thích.
115
Page - 116
Tính minh bạch và tính trách nhiệm hỗ trợ lẫn nhau. Tính minh bạch củng cố tính
trách nhiệm bằng cách làm cho việc giám sát được dễ dàng hơn, và tính trách nhiệm
thì củng cố tính minh bạch qua việc khuyến khích các cơ quan làm sao để các lý do
giải thích hành động của mình đều được mọi người biết đến và hiểu rõ. Tính minh
bạch cùng với tính trách nhiệm sẽ:
- Đặt ra một nếp làm việc cho phép nâng cao chất lượng việc ra quyết định
trong khu vực công cộng;
- Mang lại chính sách hiệu quả hơn bằng việc nâng cao sự hiểu biết của khu
vực tư nhân về phản ứng của các nhà hoạch định chính sách đối với các sự
kiện khác nhau trong tương lai.
Việc cung cấp thông tin minh bạch và có trách nhiệm về các đối tượng tham gia
thị trường và về các hoạt động kinh doanh của những đối tượng này là rất cần
thiết cho một thị trường hoạt động trật tự và hiệu quả, và đó là một trong những
tiền đề quan trọng nhất để tạo nên kỷ luật thị trường. Để phó mặc thì bản thân các
thị trường sẽ không thể tạo ra mức độ công khai thỏa đáng. Các lực lượng thị trường
thông thường sẽ làm cân bằng các lợi ích cận biên và chi phí cận biên của việc công
bố thêm thông tin và kết quả cuối cùng của nó có thể sẽ không phải là cái mà các
đối tượng trên thị trường cần đến .
Xu hướng tự do hóa thị trường tài chính và thị trường vốn vào những năm 80 của
thế kỷ 20 làm cho các thị trường tài chính ngày càng trở nên thiếu ổn định, làm tăng
nhu cầu có thêm thông tin để làm công cụ đảm bảo sự ổn định về tài chính. Vào
những năm 90, khi xu hướng tự do hóa thị trường tài chính và vốn dâng cao, gây
sức ép, đòi hỏi phải cung cấp thông tin hữu ích trong cả khu vực tài chính lẫn khu
vực tư nhân; các yêu cầu tối thiểu về công bố thông tin lúc đó là đánh giá chất
lượng và dung lượng thông tin cần cung cấp cho các đối tượng tham gia thị trường
và cho công chúng nói chung. Do việc cung cấp thông tin trở nên vô cùng cần
thiết giúp ổn định thị trường nên các cơ quan quản lý còn xem chất lượng thông
tin như một sự ưu tiên cao độ. Khi chất lượng thông tin do các thành viên tham
gia thị trường và các cơ quan quản lý đòi hỏi được cải thiện thì các tổ chức cũng
116
Page - 117
sẽ phải thực hiện tốt việc cải tiến các hệ thống thông tin nội bộ của mình để tạo
uy tín là tổ chức cung cấp thông tin có chất lượng.
Việc công bố rộng rãi thông tin DN chỉ thực hiện được khi có các tiêu chuẩn kế
toán tốt và phương pháp công bố thông tin thỏa đáng. Việc công bố rộng rãi này
thường bao gồm việc cho xuất bản thông tin định tính và định lượng thích hợp
trong các báo cáo tài chính hằng năm mà những báo cáo này thường đi kèm theo
với các báo cáo tài chính nội bộ và các thông tin có liên quan khác. Để cung cấp
thông tin cần có chi phí, vì vậy, khi xác định các yêu cầu công bố thông tin thì
phải đánh giá tính hữu ích công bố thông tin cho công chúng trong mối tương
quan với chi phí mà DN phải bỏ ra.
Tính kịp thời trong công bố thông tin cũng là điều quan trọng. Việc công bố các
thông tin tiêu cực cho công chúng không đủ hiểu biết tường tận để lý giải đúng
thông tin có thể gây tổn hại đến bản thân công ty đang được đề cập. Khi thông tin
không đủ chất lượng hoặc những người sử dụng dường như không có đủ khả
năng giải thích đúng đắn thông tin, thì đòi hỏi việc công bố thông tin phải được
chia ra từng bước, và ngày càng chặt chẽ nghiêm ngặt hơn. Về lâu dài mà nói thì
một chế độ công bố thông tin đầy đủ là có ích, ngay cả nếu truớc mắt gặp phải
một số khó khăn, vì chi phí cho hệ thống tài chính không đủ minh bạch, xét cho
cùng cao hơn chi phí phải bỏ ra để đảm bảo cho tính minh bạch.
Tuy nhiên, điều cần nhớ là tính minh bạch, tự thân nó, không phải là liều thuốc bách
bệnh. Tính minh bạch và tính trách nhiệm tự bản thân chúng không phải là đích
cuối cùng. Chúng được đưa ra nhằm trợ giúp cho việc nâng cao hiệu suất kinh tế và
có thể củng cố hoạt động của thị trường tài chính quốc tế bằng cách nâng cao chất
lượng ra quyết định và quản lý rủi ro của mọi đối tượng tham gia thị trường, kể cả
các cơ quan quản lý nhà nước. Tính minh bạch không thể làm thay đổi bản chất
của hệ thống tài chính hoặc những rủi ro nằm trong hệ thống tài chính đó. Nó
không thể ngăn ngừa khủng hoảng tài chính nhưng nó có thể làm dịu đi phản
ứng của các đối tượng tham gia thị trường trước những thông tin bất lợi. Tính
117
Page - 118
minh bạch, vì thế, giúp cho các đối tượng này dự đoán và đánh giá được thông
tin xấu và làm giảm nhẹ khả năng gây hoảng loạn và bế tắc.
Đối với xã hội, minh bạch sẽ giúp phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Khi
minh bạch, về nguyên tắc, tài sản và nguồn lực của xã hội sẽ có cơ hội tìm đến
người sử dụng nó hiệu quả nhất. Chắc chắn rằng, việc đấu giá đất công khai sẽ chọn
ra được ông chủ sử dụng một cách hiệu quả hơn nhiều so với cơ chế giao đất, phân
đất “trong bóng tối”.
Đối với nhà đầu tư, sự minh bạch có ý nghĩa quan trọng đối với việc giảm thiểu chi
phí, giảm rủi ro cho DN và nhà đầu tư. Khi nhà đầu tư dễ dàng trong tiếp cận thông
tin, nhanh chóng trong thực hiện các thủ tục hành chính, tiên liệu được các thay đổi
về chính sách thì rõ ràng có động lực để quyết định đầu tư lớn và lâu dài.
