MS: LVVH-VHVN034
SỐ TRANG: 140
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2009
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của luận văn
6. Kết cấu của luận văn
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẾN TRE VÀ CA DAO - DÂN CA BẾN TRE
1.1. Giới thiệu chung về Bến Tre
1.1.1. Tên gọi - hành chính
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
1.1.3. Lịch sử
1.1.4. Con người
1.1.5. Tín ngưỡng
1.1.6. Văn học
1.2. Giới thiệu chung về ca dao - dân ca Bến Tre
1.2.1. Các hình thức diễn xướng của CD-DC
1.2.2. Tình hình tư liệu
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CA DAO - DÂN CA BẾN TRE
2.1. CD-DC phản ánh sinh động cảnh quan thiên nhiên
2.1.1. Địa hình
2.1.2. Cây cối
2.1.3. Loài vật
2.1.4. Đặc sản
2.2. CD-DC phản ánh đậm nét chân dung con người Bến Tre
2.2.1. Trong lao động sản xuất
2.2.2. Trong đời sống tình cảm
2.2.3. Trong chiến đấu
2.3. CD-DC Bến Tre phản ánh chân thật những sự kiện lịch sử, sự kiện trong đời sống hằng ngày
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CA DAO - DÂN CA BẾN TRE
3.1. Thể thơ
3.1.1. Thể thơ truyền thống và các biến thể
3.1.2. Thể hỗn hợp
3.1.3. Thể ba dòng
3.2. Ngôn ngữ
3.2.1. Ngôn ngữ đời thường
3.2.2. Ngôn ngữ giàu chất xông xáo, phóng túng
3.3. Kết cấu
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHẦN SƯU TẦM CA DAO- DÂN CA BẾN TRE
NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA BẾN TRE 3 DÒNG
NHỮNG BÀI CA DAO- DÂN CA SỬ DỤNG HÌNH ẢNH CÂY DỪA
NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA DÙNG HÌNH ẢNH CÂY BẦN
NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA VỀ LOẠI HÌNH HÒ, HÁT [/B]
140 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2096 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát ca dao - dân ca Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thò tay ngoắc nguyệt mà nguyệt lui xế chiều.
- Trai như anh hầu văn kiến sẻ
Gái như em như bức tượng vẽ trên rồng
Anh về giở cuốn sách Minh Tâm, coi thử em có lấy chồng hay chờ anh ?
- Trai như anh phò vua cho trọn đạo
Gái như em thờ chồng cho trọn đạo người ta
Anh đừng thấy chỗ giàu sang anh bước tới mà bỏ em vào ra có một mình.
- Leo cây huệ, thốn vịn cây đào
Bụng anh có muốn cây nào chiết ra ?
- Em vào phòng loan than thầm khóc gối
Phụng xa loan bối rối anh chung tình
Vui thì thôi, ngồi buồn khoanh tay ngọc đặng nhìn bạn xưa.
- Cáo Tô Văn vốn thiệt rồng xanh
Bay ngang cửa biển phá thành hiền vương
Tiết Nhơn Quý giục ngựa buông cương
Bay qua cửa biển, cứu ông vua Đường Thế Dân.
- Võ Đông Sơn hồi thuở trước, có lời giao ước với Bạch Thu Hà
Kẻ chân trời, người góc biển, sum họp một nhà anh thấy không ?
- Nữ xuất giá như tư vi phạm thủ
Nam bất cư như liệt mã vô cương
Em không coi Mạnh Lệ Quân thuở trước chờ Đông Bình Dương kết nguyền.
- Thắng quân tử thối hề quân tử
Chiếc thuyền dời lòng thục nữ đừng dời
Anh không coi Phạm Công với Cúc Hoa, kẻ dân gian, người âm phủ mà sum họp vợ chồng
đời anh thấy không ?
- Qua than với em phụ mẫu quá già yếu, đứa con qua còn nhỏ xíu khổ cực nhiều bề
Quần áo rách không ai vá, vải mua về không ai may
-Vải mua về, anh Mười ơi, anh để đó cho em may
Quần áo rách để cho em vá nhưng phụ mẫu hay anh tính thế nào ?
- Bình Đại thôn bản sở
Phú Vang Thôn, anh cho em tạm đỡ một đôi ngày
Anh có vợ chưa anh nói thiệt, để chuyện lâu ngày nó mích lòng anh.
- Trèo lên chót vót cây khô
Ngó về xóm Giồng Trên mười sáu cô chưa chồng
Tư Bối lỡ hội mà xong
Hai Thảo không chồng báo ngáo bơ ngơ
Năm Hạ thiệt đã còn thơ
Cha mẹ sầm sờ ai nói mần chi
Tư Nhựt nhiều kẻ yêu gì
Trà ngon rượu ngọt thiếu gì vật ăn
Tư Điều chồng nói lăng xăng
Ba má không gả mấy trăng khóc ròng
Hai Kỉnh là gái có chồng
Trách ông tơ bà nguyệt đem lòng không xuôi
Hai Gấm trong dạ sụt sùi
Đêm nằm nước mắt lau chùi không khô
Hai Ngoan là gái bự cồ
Chồng con không có ra vô thêm phiền
Năm Chếnh là gái thuyền quyên
Đêm nằm chiếc bóng sầu riêng một mình
Trách ai lòng sắt dạ đinh
Mà tui phải chịu linh đinh múi trầu
Nhắc tới Hai Chiến thật rầu
Mồ côi luống chịu thâm sầu mồ côi
Cám thương Sáu Mão vô hồi
Chồng con lỡ dỡ giận thôi ra về
Hai Gấm thiệt đã nhiều bề
Chồng con không có ra về sao an
Tám Vàng là gái đông sàn
Lỡ duyên chịu lỡ, khép mình mùa đông
Chín Lê cũng chưa có chồng
Đêm nằm nước mắt ròng ròng chứa chan
Tư Phấn quần áo lang thang
Cha mẹ nghèo nàn ai thấy cũng thương
Chín Biểu xập xệ lẽ thường
Đi ra không áo đoạn trường hơn ai.
Bà Lê Thị Mươi, 70 tuổi (ấp 2, Vang Quới Đông, Bình Đại)
- Chị em đông có chồng bên Tống
Tay cầm dùi trống, tay khải đờn Liêu
Lòng dặn lòng ai dỗ dừng xiêu
Giả như Kim Trọng với chị Thúy Kiều thuở xưa.
- Thương hỡi thương gươm trường không sợ
Giáo đống hai hàng phải duyên nợ em cũng vô.
- Phụ mẫu tôi đánh tôi bằng roi tre nhặt mắt, nhịp cái cắt, lại thắt cái vòng
Anh làm trai quý tử mà sao để gái lòng trinh chịu đòn ?
- Thân tôi như cây cúc mọc dựa bờ rào
Khổ lao mà lao với khổ không biết chỗ nào náu nương.
- Sống dương trần tôi mần cù bơ cù bất
Thác đi rồi anh chôn mã đất không có đắp cái lề
Anh sẵn lòng lo mua hàn huỳnh chín chục mà có chạm mặt trăng hai đầu?
- Hồi thuở xuân xanh, sao anh không đáp nghĩa hoàn tình
Bây giờ bạc không cai, vào ra nơi tửu sắc khó nổi nhìn lắm bớ anh.
- Em vô phần vô phước
Anh chết trước, em đem chôn nhằm giọt nước chảy quanh
Em cầm quạt Tàu em quạt, ráo mồ anh em mới lấy chồng.
- Bần gie đóm đậu sáng ngời
Anh không thương em hồi khổ mà mấy lời em than.
- Chưa có gì họ đồn thấu
Ba với má em đòi câu sấu, bớ anh chung tình
Em rút lưỡi gươm vàng ra tự vận mà thác xuống Diêm đình mới xa anh.
- Gà lạc mẹ gà kêu chíu chít
Tôi thương anh mấy năm trời mà chẳng nằm khít một bên
Em cũng nguyện cầu cha mẹ ơn trên hộ trì.
- Hò thì hò truyện, hò thơ
Ai mà hò bậy, tui quýnh mẻ ơ lên đầu
Xách bù lon tui đứng đầu cầu
Đứa nào hò bậy, quýnh cái đầu bằng cái nôm.
- Tiết Đinh San mắc vòng lao lý
Tiết Nhơn Quý bị giặc vây thành
Hàng các quan người ta rơi lệ, mà sao dạ anh đành bỏ em ?
- Không có ai bạc ngỡi bằng anh Tiết Đinh San
Không có ai vô gian bằng anh La Thông công tử, hại chị Đồ Lư phải tự tử chốn loan phòng
Mà Hồ Nguyệt Cô bị chàng Tiết Giao nên mất ngọc, bị lưỡi gươm đồng của Võ Tam Tư.
Bà Trần Thị Huyền, 50 tuổi (ấp 2, xã Vang Quới Đông, Bình Đại)
- Phá cho bứt lộ thành mương
Phá cho cầu sập hết đường Tây đi.
- Giặc Tây đánh đến Cần Giờ
Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công.
- Gái Mỏ Cày một lòng chung thủy
Trai Mỏ Cày đánh Mỹ tan thây.
