Luận văn Khảo sát ca dao - dân ca Bến Tre

MS: LVVH-VHVN034 SỐ TRANG: 140 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2009 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài, mục đích nghiên cứu 2. Lịch sử vấn đề 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Đóng góp của luận văn 6. Kết cấu của luận văn CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BẾN TRE VÀ CA DAO - DÂN CA BẾN TRE 1.1. Giới thiệu chung về Bến Tre 1.1.1. Tên gọi - hành chính 1.1.2. Điều kiện tự nhiên 1.1.3. Lịch sử 1.1.4. Con người 1.1.5. Tín ngưỡng 1.1.6. Văn học 1.2. Giới thiệu chung về ca dao - dân ca Bến Tre 1.2.1. Các hình thức diễn xướng của CD-DC 1.2.2. Tình hình tư liệu CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CA DAO - DÂN CA BẾN TRE 2.1. CD-DC phản ánh sinh động cảnh quan thiên nhiên 2.1.1. Địa hình 2.1.2. Cây cối 2.1.3. Loài vật 2.1.4. Đặc sản 2.2. CD-DC phản ánh đậm nét chân dung con người Bến Tre 2.2.1. Trong lao động sản xuất 2.2.2. Trong đời sống tình cảm 2.2.3. Trong chiến đấu 2.3. CD-DC Bến Tre phản ánh chân thật những sự kiện lịch sử, sự kiện trong đời sống hằng ngày CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CA DAO - DÂN CA BẾN TRE 3.1. Thể thơ 3.1.1. Thể thơ truyền thống và các biến thể 3.1.2. Thể hỗn hợp 3.1.3. Thể ba dòng 3.2. Ngôn ngữ 3.2.1. Ngôn ngữ đời thường 3.2.2. Ngôn ngữ giàu chất xông xáo, phóng túng 3.3. Kết cấu KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC PHẦN SƯU TẦM CA DAO- DÂN CA BẾN TRE NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA BẾN TRE 3 DÒNG NHỮNG BÀI CA DAO- DÂN CA SỬ DỤNG HÌNH ẢNH CÂY DỪA NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA DÙNG HÌNH ẢNH CÂY BẦN NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA VỀ LOẠI HÌNH HÒ, HÁT [/B]

pdf140 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2096 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát ca dao - dân ca Bến Tre, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thò tay ngoắc nguyệt mà nguyệt lui xế chiều. - Trai như anh hầu văn kiến sẻ Gái như em như bức tượng vẽ trên rồng Anh về giở cuốn sách Minh Tâm, coi thử em có lấy chồng hay chờ anh ? - Trai như anh phò vua cho trọn đạo Gái như em thờ chồng cho trọn đạo người ta Anh đừng thấy chỗ giàu sang anh bước tới mà bỏ em vào ra có một mình. - Leo cây huệ, thốn vịn cây đào Bụng anh có muốn cây nào chiết ra ? - Em vào phòng loan than thầm khóc gối Phụng xa loan bối rối anh chung tình Vui thì thôi, ngồi buồn khoanh tay ngọc đặng nhìn bạn xưa. - Cáo Tô Văn vốn thiệt rồng xanh Bay ngang cửa biển phá thành hiền vương Tiết Nhơn Quý giục ngựa buông cương Bay qua cửa biển, cứu ông vua Đường Thế Dân. - Võ Đông Sơn hồi thuở trước, có lời giao ước với Bạch Thu Hà Kẻ chân trời, người góc biển, sum họp một nhà anh thấy không ? - Nữ xuất giá như tư vi phạm thủ Nam bất cư như liệt mã vô cương Em không coi Mạnh Lệ Quân thuở trước chờ Đông Bình Dương kết nguyền. - Thắng quân tử thối hề quân tử Chiếc thuyền dời lòng thục nữ đừng dời Anh không coi Phạm Công với Cúc Hoa, kẻ dân gian, người âm phủ mà sum họp vợ chồng đời anh thấy không ? - Qua than với em phụ mẫu quá già yếu, đứa con qua còn nhỏ xíu khổ cực nhiều bề Quần áo rách không ai vá, vải mua về không ai may -Vải mua về, anh Mười ơi, anh để đó cho em may Quần áo rách để cho em vá nhưng phụ mẫu hay anh tính thế nào ? - Bình Đại thôn bản sở Phú Vang Thôn, anh cho em tạm đỡ một đôi ngày Anh có vợ chưa anh nói thiệt, để chuyện lâu ngày nó mích lòng anh. - Trèo lên chót vót cây khô Ngó về xóm Giồng Trên mười sáu cô chưa chồng Tư Bối lỡ hội mà xong Hai Thảo không chồng báo ngáo bơ ngơ Năm Hạ thiệt đã còn thơ Cha mẹ sầm sờ ai nói mần chi Tư Nhựt nhiều kẻ yêu gì Trà ngon rượu ngọt thiếu gì vật ăn Tư Điều chồng nói lăng xăng Ba má không gả mấy trăng khóc ròng Hai Kỉnh là gái có chồng Trách ông tơ bà nguyệt đem lòng không xuôi Hai Gấm trong dạ sụt sùi Đêm nằm nước mắt lau chùi không khô Hai Ngoan là gái bự cồ Chồng con không có ra vô thêm phiền Năm Chếnh là gái thuyền quyên Đêm nằm chiếc bóng sầu riêng một mình Trách ai lòng sắt dạ đinh Mà tui phải chịu linh đinh múi trầu Nhắc tới Hai Chiến thật rầu Mồ côi luống chịu thâm sầu mồ côi Cám thương Sáu Mão vô hồi Chồng con lỡ dỡ giận thôi ra về Hai Gấm thiệt đã nhiều bề Chồng con không có ra về sao an Tám Vàng là gái đông sàn Lỡ duyên chịu lỡ, khép mình mùa đông Chín Lê cũng chưa có chồng Đêm nằm nước mắt ròng ròng chứa chan Tư Phấn quần áo lang thang Cha mẹ nghèo nàn ai thấy cũng thương Chín Biểu xập xệ lẽ thường Đi ra không áo đoạn trường hơn ai. Bà Lê Thị Mươi, 70 tuổi (ấp 2, Vang Quới Đông, Bình Đại) - Chị em đông có chồng bên Tống Tay cầm dùi trống, tay khải đờn Liêu Lòng dặn lòng ai dỗ dừng xiêu Giả như Kim Trọng với chị Thúy Kiều thuở xưa. - Thương hỡi thương gươm trường không sợ Giáo đống hai hàng phải duyên nợ em cũng vô. - Phụ mẫu tôi đánh tôi bằng roi tre nhặt mắt, nhịp cái cắt, lại thắt cái vòng Anh làm trai quý tử mà sao để gái lòng trinh chịu đòn ? - Thân tôi như cây cúc mọc dựa bờ rào Khổ lao mà lao với khổ không biết chỗ nào náu nương. - Sống dương trần tôi mần cù bơ cù bất Thác đi rồi anh chôn mã đất không có đắp cái lề Anh sẵn lòng lo mua hàn huỳnh chín chục mà có chạm mặt trăng hai đầu? - Hồi thuở xuân xanh, sao anh không đáp nghĩa hoàn tình Bây giờ bạc không cai, vào ra nơi tửu sắc khó nổi nhìn lắm bớ anh. - Em vô phần vô phước Anh chết trước, em đem chôn nhằm giọt nước chảy quanh Em cầm quạt Tàu em quạt, ráo mồ anh em mới lấy chồng. - Bần gie đóm đậu sáng ngời Anh không thương em hồi khổ mà mấy lời em than. - Chưa có gì họ đồn thấu Ba với má em đòi câu sấu, bớ anh chung tình Em rút lưỡi gươm vàng ra tự vận mà thác xuống Diêm đình mới xa anh. - Gà lạc mẹ gà kêu chíu chít Tôi thương anh mấy năm trời mà chẳng nằm khít một bên Em cũng nguyện cầu cha mẹ ơn trên hộ trì. - Hò thì hò truyện, hò thơ Ai mà hò bậy, tui quýnh mẻ ơ lên đầu Xách bù lon tui đứng đầu cầu Đứa nào hò bậy, quýnh cái đầu bằng cái nôm. - Tiết Đinh San mắc vòng lao lý Tiết Nhơn Quý bị giặc vây thành Hàng các quan người ta rơi lệ, mà sao dạ anh đành bỏ em ? - Không có ai bạc ngỡi bằng anh Tiết Đinh San Không có ai vô gian bằng anh La Thông công tử, hại chị Đồ Lư phải tự tử chốn loan phòng Mà Hồ Nguyệt Cô bị chàng Tiết Giao nên mất ngọc, bị lưỡi gươm đồng của Võ Tam Tư. Bà Trần Thị Huyền, 50 tuổi (ấp 