KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Theo lý thuyết, MT cấu tạo từ một khối khí plasma có tính chất phức tạp, được chia là
nhiều lớp với đặc điểm về nhiệt độ, cấu trúc và mức độ hoạt động khác nhau. Tâm MT được
xem là lò phản ứng hạt nhân, thực chất là một khối khí plasma chuyển động phức tạp, quá
trình tổng hợp hạt nhân và chuyển động của các dòng plasma này được xem là nguồn gốc
năng lượng và bức xạ của MT. Như những ngôi sao bình thường khác, MT cũng tự bản thân
nó quay xung quanh trục của nó, đặc biệt sự tự quay này chênh lệch theo vĩ độ, chính sự tự
quay này là nguồn gốc gây nên các dạng hoạt động MT.
Ngày nay, bên cạnh VĐMT người ta biết được HĐMT có thêm những dạng khác diễn
ra ở các lớp khác nhau của Mặt trời. HĐMT là những biến đổi điện từ của nó, theo khảo sát
những hoạt động này lại có tính quy luật theo chu kỳ 11 năm nhưng thực chất chu kỳ hoạt
động từ trường Mặt trời lại là 22 năm, chu kỳ 11 năm của VĐMT được xem là một chu kỳ
riêng của chu kỳ HĐMT, tuy nhiên, chu kỳ 11 năm vẫn được sử dụng phổ biến hơn. So với
trước đây, các chuyên gia trong lĩnh vực này đã khá nắm vững những tính chất hoạt động
Mặt trời trong chu kỳ 11 năm qua các định luật Sporer, Hale – Nicholson, Joy, hiệu ứng
Waldmeier.
66 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 911 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Khảo sát chu kỳ hoạt động thứ 24 của mặt trời, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a. Ngoài ra, khi khảo sát thông lượng bức xạ của Mặt trời như bức xạ UV,
EUV và thông lượng bức xạ vô tuyến F10,7 cm (hay 2800 MHz) cũng có sự biến thiên theo
chu kỳ 11 năm, tương tự như chu kỳ VĐMT, ở giai đoạn đầu chu kỳ các bức xạ này được
ghi nhận có giá trị thấp và sau đó tăng dần đến cực đại của chu kỳ và giảm xuống đạt cực
tiểu vào cuối chu kỳ, vì vậy, đây cũng là một thông số được dùng để đánh giá cũng như tiên
đoán chu kỳ hoạt động Mặt trời.
1.8. Từ trường Mặt trời
Mặt trời có từ trường rất mạnh và phức tạp, từ trường tại một điểm trên bề mặt trung
bình vào khoảng 1 Gauss gấp hai lần từ trường Trái đất. Từ trường Mặt trời mở rộng ra
không gian và đến tận hành tinh xa nhất (Pluto), được gọi là từ trường liên hành tinh IMF
(Interplanetary Magnetic Field), khi gió mặt trời phát ra đi vào không gian vũ trụ mang theo
IMF đến các hình tinh tương tác với từ trường của các hành tinh tạo nên hiện tượng cực
quang.
Từ trường đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các khía cạnh hoạt động của Mặt
Trời (các vết đen, trường sáng, BNMT, CME, gió mặt trời, và tính chất của quầng nhật
hoa).
Việc giải thích nguồn gốc và bản chất từ trường của Mặt trời còn là một câu hỏi lớn và
nan giải với giới khoa học. Việc tìm hiểu từ trường Mặt trời liên quan đến việc nghiên cứu
hoạt động Mặt trời. Ngày nay, nhờ sử dụng lý thuyết từ thuỷ động học (Magneto- hydro-
dynamics: MHD), người ta nhận thấy rằng từ trường Mặt trời có nhiều biến động hơn từ
trường Trái đất, đồng thời được chia thành các thành phần sau: từ trường tổng (Global), từ
trường mạng (Network), từ trường của các dạng hoạt động Mặt trời.
Bảng 1.3. Các dạng từ trường Mặt trời
Tên Giá trị (Tesla)
Từ trường tổng 0,0001
Hình 1.20. Dự đoán F10,7cm (Internet)
Từ trường mạng
Từ trường của VĐMT
Từ trường của trường sáng
0,002
0,2
0,02
Từ trường tổng của Mặt trời là một từ trường yếu trong tất cả các dạng từ trường, có
sự phân cực Bắc –Nam, từ trường tổng thay đổi theo chu kỳ 11 năm, nó có thể là sự tổng
hợp những tàn dư của từ trường còn sót lại vào giai đoạn cực tiểu của mỗi chu kỳ, sau mỗi
chu kỳ lại có sự đảo cực từ, điều này liên quan đến chu kỳ 22 năm của HĐMT. Như vậy,
chu kỳ hoạt động thực sự của Mặt trời là 22 năm và chu kỳ vết đen 11 năm mà tôi sẽ khảo
sát sau đây được xem là một phần riêng của chu kỳ hoạt động năng lượng từ trường của Mặt
trời2T.
Từ trường của vết đen là mạnh nhất của Mặt trời, Mặt trời được xem là một nam châm
khổng lồ với các đường sức từ xuyên qua nó và ló ra ở gần các cực từ Bắc và Nam. Do Mặt
trời chuyển động vi sai làm kéo, dãn, xoắn, trộn các đường sức từ thành những vòng sức từ,
một số ló ra ở bề mặt Mặt trời hình thành nên các vết đen Mặt trời, vành khí và tai lửa.
Ở nhật hoa từ trường tạo nên một mạng lưới phức tạp. Các đường sức từ liên kết giữa
các vết đen trong nhóm và giữa các nhóm vết đen tạo thành những vòng dây từ trường có
cực từ Bắc –Nam gọi là các đường sức đóng, những đường sức từ còn lại gần như thẳng góc
với bề mặt Mặt trời gọi là đường sức mở. Ở vị trí những đường sức mở là hốc nhật hoa,
thường xuất hiện ở vùng cực.