- Anh chê em nhỏ thó mắc rầu
Chứ con thằn lằn bao lớn mà ôm cột đình sát vo ?
- Tiếng đồn cha mẹ anh hiền
Cắn hột cơm không bể, cắn đồng tiền bể đôi.
- Tiếng đồn cha mẹ anh giàu
Sao anh ăn mặc như tàu chuối te.
- Ngó lên thấy mặt thì thương
Ngó xuống cái bụng ễnh ương phát rầu.
- Sao anh lại nói rằng rầu
Nuôi cho nó lớn têm trầu anh ăn.
- Qua đình ngả nón trông đình
Hạc chầu thần đủ cặp, sao hai đứa mình lẻ đôi.
- Ăn dừa ngồi gốc cây dừa
Cho em ngồi với cho vừa một đôi.
- Dừa xanh trên bến hai hàng
Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.
- Cây bần ơi hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.
- Cơm sôi, lửa cháy, gạo nhảy tưng bừng
Anh thương em như lửa nọ cháy phừng
Dù cho núi lở tan rừng cũng thương.
- Phải chi em lấy chồng xa anh đà không giận
Chớ em lấy chồng gần như lửa cận mái hiên.
- Anh về cưới vợ cho xong
Em như con tép lộn rong khó tìm.
Bà Nguyễn Thị Phán, 74 tuổi (xã Thanh Tân Tây, Mỏ Cày)
- Bước lên cầu, cầu trơn như mỡ
Bước xuống đá, đá lạnh tận xương
Cả tiếng kêu người nghĩa lại đi đường
Lương dơn đây sao rồi không gá mà kiếm đường đi đâu ?
- Bên tao nấu cháo đầu heo
Bên bây nấu cháo đầu mèo chết trôi
- Bên tao năm đứa mà vui
Bên bây sáu đứa, đứa đui, đứa cùi
- Bên tao uống nước bằng tô
Bên bây uống nước bằng mo súc sình
- Bên tao đương bội nhốt gà
Bên bây đương bội nhốt bà nhốt con.
- Tay ôm mền ấm, tay nắm gối vàng cẳng khoắc mền lang, tay chàng cổ bậu
Miệng vái cùng trời đừng lậu tiếng ra.
- Nhất điện nhì điện (?) cám thương lỗ miệng em cười
Hàm răng em khít rịt ít người như em.
- Tay lăng xăng mài mực, miệng khai khẩn đề thơ
Thôi quan xét lại cho em nhờ
Chớ khoan khoan hạ bút uổng tờ giấy tây.
- Trầu lên nửa nọc trầu vàng
Thương cô áo chẹt vá quàng hai tay.
- Ngọn cỏ phất phơ, ngọn cờ phơ phất
Nồi đồng sôi, nồi đất cũng sôi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Kiếm nơi chỗ khác đứng ngồi cho yên.
- Ngó lên lầu, lầu nào cao bằng lầu Cao Lãnh
Gái nào bảnh sao bằng gái Sóc Trăng
Bước lên xe lửa, đầu đội khăn rằn
Nói chơi thả cửa anh nào cũng mê.
- Ngó lên Châu Đốc, Vàm Nao
Thấy buồm em chạy như dao cắt lòng.
- Nhất nhật phu thê bá vạn tòng
Chị em người ta có đôi ra rả, sao em ôm lòng chờ anh ?
- Ba phen lên ngựa mà về
Dừng cương đứng lại xin đề câu thơ
Câu thơ ba bốn câu thơ
Câu đợi, câu chờ, câu nhớ câu thương.
- Sáng mai em xách dĩa mua tương
Thấy anh trong trường cầm viết ngó ra
Anh mua cùng tờ giấy gởi về
Gởi thời, gởi trách, gởi khăn
Gởi chi tờ giấy mà hai mươi lăm đồng tiền
Phải chi anh có tiền riêng
Anh mua áo gấm khăn điều cho em.
- Nhền nhện sa xuống nước nhền nhện nổi phình
Trước tôi kiếu huynh kiếu đệ mà kiếu bạn chung tình tui lui.
- Anh về sao đặng mà về
Dây giăng bốn phía tứ bề bắt anh
- Bắt anh thời phải nuôi anh
Cơm ăn ba bữa, rượu ấp xanh cho thường.
- Nín nín rồi ngủ đi con, bà ru con ngủ
Cái ngủ mày ngủ cho say
Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày
Nín nín rồi ngủ đi con, bà ru con ngủ.
- Cái ngủ mày ngủ cho lâu
Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về.
- Sáng mai anh đi ngang nhà nàng
Anh thấy nàng ngồi ghế tràng kỉ
Ăn bánh bao chỉ, mũi chảy lòng thòng
Về cậy mai dong đến nói, cưới dòng ở dơ
- Bấy lâu em mũi dãi tèm hem
Bây giờ em lớn anh thèm chết cha.
Chị Lê Thị Bé Sáu (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời
Hồi tạo thiên lập địa ông trời ai sanh?
- Em về hỏi lại mẹ cha
Hồi tạo thiên lập địa có tụi mình đâu em
- Sao trên trời mấy cái ?
Nhái ngoài ruộng mấy con ?
Đất vuông mấy mẫu, mấy sào ?
Anh nào đáp được, má đào em xin dâng.
- Sao trên trời hằng hà sa số
Nhái ngoài ruộng năm bố bảy bao
Đất vuông trăm mẫu trăm sào
Vậy là anh đối được, má đào em đưa đây!
- Gió đẩy gió đưa cho vừa lòng bạn
Sông Sài Gòn chỗ cạn chỗ sâu.
- Rượu nằm trong nhạo, rượu lại chờ nem
Em nằm trong phòng vắng, trông anh bước vào.
- Anh về mai mốt anh qua
Em đừng bịn rịn, má la má rầy.
- Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc, hái rau má nhờ
Má ơi đừng đánh con khờ
Để con hát bội, múa cờ má coi.
Ông Trần Thuận (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Cô kia xách nón đi đâu ?
Phận tôi là gái mần dâu mới về
Đi về dốt nát chồng chê
Trở về mà học a ê với người.
- Hỡi cô gặt lúa trên đồng
Cho anh gặt với tụi mình vần công
- Hỡi anh cuốc đất trên đồng
Gắng công em gặt một mình cũng xong
- Giúp em anh giúp thật lòng
Cho mau hết lúa không hề tiếc công
- Giúp em anh mới ươn trồng
Cà dưa chết héo, anh trồng uổng công.
Ba? ?inh Thi? Minh Ti?n, 52 tuơ?i ( ?p Tn ???c A, xa? Tn Bi?nh, Mo? Ca?y)
- Chữ rằng: "thiên võng khôi khôi
Sơ chi bất lậu" lưới trời bủa giăng
Xa xôi chưa kịp nói năng
Xin anh đừng có phũ phàng vải bô.
- Thân em như rau muống dưới hồ
Nay chìm, mai nổi, biết ngày mô cho thành ?
- Dốc lòng trồng cửu lý hương
Ba năm thay lá, người thương già đầu.
- Sông ngân chưa bắt nhịp cầu
Phận em là gái biết sầu mấy nơi ?
- Thương cha thương mẹ có khi
Thương em kịp thuở kịp thì xuân xanh.
- Bữa ăn cá cá cùng anh
Cũng không mát ruột bằng anh với nàng.
- Cha đời con gái mười ba
Đêm nằm với mẹ khóc la đòi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hông
Đồ con "chết chủ" đòi chồng thâu đêm.
- Công cha ba năm tình thâm lai láng
Nghĩa mẹ đêm dài chín tháng cưu mang
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn
Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ.
- Tiếng anh ăn học cũng thông
Về đây em hỏi bánh bò bông bột gì ?
- Bánh bò bông anh biết làm bột với mì
Đủ cân, đủ lượng nó quỳ ra tay.
- Dẫu mà không lấy được em
Anh về đóng cửa, cài rèm đi tu
- Tu đâu cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa.
- Chim khôn mắc phải lưới hồng
Hễ ai gỡ được đền công lạng vàng
- Đền vàng anh chẳng lấy vàng
Hễ anh gỡ được thì nàng lấy anh.
- Bồng con đi dạo vườn dưa
Dưa đà có trái, chị chưa có chồng.
- Cá về chợ Vịnh hết mong
Em về Đồng Tháp, bỏ chồng cho ai ?
- Đêm nằm ôm gối thở than
Gối ơi là gối, bạn lang xa r?i.
Bà Nguyễn Thị Cẩm ( ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Tiếng anh ăn học thì thông
Về đây em hỏi khăn bàn lông mấy đường?
- Khăn bàng lông anh đã xài thường
Bây giờ nó cũ mấy đường anh quên.
- Tiếng anh ăn học xứ xa
Về đây em hỏi chợ Băng Tra mấy người?
- Em về em đếm tóc em
Tóc em mấy sợi chợ Băng Tra mấy người ?
- Tiếng anh ăn học thành tài
Về đây em hỏi cây xoài mấy bông?
- Em về đếm cá dưới sông
Để anh ở lại đếm bông cây xoài.
- Trời mưa ướt lá trầu lương
Ướt mình mình chịu, ướt người thương đau lòng.