2, xã Vang Quới Đông, Bình Đại) - Phá cho bứt lộ thành mương Phá cho cầu sập hết đường Tây đi. - Giặc Tây đánh đến Cần Giờ Biểu đừng thương nhớ đợi chờ uổng công. - Gái Mỏ Cày một lòng chung thủy Trai Mỏ Cày đánh Mỹ tan thây. - Anh chê em nhỏ thó mắc rầu Chứ con thằn lằn bao lớn mà ôm cột đình sát vo ? - Tiếng đồn cha mẹ anh hiền Cắn hột cơm không bể, cắn đồng tiền bể đôi. - Tiếng đồn cha mẹ anh giàu Sao anh ăn mặc như tàu chuối te. - Ngó lên thấy mặt thì thương Ngó xuống cái bụng ễnh ương phát rầu. - Sao anh lại nói rằng rầu Nuôi cho nó lớn têm trầu anh ăn. - Qua đình ngả nón trông đình Hạc chầu thần đủ cặp, sao hai đứa mình lẻ đôi. - Ăn dừa ngồi gốc cây dừa Cho em ngồi với cho vừa một đôi. - Dừa xanh trên bến hai hàng Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu. - Cây bần ơi hỡi cây bần Lá xanh bông trắng lại gần không thơm. - Cơm sôi, lửa cháy, gạo nhảy tưng bừng Anh thương em như lửa nọ cháy phừng Dù cho núi lở tan rừng cũng thương. - Phải chi em lấy chồng xa anh đà không giận Chớ em lấy chồng gần như lửa cận mái hiên. - Anh về cưới vợ cho xong Em như con tép lộn rong khó tìm. Bà Nguyễn Thị Phán, 74 tuổi (xã Thanh Tân Tây, Mỏ Cày) - Bước lên cầu, cầu trơn như mỡ Bước xuống đá, đá lạnh tận xương Cả tiếng kêu người nghĩa lại đi đường Lương dơn đây sao rồi không gá mà kiếm đường đi đâu ? - Bên tao nấu cháo đầu heo Bên bây nấu cháo đầu mèo chết trôi - Bên tao năm đứa mà vui Bên bây sáu đứa, đứa đui, đứa cùi - Bên tao uống nước bằng tô Bên bây uống nước bằng mo súc sình - Bên tao đương bội nhốt gà Bên bây đương bội nhốt bà nhốt con. - Tay ôm mền ấm, tay nắm gối vàng cẳng khoắc mền lang, tay chàng cổ bậu Miệng vái cùng trời đừng lậu tiếng ra. - Nhất điện nhì điện (?) cám thương lỗ miệng em cười Hàm răng em khít rịt ít người như em. - Tay lăng xăng mài mực, miệng khai khẩn đề thơ Thôi quan xét lại cho em nhờ Chớ khoan khoan hạ bút uổng tờ giấy tây. - Trầu lên nửa nọc trầu vàng Thương cô áo chẹt vá quàng hai tay. - Ngọn cỏ phất phơ, ngọn cờ phơ phất Nồi đồng sôi, nồi đất cũng sôi Anh với em duyên nợ hết rồi Kiếm nơi chỗ khác đứng ngồi cho yên. - Ngó lên lầu, lầu nào cao bằng lầu Cao Lãnh Gái nào bảnh sao bằng gái Sóc Trăng Bước lên xe lửa, đầu đội khăn rằn Nói chơi thả cửa anh nào cũng mê. - Ngó lên Châu Đốc, Vàm Nao Thấy buồm em chạy như dao cắt lòng. - Nhất nhật phu thê bá vạn tòng Chị em người ta có đôi ra rả, sao em ôm lòng chờ anh ? - Ba phen lên ngựa mà về Dừng cương đứng lại xin đề câu thơ Câu thơ ba bốn câu thơ Câu đợi, câu chờ, câu nhớ câu thương. - Sáng mai em xách dĩa mua tương Thấy anh trong trường cầm viết ngó ra Anh mua cùng tờ giấy gởi về Gởi thời, gởi trách, gởi khăn Gởi chi tờ giấy mà hai mươi lăm đồng tiền Phải chi anh có tiền riêng Anh mua áo gấm khăn điều cho em. - Nhền nhện sa xuống nước nhền nhện nổi phình Trước tôi kiếu huynh kiếu đệ mà kiếu bạn chung tình tui lui. - Anh về sao đặng mà về Dây giăng bốn phía tứ bề bắt anh - Bắt anh thời phải nuôi anh Cơm ăn ba bữa, rượu ấp xanh cho thường. - Nín nín rồi ngủ đi con, bà ru con ngủ Cái ngủ mày ngủ cho say Mẹ mày vất vả chân tay tối ngày Nín nín rồi ngủ đi con, bà ru con ngủ. - Cái ngủ mày ngủ cho lâu Mẹ mày đi cấy ruộng sâu chưa về. - Sáng mai anh đi ngang nhà nàng Anh thấy nàng ngồi ghế tràng kỉ Ăn bánh bao chỉ, mũi chảy lòng thòng Về cậy mai dong đến nói, cưới dòng ở dơ - Bấy lâu em mũi dãi tèm hem Bây giờ em lớn anh thèm chết cha. Chị Lê Thị Bé Sáu (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời Hồi tạo thiên lập địa ông trời ai sanh? - Em về hỏi lại mẹ cha Hồi tạo thiên lập địa có tụi mình đâu em - Sao trên trời mấy cái ? Nhái ngoài ruộng mấy con ? Đất vuông mấy mẫu, mấy sào ? Anh nào đáp được, má đào em xin dâng. - Sao trên trời hằng hà sa số Nhái ngoài ruộng năm bố bảy bao Đất vuông trăm mẫu trăm sào Vậy là anh đối được, má đào em đưa đây! - Gió đẩy gió đưa cho vừa lòng bạn Sông Sài Gòn chỗ cạn chỗ sâu. - Rượu nằm trong nhạo, rượu lại chờ nem Em nằm trong phòng vắng, trông anh bước vào. - Anh về mai mốt anh qua Em đừng bịn rịn, má la má rầy. - Má ơi đừng đánh con đau Để con bắt ốc, hái rau má nhờ Má ơi đừng đánh con khờ Để con hát bội, múa cờ má coi. Ông Trần Thuận (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Cô kia xách nón đi đâu ? Phận tôi là gái mần dâu mới về Đi về dốt nát chồng chê Trở về mà học a ê với người. - Hỡi cô gặt lúa trên đồng Cho anh gặt với tụi mình vần công - Hỡi anh cuốc đất trên đồng Gắng công em gặt một mình cũng xong - Giúp em anh giúp thật lòng Cho mau hết lúa không hề tiếc công - Giúp em anh mới ươn trồng Cà dưa chết héo, anh trồng uổng công. Ba? ?inh Thi? Minh Ti?n, 52 tuơ?i ( ?p Tn ???c A, xa? Tn Bi?nh, Mo? Ca?y) - Chữ rằng: "thiên võng khôi khôi Sơ chi bất lậu" lưới trời bủa giăng Xa xôi chưa kịp nói năng Xin anh đừng có phũ phàng vải bô. - Thân em như rau muống dưới hồ Nay chìm, mai nổi, biết ngày mô cho thành ? - Dốc lòng trồng cửu lý hương Ba năm thay lá, người thương già đầu. - Sông ngân chưa bắt nhịp cầu Phận em là gái biết sầu mấy nơi ? - Thương cha thương mẹ có khi Thương em kịp thuở kịp thì xuân xanh. - Bữa ăn cá cá cùng anh Cũng không mát ruột bằng anh với nàng. - Cha đời con gái mười ba Đêm nằm với mẹ khóc la đòi chồng Mẹ giận mẹ phát ngang hông Đồ con "chết chủ" đòi chồng thâu đêm. - Công cha ba năm tình thâm lai láng Nghĩa mẹ đêm dài chín tháng cưu mang Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn Biết lấy chi đền nghĩa khó khăn Hai đứa mình lên non lấy đá xây lăng phụng thờ. - Tiếng anh ăn học cũng thông Về đây em hỏi bánh bò bông bột gì ? - Bánh bò bông anh biết làm bột với mì Đủ cân, đủ lượng nó quỳ ra tay. - Dẫu mà không lấy được em Anh về đóng cửa, cài rèm đi tu - Tu đâu cho em tu cùng May ra thành Phật thờ chung một chùa. - Chim khôn mắc phải lưới hồng Hễ ai gỡ được đền công lạng vàng - Đền vàng anh chẳng lấy vàng Hễ anh gỡ được thì nàng lấy anh. - Bồng con đi dạo vườn dưa Dưa đà có trái, chị chưa có chồng. - Cá về chợ Vịnh hết mong Em về Đồng Tháp, bỏ chồng cho ai ? - Đêm nằm ôm gối thở than Gối ơi là gối, bạn lang xa r?i. Bà Nguyễn Thị Cẩm ( ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Tiếng anh ăn học thì thông Về đây em hỏi khăn bàn lông mấy đường? - Khăn bàng lông anh đã xài thường Bây giờ nó cũ mấy đường anh quên. - Tiếng anh ăn học xứ xa Về đây em hỏi chợ Băng Tra mấy người? - Em về em đếm tóc