Đối với bộ máy nhà nước, minh bạch có vai trò rất quan trọng trong giảm thiểu
tham nhũng. Đòi hỏi về minh bạch còn tạo ra được sức ép để bộ máy nhà nước vận
hành tốt hơn. Như ý kiến của giáo sư Joseph Stiglitz, người đoạt giải Nobel về kinh
tế năm 2001, việc quan chức muốn che giấu thông tin không chỉ là che giấu chuyện
tham nhũng mà cả sự bất lực của mình.
Không như cơ sở hạ tầng “cứng” (đường sá, cảng biển, chất lượng nhân lực...) khó
cải thiện trong một sớm một chiều, tính minh bạch chính là một trong những cơ sở
hạ tầng "mềm" mà địa phương có thể tập trung cải thiện trong thời gian ngắn để
cạnh tranh hơn trong thu hút đầu tư và phát triển DN. Đây có thể được xem là lựa
chọn khôn ngoan trong điều kiện nguồn lực có hạn.
Theo một điều tra vừa được công bố gần đây của Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI) và Dự án Nâng cao Năng lực cạnh tranh VN (VNCI), tính
minh bạch được các DN tư nhân đánh giá là cản trở nhất trong môi trường kinh
doanh hiện nay. Kém minh bạch dường như là vấn đề chung của tất cả các địa
phương. Để nâng cao tính minh bạch, công khai thông tin thôi chưa đủ. Cần thúc
đẩy khả năng tiếp cận thông tin cho các DN, công bằng trong việc tiếp cận thông tin
đối với mọi đối tượng, nhất quán trong cung cấp thông tin và thực hiện, mọi chính
sách đưa ra có khả năng dự đoán trước và có thái độ cởi mở.
118
Page - 119
Công khai tất cả các thông tin về chính sách thu hút đầu tư, quy hoạch, định
hướng, kế hoạch phát triển kinh tế của tỉnh, các thống kê về tình hình kinh tế -
xã hội của địa phương, các thủ tục hành chính cụ thể… là yêu cầu quan trọng.
Để mọi DN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa có thể tiếp cận, những thông tin này
cần được niêm yết công khai, thuận tiện cho người cần sử dụng như đưa lên
Internet qua trang web của tỉnh, cung cấp các thông tin có liên quan bằng CD
room, đĩa mềm, phát hành các bản tin định kỳ miễn phí, thành lập các bộ phận
hỗ trợ cung cấp thông tin tại các cơ quan xúc tiến đầu tư và liên quan đến hoạt
động đầu tư…
Việc tiếp cận thông tin cần phải bình đẳng giữa các nhà đầu tư, các DN. Các quy
hoạch đều được công khai cho tất cả mọi người. Thủ tục hành chính, thủ tục đầu
tư cần được công bố công khai và được thực hiện một cách nhất quán. Để bảo
đảm quy trình này cần thành lập bộ máy để tiếp nhận nhanh chóng các phản hồi
từ nhà đầu tư và DN.
Bên cạnh đó, chính quyền cần thường xuyên hay định kỳ, cần tổ chức đối thoại
công khai, cởi mở, cầu thị và thực chất giữa cơ quan Nhà nước có liên quan và
các DN.
Minh bạch tài chính, thuật ngữ dùng để chỉ mức độ chính xác, sự rõ ràng, trung thực
của hoạt động tài chính và các báo cáo tài chính của các tổ chức kinh tế. Minh bạch
tài chính chỉ có giá trị khi nó được kiểm toán bởi tổ chức kiểm toán có uy tín. Một
DN khi đã đạt được mức độ minh bạch tài chính cũng đồng nghĩa với các chiến
lược kinh doanh sẽ rõ ràng và hiệu quả vì chúng được dựa trên những thông tin xác
thực để tính toán tính khả thi.
Phần lớn DN Việt Nam hiện vẫn chưa thực hiện được minh bạch tài chính. Nó xuất
phát từ việc các DN luôn mang tâm lý phòng thủ đối với các cơ quan quản lý nhà
nước (như thuế, công an, quản lý thị trường…). Bên cạnh đó, khung pháp lý hiện
chưa thực sự đầy đủ và hoàn thiện để ổn định môi trường kinh doanh tạo sự cạnh
tranh không lành mạnh trên thương trường khiến các DN phải dè chừng đối thủ. Vì
thế, DN không muốn công khai nội tình. Hơn nữa, nhiều DN vẫn chưa chịu mất phí
119
Page - 120
cho việc thuê kiểm toán độc lập. Do vậy, báo cáo tài chính thì vẫn đến hẹn lại lên
nhưng mức độ giá trị thì không thể định lượng.
Quản trị công ty theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) gồm các tiêu chí:
Thúc đẩy thị trường minh bạch, hiệu quả; Bảo vệ và tạo điều kiện thực hiện các
quyền của cổ đông; Đảm bảo có sự đối xử bình đẳng đối với mọi cổ đông, trong đó
có cổ đông thiểu số và cổ đông nước ngoài; Đảm bảo thông tin kịp thời và chính
xác về các vấn đề thực tế liên quan đến công ty; Nâng cao hiệu quả quản lý của Hội
đồng quản trị và trách nhiệm của Hội đồng đối với cổ đông.
Tại Việt Nam, Luật DN 2005 đã đề ra một số quy định cơ bản về quản trị công ty
đối với công ty cổ phần theo nguyên tắc quốc tế. Tiếp đó, Luật Chứng khoán quy
định các công ty đại chúng thực hiện nguyên tắc quản trị công ty theo Luật DN.
Riêng đối với các công ty niêm yết, yêu cầu về quản trị công ty khắt khe hơn.
Nhưng việc thực thi quản trị công ty ở Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn bởi
đây là vấn đề mới, nhất là khi hệ thống pháp lý còn thiếu và yếu. Điều cần làm là
phải xây dựng ngay một bộ quy tắc thống nhất cho hoạt động quản trị công ty,
ban đầu bắt buộc áp dụng một số tiêu chí cho các công ty niêm yết trên sàn
chứng khoán và NHTM, sau đó mở rộng phạm vi áp dụng và các nguyên tắc
quản trị công ty tốt cho các DN Việt Nam nói chung. Thống nhất các quy định về
kế toán, kiểm toán theo chuẩn mực quốc tế và mở rộng việc kiểm toán bắt buộc
kèm theo công bố thông tin đối với các công ty đại chúng và DNNN.
Quản trị công ty tốt không chỉ DN được lợi mà chính phủ còn đảm bảo được sự ổn
định trong điều hành nền kinh tế. Phía DN quản trị tốt, sẽ giảm chi phí vốn do các
ngân hàng dễ dàng cho vay vốn và cổ đông thì sẵn sàng góp vốn. Thông qua việc
thu hút vốn thuận lợi, DN có khả năng ổn định tài chính, đầu tư để tăng khả năng
tăng trưởng.