Bà Huỳnh Thị Tuyết, 51 tuổi (ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Ngó ra ngoài biển mịt mù
Thấy tàu ông lớn chở tù về tây.
- Khế với sung, khế chua sung chát
Mật với gừng, mật ngọt gừng cay.
- Trách trời sao vội mưa giông
Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh.
- Chú kia nhổ mạ bên cồn
Nước nôi không có miệng mồm tèm lem.
- Con cò nó mổ con lươn
Bớ chị đi đường muốn tía tôi không.
Tía tôi lịch sự quá chừng
Cái lưng mốc thít cái đầu chôm bơm.
- Chẻ tre lựa lóng đươn sàn
Chờ đôi năm nửa cho nàng lớn khôn.
- Khoan khoan bớ chị hái trầu
Khăn chéo đội đầu lắt lẻo ngọn thang.
- Ba năm tang chế mãn rồi
Đầu dơ em gội chuỗi vòng đeo vô.
- Tàu lui sáo thổi vang đầy
Anh xa em vì bởi quan thầy đổi đi.
- Mười giờ tàu lại Bến Thành
Xúp - lê vội thổi bộ hành lao xao.
- Ra về thấy cảnh thêm thương
Nhành mai ủ dột vách tường nhện giăng.
- Ngọc trầm thủy thượng anh ơi
Cầm đũa lên mời chúng bạn hồi hương.
- Củi đậu nấu đậu ra dầu
Cưới em không đặng cạo đầu đi tu.
- Chẵn chình để vậy lưu ly(?)
Chình ra tỏa rạng khác gì ngọc châu.
Ông Nguyễn Văn Đức, 68 tuổi (ấp Tân Đức, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Nước giữa sông một dòng biếng chảy
Tôi ngồi đợi mãi cho đến trăng lặn sao mờ
Làng tôi sớm nắng chiều mưa
Chớ ai đành theo giặc để dày bừa nước non.
- Giặc bắt anh đi giữa mùa cấy hái
Cày bừa bỏ lại cỏ lúa chưa mần
Căm thù quân giặc bất nhân
Làm cho gia đình ly tán chồng con chia lìa.
- Dòng sông nước chảy lờ đờ
Con thuyền lơ lững như chờ đợi ai.
Chị Nguyễn Thị Kim Loan, 36 tuổi ( ấp Tân Mỹ, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Ngó lên trời, anh thấy sao nguyệt bạch
Anh ngó xuống lòng lạch, anh thấy con cá chạch đỏ đuôi
Nước chảy xuôi, anh thấy con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược, anh thấy con cá nược lội theo
Này em ơi, anh than bổn phận anh nghèo
Vợ con chưa có cũng như bọt bèo trôi sông.
- Nhà em đây nhà anh đó
Cách đây, cách đó chẳng cách bao xa
Tại mẹ với cha phân đà không đặng
Đêm nằm thổn thức bốn bức châu rơi
Bấy lâu anh mang tiếng chịu lời
Bây giờ xa bạn, trời nào biểu xa.
- Hai đứa mình thương nhau qua
Sao ba vặn khóa, má lại bẻ chìa
Chìa hư rồi ống khóa liệt
Hai đứa mình từ biệt mấy năm.
- Khăn rằn một sọc thì khăn rằn Tây
Tôi thấy mình ốm yếu mình dây theo thương đùa
- Nước trong tôi múc lấy một vùa
Tôi thương người cho trọn một mùa tháng giêng.
- Em thấy anh hay chữ, lại đây em hỏi thử đôi lời
Cọng cỏ chi mà không lá, con cá gì không xương ?
- Em đố chi câu chữ bất bình
Cọng cỏ măng không lá, con cá họa hình không xương.
- Tiết Nhơn Quý nằm trên trại gỗ
Xuất tướng tinh bạch hổ rõ ràng
Chớ anh đăng bảng khoe tài
Chớ em vô mà gỡ bảng hai ngày với anh.
- Trai nào bảnh bằng trai thị trấn (Mỏ Cày)
Đầu thì hớt chải tóc tém bảy ba
Mặc pijama khăn bàn choàng cổ
Thấy em gái Giồng Keo ngồ ngộ muốn cùng ai thổ lộ đôi lời
Cấy cày cực lắm em ơi
Hãy theo anh về vườn ăn trái cuộc đời ấm no.
- Gái Giồng Keo tuy quê mùa dân dã
Tóc dài bỏ xõa ái vải bà ba
Nắng táp mưa sa mà mịn da dài tóc
Không đẹp bằng ai nhưng vừa vóc
Tuy quê quít nhưng không thích trai vườn
Trai mà dở dở ương ương
Ngồi không hái trái hết đường tương lai.
Bà Đỗ Thị Đá, 63 tuổi (ấp Hội Thành, xã Đa Phước Hội, Mỏ Cày)
- Anh đi bỏ mõ bỏ chuông
Bỏ ghè tương lạc, bỏ buồng chuối non.
- Tiếng đồn em ăn học nhà trường
Cho anh xin hỏi cỏ trong vườn mấy cây ?
- Anh về đổ bộ lư hương
Đếm tro mấy hột, cỏ trong vườn mấy cây.
- Thấy em ăn học Mỏ Cày
Cho anh hỏi thử cây xoài mấy bông ?
- Anh về đếm cá dưới sông
Để em ở lại đếm bông cây xoài.
- Ngó lên đám mạ năm gò
Thấy em còn nhỏ giữ bò anh thương
- Thò tay ngắt ngọn trầu lương
Bò em em giữ mà anh thương nỗi gì ?
- Anh thương vì bởi gánh ghi
Bạc lộn với chì đôi cũng xứng đôi
- Em còn nhỏ lắm anh ơi
Em chưa tính chuyện lứa đôi vợ chồng.
- Bước đi ba bước lại ngừng
Tuổi em còn nhỏ chưa từng làm dâu
Làm dâu khó lắm anh ơi
Vui chẳng dám cười cực chẳng dám than
- Bây giờ có cực em đừng than
Hồi đó anh biểu em khoan lấy chồng.
- Mía lau chặt lóng bỏ tàu
Anh qua cưới bậu bậu đòi bao nhiêu ?
- Bậu đòi chín chục một trăm
Quần áo một mớ vàng vòng một đôi.
- Đòi vàng anh cũng đi vàng
Anh cưới đặng nàng về đặng coi trâu.
- Coi trâu để má anh coi
Phận nàng là gái coi trong coi ngoài.
- Ngày xưa ông địa ăn chè
Ngày nay ông địa ăn xe nồi đồng.
- Gái xưa trông lớn lấy chồng
Gái nay trông lớn vào đoàn nữ thanh
- Gái xưa đi chợ ăn hàng
Gái nay đi chợ bán toàn đơn thơ.
- Già xưa đi chợ mua trầu
Già nay đi chợ nắm đầu Mỹ Ngô.
- Trăng sáng lộ trắng như ngà
Thấy quân Mỹ Diệm như gà bị thua.
Bà Nguyễn Thị Ngãi, 50 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Đêm đêm ngồi dưới bóng trăng
Thương cha nhớ mẹ không bằng thương anh
Đêm nằm lưng chẳng bén giường
Mong cho mau sáng ra đường gặp anh.
- Đêm nằm ở dưới bóng trăng
Thương cha nhớ mẹ không bằng nhớ em.
- Đôi ta như chỉ mới xe
Như măng mới mọc như tre mới trồng
Đôi ta như lúa đòng đòng
Đẹp duyên mà chẳng đẹp lòng mẹ cha.
- Anh thương em trầu hết lá đươn
Cau hết nửa vườn cha với mẹ nào hay
Dầu mà cha mẹ có hay
Nhứt đánh nhì đày, hai lẽ mà thôi
Gươm vàng để đó em ơi
Chết thì chịu chết lìa đôi anh không lìa.
- Ăn chanh ngồi gốc cây chanh
Khuyên cội, khuyên cành, khuyên lá, khuyên bông
Khuyên cho đó vợ đây chồng
Đó bế con gái, đây bồng con trai.
- Áo gài năm nút hở bâu
Em còn phụ mẫu đâu dám tư tình với anh.
- Mù u bông trắng lá quắn nhụy huỳnh
Phải chăng phu phụ ngàn năm anh cũng chờ.
- Anh còn son em cũng còn son
Ước gì ta được làm con một nhà.
- Lòng em đã quyết thì hành
Đã cấy thì gặt với anh một mùa.
- Ước ao anh ở một nhà
Ra vào đụng chạm kẻo mà nhớ thương.
- Xa xôi xích lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần ươm tơ.
- Đôi ta lên thác xuống ghềnh
Em ra đứng mũi cho anh chịu sào.
- Chuồn chuồn mắc phải tơ vương
Nào ai quấn quýt thì thương nhau cùng.
- Hồ nào sóng biết vỗ bờ
Ai mà thả kiếm rùa đưa đi dùm ?
- Hồ Hoàn Kiếm sóng biết vỗ bờ
Vua Lê thả kiếm rùa đưa đi dùm.
- Nơi nào gần chốn kinh đô
Nhiều thây giặc chết chất thành gò đống cao ?
- Gò Đống Đa gần chốn kinh đô
Nhiều thây giặc chết chất thành gò cao.