em Tóc em mấy sợi chợ Băng Tra mấy người ? - Tiếng anh ăn học thành tài Về đây em hỏi cây xoài mấy bông? - Em về đếm cá dưới sông Để anh ở lại đếm bông cây xoài. - Trời mưa ướt lá trầu lương Ướt mình mình chịu, ướt người thương đau lòng. Bà Huỳnh Thị Tuyết, 51 tuổi (ấp Tân Thuận, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Ngó ra ngoài biển mịt mù Thấy tàu ông lớn chở tù về tây. - Khế với sung, khế chua sung chát Mật với gừng, mật ngọt gừng cay. - Trách trời sao vội mưa giông Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh. - Chú kia nhổ mạ bên cồn Nước nôi không có miệng mồm tèm lem. - Con cò nó mổ con lươn Bớ chị đi đường muốn tía tôi không. Tía tôi lịch sự quá chừng Cái lưng mốc thít cái đầu chôm bơm. - Chẻ tre lựa lóng đươn sàn Chờ đôi năm nửa cho nàng lớn khôn. - Khoan khoan bớ chị hái trầu Khăn chéo đội đầu lắt lẻo ngọn thang. - Ba năm tang chế mãn rồi Đầu dơ em gội chuỗi vòng đeo vô. - Tàu lui sáo thổi vang đầy Anh xa em vì bởi quan thầy đổi đi. - Mười giờ tàu lại Bến Thành Xúp - lê vội thổi bộ hành lao xao. - Ra về thấy cảnh thêm thương Nhành mai ủ dột vách tường nhện giăng. - Ngọc trầm thủy thượng anh ơi Cầm đũa lên mời chúng bạn hồi hương. - Củi đậu nấu đậu ra dầu Cưới em không đặng cạo đầu đi tu. - Chẵn chình để vậy lưu ly(?) Chình ra tỏa rạng khác gì ngọc châu. Ông Nguyễn Văn Đức, 68 tuổi (ấp Tân Đức, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Nước giữa sông một dòng biếng chảy Tôi ngồi đợi mãi cho đến trăng lặn sao mờ Làng tôi sớm nắng chiều mưa Chớ ai đành theo giặc để dày bừa nước non. - Giặc bắt anh đi giữa mùa cấy hái Cày bừa bỏ lại cỏ lúa chưa mần Căm thù quân giặc bất nhân Làm cho gia đình ly tán chồng con chia lìa. - Dòng sông nước chảy lờ đờ Con thuyền lơ lững như chờ đợi ai. Chị Nguyễn Thị Kim Loan, 36 tuổi ( ấp Tân Mỹ, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Ngó lên trời, anh thấy sao nguyệt bạch Anh ngó xuống lòng lạch, anh thấy con cá chạch đỏ đuôi Nước chảy xuôi, anh thấy con cá buôi lội ngược Nước chảy ngược, anh thấy con cá nược lội theo Này em ơi, anh than bổn phận anh nghèo Vợ con chưa có cũng như bọt bèo trôi sông. - Nhà em đây nhà anh đó Cách đây, cách đó chẳng cách bao xa Tại mẹ với cha phân đà không đặng Đêm nằm thổn thức bốn bức châu rơi Bấy lâu anh mang tiếng chịu lời Bây giờ xa bạn, trời nào biểu xa. - Hai đứa mình thương nhau qua Sao ba vặn khóa, má lại bẻ chìa Chìa hư rồi ống khóa liệt Hai đứa mình từ biệt mấy năm. - Khăn rằn một sọc thì khăn rằn Tây Tôi thấy mình ốm yếu mình dây theo thương đùa - Nước trong tôi múc lấy một vùa Tôi thương người cho trọn một mùa tháng giêng. - Em thấy anh hay chữ, lại đây em hỏi thử đôi lời Cọng cỏ chi mà không lá, con cá gì không xương ? - Em đố chi câu chữ bất bình Cọng cỏ măng không lá, con cá họa hình không xương. - Tiết Nhơn Quý nằm trên trại gỗ Xuất tướng tinh bạch hổ rõ ràng Chớ anh đăng bảng khoe tài Chớ em vô mà gỡ bảng hai ngày với anh. - Trai nào bảnh bằng trai thị trấn (Mỏ Cày) Đầu thì hớt chải tóc tém bảy ba Mặc pijama khăn bàn choàng cổ Thấy em gái Giồng Keo ngồ ngộ muốn cùng ai thổ lộ đôi lời Cấy cày cực lắm em ơi Hãy theo anh về vườn ăn trái cuộc đời ấm no. - Gái Giồng Keo tuy quê mùa dân dã Tóc dài bỏ xõa ái vải bà ba Nắng táp mưa sa mà mịn da dài tóc Không đẹp bằng ai nhưng vừa vóc Tuy quê quít nhưng không thích trai vườn Trai mà dở dở ương ương Ngồi không hái trái hết đường tương lai. Bà Đỗ Thị Đá, 63 tuổi (ấp Hội Thành, xã Đa Phước Hội, Mỏ Cày) - Anh đi bỏ mõ bỏ chuông Bỏ ghè tương lạc, bỏ buồng chuối non. - Tiếng đồn em ăn học nhà trường Cho anh xin hỏi cỏ trong vườn mấy cây ? - Anh về đổ bộ lư hương Đếm tro mấy hột, cỏ trong vườn mấy cây. - Thấy em ăn học Mỏ Cày Cho anh hỏi thử cây xoài mấy bông ? - Anh về đếm cá dưới sông Để em ở lại đếm bông cây xoài. - Ngó lên đám mạ năm gò Thấy em còn nhỏ giữ bò anh thương - Thò tay ngắt ngọn trầu lương Bò em em giữ mà anh thương nỗi gì ? - Anh thương vì bởi gánh ghi Bạc lộn với chì đôi cũng xứng đôi - Em còn nhỏ lắm anh ơi Em chưa tính chuyện lứa đôi vợ chồng. - Bước đi ba bước lại ngừng Tuổi em còn nhỏ chưa từng làm dâu Làm dâu khó lắm anh ơi Vui chẳng dám cười cực chẳng dám than - Bây giờ có cực em đừng than Hồi đó anh biểu em khoan lấy chồng. - Mía lau chặt lóng bỏ tàu Anh qua cưới bậu bậu đòi bao nhiêu ? - Bậu đòi chín chục một trăm Quần áo một mớ vàng vòng một đôi. - Đòi vàng anh cũng đi vàng Anh cưới đặng nàng về đặng coi trâu. - Coi trâu để má anh coi Phận nàng là gái coi trong coi ngoài. - Ngày xưa ông địa ăn chè Ngày nay ông địa ăn xe nồi đồng. - Gái xưa trông lớn lấy chồng Gái nay trông lớn vào đoàn nữ thanh - Gái xưa đi chợ ăn hàng Gái nay đi chợ bán toàn đơn thơ. - Già xưa đi chợ mua trầu Già nay đi chợ nắm đầu Mỹ Ngô. - Trăng sáng lộ trắng như ngà Thấy quân Mỹ Diệm như gà bị thua. Bà Nguyễn Thị Ngãi, 50 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Đêm đêm ngồi dưới bóng trăng Thương cha nhớ mẹ không bằng thương anh Đêm nằm lưng chẳng bén giường Mong cho mau sáng ra đường gặp anh. - Đêm nằm ở dưới bóng trăng Thương cha nhớ mẹ không bằng nhớ em. - Đôi ta như chỉ mới xe Như măng mới mọc như tre mới trồng Đôi ta như lúa đòng đòng Đẹp duyên mà chẳng đẹp lòng mẹ cha. - Anh thương em trầu hết lá đươn Cau hết nửa vườn cha với mẹ nào hay Dầu mà cha mẹ có hay Nhứt đánh nhì đày, hai lẽ mà thôi Gươm vàng để đó em ơi Chết thì chịu chết lìa đôi anh không lìa. - Ăn chanh ngồi gốc cây chanh Khuyên cội, khuyên cành, khuyên lá, khuyên bông Khuyên cho đó vợ đây chồng Đó bế con gái, đây bồng con trai. - Áo gài năm nút hở bâu Em còn phụ mẫu đâu dám tư tình với anh. - Mù u bông trắng lá quắn nhụy huỳnh Phải chăng phu phụ ngàn năm anh cũng chờ. - Anh còn son em cũng còn son Ước gì ta được làm con một nhà. - Lòng em đã quyết thì hành Đã cấy thì gặt với anh một mùa. - Ước ao anh ở một nhà Ra vào đụng chạm kẻo mà nhớ thương. - Xa xôi xích lại cho gần Làm thân con nhện mấy lần ươm tơ. - Đôi ta lên thác xuống ghềnh Em ra đứng mũi cho anh chịu sào. - Chuồn chuồn mắc phải tơ vương Nào ai quấn quýt thì thương nhau cùng. - Hồ nào sóng biết vỗ bờ Ai mà thả kiếm rùa đưa đi dùm ? - Hồ Hoàn Kiếm sóng biết vỗ bờ Vua Lê thả kiếm rùa đưa đi dùm. - Nơi nào gần chốn kinh đô Nhiều thây giặc chết chất thành gò đống cao ? - Gò Đống Đa gần chốn kinh đô Nhiều thây giặc chết chất thành gò cao. - Thân em như tấm lụa đào