Hình 1.21. Mô hình giải thích sự hình thành VĐMT (Internet)
Magnetic Flux: đường sức từ
Differential rotation: chuyển động vi sai
Do Mặt trời có cấu trúc lớp, mỗi lớp lại chuyển động với vận tốc khác nhau nên những
đường sức từ bị xoắn chặt vào nhau tạo thành những bó cuộn đường sức từ, đây chính là
nguyên nhân gây nên hiện tượng bùng nổ Mặt trời, bản thân những bó đường sức từ này là
những dòng plasma, khi các đường vòng xoắn chặt vào nhau có thể xảy ra hiện tượng phun
trào plasma (CME).
1.9. Mô hình giải thích hoạt động Mặt trời
Như chúng ta đã biết hoạt động Mặt trời chính là sự biến đổi điện từ trường của nó.
Nguyên nhân chính gây nên từ trường của Mặt trời là các dòng chuyển động plasma. Từ
trường của Mặt trời rất lớn và phức tạp, do đó để có thể giải thích cặn kẽ cơ chế hoạt động
của Mặt trời là điều không dễ dàng. Các nhà khoa học với sự trợ giúp của kĩ thuật hiện đại
và những vệ tinh họ đã đề xuất một số mô hình giải thích các hoạt động của Mặt trời nhằm
mục đích giải thích cơ chế hoạt động từ trường của Mặt trời. Đã có nhiều mô hình được nêu
ra nhưng trong số đó đáng chú ý nhất là mô hình của Babcock (1961) sau đó được Leighton
bổ sung (1964,1969), mô hình Babcock dựa trên nền cơ sở là thuyết từ thủy động học MHD
(the magnetohydrodynamical ), theo Babcock từ trường Mặt trời gồm hai thành phần là
trường cực (Poloidal field lines), dọc theo kinh tuyến, và trường xoắn (Toroidal field lines),
bao quanh Mặt trời theo vĩ tuyến.
Vào đầu mỗi chu kỳ, từ trường phân cực Bắc – Nam dọc theo trục cực như một lưỡng
cực từ (diople), các đường sức từ phân bố dọc theo kinh tuyến. Do chuyển động vi sai giữa
các lớp Mặt trời có vận tốc khác nhau tùy thuộc vào vĩ độ nên các đường sức từ bị xoắn lại
tạo thành trường xoắn. Quá trình này gọi là hiệu ứng Ω .
Do Mặt trời quay từ Tây sang Đông các đường sức từ bị kéo dãn quấn quanh Mặt trời,
khi cường độ đủ mạnh chúng trồi lên bề mặt và có sự vặn xoắn các đường sức từ theo
Hình 1.22. Từ trường Nhật hoa (Internet)
phương kinh tuyến tạo thành những vòng đường sức từ (magnetic loops), kết quả tạo thành
những cặp vết đen định hướng Đông – Tây, vết dẫn trước ở phía Đông, vết kéo theo ở phía
Tây (giải thích được định luật Joy). Vết dẫn trước ở hai nửa bán cầu có phân cực ngược
nhau. Vết kéo theo thì gần cực hơn và có phân cực ngược với cực từ của vết dẫn trước ở bán
cầu đó.
Quá trình tiếp theo là sự tái lặp từ trường cực, vào giai đoạn cuối của mỗi chu kỳ các
cặp vết đen lưỡng cực mất dần liên kết với các đường sức từ. Vết dẫn trước trôi về xích đạo,
tại đây có sự triệt tiêu từ trường lẫn nhau, còn vết kéo theo ở hai bán cầu sẽ trôi về phía cực
từ, tại cực từ có sự triệt tiêu với từ trường ban đầu và hình thành nên lưỡng cực từ mới,
ngược hướng với từ trường ban đầu, giải thích sự đảo cực từ của từ trường Mặt trời, kết thúc
một chu kỳ hoạt động Mặt trời, quá trình này gọi là hiệu ứng α , như vậy, sau một chu kỳ kế
tiếp thì sự phân cực từ trường Mặt trời mới được lặp lại.
Mô hình Babcock đã cơ bản giải thích được một số tính chất của hoạt động Mặt trời
nhưng vẫn chưa đề cập đến chu kỳ 11 năm, nguyên nhân hiệu ứng α và nguồn gốc từ
trường ban đầu.
Mô hình dòng chảy kinh:
Ngày nay ta biết rằng Mặt trời có cấu trúc lớp và sự tự quay của các lớp khí không
giống nhau, giả thuyết đặt ra là lớp quay chuyển tiếp giữa vùng bức xạ và vùng đối lưu là
nguyên nhân gây nên hiện tượng Dynamo Mặt trời.
Mô hình dòng chảy kinh do bà Mausumi Dikpati và Paul Chabonneau đề xướng, trong
đó dòng chảy kinh (Meridional Flow) là những dòng chảy trên bề mặt trời theo hướng kinh
tuyến, dòng chảy này thực chất là những dòng plasma và là một vòng khép kín, dòng chảy
bắt đầu từ vĩ độ thấp gần xích đạo đi ngược về phía cực từ sau đó chuyển xuống dưới vùng
đối lưu (≈ 0,7 R) trở về xích đạo, tốc độ dòng chảy ở nhánh trên lớn hơn tốc độ dòng chảy ở
nhánh dưới.
Những dòng chảy này “chở” các vết đen về phía vùng cực làm triệt tiêu chúng và thiết
lập cực từ mới gây nên sự đảo cực từ trường Mặt trời, như vậy, theo bà Mausumi Dikpati
việc đảo cực từ trường nhanh hay chậm là do tốc độ của dòng chảy kinh và chiều dài của
một chu kỳ có liên quan đến tốc độ này.
Hình 1.25. Mô hình dòng chảy kinh (Internet)
Ở mỗi chu kỳ tốc độ dòng chảy này khác nhau, chu kỳ có tốc độ dòng chảy nhanh thì
kết thúc nhanh hơn và ngược lại. Sự bổ sung của mô hình này cho phép giải thích được việc
đảo cực chậm của chu kỳ 23 vừa qua, là do tốc độ dòng chảy kinh “chở” các vết kéo theo về
cực Nam chậm hơn về cực Bắc nên dẫn đến việc cực Nam đảo cực từ chậm hơn cực Bắc.
Nếu tính được tốc độ của những dòng chảy kinh trong những chu kỳ hoạt động Mặt trời sẽ
rất có ích trong việc tiên đoán cũng như khảo sát chu kỳ hoạt động thực tiễn sẽ diễn ra.