- Thân em như tấm lụa đào
Còn nguyên hay đã xé vuông nào cho ai ?
- Thân em như tấm lụa đào
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai.
- Cây kiềng vàng đeo lâu còn đỏ
Đôi đứa mình còn nhỏ còn thương
Dẫu cho cha mẹ không thương
Đôi ta trải chiếu ngoài đường lạy vô.
- Cha mẹ đòi ăn cá thu
Gả con xuống biển mù mù tăm tăm.
Ông Võ Văn Thổ, 46 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Trời chuyển mưa cho mây phủ mình rồng
Phận anh bạc số nên em đi lấy chồng bỏ anh.
- Trời mưa lâm râm, lác đác, mấy hạt cát nó nhảy liên miên
Rượu cẩm nguyên đây em rót đãi bạn hiền
Kiếp này không trọn ta nguyền kiếp sau.
- Phụng kỳ xa lý, đáng năm bảy tháng còn gần
Anh cách xa em như nhợ xa cần
Còn đâu lên xuống tỏ tình nhớ em.
- Nhợ xa cần, nhợ lại nằm khoanh
Anh xa em một bữa cơm canh anh bỏ liều.
- Vui sao mà anh bảo em cười
Một ngày thấy mặt, chín mười ngày không.
- Không vui anh cũng muốn em cười
Cười cho quên hết những ngày mình không gặp nhau.
Bà Huỳnh Thị Mỹ (ấp Tân Đức B, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Chim tham ăn sa vào vòng lưới
Cá tham mồi mắc tại lưỡi câu
Ai ơi nên phải nghĩ sâu
Những ai tham thực ác là cực thân.
Bà Phan Thị Tương, 50 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Chim bay về núi tối rồi
Chị em lo liệu lấy nồi nấu cơm.
- Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai
Vắt vai chạy dài xuống chợ
Xin ba đồng tiền trả nợ bánh canh
Bánh canh con vắn con dài
Ai mua tôi bán, ai nài tôi thêm.
Chị Trương Thị Huệ Em (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Dạy con đọc sách thánh hiền
Còn hơn để lại bạc tiền đầy kho.
- Còn cha còn mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây
Đờn đứt dây còn dây còn nối
Cha mẹ thác rồi con phải mồ côi
Mồ côi tội lắm ai ơi
Đói cơm khát nước biết người nào lo.
- Hoa xinh ai nỡ bỏ rơi
Người khôn ai nỡ nặng lời với nhau.
- Trầu xanh cau trắng cháy hồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên
Trăm năm ghi tạc chữ đồng
Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai.
- Trăm năm ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim.
- Ở hiền thì lại gặp lành
Những người nhân đức trời dành phúc cho.
Chị Huỳnh Thị Lệ (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày)
- Anh về Giồng Miễu, mua một thước nhiễu nhị tấc
Về con ba cắt, con tư may
Con năm đột, con sáu viền
Con bảy đơm nút, con tám đơm khuya
Anh bận ra đi, con chín níu, con mười tỳ
Chín Mười ơi, em kéo vậy thì còn gì cái áo anh
Áo anh đơm nút con rồng
Đứng xa con phụng lại gần con quy.
- Chiều chiều ông Lữ đi câu
Cá ăn đứt nhợ mang dây chạy về.
Chị Thu Hà (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày)
- Đội ơn cốt dục cao dày
Học cho đẹp mặt nở mày mẹ cha
Học đặng như gấm thêu hoa
Có chân có chất mới ra con người
Làm trai phải biết khổ người
Dại thời ra đứng hai bên cột đình.
Bà Nguyễn Thị Hoàng,54 tuổi (ấp Thanh Bắc,xã Tân Thanh Tây, Mỏ Cày)
- Rửa tay cho trắng, ngắt ngọn rau cho tươi
Tiền năm quan anh chuộc lấy tiếng cười
Vàng rơi anh không tiếc mà anh tiếc người có duyên.
- Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa xế
Em ơi về lập kế thôi chồng
Đồ nữ trang đừng trả, để kiện lo
- Tới đây không hát thì hò
Không phải con cò ngóng cổ mà nghe
- Con cò nó ở nhành tre
Chớ đâu dưới đất mà nghe anh hò.
- Anh kia vừa ốm vừa cao
Đi xa tôi tưông cái sào chống ghe.
- Cô kia vừa mập vừa lùn
Đi xa tôi tưởng cái thùng nó lăn.
- Thiếu chi rau mà ăn rau é
Chứ thiếu chi chồng mà làm bé người ta.
- Chiếu bông mà trải gốc dầu
Muốn vô làm bé phải hầu vợ anh.
- Nước ròng tép bạc lội xuôi
Ai về đồng ruộng theo tui mà về
- Đồng anh nhiều con ốc gạo
Gái đồng quê nhiều đạo văn minh
- Trai đây anh ở giá một mình
Qua đây kết nghĩa chung tình với anh.
- Tức mình đấm ngực lăn nhào
Đón em anh hỏi ông tơ nào xe dây ?
Tức mình hơn quá té cây
Té cây không tức cơ hội này tức hơn
Đũa vàng dọng xuống mâm son
Thương em đứt ruột từng cơn hội này
Anh đau riêng tư khó nỗi tìm thầy
Thuốc thang sắc uống cơ hội này bất thương
Có mặt em đây anh nói rằng thương
Không có mặt em anh gá nghĩa can thường lăng xăng
Nhất nhật bất kiến như mã đề văn
Thấy em có nghĩa mấy trăng em cũng chờ
Làm sao cho được bây giờ
Sông sâu khó lấp cao bờ khó ban
Bây giờ có cực đừng than
Xưa kia anh biểu em khoan có chồng
Từ khi đi lính hội đồng
Vai mang cây súng tay bồng giáo gươm
Bốn phía trời rựng mọc đỏ ươm
Trách lòng thương bạn cầm gươm phóng lìa
Trách ai vặn khóa bẻ chìa
Khi thương thương vội khi lìa lìa xa
Làm chi tội lắm bé ba
Can thường mới ngộ bỏ qua sao đành
Rút gươm ra đứng bờ thành
Sa cơ này anh tự vận chị em đành hay không ?
Anh đừng tự vận mênh mông
Để em than vãn đêm đông đôi lời
Anh đừng tự vận giữa trời
Để em than vãn nhiều lời bất thương
Một mình đứng giữa trung lương
Bên tình bên hiếu biết thương bên nào ?
Hai bên súng bắn giao sào
Súng bắn mặc súng em nhào theo anh
Khăn lau nước mắt ướt nhem
Tới lui không đặng thì em có chồng
Đứng gần em gan lại phập phồng
Dang tay hỏi nhỏ em có chồng rồi chưa?
Cúc nằm trong chậu cúc xanh
Có chồng dùng thẳng đợi anh lâu ngày
Phải chi anh hóa đặng cây cải tiền tài
Giăng dây bốn phía bắt người ngoài che nhau
Trên trời có cụm mây bao
Anh đây em đó không biết làm sao lại gần?
Biển đông có cặp sóng thần
Nổi lên trận gió bốn phía bần đều tiêu
Thương mình chẳng biết bao nhiêu
Mình về tôi ở lại xương tiêu nát lòng
Quạ kêu nam đáo nữ phòng
Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương
Nhạn kêu tiếng nhạn kêu thương
Ngày thời nhớ bạn đêm thời nhớ anh
Mần thơ giấy trắng gửi gắn cò xanh
Hổng tin giở thử có anh rõ ràng
Mần thơ giấy trắng gửi gắn cò vàng
Không tin giở thử có nàng đứng thơ
Gặp anh đây nhằm lúc lâm cơ
Cắn tay chảy máu làm thơ thề nguyền
Chim khôn núp bóng cội riềng
Vợ mà thấy đó lo tiền không ra
Sáng trăng có núp cội da
Sáng ra có đứng ngã ba chờ mình
Cong lưng chạy thẳng vô đình
Trượt năm bảy cái không thấy bạn chung tình đỡ tui
Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi
Còn lan sầu huệ như tui sầu mình
Than tiếng than tình đã động tình
Thiếu điều cắt ruột trao mình mình ơi
Bước lên trên ngựa sụt sùi
Bước xuống dưới đất ngùi ngùi nhớ em
Phụng hoàng ngậm bức thơ lem
Đôi ta chồng vợ cậy đem thơ này
Xem thơ nước mắt nhỏ đậm đầy
Có chồng còn gửi thơ này làm chi
Hạc chầu thần hạc đứng lưng qui
Đôi ta thương lén có khi khóc thầm
Ngọc trao tay áo sao anh không tầm
Để mai với mốt anh tầm ra sao?
Ông Hồ Trung Thành, 50 tuổi (Phường 6, thị xã Bến Tre)
- Anh về vườn, tìm đường tôm lội
Ở chi xứ này đầu đội, vai mang.
- Nước dừa ngọt tựa lòng dân
Mỡ dừa như sữa mẹ, trắng ngần thơm tho.
- Trời chiều chiều chuyển mưa vần vũ
Tôi nhìn về quê cũ ruột thắt gan đau
Nhớ hồi nào cày cấy cùng nhau
Bây giờ Mĩ Diệm nhốt vào trong khu.