Còn nguyên hay đã xé vuông nào cho ai ? - Thân em như tấm lụa đào Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai. - Cây kiềng vàng đeo lâu còn đỏ Đôi đứa mình còn nhỏ còn thương Dẫu cho cha mẹ không thương Đôi ta trải chiếu ngoài đường lạy vô. - Cha mẹ đòi ăn cá thu Gả con xuống biển mù mù tăm tăm. Ông Võ Văn Thổ, 46 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Trời chuyển mưa cho mây phủ mình rồng Phận anh bạc số nên em đi lấy chồng bỏ anh. - Trời mưa lâm râm, lác đác, mấy hạt cát nó nhảy liên miên Rượu cẩm nguyên đây em rót đãi bạn hiền Kiếp này không trọn ta nguyền kiếp sau. - Phụng kỳ xa lý, đáng năm bảy tháng còn gần Anh cách xa em như nhợ xa cần Còn đâu lên xuống tỏ tình nhớ em. - Nhợ xa cần, nhợ lại nằm khoanh Anh xa em một bữa cơm canh anh bỏ liều. - Vui sao mà anh bảo em cười Một ngày thấy mặt, chín mười ngày không. - Không vui anh cũng muốn em cười Cười cho quên hết những ngày mình không gặp nhau. Bà Huỳnh Thị Mỹ (ấp Tân Đức B, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Chim tham ăn sa vào vòng lưới Cá tham mồi mắc tại lưỡi câu Ai ơi nên phải nghĩ sâu Những ai tham thực ác là cực thân. Bà Phan Thị Tương, 50 tuổi (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Chim bay về núi tối rồi Chị em lo liệu lấy nồi nấu cơm. - Chiều chiều lại nhớ chiều chiều Nhớ người áo trắng khăn điều vắt vai Vắt vai chạy dài xuống chợ Xin ba đồng tiền trả nợ bánh canh Bánh canh con vắn con dài Ai mua tôi bán, ai nài tôi thêm. Chị Trương Thị Huệ Em (ấp Tân Đức A, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Dạy con đọc sách thánh hiền Còn hơn để lại bạc tiền đầy kho. - Còn cha còn mẹ thì hơn Không cha không mẹ như đờn đứt dây Đờn đứt dây còn dây còn nối Cha mẹ thác rồi con phải mồ côi Mồ côi tội lắm ai ơi Đói cơm khát nước biết người nào lo. - Hoa xinh ai nỡ bỏ rơi Người khôn ai nỡ nặng lời với nhau. - Trầu xanh cau trắng cháy hồng Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên Trăm năm ghi tạc chữ đồng Dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai. - Trăm năm ai chớ bỏ ai Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim. - Ở hiền thì lại gặp lành Những người nhân đức trời dành phúc cho. Chị Huỳnh Thị Lệ (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, Mỏ Cày) - Anh về Giồng Miễu, mua một thước nhiễu nhị tấc Về con ba cắt, con tư may Con năm đột, con sáu viền Con bảy đơm nút, con tám đơm khuya Anh bận ra đi, con chín níu, con mười tỳ Chín Mười ơi, em kéo vậy thì còn gì cái áo anh Áo anh đơm nút con rồng Đứng xa con phụng lại gần con quy. - Chiều chiều ông Lữ đi câu Cá ăn đứt nhợ mang dây chạy về. Chị Thu Hà (ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, huyện Mỏ Cày) - Đội ơn cốt dục cao dày Học cho đẹp mặt nở mày mẹ cha Học đặng như gấm thêu hoa Có chân có chất mới ra con người Làm trai phải biết khổ người Dại thời ra đứng hai bên cột đình. Bà Nguyễn Thị Hoàng,54 tuổi (ấp Thanh Bắc,xã Tân Thanh Tây, Mỏ Cày) - Rửa tay cho trắng, ngắt ngọn rau cho tươi Tiền năm quan anh chuộc lấy tiếng cười Vàng rơi anh không tiếc mà anh tiếc người có duyên. - Mặt trời vừa lặn, mặt trăng vừa xế Em ơi về lập kế thôi chồng Đồ nữ trang đừng trả, để kiện lo - Tới đây không hát thì hò Không phải con cò ngóng cổ mà nghe - Con cò nó ở nhành tre Chớ đâu dưới đất mà nghe anh hò. - Anh kia vừa ốm vừa cao Đi xa tôi tưông cái sào chống ghe. - Cô kia vừa mập vừa lùn Đi xa tôi tưởng cái thùng nó lăn. - Thiếu chi rau mà ăn rau é Chứ thiếu chi chồng mà làm bé người ta. - Chiếu bông mà trải gốc dầu Muốn vô làm bé phải hầu vợ anh. - Nước ròng tép bạc lội xuôi Ai về đồng ruộng theo tui mà về - Đồng anh nhiều con ốc gạo Gái đồng quê nhiều đạo văn minh - Trai đây anh ở giá một mình Qua đây kết nghĩa chung tình với anh. - Tức mình đấm ngực lăn nhào Đón em anh hỏi ông tơ nào xe dây ? Tức mình hơn quá té cây Té cây không tức cơ hội này tức hơn Đũa vàng dọng xuống mâm son Thương em đứt ruột từng cơn hội này Anh đau riêng tư khó nỗi tìm thầy Thuốc thang sắc uống cơ hội này bất thương Có mặt em đây anh nói rằng thương Không có mặt em anh gá nghĩa can thường lăng xăng Nhất nhật bất kiến như mã đề văn Thấy em có nghĩa mấy trăng em cũng chờ Làm sao cho được bây giờ Sông sâu khó lấp cao bờ khó ban Bây giờ có cực đừng than Xưa kia anh biểu em khoan có chồng Từ khi đi lính hội đồng Vai mang cây súng tay bồng giáo gươm Bốn phía trời rựng mọc đỏ ươm Trách lòng thương bạn cầm gươm phóng lìa Trách ai vặn khóa bẻ chìa Khi thương thương vội khi lìa lìa xa Làm chi tội lắm bé ba Can thường mới ngộ bỏ qua sao đành Rút gươm ra đứng bờ thành Sa cơ này anh tự vận chị em đành hay không ? Anh đừng tự vận mênh mông Để em than vãn đêm đông đôi lời Anh đừng tự vận giữa trời Để em than vãn nhiều lời bất thương Một mình đứng giữa trung lương Bên tình bên hiếu biết thương bên nào ? Hai bên súng bắn giao sào Súng bắn mặc súng em nhào theo anh Khăn lau nước mắt ướt nhem Tới lui không đặng thì em có chồng Đứng gần em gan lại phập phồng Dang tay hỏi nhỏ em có chồng rồi chưa? Cúc nằm trong chậu cúc xanh Có chồng dùng thẳng đợi anh lâu ngày Phải chi anh hóa đặng cây cải tiền tài Giăng dây bốn phía bắt người ngoài che nhau Trên trời có cụm mây bao Anh đây em đó không biết làm sao lại gần? Biển đông có cặp sóng thần Nổi lên trận gió bốn phía bần đều tiêu Thương mình chẳng biết bao nhiêu Mình về tôi ở lại xương tiêu nát lòng Quạ kêu nam đáo nữ phòng Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương Nhạn kêu tiếng nhạn kêu thương Ngày thời nhớ bạn đêm thời nhớ anh Mần thơ giấy trắng gửi gắn cò xanh Hổng tin giở thử có anh rõ ràng Mần thơ giấy trắng gửi gắn cò vàng Không tin giở thử có nàng đứng thơ Gặp anh đây nhằm lúc lâm cơ Cắn tay chảy máu làm thơ thề nguyền Chim khôn núp bóng cội riềng Vợ mà thấy đó lo tiền không ra Sáng trăng có núp cội da Sáng ra có đứng ngã ba chờ mình Cong lưng chạy thẳng vô đình Trượt năm bảy cái không thấy bạn chung tình đỡ tui Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi Còn lan sầu huệ như tui sầu mình Than tiếng than tình đã động tình Thiếu điều cắt ruột trao mình mình ơi Bước lên trên ngựa sụt sùi Bước xuống dưới đất ngùi ngùi nhớ em Phụng hoàng ngậm bức thơ lem Đôi ta chồng vợ cậy đem thơ này Xem thơ nước mắt nhỏ đậm đầy Có chồng còn gửi thơ này làm chi Hạc chầu thần hạc đứng lưng qui Đôi ta thương lén có khi khóc thầm Ngọc trao tay