Phía chính phủ, thực thi cho các DN áp dụng quản trị công ty tốt sẽ ổn định được thị
trường vốn, tăng đầu tư, tạo ra nhiều việc làm và tăng trưởng kinh tế. Quan trọng
nữa là bảo vệ các nhà đầu tư sẽ thúc đẩy ổn định tài chính.
120
Page - 121
4.2.2. PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG ĐÁNH GIÁ XẾP HẠNG TÍN NHIỆM
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM THEO TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ
Với hiện trạng hiện nay của Việt Nam, như đã đề cập ở phần 3.3 một mô hình tương
tự như Forbes 500 hay Fortune 500, cũng là điều nhiều nhà đầu tư đang mong mỏi.
Tuy vậy, áp dụng mô hình hiện đại như vậy không phải là điều dễ dàng. Chẳng hạn,
nếu theo mô hình Forbes 500 và chỉ dựa trên những chỉ tiêu hiện tại để đánh giá
như: doanh thu, tài sản, tốc độ tăng trưởng, lợi nhuận và số lao động thì vẫn gặp
nhiều hạn chế như: tài sản của các DNNN rất khó xác định và thường không tính đủ
(vấn đề về sở hữu đất đai, vấn đề cấp phát vốn của Nhà nước, vấn đề công nợ của
các DNNN…) hoặc sự mất cân bằng giữa lao động trong các ngành như dệt may và
tài chính ngân hàng… đồng thời cả sự hạn chế về hệ thống cơ sở dữ liệu, sự không
thống nhất trong mô hình quản lý hạch toán của các tổng công ty nhà nước và các
đơn vị thành viên.
Bên cạnh đó, nền kinh tế của Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi, do vậy sẽ
gây khó khăn cho việc xác định mô hình sở hữu cũng như tổng hợp dữ liệu. Về tổng
thể, vẫn có thể đưa ra bức tranh tổng quát về xếp hạng DN, tuy nhiên, kết quả đưa
ra sẽ có nhiều sai lệch.
Theo nhìn nhận của các chuyên gia từ CRV thì với hiện trạng cơ sở dữ liệu cũng
như tình hình thực tế các DN hiện nay của Việt Nam, mô hình đánh giá của
Standard & Poors, Moodys… là phù hợp nhất. Đối với ngành xếp hạng tín nhiệm
DN tại Việt Nam, câu khẩu hiệu: Độc lập, khách quan, trung thực mới chỉ là điều
kiện cần. Đó là lý do để CRV phải kỳ công xây dựng một quy trình đánh giá khoa
học, bài bản sát thực. Trên cơ sở nghiên cứu kỹ quy trình của các Tập đoàn lớn
Standard & Poors, Moodys... CRV sẽ xây dựng cho mình một quy trình đánh giá
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Với sự tham vấn của các
chuyên gia tài chính hàng đầu trong và ngoài nước, CRV liên tục chỉnh sửa để hoàn
thiện không ngừng quy trình đó.
Tại Việt Nam, việc XHTD là công việc khá mới mẻ, nên chắc chắn sẽ không tránh
khỏi các sai sót trong việc điều tra thu thập số liệu thống kê, cũng như lúng túng về
121
Page - 122
mặt phương pháp luận, cách thức triển khai thực hiện. Tuy nhiên với nhu cầu ngày
càng cấp bách về thông tin tín dụng DN. Trong thời gian tới, ngành xếp hạng Việt
Nam sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ nhằm theo kịp xu hội nhập kinh tế toàn
cầu.
4.2.3. HOÀN THIỆN LUẬT PHÁ SẢN VÀ CÁC VĂN BẢN HƯỚNG DẪN CÓ
LIÊN QUAN CẢ VỀ MẶT LÝ LUẬN VÀ KHẢ NĂNG THỰC HIỆN
4.2.3.1 TẬP TRUNG VÀO CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÍNH THỰC
THI CỦA LUẬT PHÁ SẢN
Quy định rõ ràng về quyền hạn và nghĩa vụ, cũng như các biện pháp chế tài đối
với Giám Đốc DN, đặc biệt là DNNN: Theo lý thuyết hành vi (behaviour theory),
bất cứ một cá nhân nào luôn hành động vì lợi ích của bản thân họ. Bất cứ một tổ
chức, một doanh nghiệp nào hoạt động đều có mục đích và vì lợi ích của họ. Lợi ích
của một cá nhân và tập thể có thể rơi vào một trong ba trường hợp đó là: Lợi ích của
cá nhân hoàn toàn khác biệt với lợi ích của tập thể; lợi ích của cá nhân có phần
trùng lắp với lợi ích tập thể; và lợi ích cá nhân hoàn toàn trùng khớp với lợi ích tập
thể. Trong ba trường hợp này, trường hợp thứ hai là phổ biến nhất. Khi hành động ở
vùng giao nhau thì tập thể sẽ có lợi, ngược lại thì tập thể sẽ không có lợi, thậm chí
còn bị thiệt hại rất lớn.
Cũng theo lý thuyết hành vi hay lý thuyết trò chơi, một cá nhân sẽ luôn chọn
phương án hành động nếu hành động của họ chỉ mang lại lợi ích cho họ mà không
có tổn thất hoặc gần như họ không mất gì.
Vì vậy, để hành động cá nhân có lợi cho tổ chức, thì tổ chức hay DN phải tạo ra cơ
chế sao cho vùng giao nhau là lớn nhất, luôn luôn khuyến khích đồng thời với chế
tài (chính sách cây gậy và củ cà rốt) để các cá nhân hành động trong vùng giao nhau
mà không hành động ở vùng riêng. Điều này làm cho lợi ích của tổ chức và cá nhân
là nhất quán với nhau. Tuy nhiên, trong một DN, mâu thuẫn giữa người điều hành
và người sở hữu (agency problem) là vấn đề rất khó giải quyết do vấn đề khác biệt
về lợi ích, vấn đề thông tin bất cân xứng thường hay xảy ra. Để giải quyết vấn đề
122
Page - 123
này thì các chủ sở hữu hay thực hiện nhất là dùng chính sách thưởng cổ phiếu để
các nhà điều hành của DN hành động theo hướng làm cực đại giá trị của công ty,
hoặc dùng chính sách thưởng theo doanh số, lợi nhuận mà cá nhân đó làm ra. Nếu
không có chính sách như vậy, thì hành động của các nhà điều hành này sẽ thiếu đi
sự toàn tâm toàn ý vì lợi ích chung. Những vấn đề, mâu thuẫn trên đều rơi vào hầu
hết các DNNN ở Việt Nam hiện nay.