- Chim quyên ăn trái bồ quân
Quýnh bạc cầm quần để dái tòn ton.
- Anh về cùng vợ con anh
Lá rụng về cội, bỏ nhành xơ rơ.
- Ví dầu lịch vắn lương dài
Quạ đen, cò trắng, chài chài xanh lông.
- Con gà, con vịt có lông
Ống tre có mắt, nồi đồng có quai.
- Chiều chiều vịt lội cò bay
Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng.
- Anh đi ghe cá mũi son
Bắt em sàng gạo cho mòn móng tay.
- Anh đi ghe cá cao cờ
Ai nuôi cha mẹ, ai thờ tổ tiên ?
- Anh về để áo lại đây
Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng
- Lạnh lùng em lấy mùng em đắp
Để áo anh về đi học đường xa.
- Khoan khoan bớ chị hai dâu
Chị đừng ngắt đọt để dâu lên chồi
- Thôi thôi chị đã ngắt rồi
Còn da lên mụt còn còn chồi lên cây.
- Đi lính quốc gia vàng đeo đỏ cổ
Đi lính vụ Hồ chịu khổ muôn năm
- Đi lính quốc gia vàng đeo có lúc
Đi lính cụ Hồ hạnh phúc muôn năm.
- Đến đây lạc miệng thèm chanh
Ở nhà đã có cam sành thiếu chi.
- Nhìn lên trời thấy cặp cu đương đá
Nhìn xuống nước thấy cặp cá đương đua
Anh với em tuổi tác cũng vừa
Ngại cha với mẹ kén lừa suôi gia.
- Chiều nay cắt cổ gà ô
Để chi nó gáy hai cô chưa chồng
Hai cô hùn lại hai đồng
Nuôi cho tui lớn làm chồng hai cô.
- Bảy với ba anh tính ra một chục
Tam từ lục anh tích lại cửu chương
Liệu bề đát đặng thì đương
Đừng gầy rồi bỏ nửa đường cho ai.
- Sông sâu sóng bủa láng cò
Thương em vì bởi câu hò có duyên.
- Tàu nhà Tây đi trước, tàu nhà nước theo sau
Hai chiếc gặp nhau, quăng neo cái rổn
Anh tưởng tàu Nhật Bổn lấy đất Châu Thành
Chiều chiều chim đậu nhành chanh
Trong cơn nguy khốn lòng anh đau buồn.
Bà Nguyễn Thị Phượng, 45 tuổi (xã An Điền, huyện Thạnh Phú)
- Chiều chiều vịt lội cò bay
Ông voi bẻ mía chạy ngay về rừng
Vô rừng bứt một sợi mây
Đem về thắt dóng mẹ mày bán buôn
Bán buôn không lỗ thì lời
Đi ra cho thấy mặt trời mặt trăng.
- Má ơi con má hư rồi
Còn đâu má gả má đòi heo quay.
- Gió mùa thu mẹ ru con ngủ
Nắm canh chày thức đủ vừa năm
Gió mùa hè ai dè bạc phận
Chờ mấy con trăng này thời vận đảo điên.
- Người trồng cây cảnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.
- Người thanh nói tiếng cũng thanh
Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu.
- Thức lâu mới biết đếm dài
Ở lâu mới biết là người có nhân.
- Sông sâu sào ngắn ngôn dò
Người khôn ít nói khôn đo tấc lòng.
- Sông sâu còn có kẻ dò
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng
Đàn đâu mà gẩy tai trâu
Đạn đâu bắn sẻ gươm đâu chém ruồi
Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
- Anh đi đằng ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai, ai có nhớ mình hay không ?
- Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Con thơ tay ẳm tay bồng
Tay nào xách nước tay nào vo cơm.
Bà Nguyễn Kim Quang, 75 tuổi (xã Phú Túc, huyện Châu Thành)
- Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm.
- Đố ai con rít mấy chân
Cầu ô mấy nhịp, chợ Vinh mấy người?
- Chanh chua thì khế cũng chua
Chanh bán có mùa, khế bán tư niên.
- Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ.
- Trời mưa lâm râm, ướt dầm lá hẹ
Cảm thương nàng có mẹ không cha.
- Thuyền thinh đôi chiếc thuyền thinh
Mình rồng, đuôi phụng vẽ vinh đôi đàng
Một chiếc anh chở năm nàng
Hai chiếc anh mười nàng, xinh đà quá xinh.
- Chị kia bới tóc cánh tiên
Ghe bầu đi nói một thiên cá mòi
Không tin dở hộp ra coi
Rau răm ở dưới, cá mòi ở trên.
- Ngó lên Sở Thượng thêm buồn
Muốn dâm cội rễ, ngại đường xa xôi.
- Ghe lui khỏi bến còn dầm
Người thương đâu mất chỗ nằm còn đây.
- Ngọc sa xuống biển ngọc trầm
Anh thất ngôn lời hứa không tầm đặng em.
- Tưởng là đường vắng hát chơi
Hay đâu đường vắng có người vãng lai.
- Ruột thắt gan teo cũng bởi anh nghèo nên xa con bạn
Bực thạch kia lở rồi, chiếc thuyền cạn bơ vơ.
- Con ngoan đẹp mặt mẹ cha
Con hư đành chịu người ta chê cười.
- Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA BẾN TRE 3 DÒNG
( trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và
Hoàng Thị Bạch Liên)
Đây là hiện tượng khá đặc biệt của CD-DC Bến Tre nói riêng và CD-DC Nam bộ nói chung.
Các bài ca này vẫn đảm bảo chức năng của bài hát dân gian là chuyển tải nỗi lòng của chủ thể trữ
tình nhưng về hình thức, các bài CD-DC này gồm 3 dòng, giữa các dòng có sự hiệp vần với nhau.
- Đồng Văn Cống ở Bàu Dơi
Mời quan lớn xuống chơi
Đứa nào đốt nhà dân… chó đẻ. (Tr. 170)
- Nước chảy liu riu
Lục bình trôi líu ríu
Anh thấy em nhỏ xíu anh thương. (Tr. 173)
- Một trăm con gái thủ
Một lũ con gái chợ anh không màng
Cảm thương con gái ruộng cơ hàn nắng mưa. (Tr. 174)
- Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa
Khen ai khéo vẽ cục đá thêm tròn
Giận thì nói vậy chứ dạ còn thương em. (Tr. 176)
- Kìa vườn dừa cây cao cây thấp
Gió quặt quà cành lá xác xơ
Thương anh em vẫn đợi chờ. (Tr. 176)
- Sáng trời vạch vách trao thơ
Bây giờ mình ước tôi mơ
Như chồng gặp vợ làm ngơ sao đành. (Tr. 178)
- Treo quằn treo quại treo trại cành dương
Phụ mẫu tôi đánh tôi cái chót, tôi nhảy vót hàng rào
Biểu xa người nghĩa lòng nào tôi xa. (Tr. 179)
- Sông Bến Tre xáng múc tàu "xà lúp" chạy cũng thường
Giang tay đưa bạn lên đường
Hột châu nhỏ xuống đoạn trường anh thấy không. (Tr. 180)
- Ăn cơm cũng nghẹn uống nước cũng nghẹn
Mấy lời mình hẹn tôi đứng cửa tôi trông
Cửa thời thấy cửa người không thấy người. (Tr. 181)
- Anh ở khác tổng em ở khác làng
Ưng không thời nói bữa đầu
Làm chi cho lỡ rượu lỡ trầu anh ra. (Tr. 185)
- Ban ngày gặp em anh thương anh nhớ
Tối về anh ngủ anh mớ má anh rầy
Má kêu anh dạ mới chừng nầy mà mầy mê tâm. (Tr. 190)
- Trời càng mưa càng gió
Nhật vị huỳnh kim kiếu lỗi bạn vàng
Chốn hương thôn em ở Lộc Thuận làng anh dời chân. (Tr. 191)
- Cây thia lia lá cũng thia lia
Bậu không thương anh bậu nói tiếng nọ tiếng kia
Bậu vu oan giá họa đặng lìa nhau ra. (Tr. 192)
- Chim khôn kiếm nơi lành mà đậu
Gái khôn kiếm trai nhơn hậu mà nhờ
Em mê chi đàng điếm nay dật mai dờ hư thân. (Tr. 193)
- Dao phay kề cổ
Máu đổ không màng
Chết thì chịu chết chớ buông nàng anh không buông. (Tr. 193)
- Nước chảy bon bon
Con vượn bồng con lên non hái trái
Cảm thương nàng phận gái mồ côi. (Tr. 194)
- Đèn treo cột đáy nước chảy đèn rung
Anh thương em thảm thiết vô cùng
Cớ sao em bội bạc lạnh lùng với anh. (Tr. 195)
- Kiến bất thủ như tầm thiên lý
Anh thương em nghĩ trí cho khôn