áo sao anh không tầm Để mai với mốt anh tầm ra sao? Ông Hồ Trung Thành, 50 tuổi (Phường 6, thị xã Bến Tre) - Anh về vườn, tìm đường tôm lội Ở chi xứ này đầu đội, vai mang. - Nước dừa ngọt tựa lòng dân Mỡ dừa như sữa mẹ, trắng ngần thơm tho. - Trời chiều chiều chuyển mưa vần vũ Tôi nhìn về quê cũ ruột thắt gan đau Nhớ hồi nào cày cấy cùng nhau Bây giờ Mĩ Diệm nhốt vào trong khu. - Chim quyên ăn trái bồ quân Quýnh bạc cầm quần để dái tòn ton. - Anh về cùng vợ con anh Lá rụng về cội, bỏ nhành xơ rơ. - Ví dầu lịch vắn lương dài Quạ đen, cò trắng, chài chài xanh lông. - Con gà, con vịt có lông Ống tre có mắt, nồi đồng có quai. - Chiều chiều vịt lội cò bay Ông voi bẻ mía chạy ngay vô rừng. - Anh đi ghe cá mũi son Bắt em sàng gạo cho mòn móng tay. - Anh đi ghe cá cao cờ Ai nuôi cha mẹ, ai thờ tổ tiên ? - Anh về để áo lại đây Để khuya em đắp gió tây lạnh lùng - Lạnh lùng em lấy mùng em đắp Để áo anh về đi học đường xa. - Khoan khoan bớ chị hai dâu Chị đừng ngắt đọt để dâu lên chồi - Thôi thôi chị đã ngắt rồi Còn da lên mụt còn còn chồi lên cây. - Đi lính quốc gia vàng đeo đỏ cổ Đi lính vụ Hồ chịu khổ muôn năm - Đi lính quốc gia vàng đeo có lúc Đi lính cụ Hồ hạnh phúc muôn năm. - Đến đây lạc miệng thèm chanh Ở nhà đã có cam sành thiếu chi. - Nhìn lên trời thấy cặp cu đương đá Nhìn xuống nước thấy cặp cá đương đua Anh với em tuổi tác cũng vừa Ngại cha với mẹ kén lừa suôi gia. - Chiều nay cắt cổ gà ô Để chi nó gáy hai cô chưa chồng Hai cô hùn lại hai đồng Nuôi cho tui lớn làm chồng hai cô. - Bảy với ba anh tính ra một chục Tam từ lục anh tích lại cửu chương Liệu bề đát đặng thì đương Đừng gầy rồi bỏ nửa đường cho ai. - Sông sâu sóng bủa láng cò Thương em vì bởi câu hò có duyên. - Tàu nhà Tây đi trước, tàu nhà nước theo sau Hai chiếc gặp nhau, quăng neo cái rổn Anh tưởng tàu Nhật Bổn lấy đất Châu Thành Chiều chiều chim đậu nhành chanh Trong cơn nguy khốn lòng anh đau buồn. Bà Nguyễn Thị Phượng, 45 tuổi (xã An Điền, huyện Thạnh Phú) - Chiều chiều vịt lội cò bay Ông voi bẻ mía chạy ngay về rừng Vô rừng bứt một sợi mây Đem về thắt dóng mẹ mày bán buôn Bán buôn không lỗ thì lời Đi ra cho thấy mặt trời mặt trăng. - Má ơi con má hư rồi Còn đâu má gả má đòi heo quay. - Gió mùa thu mẹ ru con ngủ Nắm canh chày thức đủ vừa năm Gió mùa hè ai dè bạc phận Chờ mấy con trăng này thời vận đảo điên. - Người trồng cây cảnh người chơi Ta trồng cây đức để đời về sau. - Người thanh nói tiếng cũng thanh Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu. - Thức lâu mới biết đếm dài Ở lâu mới biết là người có nhân. - Sông sâu sào ngắn ngôn dò Người khôn ít nói khôn đo tấc lòng. - Sông sâu còn có kẻ dò Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng Đàn đâu mà gẩy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ gươm đâu chém ruồi Có con phải khổ vì con Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng. - Anh đi đằng ấy xa xa Để em ôm bóng trăng tà năm canh Nước non một gánh chung tình Nhớ ai, ai có nhớ mình hay không ? - Gió đưa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ Con thơ tay ẳm tay bồng Tay nào xách nước tay nào vo cơm. Bà Nguyễn Kim Quang, 75 tuổi (xã Phú Túc, huyện Châu Thành) - Cờ bạc là bác thằng bần Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm. - Đố ai con rít mấy chân Cầu ô mấy nhịp, chợ Vinh mấy người? - Chanh chua thì khế cũng chua Chanh bán có mùa, khế bán tư niên. - Mồ côi cha ăn cơm với cá Mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ. - Trời mưa lâm râm, ướt dầm lá hẹ Cảm thương nàng có mẹ không cha. - Thuyền thinh đôi chiếc thuyền thinh Mình rồng, đuôi phụng vẽ vinh đôi đàng Một chiếc anh chở năm nàng Hai chiếc anh mười nàng, xinh đà quá xinh. - Chị kia bới tóc cánh tiên Ghe bầu đi nói một thiên cá mòi Không tin dở hộp ra coi Rau răm ở dưới, cá mòi ở trên. - Ngó lên Sở Thượng thêm buồn Muốn dâm cội rễ, ngại đường xa xôi. - Ghe lui khỏi bến còn dầm Người thương đâu mất chỗ nằm còn đây. - Ngọc sa xuống biển ngọc trầm Anh thất ngôn lời hứa không tầm đặng em. - Tưởng là đường vắng hát chơi Hay đâu đường vắng có người vãng lai. - Ruột thắt gan teo cũng bởi anh nghèo nên xa con bạn Bực thạch kia lở rồi, chiếc thuyền cạn bơ vơ. - Con ngoan đẹp mặt mẹ cha Con hư đành chịu người ta chê cười. - Mẹ nuôi con biển hồ lai láng Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày. NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA BẾN TRE 3 DÒNG ( trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và Hoàng Thị Bạch Liên) Đây là hiện tượng khá đặc biệt của CD-DC Bến Tre nói riêng và CD-DC Nam bộ nói chung. Các bài ca này vẫn đảm bảo chức năng của bài hát dân gian là chuyển tải nỗi lòng của chủ thể trữ tình nhưng về hình thức, các bài CD-DC này gồm 3 dòng, giữa các dòng có sự hiệp vần với nhau. - Đồng Văn Cống ở Bàu Dơi Mời quan lớn xuống chơi Đứa nào đốt nhà dân… chó đẻ. (Tr. 170) - Nước chảy liu riu Lục bình trôi líu ríu Anh thấy em nhỏ xíu anh thương. (Tr. 173) - Một trăm con gái thủ Một lũ con gái chợ anh không màng Cảm thương con gái ruộng cơ hàn nắng mưa. (Tr. 174) - Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa Khen ai khéo vẽ cục đá thêm tròn Giận thì nói vậy chứ dạ còn thương em. (Tr. 176) - Kìa vườn dừa cây cao cây thấp Gió quặt quà cành lá xác xơ Thương anh em vẫn đợi chờ. (Tr. 176) - Sáng trời vạch vách trao thơ Bây giờ mình ước tôi mơ Như chồng gặp vợ làm ngơ sao đành. (Tr. 178) - Treo quằn treo quại treo trại cành dương Phụ mẫu tôi đánh tôi cái chót, tôi nhảy vót hàng rào Biểu xa người nghĩa lòng nào tôi xa. (Tr. 179) - Sông Bến Tre xáng múc tàu "xà lúp" chạy cũng thường Giang tay đưa bạn lên đường Hột châu nhỏ xuống đoạn trường anh thấy không. (Tr. 180) - Ăn cơm cũng nghẹn uống nước cũng nghẹn Mấy lời mình hẹn tôi đứng cửa tôi trông Cửa thời thấy cửa người không thấy người. (Tr. 181) - Anh ở khác tổng em ở khác làng Ưng không thời nói bữa đầu Làm chi cho lỡ rượu lỡ trầu anh ra. (Tr. 185) - Ban ngày gặp em anh thương anh nhớ Tối về anh ngủ anh mớ má anh rầy Má kêu anh dạ mới chừng nầy mà mầy mê tâm. (Tr. 190) - Trời càng mưa càng gió Nhật vị huỳnh kim kiếu lỗi bạn vàng Chốn hương thôn em ở Lộc Thuận làng anh dời chân. (Tr. 191) - Cây thia lia lá cũng thia lia Bậu không thương anh bậu nói tiếng nọ tiếng kia Bậu vu oan giá họa đặng lìa nhau ra. (Tr. 192) - Chim khôn kiếm nơi lành mà đậu Gái khôn kiếm trai nhơn