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU CHU KỲ HOẠT ĐỘNG MẶT TRỜI
THỨ 24
Chúng ta đều biết rằng sự sống trên Trái đất tồn tại được là nhờ Mặt trời. Mặt trời là
nguồn cung cấp ánh sáng và nhiệt năng cho Trái đất. Nhưng có rất ít người biết tường tận về
cấu trúc Mặt trời cũng như ảnh hưởng của nó đối với môi trường khí hậu. Do đó, có những
nhầm lẫn, và những luồng thông tin lệch lạc, mê tín dị đoan gây hoang mang trong cộng
đồng. Chính vì vậy, chúng ta càng thấy được nhiệm vụ quan trọng của thiên văn vật lý là
làm rõ những hiện tượng liên quan đến thời tiết vũ trụ và đặc biệt là những biến đổi khí hậu
trên Trái đất. Liệu rằng, những hoạt động Mặt trời có liên quan đến những thiên tai (động
đất, sóng thần,..) đã và đang diễn ra trên hành tinh chúng ta hay không, trong luận văn này,
bên cạnh nghiên cứu về chu kỳ hoạt động Mặt trời thứ 24, tôi cũng sẽ tìm hiểu về vấn đề
này.
Như đã trình bày ở trên, việc giải thích tường tận tính chất, hoạt động của từ trường
Mặt trời không phải là một việc dễ dàng, do đó, việc nghiên cứu chu kỳ hoạt động Mặt trời
rất khó khăn và phức tạp. Nhưng Mặt trời có một đặc điểm là nó có sự nhớ từ, vì vậy người
ta dựa vào những từ trường còn sót lại của chu kỳ trước để đưa ra những tiên đoán cho chu
kỳ tiếp theo về hình dạng, cường độ, và chiều dài của chu kỳ mới; khi chu kỳ mới bắt đầu
thì tiếp tục theo dõi, so sánh giữa hoạt động thực tiễn với những gì đã dự đoán, vì những mô
hình giải thích hoạt động của Mặt trời cũng chỉ cho ta những dự đoán tương đối, không mô
hình nào có khả năng dự đoán chính xác hoạt động Mặt trời, nên có rất nhiều dự đoán khác
nhau. Trong bài này, tôi cũng sẽ trình bày theo trình tự như trên, tôi sẽ đi từ những dự đoán
cho chu kỳ hoạt động thứ 24 và sau đó là khảo sát hoạt động thực tiễn của Mặt trời ở giai
đoạn đầu của chu kỳ đã bắt đầu được 2 năm.
2.1. Những thông số đánh giá hoạt động Mặt trời:
2.1.1. Số vết đen Mặt trời.
Hai số VĐMT được sử dụng chính là:
Số VĐMT quốc tế được tính và báo cáo bởi trung tâm dữ liệu về số VĐMT (SIDC) ở
Brussels, Bỉ.
Số VĐMT Boulder: được tính và báo cáo bởi hiệp hội NOAA của SEC tại Boulder,
Colorado, Hoa Kì.
Bên cạnh số vết đen còn có cả số nhóm vết đen, diện tích và vị trí của vết đen, những
thông số này được thu thập từ đài quan sát hoàng gia Greenwich từ tháng 3 năm 1847
nhưng đến năm 1976 thì ngưng lại. Tiếp đó, Hiệp hội khí quyển học và đại dương học quốc
gia Hoa kỳ (NOAA) thực hiện công việc này từ năm 1976 cho đến nay.
Trong bài báo cáo này, tôi sẽ sử dụng dữ liệu số vết đen của trung tâm phân tích dữ
liệu về tác động của Mặt trời (SIDC), Brussel, Bỉ.
Những số liệu này được tập hợp từ khoảng 70 trạm quan sát phân bố trên khắp thế giới
(10% ở Bỉ, 60% ở châu Âu, phần còn lại ở các châu lục khác), tất cả những chỉ số vết đen
này đều được tính theo công thức của Wolf với hệ số k ở mỗi trạm quan sát khác nhau là
khác nhau.
Ban đầu, SIDC tập hợp số liệu của khoảng 40 trạm sau đó công bố, nhưng số vết đen
này chỉ được xem là số vết đen tạm thời mà thôi. Sau khi đã tập hợp đủ số liệu của tất cả các
đài quan sát chuyển về, SIDC mới tính toán cho ra số vết đen lần thứ hai, nếu giá trị có sự
sai lệch không vựơt quá 5% thì số liệu vết đen ban đầu được xem là số vết đen chính thức,
nếu vượt quá 5% thì số vết đen lần hai được xem là số vết đen chính thức và được công bố
lại.
Vì số vết đen ở mỗi trạm quan sát khác nhau thì khác nhau, và số vết đen cũng thay
đổi hằng ngày, vì vậy để cho tiện trong việc tính toán, người ta đã tìm cách làm trơn số vết
đen (Smoothed Sunspot Number), thực chất là tính tổng trung bình của 13 tháng trong đó
tập trung vào tháng cần làm trơn.
Công thức làm trơn số vết đen tháng:
6 6
5 4 3 2 1 1 2 3 4 5
2 2
12
ms
R RR R R R R R R R R R R
R
− +
− − − − − + + + + ++ + + + + + + + + + + +
=
(1.8)
Trong đó:
RRmsR: số vết đen tháng đã được làm trơn.
R: số vết đen của tháng cần làm trơn.
RR+iR: số vết đen của tháng sau tháng cần làm trơn i tháng.
RR-iR: số vết đen của tháng trước tháng cần làm trơn i tháng.
Các số liệu vết đen này có thể được lấy từ trang web sau: 5TUwww.sidc.oma.beU5T.
Số liệu hằng ngày có cấu trúc như sau:
Cột thứ nhất: năm, tháng và ngày.
Cột thứ hai: năm và phần trăm của năm (theo năm Julian: 365,25 ngày).
Cột thứ ba: số vết đen.
Cột thứ tư và thứ năm: số vết đen ở nửa cầu Bắc và nửa cầu Nam của Mặt trời.
Ví dụ: số liệu vết đen hằng ngày từ ngày 01/01/2008 đến ngày 05/01/2008.