Một DN muốn phát triển bền vững trong dài hạn thì các hoạt động của DN phải tập
trung vào mục đích quan trọng nhất là làm giá trị của công ty ngày càng tăng và ổn
định lâu dài. Tuy nhiên nhiều DNNN lợi nhuận, hiệu quả trong hoạt động sản xuất
kinh doanh chưa được xem là tiêu chí quan trọng nhất mà thường chạy theo quy
mô, doanh số, phạm vi hoạt động, thậm chí cả chức năng giúp Chính phủ điều tiết
xã hội. Mặt khác, do cơ chế cơ quan chủ quản hiện nay, nhà nước không muốn cho
các DN thuộc ngành, địa phương mình bị giải thể, phá sản nên thường có những ưu
đãi cho DN khó khăn. Nếu DN nào làm ăn hiệu quả thì không được hưởng ưu đãi
mà còn phải đóng góp nhiều cho ngành, địa phương, nhà nước. Điều này tạo ra tâm
lý ỷ lại cho các DN không muốn hoạt động kinh doanh hiệu quả mà thường báo cáo
khó khăn để được hưởng ưu đãi.
Trong DNNN, sở hữu doanh nghiệp là toàn dân. Chính phủ đại diện cho toàn dân
quản lý phần vốn, tài sản này. Chính phủ giao cho hội đồng quản trị hay giám đốc
quản lý, sử dụng phần vốn nhà nước tại các DN. Luật DNNN năm 1995 quy định
người điều hành DNNN có nghĩa vụ sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn
do nhà nước giao, bao gồm cả phần vốn đầu tư vào DN khác nếu có; nhận và sử
dụng có hiệu quả tài nguyên, đất đai và các nguồn lực khác do nhà nước giao cho
DN. Nhưng Luật DNNN năm 1995 không quy định rõ việc bãi miễn những người
điều hành DN khi DN hoạt động kinh doanh không hiệu quả, Luật DNNN năm
2003 có quy định người điều hành DN bị miễn nhiệm, chấm dứt hợp đồng trước
thời hạn trong các trường hợp để công ty lỗ hai năm liên tiếp hoặc không đạt chỉ
tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước đầu tư hai năm liên tiếp hoặc ở trong tình
trạng lỗ lãi đan xen nhau nhưng không khắc phục được, trừ các trường hợp lỗ hoặc
123
Page - 124
giảm tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
lỗ hoặc giảm tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước đầu tư có lý do khách quan được
giải trình và được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận; đầu tư mở rộng sản xuất, đổi
mới công nghệ. Với quy định như vậy, khi hoạt động thực tế thì “lý do khách quan”
thường được sử dụng nhất nếu DN hoạt động không hiệu quả. Mặt khác trong Luật
Phá Sản DN 2004 quy định hoạt động kinh doanh bị thua lỗ liên tục sẽ bị làm
thủ tục phá sản. Nhưng trong thực tế, hầu như chưa có DN nào bị lỗ liên tục hai
năm mà phải phá sản.
Luật DNNN 2003 quy định những người điều hành DN được hưởng chế độ lương
theo năm. Mức tiền lương và tiền thưởng tương ứng với hiệu quả hoạt động của
công ty, do người quyết định bổ nhiệm quyết định hoặc theo hợp đồng đã ký. Tiền
lương được tạm ứng hàng tháng, quyết toán hàng năm. Tiền thưởng hàng năm được
tính dựa vào kết quả kinh doanh năm của công ty, chỉ trả một phần vào cuối năm,
phần còn lại được chi trả sau khi đã kết thúc nhiệm kỳ. Trong thực tế, mức lương
của các cấp điều hành DNNN rất thấp do với những người có vị trí tương tự ở các
DN có vốn đầu tư nước ngoài, DN tư nhân. Tuy nhiên đó chỉ là phần thu nhập nổi.
Với cơ chế phân quyền và chế tài trách nhiệm rất không rõ ràng làm cho những
người điều hành DNNN có lợi ích và quyền lực rất lớn, ngược lại trách nhiệm và
nghĩa vụ thì rất chung chung. Kết quả là nhiều người điều hành DN chỉ tập trung
làm lợi cho cá nhân, thay vì cho DN mình, và vấn đề lo củng cố quyền lực, địa vị là
không thể tránh khỏi. Kết quả chung lại là DNNN sẽ mất đi tính cạnh tranh và động
lực phấn đấu, dễ dàng thua lỗ trong kinh doanh. Khi thua lỗ triền miên lại tìm cách
bào chữa cho các lý do khách quan, dựa vào mối quan hệ sẵn với cấp chủ quản,
khiến không thể áp dụng luật phá sản được.
Luật DN thống nhất đã được Quốc Hội thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực
từ ngày 01/07/2006. Mục tiêu của Luật DN thống nhất này là xem tất cả các loại
hình DN là bình đẳng và có cùng một “sân chơi”. Tuy nhiên theo điều 166, phạm vi
điều chỉnh DNNN lại được dời chậm nhất đến ngày 01/07/2010, tức bốn năm sau
124
Page - 125
khi luật DN thống nhất có hiệu lực. Vì thế trước thời điểm này, sự bình đẳng về đối
xử đối với các loại hình DN là chưa thể có được.
Những phân tích trên gợi ý rằng để tăng cường tính thực thi của Luật Phá Sản, điều
cần thiết là phải tăng cường các quy định xử lý người đứng đầu các DNNN và
quy trình, trách nhiệm của cấp chủ quản trong việc chấp thuận phá sản đối với
các DNNN bị khánh kiệt tài chính không thể phục hồi.
Tính khả thi của Luật Phá sản có quan hệ tỷ lệ thuận với thời gian chính thức để giải
quyết một vụ phá sản, mức độ tốn kém của các thủ tục và giá trị có thể thu hồi.
Theo báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2008 do Tập Đoàn Tài Chính
Quốc Tế IFC và Ngân Hàng Thế Giới công bố, Việt Nam được xếp ở vị trí 91.
Trong đó, ở tiêu chí thứ 10, giải thể DN, báo cáo cho rằng việc giải quyết các
trường hợp phá sản DN ở Việt Nam còn kém hiệu quả, xếp hạng 121/178. Thủ tục
phá sản phải mất ít nhất 5 năm, tốn kém đến 15% giá trị tài sản của DN. Đối với
những DN vỡ nợ thì các bên liên quan chỉ thu hồi được 18% giá trị tài sản. Vì thế,
rất ít DN tuân theo các quy định và thủ tục chính thức khi muốn dừng hoạt động.