hậu mà nhờ Em mê chi đàng điếm nay dật mai dờ hư thân. (Tr. 193) - Dao phay kề cổ Máu đổ không màng Chết thì chịu chết chớ buông nàng anh không buông. (Tr. 193) - Nước chảy bon bon Con vượn bồng con lên non hái trái Cảm thương nàng phận gái mồ côi. (Tr. 194) - Đèn treo cột đáy nước chảy đèn rung Anh thương em thảm thiết vô cùng Cớ sao em bội bạc lạnh lùng với anh. (Tr. 195) - Kiến bất thủ như tầm thiên lý Anh thương em nghĩ trí cho khôn Kẻo vợ nhà anh hay được chữ hậu hôn oán thù. (Tr. 196) - Nước chảy re re Con cá he xòe đuôi phượng Anh ở bạc tình trong bụng em hết thương. (Tr. 198) - Nước chảy xuôi Con cá buôi lội ngược Em có chồng rồi thương sao được mà thương. (Tr. 198) - Nếu em còn ngại qua thề lại cho em tường Đứa nào được Tấn quên Tần Xuống sông sấu bắt lên rừng cọp tha. (Tr. 199) - Giọt nước mắt rớt xuống con đò Em lấy nắp hộp đậy liền Đôi ta thương trộm mà khắp láng giềng đều hay. (Tr. 200) - Cái miếu thần linh con gà gáy tiếng Trông bậu trông đứng trông ngồi Trông người có nghĩa bồi hồi lá gan. (Tr. 201) - Đầu đường có một cây dúi (duối) Cuối đường có một cây da Làm chi tội nghiệp bỏ qua sao đành. (Tr. 201) - Dế kêu sầu gốc bưởi Chim uốn lưỡi nhành canh Em có chồng rồi an phận cảm thương anh một mình. (Tr. 204) - Nước trong không thấy cá lội Ba bốn năm trời em lỡ hội chết chồng Cửa nhạc môn khóa chặt chờ khách tang bồng em gá đôi. (Tr. 204) - Đêm nằm đặt tay lên trán Nước mắt chảy lai láng ướt bộ ván cẩm lai Công em chờ đợi mà năm nay không thành. (Tr. 204) - Phụ mẫu đánh tui cây roi quằn quại Tui té đại xuống vườn huỳnh Rủi mà tui có thác tui hỏi mình có để tang không ? (Tr. 206) - Bước lên bàn án vỗ ván sầu riêng Thấy anh lớn chức cao quyền Em đây bần tiện không dám kết nguyền với anh. (Tr. 208) - Cá rô ăn móng dợn sóng dưới đìa Tại ba với má vặn khóa bẻ chìa Chìa hư khóa liệt đôi ta sầu biệt ly. (Tr. 209) - Dù ai gieo tiếng ngọc ai đọc lời vàng Trớ trêu khúc phụng khúc hoàng Lòng em không giống như nàng Văn quân. (Tr. 210) - Hồi anh thương em em biểu lấy gang trời anh cũng lấy Hết thương rồi năn nỉ cách mấy anh cũng không đi Thôi thôi em giã từ cất bước cảnh hiểm nguy em về. (Tr. 210) - Học đờn anh chưa có học bản Bởi anh quá ham vui mà bao quản tiếng cười Khi nào anh nhớ lại anh nhờ người đón em. (Tr. 210) - Cảnh trời chiều đường chen bóng xế Em lóng tai nghe tiếng dế thì em chắc lưỡi kêu trời Chữ lương duyên ai gá nghĩa mà tiếng đời em mang. (Tr. 210) - Trời cao hơn trán trăng sáng hơn đèn kèn kêu hơn quyển biển rộng hơn sông Nghĩa nhân linh láng trán đồng Biết ai là vợ là chồng của ai. (Tr. 211) - Nhất nhựt bất kiến như tam ngoạt hề Gần sông cột mới ngã kề Tiếng xấu anh chịu em về tay ai. (Tr. 212) - Trời mưa khổ qua đắng trời nắng khổ qua đèo Thương em anh ký giao kèo Thò tay điểm chỉ em đây mới thiệt con vợ nghèo của anh. (Tr. 213) - Bóng mát che lòn ố hô rồi khuất bóng Em vẫn biết rằng cửa đóng then cài Em đứng trong rơi lụy mà đứng ngoài lụy rơi. (Tr. 218) - Ngọc dù non khôn vàng chìm nơi sông lệ Mấy lời đan thệ em phủi sạch nhau rồi Đò đưa bến khác em còn ngồi trông ai. (Tr. 218) - Nhứt nhựt bất kiến như tam ngoạt hề Anh đi đâu một chút phải về Để khuya con trăng lặn bốn bề người dưng. (Tr. 219) - Đèn treo cột đáy nước chảy ngọn đèn xoay Dĩa để nghiêng đổ nước sao đầy Lòng thương bạn ngọc cha mẹ rầy cũng thương. (Tr. 219) - Em ơi đừng ham nhà ngói đỏ lắm lói chớ vỏ có ruột không Ưng anh đây xứng vợ lại xứng chồng Trời nực anh quạt ngọn gió lồng anh che. (Tr. 219) - Chiều nay tui ra sông Cái tự ái cho rồi Sóng làm chi biệt ly quân tử Thác cho rồi đặng chữ thủy chung. (Tr. 220) - Tửu bất túy nhân nhân tự túy Mình thương hay không tự ý của mình Không phải như anh Bùi Kiệm ép tình chị Nguyệt Nga. (Tr. 225) - Trời mưa rỉ rả ướt lá sả Ôi thôi cha chả chàng đã xa rồi Chồng nam vợ bắc đứng ngồi không yên. (Tr. 230) - Vợ xa chồng cơm không ăn đêm nằm không ngủ Chẳng như ông Quan Công thất thủ Hạ Bì Chồng mà xa vợ biết lấy nghĩa gì cho vui. (Tr. 231) - Em ở với anh cực khổ quá Mai sau em thác rồi đừng mả đá làm chi Bạc đôi trăm để lại cho ấu nhi nó nhờ. (Tr. 233) - Vợ chồng người ta giàu, ăn món nầy món khác Hai đứa mình nghèo ăn rau mác chấm nước cua đồng Bởi vì chữ đa ương thảm khổ gái thương chồng phải theo. (Tr. 233) - Người ta có phần mẹ với cha chốn dương gian còn đủ Em vô phần cha âm phủ mẹ dương gian Cơm bữa no bữa đói nên chi bạn lang em không nhìn. (Tr. 233) - Vợ chồng người ta giàu ở nhà kê nhà cặp Anh với em nghèo tạo lập cái chòi tranh Sớm mơi canh, chiều cháo mà em cũng ở với anh trọn đời. (Tr. 234) - Sống trên dương trần em mần cù bơ cù bất Thác dưới ba tất đất mà chưa được tấm bảng đề Để nước vô lạnh lẽo làm sao em về thăm anh. (Tr. 234) - Trời mưa khổ qua đắng trời nắng khổ qua đèo Thương em anh ký giao kèo Thò tay điểm chỉ em mới thiệt con vợ nghèo của anh. (Tr. 234) - Họa hổ họa bì nan họa cốt Tri nhơn tri diện bất tri tâm Bây giờ rõ được vàng cầm anh cũng buông. (Tr. 243) - Con chim chi cái lông nó đỏ Cái mỏ nó vàng Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải buôn. (Tr. 243) - Chùa hư ông Phật ngã Ông Cả xả ông rầu Chính chuyên chị bậu mà lập lầu treo chuông. (Tr. 246) SƯU TẦM - Mặt nhìn mặt, mây tan khói tản Anh nhìn em, mây rản từng chòm Này anh ôi, anh có vợ rồi, an phận, đừng có dòm tới em. - Anh bước xuống miếng ruộng này, tam sơn tứ hải Này cô bác ôi, để cho tôi đối đãi cô bạn tình chung Nếu em mà đáp đặng thì anh ưng em liền. - Anh đi ngang cửa má, anh chắp tay anh xá Phụ mẫu nói: Thằng này phải quá, đứng lại cho tao nhìn Em hai ơi ! Anh đứng lại mà anh chết nữa thân mình đó em. - Cau non có bữa cũng dày Dầu thương cho lắm hội này cũng xa Làm chi tội nghiệp lắm cô Ba. - Lủi thủi, lúc nhúc Tôi xúc con cá sặc làm mồi Anh câu lạc chỗ, đứng ngồi không yên. - Ngó lên trời thấy mây vần vũ Mây bao vần vũ mà mây phủ mình rồng Cô gái don don thương dữ, chứ cô gái có chồng ít thương. - Em nói với anh cho có nhật có nguyệt, có đèn hầu kiệt, có núi sơn lâm Giờ em có lỗi đạo tình thâm Hồn về chín suối, xác cầm dương gian. - Đèn treo cột đáy, nước chảy lồng đèn xoay Dĩa nghiêng múc nước sao đầy Ngày mai em lại khúc sông này gặp anh. - Nay tôi xuống ruộng, tay tôi bắt nắm mạ, miệng tôi lại liền rao Tôi hò cho chủ ruộng, đặng tuổi thọ, phước tam điền Hai đứa mình gá lương dơn chồng vợ chứ cô bác xóm giềng đều thương. - Trời mưa