Kẻo vợ nhà anh hay được chữ hậu hôn oán thù. (Tr. 196)
- Nước chảy re re
Con cá he xòe đuôi phượng
Anh ở bạc tình trong bụng em hết thương. (Tr. 198)
- Nước chảy xuôi
Con cá buôi lội ngược
Em có chồng rồi thương sao được mà thương. (Tr. 198)
- Nếu em còn ngại qua thề lại cho em tường
Đứa nào được Tấn quên Tần
Xuống sông sấu bắt lên rừng cọp tha. (Tr. 199)
- Giọt nước mắt rớt xuống con đò
Em lấy nắp hộp đậy liền
Đôi ta thương trộm mà khắp láng giềng đều hay. (Tr. 200)
- Cái miếu thần linh con gà gáy tiếng
Trông bậu trông đứng trông ngồi
Trông người có nghĩa bồi hồi lá gan. (Tr. 201)
- Đầu đường có một cây dúi (duối)
Cuối đường có một cây da
Làm chi tội nghiệp bỏ qua sao đành. (Tr. 201)
- Dế kêu sầu gốc bưởi
Chim uốn lưỡi nhành canh
Em có chồng rồi an phận cảm thương anh một mình. (Tr. 204)
- Nước trong không thấy cá lội
Ba bốn năm trời em lỡ hội chết chồng
Cửa nhạc môn khóa chặt chờ khách tang bồng em gá đôi. (Tr. 204)
- Đêm nằm đặt tay lên trán
Nước mắt chảy lai láng ướt bộ ván cẩm lai
Công em chờ đợi mà năm nay không thành. (Tr. 204)
- Phụ mẫu đánh tui cây roi quằn quại
Tui té đại xuống vườn huỳnh
Rủi mà tui có thác tui hỏi mình có để tang không ? (Tr. 206)
- Bước lên bàn án vỗ ván sầu riêng
Thấy anh lớn chức cao quyền
Em đây bần tiện không dám kết nguyền với anh. (Tr. 208)
- Cá rô ăn móng dợn sóng dưới đìa
Tại ba với má vặn khóa bẻ chìa
Chìa hư khóa liệt đôi ta sầu biệt ly. (Tr. 209)
- Dù ai gieo tiếng ngọc ai đọc lời vàng
Trớ trêu khúc phụng khúc hoàng
Lòng em không giống như nàng Văn quân. (Tr. 210)
- Hồi anh thương em em biểu lấy gang trời anh cũng lấy
Hết thương rồi năn nỉ cách mấy anh cũng không đi
Thôi thôi em giã từ cất bước cảnh hiểm nguy em về. (Tr. 210)
- Học đờn anh chưa có học bản
Bởi anh quá ham vui mà bao quản tiếng cười
Khi nào anh nhớ lại anh nhờ người đón em. (Tr. 210)
- Cảnh trời chiều đường chen bóng xế
Em lóng tai nghe tiếng dế thì em chắc lưỡi kêu trời
Chữ lương duyên ai gá nghĩa mà tiếng đời em mang. (Tr. 210)
- Trời cao hơn trán trăng sáng hơn đèn kèn kêu hơn quyển biển rộng hơn sông
Nghĩa nhân linh láng trán đồng
Biết ai là vợ là chồng của ai. (Tr. 211)
- Nhất nhựt bất kiến như tam ngoạt hề
Gần sông cột mới ngã kề
Tiếng xấu anh chịu em về tay ai. (Tr. 212)
- Trời mưa khổ qua đắng trời nắng khổ qua đèo
Thương em anh ký giao kèo
Thò tay điểm chỉ em đây mới thiệt con vợ nghèo của anh. (Tr. 213)
- Bóng mát che lòn ố hô rồi khuất bóng
Em vẫn biết rằng cửa đóng then cài
Em đứng trong rơi lụy mà đứng ngoài lụy rơi. (Tr. 218)
- Ngọc dù non khôn vàng chìm nơi sông lệ
Mấy lời đan thệ em phủi sạch nhau rồi
Đò đưa bến khác em còn ngồi trông ai. (Tr. 218)
- Nhứt nhựt bất kiến như tam ngoạt hề
Anh đi đâu một chút phải về
Để khuya con trăng lặn bốn bề người dưng. (Tr. 219)
- Đèn treo cột đáy nước chảy ngọn đèn xoay
Dĩa để nghiêng đổ nước sao đầy
Lòng thương bạn ngọc cha mẹ rầy cũng thương. (Tr. 219)
- Em ơi đừng ham nhà ngói đỏ lắm lói chớ vỏ có ruột không
Ưng anh đây xứng vợ lại xứng chồng
Trời nực anh quạt ngọn gió lồng anh che. (Tr. 219)
- Chiều nay tui ra sông Cái tự ái cho rồi
Sóng làm chi biệt ly quân tử
Thác cho rồi đặng chữ thủy chung. (Tr. 220)
- Tửu bất túy nhân nhân tự túy
Mình thương hay không tự ý của mình
Không phải như anh Bùi Kiệm ép tình chị Nguyệt Nga. (Tr. 225)
- Trời mưa rỉ rả ướt lá sả
Ôi thôi cha chả chàng đã xa rồi
Chồng nam vợ bắc đứng ngồi không yên. (Tr. 230)
- Vợ xa chồng cơm không ăn đêm nằm không ngủ
Chẳng như ông Quan Công thất thủ Hạ Bì
Chồng mà xa vợ biết lấy nghĩa gì cho vui. (Tr. 231)
- Em ở với anh cực khổ quá
Mai sau em thác rồi đừng mả đá làm chi
Bạc đôi trăm để lại cho ấu nhi nó nhờ. (Tr. 233)
- Vợ chồng người ta giàu, ăn món nầy món khác
Hai đứa mình nghèo ăn rau mác chấm nước cua đồng
Bởi vì chữ đa ương thảm khổ gái thương chồng phải theo. (Tr. 233)
- Người ta có phần mẹ với cha chốn dương gian còn đủ
Em vô phần cha âm phủ mẹ dương gian
Cơm bữa no bữa đói nên chi bạn lang em không nhìn. (Tr. 233)
- Vợ chồng người ta giàu ở nhà kê nhà cặp
Anh với em nghèo tạo lập cái chòi tranh
Sớm mơi canh, chiều cháo mà em cũng ở với anh trọn đời. (Tr. 234)
- Sống trên dương trần em mần cù bơ cù bất
Thác dưới ba tất đất mà chưa được tấm bảng đề
Để nước vô lạnh lẽo làm sao em về thăm anh. (Tr. 234)
- Trời mưa khổ qua đắng trời nắng khổ qua đèo
Thương em anh ký giao kèo
Thò tay điểm chỉ em mới thiệt con vợ nghèo của anh. (Tr. 234)
- Họa hổ họa bì nan họa cốt
Tri nhơn tri diện bất tri tâm
Bây giờ rõ được vàng cầm anh cũng buông. (Tr. 243)
- Con chim chi cái lông nó đỏ
Cái mỏ nó vàng
Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải buôn. (Tr. 243)
- Chùa hư ông Phật ngã
Ông Cả xả ông rầu
Chính chuyên chị bậu mà lập lầu treo chuông. (Tr. 246)
SƯU TẦM
- Mặt nhìn mặt, mây tan khói tản
Anh nhìn em, mây rản từng chòm
Này anh ôi, anh có vợ rồi, an phận, đừng có dòm tới em.
- Anh bước xuống miếng ruộng này, tam sơn tứ hải
Này cô bác ôi, để cho tôi đối đãi cô bạn tình chung
Nếu em mà đáp đặng thì anh ưng em liền.
- Anh đi ngang cửa má, anh chắp tay anh xá
Phụ mẫu nói: Thằng này phải quá, đứng lại cho tao nhìn
Em hai ơi ! Anh đứng lại mà anh chết nữa thân mình đó em.
- Cau non có bữa cũng dày
Dầu thương cho lắm hội này cũng xa
Làm chi tội nghiệp lắm cô Ba.
- Lủi thủi, lúc nhúc
Tôi xúc con cá sặc làm mồi
Anh câu lạc chỗ, đứng ngồi không yên.
- Ngó lên trời thấy mây vần vũ
Mây bao vần vũ mà mây phủ mình rồng
Cô gái don don thương dữ, chứ cô gái có chồng ít thương.
- Em nói với anh cho có nhật có nguyệt, có đèn hầu kiệt, có núi sơn lâm
Giờ em có lỗi đạo tình thâm
Hồn về chín suối, xác cầm dương gian.
- Đèn treo cột đáy, nước chảy lồng đèn xoay
Dĩa nghiêng múc nước sao đầy
Ngày mai em lại khúc sông này gặp anh.
- Nay tôi xuống ruộng, tay tôi bắt nắm mạ, miệng tôi lại liền rao
Tôi hò cho chủ ruộng, đặng tuổi thọ, phước tam điền
Hai đứa mình gá lương dơn chồng vợ chứ cô bác xóm giềng đều thương.
- Trời mưa lác đác, hột cát nhảy nằm nghiêng
Rượu bình yên, em rót đãi chị Điêu Thuyền
Kiếp này chẳng đặng, em nguyền kiếp sau.
- Tay bưng hộp thiếc, lòng tôi chí quyết, cha mẹ biểu đừng
Hai hàng nước mắt rưng rưng
Phải chi hồi trước ai đừng biết ai.
- Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa
Anh với em đi ra cũng xứng, đứng lại cũng vừa
Tại cha với mẹ kén lừa suôi gia.