Vì vậy để Luật Phá Sản thực sự có tính khả thi thì cần phải đơn giản hóa, rút
ngắn thời gian xử lý một vụ phá sản. Nâng cao giá trị thu hồi thực tế. Để làm
được việc này cần phải tiếp tục cải cách hành chính, bổ sung các hướng dẫn cần
thiết cũng như cần sự vận hành hiệu quả của một thị trường thứ cấp cho việc
thanh lý các tài sản của các DN bị kiệt quệ tài chính đến mức phải xử lý phá sản.
4.2.3.2. SỚM BAN HÀNH QUY ĐỊNH HƯỚNG DẪN THỦ TỤC PHÁ SẢN
CHO CÁC TCTD
Theo quy định của Luật Các TCTD năm 1997 và Luật Sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật Các TCTD ngày 15/06/2004, “TCTD là DN được thành lập theo Luật Các
TCTD và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng” (Khoản 1, Điều
20). Như vậy, TCTD là một DN trong nền kinh tế quốc dân hoạt động trong lĩnh
vực ngân hàng. Các TCTD, trong đó nòng cốt là các ngân hàng, thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan, bao gồm các
125
Page - 126
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán. Các quan hệ tín dụng được dựa trên uy tín của các bên. Một khi uy tín của
TCTD mất đi do mất khả năng thanh toán, chi trả các khoản nợ cho người gửi tiền
thì uy tín cũng như vị thế của TCTD trên thị trường bị giảm sút, và hệ quả là khách
hàng ào ạt đến rút tiền, làm trầm trọng thêm tình trạng mất khả năng thanh toán của
TCTD. Không chỉ có vậy, do tính đặc thù của hoạt động ngân hàng, các TCTD có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nên nếu một TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán, sẽ ảnh hưởng đến các TCTD khác, gây nên tình trạng mất khả năng
thanh toán hàng loạt (ảnh hưởng tới toàn hệ thống). Mặt khác, trong hoạt động, các
TCTD cũng có những hoạt động đầu tư khác như mua cổ phần tại các công ty, đầu
tư kinh doanh bất động sản, kinh doanh các ngành nghề khác... Do đó, khi chủ nợ
có yêu cầu TCTD thanh toán các khoản nợ đến hạn phát sinh từ quan hệ kinh tế này
mà TCTD không có khả năng thanh toán, thì TCTD có được coi là lâm vào tình
trạng phá sản hay không? Chính vì vậy, việc xác định thời điểm TCTD lâm vào tình
trạng phá sản có ý nghĩa rất quan trọng. Do đó, cần phải giải quyết các vấn đề sau:
Thứ nhất, nếu xác định thời điểm TCTD mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn sớm như quy định tại Luật Phá sản năm 2004, cần hướng dẫn cụ thể khái niệm
nợ, các khoản nợ đến hạn, giới hạn các khoản nợ cũng như trình tự xử lý các khoản
nợ để khôi phục lại khả năng chi trả của TCTD cũng như các giải pháp mà TCTD
đã áp dụng để xác định dấu hiệu TCTD lâm vào tình trạng phá sản. Đồng thời, cần
làm rõ các khái niệm nợ có liên quan mang tính vốn có của TCTD như nợ khó đòi,
nợ quá hạn, nợ khoanh chờ xử lý... để cùng làm sáng tỏ bản chất của việc lâm vào
tình trạng phá sản của TCTD có đúng với tình trạng tài chính thực của chúng hay
không. Trên cơ sở đó, các chủ nợ, Ngân hàng Nhà nước, Toà án mới có được cơ sở
để quyết định áp dụng thủ tục phù hợp (phục hồi hay phá sản TCTD).
Theo tinh thần của Luật Phá sản, khi DN, hợp tác xã không thanh toán được các
khoản nợ đến hạn cho các chủ nợ thì chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản DN. Tuy nhiên, chúng ta đều biết, các TCTD là các trung gian tài chính, đi vay
126
Page - 127
để cho vay và có đối tượng đi vay (người gửi tiền) rất đa dạng. Vì vậy, khi TCTD
không có khả năng chi trả các khoản tiền gửi đến hạn cho người gửi tiền thì đương
nhiên, người gửi tiền có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản TCTD đó, bất kể
khoản tiền gửi là bao nhiêu. Vấn đề đặt ra từ quy định của Luật Phá sản là ở chỗ,
nếu TCTD mất khả năng chi trả một khoản tiền gửi có giá trị không lớn (khoảng vài
chục triệu đồng) thì TCTD đó có thật sự lâm vào tình trạng phá sản hay không, nhất
là trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, có không ít TCTD lợi dụng vấn đề này để
làm ảnh hưởng đến uy tín của TCTD khác. Vấn đề này sẽ giải quyết như thế nào?
Tâm lý chung của bất cứ người gửi tiền nào cũng đều mong muốn sau khi hết hạn
thì họ được hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu biết tin TCTD lâm vào tình trạng phá sản tức
là họ có nguy cơ mất cả gốc lẫn lãi, nên họ ào ạt đến rút tiền sẽ gây ảnh hưởng đến
hoạt động bình thường của TCTD, mặc dù trên thực tế, TCTD chưa lâm vào tình
trạng phá sản. Như vậy, áp dụng Luật Phá sản đối với TCTD cần phải đặt ra giới
hạn mức nợ đến hạn không có khả năng thanh toán để xác định đúng khả năng tài
chính của TCTD, là căn cứ để xác định TCTD có lâm vào tình trạng phá sản hay
không.
Thứ hai, làm rõ mối quan hệ giữa quy chế kiểm soát đặc biệt, bước chuyển từ tình
trạng kiểm soát đặc biệt sang tình trạng phá sản và tình trạng phá sản của DN theo
quy định của Luật Các TCTD năm 1997 và Luật Sửa đổi bổ sung một số điều Luật
Các TCTD 15/06/2004 và theo quy định của Luật Phá sản 2004. Kiểm soát đặc biệt
là việc một TCTD được đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp của Ngân hàng Nhà nước do
có nguy cơ mất khả năng thanh toán, mất khả năng chi trả. TCTD có thể bị đặt vào
tình trạng kiểm soát đặc biệt trong các trường hợp sau: Có nguy cơ mất khả năng
chi trả; nợ không có khả năng thu hồi có nguy cơ mất khả năng thanh toán; khi số lỗ
luỹ kế của TCTD lớn hơn 50% tổng số vốn điều lệ thực có và các quỹ. Như vậy, khi
TCTD có nguy cơ lâm vào tình trạng bị kiểm soát đặc biệt, thì tự TCTD đó phải
phát hiện và báo cáo cho Ngân hàng Nhà nước để có biện pháp hỗ trợ. Ngoài ra, khi
lâm vào tình trạng bị kiểm soát đặc biệt, TCTD không được phép công khai tình
trạng mất khả năng thanh toán của mình cho công chúng biết, bởi nếu công chúng
127
Page - 128
biết thì họ sẽ đồng loạt đến rút tiền tại các TCTD, làm tăng nguy cơ phá sản của
TCTD.