lác đác, hột cát nhảy nằm nghiêng Rượu bình yên, em rót đãi chị Điêu Thuyền Kiếp này chẳng đặng, em nguyền kiếp sau. - Tay bưng hộp thiếc, lòng tôi chí quyết, cha mẹ biểu đừng Hai hàng nước mắt rưng rưng Phải chi hồi trước ai đừng biết ai. - Cây đa trốc gốc, thợ mộc đang cưa Anh với em đi ra cũng xứng, đứng lại cũng vừa Tại cha với mẹ kén lừa suôi gia. - Anh ở sông bên đây, anh bắc cây cầu cao mười hai tấm ván Em ở sông bên kia, em lập cái quán chín mươi hai từng Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng đợi anh. - Một nhành tre đôi ba nhành trải, sáu bảy nhành gai Anh có thương em thì anh bưng kĩ đỡ đày Nếu không thương thì để xuống cho người ngoài họ bưng. - Cá lia thia Tàu nằm trong chậu cúc Quạt đuôi từ túc, cúc ngả ly bì Em lo cho chàng lao khổ, chớ em không có lo gì cho em. - Nhật với Tàu còn đương giao chiến Sao anh với em không giao quyến cho gần Để anh một nơi em một ngã, nghĩa Châu Trần chắc phải xa nhau. - Tối rồi chuông rung, kiểng đổ Phòng loan đâu, em chỉ chổ cho anh nằm Để nữa đêm trời tối anh vào lầm phòng chị dâu. - Ở trển xuống đây, không dơn tầm dơn không nợ tầm nợ Không phải anh giàu đổi bạn sang đổi vợ, nói thiệt em qua không có người nội trợ trong gia đình Anh muốn làm chồng với vợ mà em có bằng tình không em ? - Anh có vợ rồi anh còn gian giấu Em vạch mây xanh, kêu thấu ông trời xanh Em muốn mần chồng với vợ mà không biết vợ anh có bằng tình hay không ? - Tảng sáng đi ngang qua cửa, thấy anh đề ba câu chữ: oan trái bất thành phu phụ Em về ôm lòng sầu thắng dĩ thối nan Đêm năm canh nghe con chim kêu thương, con gà gái nhớ mà chốn phòng loan có một mình. - Trai như anh hầu văn kiến sẽ Gái như em như bức tượng vẽ trên rồng Anh về giở cuốn sách Minh Tâm, coi thử em có lấy chồng hay chờ anh ? - Trai như anh phò vua cho trọn đạo Gái như em thờ chồng cho trọn đạo người ta Anh đừng thấy chỗ giàu sang anh bước tới mà bỏ em vào ra có một mình. - Em vào phòng loan than thầm khóc gối Phụng xa loan bối rối anh chung tình Vui thì thôi, ngồi buồn khoanh tay ngọc đặng nhìn bạn xưa. - Nữ xuất giá như tư vi phạm thủ Nam bất cư như liệt mã vô cương Em không coi Mạnh Lệ Quân thuở trước chờ Đông Bình Dương kết nguyền. - Thắng quân tử thối hề quân tử Chiếc thuyền dời lòng thục nữ đừng dời Anh không coi Phạm Công với Cúc Hoa, kẻ dân gian, người âm phủ mà sum họp vợ chồng đời anh thấy không ? - Bình Đại thôn bản sở Phú Vang Thôn, anh cho em tạm đỡ một đôi ngày Anh có vợ chưa anh nói thiệt, để chuyện lâu ngày nó mích lòng anh. - Sống dương trần tôi mần cù bơ cù bất Thác đi rồi anh chôn mã đất không có đắp cái lề Anh sẵn lòng lo mua hàn huỳnh chín chục mà có chạm mặt trăng hai đầu? - Em vô phần vô phước Anh chết trước, em đem chôn nhằm giọt nước chảy quanh Em cầm quạt Tàu em quạt, ráo mồ anh em mới lấy chồng. - Chưa có gì họ đồn thấu Ba với má em đòi câu sấu, bớ anh chung tình Em rút lưỡi gươm vàng ra tự vận mà thác xuống Diêm đình mới xa anh. - Gà lạc mẹ gà kêu chíu chít Tôi thương anh mấy năm trời mà chẳng nằm khít một bên Em cũng nguyện cầu cha mẹ ơn trên hộ trì. - Tiết Đinh San mắc vòng lao lý Tiết Nhơn Quý bị giặc vây thành Hàng các quan người ta rơi lệ, mà sao dạ anh đành bỏ em ? - Không có ai bạc ngỡi bằng anh Tiết Đinh San Không có ai vô gian bằng anh La Thông công tử, hại chị Đồ Lư phải tự tử chốn loan phòng Mà Hồ Nguyệt Cô bị chàng Tiết Giao nên mất ngọc, bị lưỡi gươm đồng của Võ Tam Tư. - Cơm sôi, lửa cháy, gạo nhảy tưng bừng Anh thương em như lửa nọ cháy phừng Dù cho núi lở tan rừng cũng thương. - Tay lăng xăng mài mực, miệng khai khẩn đề thơ Thôi quan xét lại cho em nhờ Chớ khoan khoan hạ bút uổng tờ giấy tây. - Trời mưa lâm râm, lác đác, mấy hạt cát nó nhảy liên miên Rượu cẩm nguyên đây em rót đãi bạn hiền Kiếp này không trọn ta nguyền kiếp sau. - Phụng kỳ xa lý, đáng năm bảy tháng còn gần Anh cách xa em như nhợ xa cần Còn đâu lên xuống tỏ tình nhớ em. - R?a tay cho tr?ng, ng?t ng?n rau cho t??i Ti?n n?m quan anh chu?c l?y ti?ng c??i Vng r?i anh khơng ti?c m anh ti?c ng??i cĩ duyn. - M?t tr?i v?a l?n, m?t tr?ng v?a x? Em ?i v? l?p k? thôi ch?ng ?? n? trang ??ng tr?, ?? ki?n lo?ng vo?ng coi ch?i. NHỮNG BÀI CA DAO- DÂN CA SỬ DỤNG HÌNH ẢNH CÂY DỪA (trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và Hoàng Thị Bạch Liên) - Bến Tre ruộng đất phì nhiêu Nơi đây giàu lúa lại nhiều dừa khô. (Tr. 164) - Bến Tre nước ngọt lắm dừa Ruộng vườn màu mỡ biển thừa cá tôm… - Thấy dừa thì nhớ Bến Tre Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mười. (Tr. 165) - Thấy dừa thì nhớ Bến Tre Thấy bông mía trắng nhớ quê Mỏ Cày. (Tr. 165) - Thấy dừa thì nhớ Bến Tre Thấy bông lúa đẹp thương về Hậu Giang. (Tr. 165) - Quê anh ba dải cù lao Có dừa ăn trái có cau ăn trầu. (Tr. 165) - Ai về xứ Bến quê tôi Núi đồi không có nhiều xôi lắm dừa. (Tr. 165) - Ai về chợ Mỹ qua sông Thấy vườn dừa rộng ruộng đồng tiếp giăng. (Tr. 165) - Ai về thăm xứ Bến Tre Ghé qua Cái Cối thăm hàng dừa xanh. (Tr. 166) - Ai về đất Trúc xa xăm Viếng hồ Chung Thủy sau thăm xứ dừa. (Tr. 168) - Bến Tre dừa ngọt sông dài Khiến chợ Mỏ Cày có kẹo nổi danh Kẹo Mỏ Cày vừa thơm vừa béo Gái Mỏ Cày vừa khéo vừa ngoan Anh đây muốn hỏi cùng nàng Là trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng ? (Tr. 168-169) - Bến Tre ba đảo dừa xanh Quê hương Đồng Khởi mát lành phù sa. (Tr. 170) - Thương thay thân phận cây dừa Non thì khoét mắt già cưa lấy đầu. (Tr. 171) - Ông tiên ngồi dựa gốc dừa Dừa khô rớt xuống bể đầu ông tiên. (Tr. 171) - Dừa Bến Tre ba đồng một trái Chuối Bến Tre một nải đồng ba Ai biểu anh đến đây rồi lại đi ra Để em thương, em nhớ, em chờ, em đợi, nước mắt sa vắn dài. (Tr. 172) - Giả ơn ai có cây dừa Cho tôi nghỉ mát đợi chờ người thương. (Tr. 172) - Đầu làng có một cây da Ở giữa cây quéo ngã ba cây dừa Dù anh đi sớm về trưa Thì anh nghỉ mát bóng dừa nhà em. (Tr. 172) - Mài dừa đạp bã cho nhanh Nấu dầu mà chảy tóc anh tóc nàng. (Tr. 172) - Mài dừa dưới ánh trăng vàng Ép dầu mà chải tóc nàng tóc anh. (Tr. 173) - Còn duyên nón cụ quai tơ Hết duyên nón lá quai dừa cũng không. (Tr. 175) - Trồng dừa ra đọt chặt tàu Sợ em đổi dạ tham giàu bỏ anh. (Tr. 176) - Kìa vườn dừa cây cao cây thấp Gió quặt quà cành lá xác xơ Thương anh em vẫn đợi chờ. (Tr. 176) - Muốn trong bậu uống nước dừa Muốn nên cơ nghiệp phải chừa lang vân. (Tr.240) - Dừa tơ bẹ dún tốt tàng Giảo ngôn có chỗ điếm đàng có nơi. (Tr. 241) - Thấy dừa thì nhớ Bến Tre Thấy bông lúa đẹp thương về Cần Thơ Miền Nam mong nhớ Bác Hồ Dừa Bến Tre ngọt nước lúa Cần Thơ trĩu vàng. (Tr. 250) SƯU TẦM - Ăn dừa ngồi gốc cây dừa Cho em ngồi với cho vừa một đôi. - Dừa xanh trên bến hai hàng Dừa bao nhiêu trái thương chàng bấy nhiêu. NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA DÙNG HÌNH ẢNH CÂY BẦN (trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và Hoàng Thị Bạch Liên) - ...Mắm bần ven đất phù sa Bà Hiền Tân Thủy hằng hà cá tôm...