- Anh ở sông bên đây, anh bắc cây cầu cao mười hai tấm ván
Em ở sông bên kia, em lập cái quán chín mươi hai từng
Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh.
- Một nhành tre đôi ba nhành trải, sáu bảy nhành gai
Anh có thương em thì anh bưng kĩ đỡ đày
Nếu không thương thì để xuống cho người ngoài họ bưng.
- Cá lia thia Tàu nằm trong chậu cúc
Quạt đuôi từ túc, cúc ngả ly bì
Em lo cho chàng lao khổ, chớ em không có lo gì cho em.
- Nhật với Tàu còn đương giao chiến
Sao anh với em không giao quyến cho gần
Để anh một nơi em một ngã, nghĩa Châu Trần chắc phải xa nhau.
- Tối rồi chuông rung, kiểng đổ
Phòng loan đâu, em chỉ chổ cho anh nằm
Để nữa đêm trời tối anh vào lầm phòng chị dâu.
- Ở trển xuống đây, không dơn tầm dơn không nợ tầm nợ
Không phải anh giàu đổi bạn sang đổi vợ, nói thiệt em qua không có người nội trợ trong gia
đình
Anh muốn làm chồng với vợ mà em có bằng tình không em ?
- Anh có vợ rồi anh còn gian giấu
Em vạch mây xanh, kêu thấu ông trời xanh
Em muốn mần chồng với vợ mà không biết vợ anh có bằng tình hay không ?
- Tảng sáng đi ngang qua cửa, thấy anh đề ba câu chữ: oan trái bất thành phu phụ
Em về ôm lòng sầu thắng dĩ thối nan
Đêm năm canh nghe con chim kêu thương, con gà gái nhớ mà chốn phòng loan có một mình.
- Trai như anh hầu văn kiến sẽ
Gái như em như bức tượng vẽ trên rồng
Anh về giở cuốn sách Minh Tâm, coi thử em có lấy chồng hay chờ anh ?
- Trai như anh phò vua cho trọn đạo
Gái như em thờ chồng cho trọn đạo người ta
Anh đừng thấy chỗ giàu sang anh bước tới mà bỏ em vào ra có một mình.
- Em vào phòng loan than thầm khóc gối
Phụng xa loan bối rối anh chung tình
Vui thì thôi, ngồi buồn khoanh tay ngọc đặng nhìn bạn xưa.
- Nữ xuất giá như tư vi phạm thủ
Nam bất cư như liệt mã vô cương
Em không coi Mạnh Lệ Quân thuở trước chờ Đông Bình Dương kết nguyền.
- Thắng quân tử thối hề quân tử
Chiếc thuyền dời lòng thục nữ đừng dời
Anh không coi Phạm Công với Cúc Hoa, kẻ dân gian, người âm phủ mà sum họp vợ chồng
đời anh thấy không ?
- Bình Đại thôn bản sở
Phú Vang Thôn, anh cho em tạm đỡ một đôi ngày
Anh có vợ chưa anh nói thiệt, để chuyện lâu ngày nó mích lòng anh.
- Sống dương trần tôi mần cù bơ cù bất
Thác đi rồi anh chôn mã đất không có đắp cái lề
Anh sẵn lòng lo mua hàn huỳnh chín chục mà có chạm mặt trăng hai đầu?
- Em vô phần vô phước
Anh chết trước, em đem chôn nhằm giọt nước chảy quanh
Em cầm quạt Tàu em quạt, ráo mồ anh em mới lấy chồng.
- Chưa có gì họ đồn thấu
Ba với má em đòi câu sấu, bớ anh chung tình
Em rút lưỡi gươm vàng ra tự vận mà thác xuống Diêm đình mới xa anh.
- Gà lạc mẹ gà kêu chíu chít
Tôi thương anh mấy năm trời mà chẳng nằm khít một bên
Em cũng nguyện cầu cha mẹ ơn trên hộ trì.
- Tiết Đinh San mắc vòng lao lý
Tiết Nhơn Quý bị giặc vây thành
Hàng các quan người ta rơi lệ, mà sao dạ anh đành bỏ em ?
- Không có ai bạc ngỡi bằng anh Tiết Đinh San
Không có ai vô gian bằng anh La Thông công tử, hại chị Đồ Lư phải tự tử chốn loan phòng
Mà Hồ Nguyệt Cô bị chàng Tiết Giao nên mất ngọc, bị lưỡi gươm đồng của Võ Tam Tư.
- Cơm sôi, lửa cháy, gạo nhảy tưng bừng
Anh thương em như lửa nọ cháy phừng
Dù cho núi lở tan rừng cũng thương.
- Tay lăng xăng mài mực, miệng khai khẩn đề thơ
Thôi quan xét lại cho em nhờ
Chớ khoan khoan hạ bút uổng tờ giấy tây.
- Trời mưa lâm râm, lác đác, mấy hạt cát nó nhảy liên miên
Rượu cẩm nguyên đây em rót đãi bạn hiền
Kiếp này không trọn ta nguyền kiếp sau.
- Phụng kỳ xa lý, đáng năm bảy tháng còn gần
Anh cách xa em như nhợ xa cần
Còn đâu lên xuống tỏ tình nhớ em.
- R?a tay cho tr?ng, ng?t ng?n rau cho t??i
Ti?n n?m quan anh chu?c l?y ti?ng c??i
Vng r?i anh khơng ti?c m anh ti?c ng??i cĩ duyn.
- M?t tr?i v?a l?n, m?t tr?ng v?a x?
Em ?i v? l?p k? thôi ch?ng
?? n? trang ??ng tr?, ?? ki?n lo?ng vo?ng coi ch?i.
NHỮNG BÀI CA DAO- DÂN CA SỬ DỤNG HÌNH ẢNH CÂY DỪA
(trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và
Hoàng Thị Bạch Liên)
- Bến Tre ruộng đất phì nhiêu
Nơi đây giàu lúa lại nhiều dừa khô. (Tr. 164)
- Bến Tre nước ngọt lắm dừa
Ruộng vườn màu mỡ biển thừa cá tôm…
- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười. (Tr. 165)
- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông mía trắng nhớ quê Mỏ Cày. (Tr. 165)
- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông lúa đẹp thương về Hậu Giang. (Tr. 165)
- Quê anh ba dải cù lao
Có dừa ăn trái có cau ăn trầu. (Tr. 165)
- Ai về xứ Bến quê tôi
Núi đồi không có nhiều xôi lắm dừa. (Tr. 165)
- Ai về chợ Mỹ qua sông
Thấy vườn dừa rộng ruộng đồng tiếp giăng. (Tr. 165)
- Ai về thăm xứ Bến Tre
Ghé qua Cái Cối thăm hàng dừa xanh. (Tr. 166)
- Ai về đất Trúc xa xăm
Viếng hồ Chung Thủy sau thăm xứ dừa. (Tr. 168)
- Bến Tre dừa ngọt sông dài
Khiến chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh
Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo
Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan
Anh đây muốn hỏi cùng nàng
Là trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng ? (Tr. 168-169)
- Bến Tre ba đảo dừa xanh
Quê hương Đồng Khởi mát lành phù sa. (Tr. 170)
- Thương thay thân phận cây dừa
Non thì khoét mắt già cưa lấy đầu. (Tr. 171)
- Ông tiên ngồi dựa gốc dừa
Dừa khô rớt xuống bể đầu ông tiên. (Tr. 171)
- Dừa Bến Tre ba đồng một trái
Chuối Bến Tre một nải đồng ba
Ai biểu anh đến đây rồi lại đi ra
Để em thương, em nhớ, em chờ, em đợi, nước mắt sa vắn dài.
(Tr. 172)
- Giả ơn ai có cây dừa
Cho tôi nghỉ mát đợi chờ người thương. (Tr. 172)
- Đầu làng có một cây da
Ở giữa cây quéo ngã ba cây dừa
Dù anh đi sớm về trưa
Thì anh nghỉ mát bóng dừa nhà em. (Tr. 172)
- Mài dừa đạp bã cho nhanh
Nấu dầu mà chảy tóc anh tóc nàng. (Tr. 172)
- Mài dừa dưới ánh trăng vàng
Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh. (Tr. 173)
- Còn duyên nón cụ quai tơ
Hết duyên nón lá quai dừa cũng không. (Tr. 175)
- Trồng dừa ra đọt chặt tàu
Sợ em đổi dạ tham giàu bỏ anh. (Tr. 176)
- Kìa vườn dừa cây cao cây thấp
Gió quặt quà cành lá xác xơ
Thương anh em vẫn đợi chờ. (Tr. 176)
- Muốn trong bậu uống nước dừa
Muốn nên cơ nghiệp phải chừa lang vân. (Tr.240)
- Dừa tơ bẹ dún tốt tàng
Giảo ngôn có chỗ điếm đàng có nơi. (Tr. 241)
- Thấy dừa thì nhớ Bến Tre
Thấy bông lúa đẹp thương về Cần Thơ
Miền Nam mong nhớ Bác Hồ
Dừa Bến Tre ngọt nước lúa Cần Thơ trĩu vàng. (Tr. 250)
SƯU TẦM
- Ăn dừa ngồi gốc cây dừa
Cho em ngồi với cho vừa một đôi.