Như vậy, điểm khác cơ bản giữa kiểm soát đặc biệt TCTD và tình trạng phá sản của
TCTD là ở chỗ tính công khai, sự hiểu biết của chủ nợ, của khách hàng về tình
trạng tài chính của TCTD. Khi một TCTD bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt,
những thông tin về TCTD đó gần như chỉ có TCTD và Ngân hàng Nhà nước biết
mà không công bố rộng rãi cho công chúng. Điểm khác biệt này do tính chất đặc
thù của hoạt động ngân hàng, đó là tính rủi ro hệ thống và những ảnh hưởng của nó
tới sự ổn định kinh tế- xã hội. Giới hạn để xác định tình trạng kiểm soát đặc biệt là
trước khi đến hạn thanh toán, chi trả các khoản nợ, còn tình trạng phá sản là khi các
khoản nợ đến hạn, chủ nợ có yêu cầu nhưng TCTD không có khả năng thanh toán.
Bước chuyển từ tình trạng kiểm soát đặc biệt sang tình trạng phá sản là sau khi
Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng
các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán của TCTD mà TCTD đó vẫn mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn và đến đây, các chủ nợ mới có quyền nộp
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản TCTD. Vậy, khi không có văn bản của Ngân hàng
Nhà nước về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi
khả năng thanh toán của TCTD mà TCTD đó vẫn mất khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn thì các chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản hay
không?
Hiện nay, có sự mâu thuẫn giữa Luật Các TCTD và Luật Phá sản về quyền nộp đơn
yêu cầu tuyên bố phá sản TCTD của các chủ nợ. Theo quy định của Luật Các
TCTD, một TCTD bị đặt vào tình trạng phá sản khi có văn bản của Ngân hàng Nhà
nước về việc không áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng biện pháp phục hồi khả năng
thanh toán thì đó là căn cứ để xem xét tính hợp lệ của đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
của chủ nợ. Nói cách khác, quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản của chủ nợ đối
với TCTD bị vô hiệu hoá khi không có một quyết định hành chính của Ngân hàng
Nhà nước. Trong khi đó, theo tinh thần của Luật Phá sản, quyền nộp đơn yêu cầu
tuyên bố phá sản TCTD là một quyền đòi nợ để bảo đảm các quyền về tài sản của
128
Page - 129
chủ nợ, theo đó, chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản TCTD khi
TCTD không thanh toán các khoản nợ đến hạn cho chủ nợ mà không lệ thuộc vào
bất cứ một cơ quan hay tổ chức nào. Bất cứ chủ thể hoặc quy định pháp lý nào có
nội dung hạn chế hay ngăn cản quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản của chủ nợ
là cản trở việc thực hiện quyền sở hữu tài sản theo qui định của Bộ Luật Dân sự.
Nói cách khác, quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản TCTD là một phương thức
bảo vệ quyền sở hữu tài sản của chủ nợ.
Như vậy, rõ ràng Ngân hàng Nhà nước cần có những hướng dẫn cụ thể để giải
quyết mâu thuẫn trên giữa hai văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề quyền nộp đơn
yêu cầu tuyên bố phá sản TCTD. Về nguyên tắc, khi TCTD lâm vào tình trạng phá
sản thì không cần Ngân hàng Nhà nước phải có văn bản về việc không áp dụng
hoặc ngừng các biện pháp hỗ trợ vì các giải pháp đó đã được thực hiện trong
khoảng thời gian kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước đối với TCTD. Việc
bãi bỏ qui định này là hoàn toàn phù hợp với tinh thần cải cách hành chính trong
lĩnh vực Ngân hàng, theo đó, Ngân hàng Nhà nước với tư cách là người quản lý,
định hướng, hỗ trợ hoạt động cho các TCTD khi TCTD lâm vào tình trạng kiểm
soát đặc biệt, còn những vấn đề khác liên quan đến hoạt động của TCTD sẽ để
TCTD tự định đoạt.
Thứ ba, cần làm rõ trách nhiệm của TCTD trong việc cung cấp thông tin về tình
trạng phá sản của TCTD cho các chủ nợ để đảm bảo quyền nộp đơn yêu cầu tuyên
bố phá sản của TCTD, bởi chính TCTD là người duy nhất biết rõ thực trạng tài
chính của mình. Khi đã bị lâm vào tình trạng phá sản, TCTD cần thông báo cho các
chủ nợ biết để có sự phối hợp giải quyết hợp lý, khôi phục lại khả năng thanh toán.
Trường hợp TCTD cố tình che giấu tình trạng phá sản thì cần có qui định Ngân
hàng Nhà nước căn cứ vào tình hình thực tế của TCTD để yêu cầu Toà án tuyên bố
phá sản TCTD, vì ngoài TCTD, chỉ có Ngân hàng Nhà nước biết được khả năng
thanh toán thực sự của TCTD thông qua kiểm soát đặc biệt.
Một lần nữa, cần qui định trách nhiệm của Ban kiểm soát đặc biệt trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ kiểm soát đặc biệt tại TCTD để xác định đúng khả năng phục
129
Page - 130
hồi hay phá sản của TCTD, hoặc xử lý đối với những hành vi cố tình báo cáo sai sự
thật, che giấu tình trạng phá sản TCTD của Ban Kiểm soát đặc biệt.
Thứ tư, nghiên cứu xác định thời điểm, tư cách pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi khi tham gia vào quan hệ phá sản TCTD, mức chi trả bảo hiểm và kiểm soát
tâm lý mạo hiểm của TCTD khi họ có tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo qui định tại
Điều 20, Nghị định số 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, trong
trường hợp TCTD tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản thì tổ chức bảo hiểm tiền
gửi trở thành chủ nợ đối với TCTD đó với khoản nợ là số tiền mà tổ chức bảo hiểm
tiền gửi đã chi trả cho người gửi tiền thay cho TCTD. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi
được quyền tham gia quá trình quản lý và thanh lý tài sản của TCTD phá sản đó
theo qui định của Luật Phá sản. Số tiền thu hồi được từ việc thanh lý tài sản của
TCTD sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Qui định trên trong Nghị định 89/1999/NĐ-CP còn quá chung chung, không phù
hợp với các qui định mới của Luật Phá sản và nếu chỉ với qui định này thì không đủ
để thực thi các qui định pháp luật khi TCTD lâm vào tình trạng phá sản nếu TCTD
đó tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo kinh nghiệm của các nước, khi TCTD lâm vào
tình trạng phá sản, nếu TCTD đó không có khả năng phục hồi thì: (1) Tổ chức bảo
hiểm tiền gửi thanh toán tiền gửi cho người gửi tiền với mức bảo hiểm tối đa trên cơ
sở phí bảo hiểm mà TCTD đóng và nếu không đủ thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải
lấy từ vốn của tổ chức bảo hiển tiền gửi; (2) Sau khi TCTD được thanh lý, tổ chức
bảo hiểm tiền gửi được xếp cùng hàng với các chủ nợ không có bảo đảm và nhận về
số tiền theo tỷ lệ nợ. Còn nếu TCTD có khả năng phục hồi thì tổ chức bảo hiểm tiền
gửi đứng ra bảo lãnh sẽ trả toàn bộ tiền gửi và tiếp nhận TCTD lâm vào tình trạng
phá sản hoặc tổ chức bảo hiểm tiền gửi tìm một TCTD khác để bán hoặc sáp nhập.