(1) (2) (3) (4) (5)
20080101 2008.000 7 0 7
20080102 2008.003 7 0 7
20080103 2008.005 7 0 7
20080104 2008.008 10 0 10
20080105 2008.011 8 8 0
Số liệu hàng tháng: là trung bình số vết đen của tháng được công bố, có cấu trúc
như sau:
Cột thứ nhất: năm và tháng.
Cột thứ hai; năm và phần trăm của năm (năm Julian =365,25 ngày).
Cột thứ ba : số vết đen.
Cột thứ tư: số vết đen hàng tháng đã được làm trơn.
Ví dụ: số vết đen từ 01/2008 đến 08/2008.
(1) (2) (3) (4)
200801 2008.041 3.3 4.2
200802 2008.123 2.1 3.6
200803 2008.205 9.3 3.3
200804 2008.287 2.9 3.4
200805 2008.372 3.2 3.5
200806 2008.454 3.4 3.3
200807 2008.539 0.8 2.8
200808 2008.624 0.5 2.7
Số vết đen hằng năm: là trung bình số vết đen của năm được công bố.
Cột thứ nhất: năm (lấy ngay giữa).
Cột thứ hai: số vết đen trung bình năm.
Ví dụ: số vết đen từ năm 2008 và 2009.
(1) (2)
2008.5 2.9
2009.5 3.1
2.1.2. Các chỉ số địa từ
Các vụ bùng nổ Mặt trời, các tai lửa và CME theo gió Mặt trời đến Trái đất làm biến
đổi từ trường của Trái đất. Vì vậy các chỉ số địa từ cũng là một thông số đánh giá hoạt động
mặt trời một cách hiệu quả.
Có các chỉ số từ như là: Dst, Kp, Ap.
Chỉ số nhiễu loạn Dst (Disturbance Storm Time Index): là chỉ số biểu diễn sự biến
thiên của thành phần nằm ngang của từ trường Trái đất, do Sugiura đề xuất 1964.
Chỉ số hành tinh Kp (Planetary Index): chỉ số này thể hiện mối quan hệ giữa gió Mặt
trời và mức nhiễu loạn của trường địa từ, do Bartel đề xuất năm 1930, chỉ số này được rút ra
từ các trạm đo đạc trên khắp thế giới và được tính trên thang giả Logarith.
Chỉ số ap: tương tự như chỉ số Kp nhưng lấy trên thang giả tuyến tính.
Chỉ số Ap (A Index): là chỉ số thể hiện sự biến thiên của địa từ trong một ngày và
được lấy trên thang đo tuyến tính.
Bảng 2.1. Mối liên hệ giữa Kp và Ap
K
Giá trị biến thên
nT
A
0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
0-4
5-9
10-19
20-39
40-69
70-119
120-199
200-329
330-499
≥ 500
0
3
7
15
27
48
80
140
240
400
Các chỉ số Dst ,Kp và Ap có thể lấy từ trang web: 5TU
Số liệu từ trang web này có cấu trúc như sau:
Cột (1): năm, tháng, ngày.
Kp có 8 giá trị từ 0, 0+, 1- ..... 9-, 9.
ap có 8 giá trị từ 0, 2, 3, 4, ......
Ap có một giá trị.
Ví dụ chỉ số Kp và Ap từ ngày 01/0102008 đến ngày 10/01/2008.
(1) Kp [8] sum ap [8] Ap
20080101 2-2-1-1 1-1-1-1 8 6 6 3 4 3 3 3 4 4
20080102 0+0 0+0+0+1-1 0+ 3+ 2 0 2 2 2 3 4 2 2
20080103 0 1-0+0+0+0 0+1- 3- 0 3 2 2 2 0 2 3 2
20080104 0 0 0 1-1-1 0+2- 4+ 0 0 0 3 3 4 2 6 2
20080105 2 3 4-4-4-3 4-4 27- 7 15 22 22 22 15 22 27 19
20080106 3-4-3 2+3 4-4-3+ 25+ 12 22 15 9 15 22 22 18 17
20080107 4 4-2+3 3 1+1+3- 21+ 27 22 9 15 15 5 5 12 14
20080108 2+3 3-3 2+4-3+3 23+ 9 15 12 15 9 22 18 15 14
20080109 3+2+2+2-1 1 1 2- 14+ 18 9 9 6 4 4 4 6 8
20080110 2 1-1 1 1+1 1-1 9- 7 3 4 4 5 4 3 4 4
2.1.3. Thông lượng 10,7 cm:
Thông lượng 10,7 cm (F10,7 cm) là năng lượng bức xạ toàn phần của Mặt trời trong
một đơn vị thời gian qua một diện tích cho trước xung quanh bước sóng vô tuyến 10.7 cm,
tương đương với tần số 2,8 GHz.
Số liệu này được công bố từ tháng 2 năm 1947, đơn vị là sfu (solar flux unit).
1sfu = 10P-22P.mP-2P.HzP-1
Số liệu về F10,7 được công bố trên trang web:
5TU có cấu trúc như sau:
Cột thứ nhất: năm .
Cột thứ hai: tháng.
Cột thứ ba: ngày.
Cột thứ tư: thông lượng bức xạ F10,7 cm.
Ví dụ: F10,7 cm từ ngày 01/01/2008 đến 05/01/2008.
2008 01 01 79
2008 01 02 80
2008 01 03 79
2008 01 04 79
2008 01 05 80
2.1.4. Bùng nổ Mặt trời.
Khi công bố số liệu bùng nổ Mặt trời người ta chỉ quan tâm đến 3 loại C, M, X vì loại
B có năng lượng bức xạ không đáng kể. Số liệu bùng nổ Mặt trời có thể lấy trên trang web
U
Số liệu này được cho cùng với thông lượng bức xạ F10,7 cm, số vết đen, diện tích vết
đen,trong đó các loại bức xạ trong bùng nổ Mặt trời thể hiện ở cột 10, 11, 12 tương ứng
với ba cấp C - M – X.