(Tr. 164) - Mỹ An bần chát mà chua Chẳng hay người ấy có chua như bần. (Tr. 173) - Cây bần gie con đóm đậu một mình Dẫu anh giàu cho lắm bạc tình em cũng không. (Tr. 184) - Bần gie đóm đậu kia kìa Đôi ta còn nhỏ đừng lìa mới hay. (Tr. 186) - Bướm vàng đậu ngọn cây bần Tui với mình lân cận chẳng cần ông mai. (Tr. 188) - Bần che bóng mát cá thác lác quẫy đục ngầu Anh hỏi em đã có nơi nào hay chưa. (Tr. 192) - Cây bần soi bóng ghe nghèo Qua sông gặp gió em chèo dùm anh. (Tr. 192) - Bần gie đóm đậu sáng trời Lỡ duyên tại bậu trách trời sao đang. (Tr. 193) - Các thứ hoa anh chỉ chuộng hoa bần Giàu nghèo anh không chuộng chỉ chuộng gần mà thôi. (Tr. 195) - Bần gie đóm đậu chòm nhom Hai đứa mình thương lén nên lo toan nhiều bề. (Tr. 196) - Một ngày xuống bến ba lần Ghe anh không thấy thấy bần xơ rơ. (Tr. 197) - Trèo lên chót vót cây bần Vái anh đi nói vợ cho sóng thần nhận ghe. (Tr. 198) - Tàu Nam Vang chạy qua Vàm Tấn Chiếc thuyền tui núp bóng ngọn bần Đôi ta chút nữa thì gần Cũng vì hai chữ phú bần mà xa nhau. (Tr. 207) - Quất ông tơ đánh trót nhảy tót lên ngọn bần Biểu xe lối xóm cho gần ổng không xe. (Tr. 212) - Mồ cha ai đốn cây bần Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm. (Tr. 243) - Thân em như trái bần trôi Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu. (Tr. 245) SƯU TẦM: - Cây bần ơi hỡi cây bần Lá xanh bông trắng lại gần không thơm. - Nhạn lạc bầy kêu thương biển bắc Đêm năm canh nhớ anh quặn thắt gan vàng Cây bần sầu, em vịn lỡ anh ôi Em nghèo than thiệt anh kiếm đôi đừng chờ. - Bần gie đóm đậu sáng ngời Anh không thương em hồi khổ mà mấy lời em than. - Biển đông có cặp sóng thần Nổi lên trận gió bốn phía bần đều tiêu. NHỮNG BÀI CA DAO - DÂN CA VỀ LOẠI HÌNH HÒ, HÁT (trong tài liệu Văn học dân gian Bến Tre - Nguyễn Phương Thảo và Hoàng Thị Bạch Liên) - Chiều nay loan phụng gặp bầy Trước hò nhân nghĩa sau gầy lương duyên. (Tr. 254) - Mở miệng ra cho quan yêu dân chuộng Mở miệng ra cho đặng chữ thái bình Tới đây hò hát kiếm người tình hò chơi. (Tr. 254) - Khăn vuông bốn chéo cột chùm Miệng mời người nghĩa hò dùm ít câu. (Tr. 254) - Nói ra cô bác đừng cười Để cho tui bắt bộ một người áo đen Áo đen tra nút cũng đen Tui hò với người lạ chứ người quen không hò. (Tr. 254) - Tiếng đồn em bậu hò hay Bữa nay gặp mặt nắm tay giao hò. (Tr. 255) - Tiếng đồn cô Bảy hò lanh Ngày nay mới biết mặt mình xanh như chàm. (Tr. 255) - Tới đây rượu thịt bánh bò Ai ca ca với ai hò hò chơi. (Tr. 255) - Ghe bầu dọn dẹp kéo neo Mấy chú bạn chèo bắt cái hò khoan. (Tr. 255) - Tới đây chỉ biết hò môi Hò cho đủ cặp đủ đôi dắt về. (Tr. 255) - Áo đen vá lại quàng đen Hò chơi người lạ người quen đã nhàm. (Tr. 255) - Hò chơi cho trọn buổi chiều Keo sơn quấn chặt sợi chỉ điều xe xăn. (Tr. 255) - Cách sông cách suối rồi lại cách đò Chớ cách vài ba miếng ruộng nghe tiếng bậu hò anh tới đây. (Tr. 255) - Hò chơi bỏ ruộng bỏ đồng Ai về đừng nói lại kẻo chồng tôi ghen. (Tr. 255) - Ban ngày đi làm hò hát Tối nằm sầu vạt lá gan vàng Đặt lưng xuống chiếu dạ mơ màng nhớ em. (Tr. 255) - Ở trển xuống được giả như con chim sút lồng con cá nằm trong chậu Chị em ơi cho tui đùm đậu một hai ngày Hò chơi một lát, hò hoài tui thua. (Tr. 255) - Tui tới đây tứ cố vô luân lý Không biết bà con chị em mưu trí thế nào Xin mở lòng rộng rãi cho tui vào hò chơi. (Tr. 255) - Xứ đông đảo lòng đừng yêu mến Vì tui ham vui tui mới tới ruộng này Trước tui hò chơi đôi câu giải muộn Vậy chị em mình hòa cùng tui hò nghe. (Tr. 261) - Gió nam non thổi lòn hang chuột Em nghe anh hò đứt ruột đứt gan. (Tr. 261) - Câu hò em đựng một thạp da bò Em đi em quên đậy nắp nó bò lưu linh. (Tr. 261) - Ở xa tôi nghe nói bậu hò Cách sông tôi cũng lội cách đò tôi cũng sang…(Tr. 225) - Em ôm bó mạ xuống đồng Miệng ca tay cấy mà lòng nhớ ai Mạ xanh mơn mởn nên tình Bao nhiêu lá mạ thương mình bấy nhiêu. (Tr. 263) - Tui bước xuống miếng ruộng Trước tui chào ông chủ ruộng Sau chào cô với bác Sau chào luôn người hò. (Tr. 261) - Đường xa diệu vợi Xin hỏi em có chồng chưa thuật lại cho anh tường Để bước vô hò người kêu chồng người kêu vợ Vậy lỗi đạo can thường của em. (Tr. 258) SƯU TẦM - Tới đây không hát thì hò Không phải con cò ngóng cổ mà nghe. - Buồm ra khỏi vịnh buồm bê Hò cho trai nam nhân phải bỏ vợ, gái hiền thê phải thôi chồng. - Nay tui xuống ruộng, tay tui bắt nắm mạ, miệng tui lại liền rao Tui hò cho chủ ruộng, đặng tuổi thọ phước tam điền Hai đứa mình gá lương dơn chồng vợ chứ cô bác xóm giềng đều thương. - Câu hò đựng thạp da bò Đem ra hò cuộc nó bò sạch trơn. - Hò thì hò truyện hò thơ Ai mà hò bậy tui quýnh mẻ ơ lên đầu Xách bù lon tui đứng đầu cầu Đứa nào hò bậy quýnh cái đầu bằng cái nơm. - Mệ kêu bớ bảy đưa đò Lên doi xuống vịnh, giọng hò bảy lanh. - Sông sâu sóng bủa láng cò Thương em vì bởi câu hò có duyên. MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ QUÊ HƯƠNG BẾN TRE Sông nước Bến Tre Dừa Bến Tre Cầu Rạch Miễu (nối liền Tiền Giang- Bến Tre) Trái cây Bến Tre Cống đập Ba Lai Vườn chim Vàm Hồ (Ba Tri) Ruộng lúa Vườn dừa Cây bần Cây chà là Cây dừa nước Cầu khỉ Đường quê Khu tưởng niệm Nguyễn Đình Chiểu (Ba Tri) Đền thờ Bà Nguyễn Thị Định (Giồng Trôm) Đình Phú Lễ (Ba Tri) Lăng Cá Ông (Bình Đại) Nhà truyền thống Đồng Khởi (Định Thủy - Mỏ Cày) Tượng đài Đồng Khởi (Thị xã Bến Tre) Thị xã Bến Tre ngày nay Hoạt động tổ chức lớp truyền dạy dân ca ở Bến Tre ??ng - một phương tiện đánh bắt cá Đội hát sắc bùa với nghi thức Mở ngõ Từ trái sang phải : Nghệ nhân Nguyễn Văn Dũng (69 tuổi), Bùi Văn Hứa (74 tuổi), Thái Văn Cấu (78 tuổi), Nguyễn Thanh Phong (49 tuổi), Nguyễn Văn Võ (82 tuổi), Bùi Văn Hứa (80 tuổi) - Ảnh chụp năm 1998 Nghi thức bài Xốc quách trước bàn thờ gia tiên Hò cấy trên đồng ruộng Vó- một phương tiện đánh bắt cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN034.pdf
Tài liệu liên quan