TCTD này sẽ nhận trách nhiệm hoàn trả tiền gửi của TCTD phá sản sau khi mua
hoặc sáp nhập. Để tăng tính hấp dẫn, tổ chức bảo hiểm tiền gửi thường đứng ra mua
lại một số tài sản xấu của TCTD phá sản hoặc cho TCTD mua hoặc sáp nhập TCTD
này vay với lãi suất ưu đãi.
130
Page - 131
Để thực thi tốt Luật Phá sản đối với các TCTD, cần quy định cụ thể các điều kiện
được phục hồi và phá sản TCTD, quy chế kiểm soát hoạt động phục hồi của TCTD
cũng như kiểm soát việc mua bán, hoặc sáp nhập các TCTD... sao cho phù hợp với
điều kiện hiện tại của Việt Nam. Việc có cho phép phá sản chi nhánh, văn phòng đại
diện của TCTD nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá
sản hay không và việc TCTD trong nước tham gia bảo hiểm tiền gửi tại tổ chức bảo
hiểm tiền gửi nước ngoài thì việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi nước ngoài tham gia
như thế nào vào thủ tục phá sản TCTD cũng là một vấn đề cần được quan tâm
nghiên cứu.
Để tạo sự thống nhất trong các văn bản pháp luật về xác định TCTD lâm vào tình
trạng phá sản, Chính phủ cần sớm ban hành nghị định hướng dẫn thi hành Luật Phá
sản đối với các DN kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, trên cơ sở đó, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cần có sự phối hợp với Bộ Tư pháp, Toà án, Bộ Tài chính ban
hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để tạo sự thống nhất và để cho Luật Phá sản
sớm đi vào cuộc sống.
4.2.4 BAN HÀNH CÁC QUY ĐỊNH HỖ TRỢ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA DATC
Để giải quyết được cơ bản những khó khăn vướng mắc trong hoạt động xử lý nợ và
tài sản tồn đọng thời gian vừa qua, tạo điều kiện thúc đẩy nhanh hơn quá trình mua
bán và xử lý nợ mang tính đột phá trong thời gian tới, Nhà nước và các bên liên
quan cần giải quyết một số nội dung sau:
Thứ nhất, về lâu dài hoạt động mua bán, xử lý nợ và tài sản tồn đọng cần được xây
dựng thành bộ luật riêng biệt nhằm tạo ra môi trường pháp lý chặt chẽ và nâng cao
năng lực hoạt động cho các bên trong quá trình xử lý nợ và tài sản. Trước mắt, các
cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý
cho hoạt động mua bán xử lý nợ và tài sản tồn đọng bằng một hệ thống các cơ chế
chính sách xử lý đầy đủ, đồng bộ và rõ ràng.
131
Page - 132
Cơ chế đó cần xác định rõ trách nhiệm của ban giám đốc DN trong việc xử lý nợ;
có chế tài đủ mạnh nếu giám đốc DN không tự xử lý được nợ tồn đọng hay cố tình
để công nợ tồn đọng dây dưa, kéo dài; bắt buộc DN phải xử lý nợ nếu không sẽ tiến
hành giải thể, phá sản theo đúng quy định của pháp luật.
Trong đó, cơ chế xử lý nợ và tài sản tồn đọng cũng cần được tinh gọn trong thủ tục
hành chính và thật sự hiệu quả trong khi thực hiện; cơ chế cần đảm bảo và trao cho
các chủ nợ và nhất là Công ty Mua bán nợ các quyền đặc biệt hơn như quyền yêu
cầu khách nợ và các bên có liên quan khác phải cung cấp thông tin về hoạt động, tài
chính, nhân sự; quyền giám sát, phong toả tài khoản và kê biên phát mại tài sản đảm
bảo nếu khách nợ cố tình không hợp tác thanh toán.
Hiện tại, Nhà nước cần sớm ban hành đồng bộ và hoàn thiện các cơ chế mua bán
một phần hoặc toàn bộ DN; cơ cấu lại tài chính và hoạt động của DN; xử lý tài
chính trong quá trình mua bán, cơ cấu, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu cả DN.
Nhất là các cơ chế đối với các DNNN trong quá trình sắp xếp, chuyển đổi sở hữu
hiện nay nếu không cổ phần hoá được cần phải giao lại cho Công ty Mua bán nợ
tiến hành tái cơ cấu lại DN thông qua các giải pháp như giao, bán, khoán, cho thuê
trước khi thực hiện việc giải thể hoặc phá sản.
Thứ hai, các DNNN và Công ty Mua bán nợ cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên
truyền và học tập nâng cao nhận thức về hoạt động mua bán, xử lý nợ và tài sản tồn
đọng trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh; coi việc mua bán, xử lý nợ và
tài sản là một hoạt động tái cơ cấu lại DN để nhằm củng cố năng lực tài chính trong
quá trình hội nhập và phát triển.
Thứ ba, các DN cần có quyền độc lập tự chủ về tài chính và trong hoạt động; chịu
trách nhiệm và chủ động tự xử lý các tồn tại về tài chính; phối hợp chặt chẽ với
Công ty Mua bán nợ để trao đổi thông tin và cùng xây dựng, thống nhất phương án
xử lý dứt điểm các khoản nợ và tài sản tồn đọng trên tinh thần hợp tác cùng phát
triển, đảm bảo đúng quy định và hướng dẫn của pháp luật.
Thứ tư, trong quá trình mua bán, xử lý nợ và tài sản tồn đọng các bên liên quan cần
kết hợp và sử dụng linh hoạt, đồng bộ các công cụ về cơ chế chính sách, định giá,
132
Page - 133
Thứ năm, trong vai trò là một công cụ tài chính thích hợp của Nhà nước về xử lý nợ
tồn đọng của DN, Công ty Mua bán nợ cần đẩy mạnh các hoạt động nghiệp vụ và
nhận được sự phối hợp, hỗ trợ đắc lực và hiệu quả hơn nữa của các cơ quan quản lý
Nhà nước đặc biệt là các cơ quan tài chính, tư pháp và các cơ quan hành chính khác
trong quá trình mua bán nợ và xử lý các tồn tại về tài chính DN để thúc đẩy mạnh
hơn nữa quá trình sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá DNNN theo đúng mục tiêu Nhà
nước đề ra.