Ví dụ:
C M X
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12. 13 14 15 16
2008 01 01 79 11 30 0 -999 A0.0 1 0 0 1 0 0 0
2008 01 02 80 13 30 0 -999 A0.0 1 0 0 0 0 0 0
2008 01 03 79 13 20 0 -999 A0.0 0 0 0 0 0 0 0
2008 01 04 79 26 30 1 -999 A0.0 0 0 0 0 0 0 0
2008 01 05 80 12 20 0 -999 A0.0 0 0 0 0 0 0 0
2.2. Dự báo về chu kỳ hoạt động Mặt trời thứ 24.
Nhìn chung việc dự đoán hoạt động Mặt trời dựa trên nghiên cứu hoạt động của các
chu kỳ trước. Những dự đoán cho một chu kỳ thường đựợc đưa ra vào thời gian cực tiểu của
chu kỳ trước đó. Hiện có rất nhiều dự đoán cho chu kỳ thứ 24 với việc sử dụng những
phương pháp khác nhau chẳng hạn như: phương pháp khí hậu học (Climatology _C),
phương pháp khí hậu học hiện tại (Recent Climatology _R), phương pháp dựa trên mô hình
Dynamo Mặt trời (Dynamo Model_D), phương pháp dựa vào quang phổ (Spectral_S),
phương pháp dựa vào từ trường còn sót lại của những chu kỳ trước (Precursor_P), phương
pháp dựa vào mạng Nơtron (Neutral Network_N), được thống kê trong bảng sau.
Bảng 2.2. Tập hợp những tiên đoán cho chu kỳ hoạt động thứ 24 của Mặt trời.
Số VĐMT cực
đại
Thời gian đạt
cực đại
Phương
pháp
dự
đóan
Tác giả và thời gian dự
đoán
185 2010 – 2011 C Horstman (2005)
180± 32 - P Thompson (1993)
180 2014 S
Tsirulnik, Kuznetsova,
and
Oraevsky (1997)
152–197 - P
Podladchikova, Lefebvre,
and
Van der Linden (2006)
155–180 - D
Dikpati, de Toma, and
Gilman
(2006)
160± 25 - P
Hathaway and Wilson
(2006)
160± 54 2010.6 R Current work
148 P aa_min (2006)
145 2009.96 N Maris and Oncica (2006
145± 30 2010 D
Hathaway and Wilson
(2004)
145 2011 – 2012 N Gholipour et al. (2005)
144 - P Jain (2006)
142± 24 - P Kane (2007)
140 2012.5 P Chopra and Dabas (2006)
135± 20 P Modified Feynman (2006)
134± 50 2011.7 C
Kennewell and Patterson
(2006)
133 2009.5 C
Mavromichalaki, and
Giouvanellis (2006)
130± 15 - P Tlatov (2006)
124± 30 - P Nevanlinna (2007)
124 ± 23 - P Dabas et al. (2008)
122± 6 2010.88 C
Kim, Wilson, and
Cucinotta
(2006)
120± 60 2011.167 C Euler and Smith (2006 )
116± 13.2 2012 – 1013 S Echer et al. (2004)
115± 30 - P Rabin (2007)
115± 28 2010.5 P Sello (2006)
115± 15 - P Tlotov (2006)
115 ± 13 - P Tlotov (2006)
114,8± 17,4 - C Du and Du (2006)
114± 43 - C Prochasta (2006)
112 - S Xu et al.(2008)
111± 18 - P Thompson (2008)
110 ± 65 2/2011 C Euler and Smith (2006)
110± 15 - S De Meyer (2003)
110± 11 2012 S Hiremath (2008)
110± 10 - P Tlotov (2006)
108 ± 38 2011 C Lantons (2006)
105± 9 2010- 2011 S Kane (1999)
101± 20 2012.5 S Current work
83,2- 119,4 2012.21 C Wang et al (2002)
91,9± 27,9 2011.4 S Roth (2006)
90,7± 9,2 P Hamind and Galal (2006)
87,5± 23,5 S Duhau (2003)
80± 21 2012 S Baranovski (2006)
80± 30 2012 P Schatten (2005)
80 D
Choudhuri, Chatterjee,
and Jiang (2007)
Hình 2.1. Trong biểu đồ biểu thị số vết đen bên trên, cao điểm theo đo đạc của chu
kỳ mặt trời gần đây nhất (chu kỳ 23) được hiển thị màu xanh, và cao điểm theo dự
tính của các nhà khoa học trong chu kỳ tới đây (24) được hiển thị màu đỏ
(Internet)
74± 10 P Javaraiah (2007)
70± 2 P
Svalgaard, Cliver, and
Kammide (2005)
70± 17,5 2012,96 S Kontor (2006)
Trong khi đó, 7Tmột nhóm các chuyên gia được chỉ đạo bởi Cơ quan Khí quyển và Đại
dương quốc gia (NOAA) và được tài trợ bởi NASA, nhóm nghiên cứu bao gồm 12 thành
viên đến từ 9 viện nghiên cứu và cơ quan chính phủ khác nhau7T 7Tđã đưa ra dự đoán về chu kỳ
tiếp theo của mặt trời, cho rằng chu kỳ thứ 24 sẽ lên tới đỉnh vào tháng 5 năm 2013 với số
lượng các điểm đen dưới mức trung bình, tối đa là 90 vết đen, theo ông7T Doug Biesecker7T,
7Tchủ tịch trung tâm dự báo thời tiết vũ trụ của NOAA.7T Nếu dự đoán của họ là chính xác thì
chu kỳ thứ 24 được xem là chu kỳ có số vết đen thấp nhất kể từ chu kỳ thứ 17 với 78 vết
đen. Mặc dù chu kỳ có số vết đen dưới mức trung bình nhưng cũng có thể gây ra thời tiết vũ
trụ khắc nghiệt.
7T ừ những số vết đen Mặt trời làm trơn (SSN) hàng tháng, hàng năm người ta vẽ được
đồ thị biễu diễn số vết đen Mặt trời. 7TCác nhà thiên văn lưu ý các đồ thị này có hình dáng
giống hoạt động của một chiếc nôi, đi lên rồi xuống với chu kỳ xấp xỉ 11 năm. Dự báo cực
đại và cực tiểu rất khó khăn vì các chu kỳ dao động từ 9 tới 14 năm. Một số cực đại rất cao,
nhưng số khác lại thấp. 7TCực tiểu thường rất ngắn, chỉ kéo dài trong một hai năm, nhưng đôi
khi chúng cũng diễn ra lâu hơn.