- Dừa xanh trên bến hai hàng
Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu.
NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA DÙNG HÌNH ẢNH CÂY BẦN
(trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và
Hoàng Thị Bạch Liên)
- ...Mắm bần ven đất phù sa
Bà Hiền Tân Thủy hằng hà cá tôm...(Tr. 164)
- Mỹ An bần chát mà chua
Chẳng hay người ấy có chua như bần. (Tr. 173)
- Cây bần gie con đóm đậu một mình
Dẫu anh giàu cho lắm bạc tình em cũng không. (Tr. 184)
- Bần gie đóm đậu kia kìa
Đôi ta còn nhỏ đừng lìa mới hay. (Tr. 186)
- Bướm vàng đậu ngọn cây bần
Tui với mình lân cận chẳng cần ông mai. (Tr. 188)
- Bần che bóng mát cá thác lác quẫy đục ngầu
Anh hỏi em đã có nơi nào hay chưa. (Tr. 192)
- Cây bần soi bóng ghe nghèo
Qua sông gặp gió em chèo dùm anh. (Tr. 192)
- Bần gie đóm đậu sáng trời
Lỡ duyên tại bậu trách trời sao đang. (Tr. 193)
- Các thứ hoa anh chỉ chuộng hoa bần
Giàu nghèo anh không chuộng chỉ chuộng gần mà thôi. (Tr. 195)
- Bần gie đóm đậu chòm nhom
Hai đứa mình thương lén nên lo toan nhiều bề. (Tr. 196)
- Một ngày xuống bến ba lần
Ghe anh không thấy thấy bần xơ rơ. (Tr. 197)
- Trèo lên chót vót cây bần
Vái anh đi nói vợ cho sóng thần nhận ghe. (Tr. 198)
- Tàu Nam Vang chạy qua Vàm Tấn
Chiếc thuyền tui núp bóng ngọn bần
Đôi ta chút nữa thì gần
Cũng vì hai chữ phú bần mà xa nhau. (Tr. 207)
- Quất ông tơ đánh trót nhảy tót lên ngọn bần
Biểu xe lối xóm cho gần ổng không xe. (Tr. 212)
- Mồ cha ai đốn cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm. (Tr. 243)
- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu. (Tr. 245)
SƯU TẦM:
- Cây bần ơi hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm.
- Nhạn lạc bầy kêu thương biển bắc
Đêm năm canh nhớ anh quặn thắt gan vàng
Cây bần sầu, em vịn lỡ anh ôi
Em nghèo than thiệt anh kiếm đôi đừng chờ.
- Bần gie đóm đậu sáng ngời
Anh không thương em hồi khổ mà mấy lời em than.
- Biển đông có cặp sóng thần
Nổi lên trận gió bốn phía bần đều tiêu.
NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA VỀ LOẠI HÌNH HÒ, HÁT
(trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và
Hoàng Thị Bạch Liên)
- Chiều nay loan phụng gặp bầy
Trước hò nhân nghĩa sau gầy lương duyên. (Tr. 254)
- Mở miệng ra cho quan yêu dân chuộng
Mở miệng ra cho đặng chữ thái bình
Tới đây hò hát kiếm người tình hò chơi. (Tr. 254)
- Khăn vuông bốn chéo cột chùm
Miệng mời người nghĩa hò dùm ít câu. (Tr. 254)
- Nói ra cô bác đừng cười
Để cho tui bắt bộ một người áo đen
Áo đen tra nút cũng đen
Tui hò với người lạ chứ người quen không hò. (Tr. 254)
- Tiếng đồn em bậu hò hay
Bữa nay gặp mặt nắm tay giao hò. (Tr. 255)
- Tiếng đồn cô Bảy hò lanh
Ngày nay mới biết mặt mình xanh như chàm. (Tr. 255)
- Tới đây rượu thịt bánh bò
Ai ca ca với ai hò hò chơi. (Tr. 255)
- Ghe bầu dọn dẹp kéo neo
Mấy chú bạn chèo bắt cái hò khoan. (Tr. 255)
- Tới đây chỉ biết hò môi
Hò cho đủ cặp đủ đôi dắt về. (Tr. 255)
- Áo đen vá lại quàng đen
Hò chơi người lạ người quen đã nhàm. (Tr. 255)
- Hò chơi cho trọn buổi chiều
Keo sơn quấn chặt sợi chỉ điều xe xăn. (Tr. 255)
- Cách sông cách suối rồi lại cách đò
Chớ cách vài ba miếng ruộng nghe tiếng bậu hò anh tới đây.
(Tr. 255)
- Hò chơi bỏ ruộng bỏ đồng
Ai về đừng nói lại kẻo chồng tôi ghen. (Tr. 255)
- Ban ngày đi làm hò hát
Tối nằm sầu vạt lá gan vàng
Đặt lưng xuống chiếu dạ mơ màng nhớ em. (Tr. 255)
- Ở trển xuống được giả như con chim sút lồng con cá nằm trong chậu
Chị em ơi cho tui đùm đậu một hai ngày
Hò chơi một lát, hò hoài tui thua. (Tr. 255)
- Tui tới đây tứ cố vô luân lý
Không biết bà con chị em mưu trí thế nào
Xin mở lòng rộng rãi cho tui vào hò chơi. (Tr. 255)
- Xứ đông đảo lòng đừng yêu mến
Vì tui ham vui tui mới tới ruộng này
Trước tui hò chơi đôi câu giải muộn
Vậy chị em mình hòa cùng tui hò nghe. (Tr. 261)
- Gió nam non thổi lòn hang chuột
Em nghe anh hò đứt ruột đứt gan. (Tr. 261)
- Câu hò em đựng một thạp da bò
Em đi em quên đậy nắp nó bò lưu linh. (Tr. 261)
- Ở xa tôi nghe nói bậu hò
Cách sông tôi cũng lội cách đò tôi cũng sang…(Tr. 225)
- Em ôm bó mạ xuống đồng
Miệng ca tay cấy mà lòng nhớ ai
Mạ xanh mơn mởn nên tình
Bao nhiêu lá mạ thương mình bấy nhiêu. (Tr. 263)
- Tui bước xuống miếng ruộng
Trước tui chào ông chủ ruộng
Sau chào cô với bác
Sau chào luôn người hò. (Tr. 261)
- Đường xa diệu vợi
Xin hỏi em có chồng chưa thuật lại cho anh tường
Để bước vô hò người kêu chồng người kêu vợ
Vậy lỗi đạo can thường của em. (Tr. 258)
SƯU TẦM
- Tới đây không hát thì hò
Không phải con cò ngóng cổ mà nghe.
- Buồm ra khỏi vịnh buồm bê
Hò cho trai nam nhân phải bỏ vợ, gái hiền thê phải thôi chồng.
- Nay tui xuống ruộng, tay tui bắt nắm mạ, miệng tui lại liền rao
Tui hò cho chủ ruộng, đặng tuổi thọ phước tam điền
Hai đứa mình gá lương dơn chồng vợ chứ cô bác xóm giềng đều thương.
- Câu hò đựng thạp da bò
Đem ra hò cuộc nó bò sạch trơn.
- Hò thì hò truyện hò thơ
Ai mà hò bậy tui quýnh mẻ ơ lên đầu
Xách bù lon tui đứng đầu cầu
Đứa nào hò bậy quýnh cái đầu bằng cái nơm.
- Mệ kêu bớ bảy đưa đò
Lên doi xuống vịnh, giọng hò bảy lanh.
- Sông sâu sóng bủa láng cò
Thương em vì bởi câu hò có duyên.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH
VỀ QUÊ HƯƠNG BẾN TRE
Sông nước Bến Tre
Dừa Bến Tre
Cầu Rạch Miễu (nối liền Tiền Giang- Bến Tre)
Trái cây Bến Tre
Cống đập Ba Lai
Vườn chim Vàm Hồ (Ba Tri)
Ruộng lúa
Vườn dừa
Cây bần
Cây chà là
Cây dừa nước
Cầu khỉ
Đường quê
Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu (Ba Tri)
Đền thờ Bà Nguyễn Thị Định (Giồng Trôm)
Đình Phú Lễ (Ba Tri)
Lăng Cá Ông (Bình Đại)
Nhà truyền thống Đồng Khởi (Định Thủy - Mỏ Cày)
Tượng đài Đồng Khởi (Thị xã Bến Tre)
Thị xã Bến Tre ngày nay
Hoạt động tổ chức lớp truyền dạy dân ca ở Bến Tre
??ng - một phương tiện đánh bắt cá
Đội hát sắc bùa với nghi thức Mở ngõ
Từ trái sang phải : Nghệ nhân Nguyễn Văn Dũng (69 tuổi), Bùi Văn Hứa (74 tuổi), Thái Văn
Cấu (78 tuổi), Nguyễn Thanh Phong (49 tuổi), Nguyễn Văn Võ (82 tuổi), Bùi Văn Hứa (80 tuổi) -
Ảnh chụp năm 1998
Nghi thức bài Xốc quách trước bàn thờ gia tiên
Hò cấy trên đồng ruộng
Vó- một phương tiện đánh bắt cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN034.pdf