KẾT LUẬN CHƯƠNG IV
Chương này đã bàn đến các giải pháp nâng cao khả năng dự báo và giải quyết hiệu
quả tình trạng khánh kiệt tài chính của các DN ở Việt Nam.
Biện pháp đầu tiên được đề xuất là sử dụng mô hình Z-Score để xét xem DN có
đang ở trong tình trạng khánh kiệt tài chính hay không. Theo các nhà nghiên cứu
phá sản trên thế giới thì mô hình Z-Score có khả năng dự đoán phá sản chính xác
đến hai năm trước khi sự phá sản thực sự xảy ra. Tuy nhiên ở Việt Nam cũng như ở
nhiều nước đang phát triển khác, do lịch sử ngắn ngủi của thị trường tài chính, rất
khó có được một hệ thống dữ liệu nhất quán và rõ ràng trong một thời gian dài. Vì
vậy việc kiểm chứng lại sức mạnh thực sự của mô hình trong điều kiện cụ thể ở Việt
Nam chỉ có thể thực hiện được trong tương lai.
Chương này cũng đã đề cập đến các giải pháp hỗ trợ khác về lâu dài để nâng cao
hiệu quả của việc dự báo và giải quyết tình trạng khánh kiệt tài chính. Các giải pháp
hỗ trợ được nêu gồm: (1) Nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của thông tin:
Điều này giúp tăng cường khả năng giám sát của các thể chế bên ngoài đối với DN,
qua đó có tác dụng ngăn ngừa những hành động không hợp lý của ban điều hành;
(2) Phát triển hệ thống đánh giá, xếp hạng tín nhiệm của DN Việt Nam. Theo bảng
xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2008 của WB và IFC công bố, ở tiêu chí 5,
133
Page - 134
vay vốn, các tổ chức trên đánh giá: “…hiện nay ở Việt Nam, thông tin về độ tin cậy
tín dụng của cá nhân cũng như công ty không được chia sẻ và các tổ chức đăng ký
thông tin tín dụng tư nhân chưa phát triển. Nếu không có các dữ liệu về độ tin cậy
tín dụng, ngân hàng sẽ rất e ngại việc cho vay, và vì thế việc tiếp cận tín dụng sẽ bị
hạn chế…”. Như vậy có thể thấy việc triển khai công bố các báo cáo xếp hạng tín
nhiệm DN ở VN sẽ giúp nhiều cho sự phát triển của thị trường tín dụng và giảm chi
phí cùng với rủi ro cho các nhà đầu tư khi tham gia thị trường Việt Nam. Thông qua
hệ thống này việc dự báo khả năng khánh kiệt tài chính sẽ dễ dàng hơn. Theo ý kiến
của nhiều chuyên gia thì với hiện trạng cơ sở dữ liệu cũng như tình hình thực tế các
DN hiện nay của Việt Nam, mô hình đánh giá của Standard & Poors, Moodys là
phù hợp nhất; (3) Hoàn thiện Luật Phá sản và các văn bản có liên quan. Các đề xuất
cho phần này là cần tăng cường các giải pháp nâng cao tính khả thi của Luật Phá
sản thông qua các quy định xử lý người đứng đầu các DNNN và quy trình, trách
nhiệm của cấp chủ quản trong việc chấp thuận phá sản đối với các DNNN bị khánh
kiệt tài chính không thể phục hồi. Cần phải đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý
một vụ phá sản. Nâng cao giá trị thu hồi thực tế. Để làm được việc này cần phải tiếp
tục cải cách hành chính, bổ sung các hướng dẫn cần thiết cũng như cần sự vận hành
hiệu quả của một thị trường thứ cấp cho việc thanh lý các tài sản của các DN bị kiệt
quệ tài chính đến mức phải xử lý phá sản. Ngoài ra cần sớm ban hành quy định
hướng dẫn thủ tục phá sản cho một loại hình DN đặc thù là các TCTD, vốn rất nhạy
cảm với lòng tin; (4) Ban hành các quy định hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động của
DATC, một định chế chuyên về mua bán, xử lý nợ tồn đọng. Trong đó quan trọng
nhất là về lâu dài hoạt động mua bán, xử lý nợ và tài sản tồn đọng cần được xây
dựng thành bộ luật riêng biệt nhằm tạo ra môi trường pháp lý chặt chẽ và nâng cao
năng lực hoạt động cho các bên trong quá trình xử lý nợ và tài sản.
134
Page - 135
KẾT LUẬN CHUNG
Trên cơ sở vận dụng, tổng hợp các nguồn nghiên cứu. Luận văn đã:
1. Đưa ra được một mô hình phân tích định lượng có khả năng dự báo khánh
kiệt tài chính DN. Mô hình đơn giản, dễ sử dụng và khá chính xác.
2. Hệ thống các đặc điểm về khánh kiệt tài chính và các giải pháp đối phó ở
một số nước trên thế giới.
3. Luận án đã có những phân tích xác thực về đặc thù kinh tế Việt Nam với vấn
đề khánh kiệt tài chính, đặc biệt nêu rõ ảnh hưởng của các yếu tố thể chế đến
hành vi của DN trong khi giải quyết khánh kiệt tài chính. Nêu rõ những khó
khăn cản trở cho việc dự báo và giải quyết khánh kiệt tài chính ở VN.
4. Luận văn cũng mạnh dạn đề nghị áp dụng mô hình Z-Score để dự báo khả
năng phá sản DN Việt Nam.
5. Luận án cũng đề ra được các chính sách vĩ mô thích hợp nhằm hỗ trợ cho
quá trình dự báo và giải quyết khánh kiệt tài chính.
Tuy nhiên, như đã đề cập, do hạn chế về dữ liệu nên chúng tôi chưa thể tiến hành
khảo sát nghiêm ngặt sức mạnh của mô hình đối với điều kiện Việt Nam. Một cách
lý tưởng, đi theo cách thiết lập của mô hình Z-Score, ta có thể chọn một cơ sở dữ
liệu hợp lý, dùng phương pháp phân tích đa biệt thức và kỹ thuật thống kê, xác định
lại các hệ số và các biến tối ưu của phương trình Z tương thích với thị trường Việt
Nam. Đây sẽ là một hướng nghiên cứu tiếp theo của đề tài này.
135
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 47962.pdf