Theo Hathaway từ trung tâm Marshall Space Flight đưa ra những dự đoán lần sau
cùng, theo ông thì cực đại Mặt trời rơi vào tháng 6 năm 2013 với cực đại đạt được vào
khoảng 58 vết đen.
Ta thấy rằng có khá nhiều tiên đoán cho chu kỳ Mặt trời thứ 24 còn Mặt trời thì hoạt
động theo “suy nghĩ” của riêng nó khó mà đoán biết được. Vì vậy, chúng ta sẽ tiếp tục khảo
sát hoạt động thực tiễn của Mặt trời để xem dự đoán nào là chính xác.
2.3. Khảo sát chu kỳ hoạt động thứ 24 của Mặt trời.
2.3.1. Sơ lược chu kỳ hoạt động thứ 23 của Mặt trời.
Chu kỳ 23 bắt đầu vào tháng 5 năm 1996.
Đạt cực đại vào tháng 4 năm 2000.
Biên độ cực đại là 120,8.
Chu kỳ 23 có một cực đại phụ vào tháng 11 năm 2002.
Bảng 2.3. Số liệu vết đen làm trơn hàng năm trong chu kỳ thứ 23.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
200
8
SSN 8.6 21.5 64.3 93.3 120.8 111 104 63.7 40.4 27.8 15.1 7.5 2.8
Bảng 2.4. Những vụ BNMT tiêu biểu trong chu kỳ 23
Thứ hạng Thời gian Loại
1
2
3
4
5
04/11/2003
02/04/2001
28/10/2003
07/09/2005
15/04/2001
X 28+
X 20
X 17.5
X 17
X 14.4
Hình 2.2. Dự đoán về chu
kỳ thứ 24 (Internet)
6
7
8
29/10/2003
06/11/1997
05/12/2006
X 10
X 9.4
X 9
Bảng 2.5. Số vụ CME xảy ra trong chu kỳ thứ 23.
Năm CME
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Không có
2 vụ
3 vụ
4 vụ
10 vụ
21 vụ
16 vụ
8 vụ
6 vụ
7 vụ
2 vụ
2.3.2. Khảo sát chu kỳ hoạt động Mặt trời thứ 24 (giai đoạn đầu chu kỳ).
Một trong những dấu hiệu đánh dấu sự bắt đầu của
một chu kỳ là sự xuất hiện của vết đen (Sunspot) ở vĩ độ
cao (định luật Sporer) và có sự phân cực từ ngược -
Reversed polarity (định luật Hale-Nicholson). Sự phân
cực từ ngược ở đây chính là sự kết hợp của vết đen có
cực từ đối với cực từ của chu kỳ trước đó. Theo định luật
Sporer, vào cuối chu kỳ, vết đen thường trôi về gần xích
đạo Mặt trời, vậy vết đen mới xuất hiện phải ở vĩ độ cao
hơn khoảng 25PoP hay 30PoP.
Ngày 04/01/2008, một vết đen mặt trời xuất hiện ở
30PoP vĩ Bắc và NOAA đã đặt tên cho vết đen này là AR 10981, nó có kích thước khoảng
Hình 2.4. Vết đen AR 10981
(Internet)
bằng Trái đất chúng ta, tồn tại trong vòng 3 ngày từ ngày 4 đến ngày 6, có phân cực với vết
đen AR 10980. Sự xuất hiện của AR 10981 là dấu hiệu đánh dấu sự bắt đầu của một chu kỳ
hoạt động mới, chu kỳ thứ 24.
Trong khi chu kỳ 24 bắt đầu nhưng chu kỳ 23 vẫn chưa kết thúc vì trên thực tế chu kỳ
23 đến tận tháng 11 năm 2008 mới chấm dứt, vì vậy cả hai chu kỳ sẽ cùng tồn tại trong một
khoảng thời gian, theo dự đoán có thể là một năm hay có thể là nhiều hơn. Trong chu kỳ thứ
23 sự đảo cực từ diễn ra tương đối chậm và sau cực đại có những vụ BNMT và CME diễn
ra rất mạnh đây vẫn còn là một điều khó hiểu.
Theo NOAA dự đoán chu kỳ thứ 24 sẽ bắt đầu vào tháng 3 năm 2008 ± 6 tháng, như
vậy so với dự đoán của NOAA thì không có sự chênh lệch gì nhiều trong hoạt động thực
tiễn của Mặt trời.
Như vậy, để dễ dàng trong việc khảo sát hoạt động Mặt trời, tôi sẽ chọn khoảng thời
gian sau khi chu kỳ thứ 23 thực sự kết thúc (tháng 11 năm 2008), để tìm hiểu về hoạt động
của chu kỳ thứ 24.
2.3.2.1. Vết đen Mặt trời
Bảng số liệu vết đen SSN và SN hằng tháng trong thực tế từ tháng 12 năm 2008 đến
tháng 3 năm 2011 (theo 5TUwww.sidc.oma.beU5T).
Bảng 2.6: Số SSN từ tháng 12/ 2008 và năm 2009.
Tháng 12/2008 01/09 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12
SSN 1.7 1.8 1.9 2.0 2.2 2.3 2.7 3.6 4.8 6.2 7.1 7.6 8.3
Bảng 2.7: Số SSN từ tháng 1 đến tháng 5/ 2010.
Tháng 01 02 03 04 05
SSN 9.3 10.6 12.3 14.0 15.5
Bảng 2.8: Số SN từ tháng 6/2010 đến tháng 3/ 2011.
Tháng 06 07 08 09 10 11 12 01/2011 02 03
SN 13.6 16.1 19.6 25.2 23.5 21.5 14.4 19.0 29.4 56.2
Qua bảng thống kê số liệu cập nhật số vết đen hàng tháng và số vết đen được làm trơn
ta thấy rằng Mặt trời hoạt động một cách chậm rãi, số vết đen tăng dần vào đầu chu kỳ, vì
khảo sát cả những tháng gần với hiện nay (2011) nên không có đủ số liệu để làm trơn số vết
đen do đó tôi sẽ dùng số vết đen hàng tháng (SN) để thay thế cho số vết đen đã được làm
trơn (SNN).
Tuy nhiên theo số liệu cập nhật hằng ngày, thì Mặt trời tỏ ra khá yên tĩnh trong suốt
những ngày tháng 12 năm 2008, không cập nhật được số vết đen nào.
Bước sang năm 2009, trên Mặt trời mới lại xuất hiện vết đen lần nữa, hầu hết các vết
đen xuất hiện ở bán cầu Bắc hoặc bán cầu Nam rất ít trường hợp vết đen xuất hiện ở cả hai
bán cầu. Các vết đen tồn tại trong thời gian khá ngắn từ 1 đến vài ngày.
Những ngày trong năm 2009 quan sát có vết đen:
20090109 2009.024 7 7 0
20090110 2009.027 9 9 0
20090111 2009.029 10 10 0
20090112 2009.032 8 8 0
20090119 2009.051 7 0 7
20090211 2009.114 8 0 8
20090212 2009.117 7 0 7
20090213 2009.120 7 0 7
20090224 2009.150 8 8 0
20090225 2009.153 8 8 0
20090326 2009.232 7 7 0
20090421 2009.303 7 7 0
20090621 2009.470 7 0 7
20090622 2009.473 8 0 8
20090623 2009.476 7 0 7
20090624 2009.478 8 0 8
20090704 2009.506 14 0 14
20090705 2009.509 16 0 16
20090706 2009.511 14 0 14
20090707 2009.514 11 0 11
20090708 2009.517 12 0 12
20090709 2009.520 10 0 10
20090710 2009.522 9 0 9
20090723 2009.558 7 0 7
20090730 2009.577 7 7 0
20090901 2009.667 8 8 0
20090921 2009.722 8 0 8
20090922 2009.725 13 4 9
20090430 2009.328 8 0 8
20090504 2009.339 7 0 7
20090923 2009.728 20 12 8
20090924 2009.730 20 12 8
20090925 2009.733 17 9 8
20090926 2009.736 9 9 0
20090927 2009.739 7 7 0
20090928 2009.741 10 10 0
20090929 2009.744 9 9 0
20090930 2009.747 7 7 0
20091001 2009.750 7 7 0
20091011 2009.777 8 8 0
20091023 2009.810 11 11 0
20091024 2009.812 16 16 0
20090513 2009.363 7 7 0
20090514 2009.366 10 10 0
20090515 2009.369 9 9 0
20090516 2009.372 8 8 0
20090517 2009.374 9 9 0
20090518 2009.377 8 8 0
20090519 2009.380 7 7 0
20090522 2009.388 8 0 8
20090523 2009.391 8 0 8
20090531 2009.413 10 10 0
20090601 2009.416 11 11 0
20090602 2009.418 12 12 0
20090603 2009.421 11 11 0
20090604 2009.424 9 9 0
20090605 2009.426 8 8 0
20090617 2009.459 7 0 7
20091025 2009.815 19 19 0
20091026 2009.818 20 20 0
20091027 2009.821 20 20 0
20091028 2009.823 20 20 0
20091029 2009.826 16 16 0
20091030 2009.829 11 11 0
20091105 2009.845 7 7 0
20091106 2009.848 8 8 0
20091109 2009.856 8 8 0
20091110 2009.859 7 7 0
20091111 2009.862 7 7 0
20091112 2009.865 0 0 0
20091113 2009.867 7 0 7
20091114 2009.870 8 6 2
20091115 2009.873 7 7 0
20091116 2009.875 8 8 0
20091117 2009.878 0 0 0
20091118 2009.881 7 7 0
20091119 2009.884 17 17 0
20091120 2009.886 15 15 0
20091121 2009.889 9 9 0
20091122 2009.892 8 8 0
20091209 2009.938 7 7 0
20091210 2009.941 8 8 0
20091211 2009.944 8 8 0
20091212 2009.947 8 8 0
20091213 2009.949 9 9 0
20091214 2009.952 20 20 0
20091215 2009.955 24 24 0
20091216 2009.958 22 22 0
20091217 2009.960 17 17 0
20091218 2009.963 15 15 0
20091219 2009.966 16 16 0
20091220 2009.969 29 19 10
20091221 2009.971 30 17 13
20091222 2009.974 22 11 11
20091223 2009.977 17 8 9
20091224 2009.979 13 7 6
20091225 2009.982 0 0 0
20091226 2009.985 9 1 8
20091227 2009.988 10 0 10
20091228 2009.990 12 0 12
20091229 2009.993 12 0 12
20091230 2009.996 12 0 12
20091231 2009.999 14 0 14
20090429 2009.325 8 0 8
Nhìn chung ở giai đoạn đầu của chu kỳ số vết đen xuất hiện rải rác, tập trung trong
một số ngày rồi lại biến mất, số lượng cũng thay đổi, tăng dần. Những tháng cuối năm 2009,
Mặt trời tỏ ra hoạt động mạnh lên dần, số vết đen khá nhiều và thời gian sống lâu hơn đỉnh
điểm là ngày 21/12/2009 lên đến 30 vết đen, trong đó 17 vết ở bán cầu Bắc và 13 vết ở bán
cầu Nam. Đến năm 2010, Mặt trời như đã lấy lại được “phong độ”, nó hoạt động rất mạnh,
số vết đen tăng vọt hơn nhiều so với năm 2009 (xem phần phụ lục) báo hiệu Mặt trời đang
chuẩn bị bước vào giai đoạn “thức tỉnh” và có thể sẽ đạt cực đại vào thời gian sắp tới giống
như những dự đoán (tháng 5 năm 2013).
Những ngày Mặt trời hoạt động mạnh trong năm 2010:
20100206 2010.100 24 24 0
20100207 2010.103 25 25 0
20100208 2010.105 39 32 7
20100209 2010.108 37 29 8
20100210 2010.111 33 33 0
20100211 2010.114 29 29 0
20100212 2010.116 27 27 0
20100213 2010.119 28 28 0
20100214 2010.122 22 22 0
20100215 2010.125 20 20 0
20100216 2010.127 20 20 0
20100217 2010.130 28 16 12
20100804 2010.590 21 21 0
20100805 2010.593 34 27 7
20100806 2010.595 34 26 8
20100807 2010.598 32 19 13
20100808 2010.601 25 17 8
20100809 2010.604 36 28 8
20100810 2010.606 38 31 7
20100811 2010.609 44 37 7
20100812 2010.612 33 33 0
20100813 2010.615 27 27 0
20100814 2010.617 22 22 0
20100815 2010.620 25 25 0
20100816 2010.623 34 28 6
20100902 2010.669 40 40 0
20100903 2010.672 34 34 0
20100904 2010.675 40 40 0
20100905 2010.678 30 30 0
20101014 2010.784 26 9 17
20101015 2010.787 29 8 21
20101016 2010.790 34 9 25
20101017 2010.793 40 16 24
20101018 2010.795 42 18 24
20101019 2010.798 44 25 19
20101020 2010.801 36 22 14
20101021 2010.804 25 17 8
20101022 2010.806 25 17 8
20101023 2010.809 31 23 8
20101024 2010.812 42 33 9
20101025 2010.814 47 39 8
20101026 2010.817 44 37 7
20101110 2010.858 30 10 20
20101111 2010.861 32 16 16
20101112 2010.864 30 17 13
20101113 2010.867 43 23 20
20101114 2010.869 38 21 17
Năm 2011 được xem là năm mà theo các nhà khoa học cho rằng Mặt trời sẽ có những
hoạt động mạnh ảnh hưởng đến Trái đất chúng ta, số vết đen đột ngột tăng nhanh thậm chí
là tăng gấp đôi, bắt đầu vào đầu tháng 2/2011 Mặt trời có dấu hiệu hoạt động bất thường, số
vết đen liên tục tăng và đạt đến 100 vết đen vào ngày 08/03/2011, những ngày sau số vết
đen có vẻ giảm nhưng vẫn ở mức cao.
Số vết đen Mặt trời đầu năm 2011:
20110208 2011.105 39 31 8
20110209 2011.107 31 20 11
20110210 2011.110 21 9 12
20110211 2011.113 35 15 20
20110212 2011.116 37 17 20
20110213 2011.118 48 20 28
20110214 2011.121 53 27 26
20110215 2011.124 51 28 23
20110216 2011.127 48 26 22
20110217 2011.129 40 18 22
20110218 2011.132 49 30 19
20110219 2011.135 50 35 15
20110220 2011.138 42 33 9
20110221 2011.140 29 29 0
20110222 2011.143 23 23 0
20110223 2011.146 19 19 0
20110224 2011.149 13 13 0
20110225 2011.151 10 10 0
20110226 2011.154 26 18 8
20110227 2011.157 27 20 7
20110228 2011.159 31 31 0
20110301 2011.162 47 34 13
20110302 2011.165 37 25 12
20110303 2011.168 52 43 9
20110304 2011.170 70 59 11
20110305 2011.173 76 58 18
20110306 2011.176 92 68 24
20110307 2011.179 98 76 22
20110308 2011.181 100 79 21
20110309 2011.184 80 69 11
20110310 2011.187 67 60 7
20110311 2011.190 59 59 0
20110312 2011.192 59 59 0
20110313 2011.195 66 66 0
20110314 2011.198 43 43 0
20110315 2011.201 34 34 0
Hình 2.5. Hình dạng thực tế của hoạt động Mặt trời cho đến đầu năm
2011(Internet)
Dựa theo số liệu từ trung tâm SIDC, các nhà khoa học đã đưa ra đồ thị thể hiện hoạt
động thực tiễn của Mặt trời.
So với những gì dự đoán thì đến thời điểm này tỏ ra khá phù hợp.
Hình 2.3. Dự
đoán và hoạt
động thực tiễn
của chu kỳ thứ
24 (Internet)
Giản đồ thể hiện vị trí của các vết đen theo vĩ độ
2.3.2.2. Bùng nổ Mặt trời.
Số trận BNMT trong giai đoạn đầu của chu kỳ thứ 24.
Theo số liệu từ 5TU
Ngay từ đầu chu kỳ, Mặt trời đã có những trận bùng nổ nhưng chỉ ở cấp độ nhẹ ,đáng
chú ý nhất là hai trận bùng nổ ngày 19/01/2010 và 14/02/2011, riêng trận bùng nổ ngày
14/2/2011 Mặt trời đã phát ra bức xạ với tốc độ lên đến 900 km/giây.
Cơ quan Khí tượng Trung Quốc cũng ghi nhận một trận bão từ cực lớn đã làm gián
đoạn sóng radio ở miền Nam nước này.
Hình 2.6. Giản đồ bướm (Internet)
Bảng 2.9: Những ngày có BNMT từ tháng 12 năm 2008 và 2009.
Thời gian Cấp độ
11/12/2008
05/07/2009
06/07/2009
25/09/2009
10/12/2009
16/12/2009
18/12/2009
19/12/2009
21/12/2009
22/12/2009
23/12/2009
C1
C1
C1
C1
C1
C3
C1
C1
C2
C5
C1
Bảng 2.10: Những ngày có BNMT từ năm 2010.
Thời gian Cấp độ Thời gian Cấp độ
02/01/2010
03/01/2010
04/01/2010
09/01/2010
12/01/2010
15/01/2010
17/01/2010
18/01/2010
19/01/2010
20/01/2010
21/03/2010
06/02/2010
C3
C1
C1
C1
C1
C1
C1
C1
C6, M2
C9, M4
C3
C5, M2
14/06/2010
16/10/2010
05/05/2010
07/05/2010
08/05/2010
12/06/2010
13/06/2010
17/10/2010
18/10/2010
19/10/2010
20/10/2010
25/10/2010
C1
M1
C2, M1
C1
C3
C2, M1
C6, M1
C2
C3
C2
C1
C1
07/02/2010
08/02/2010
09/02/2010
10/02/2010
11/02/2010
12/02/2010
13/02/2010
14/02/2010
15/02/2010
04/03/2010
12/03/2010
13/03/2010
14/03/2010
26/03/2010
27/03/2010
30/04/2010
01/05/2010
C5, M1
C18, M4
C3
C3
C1
C3
C4
C1
C1
C1
C1
C1
C1
C1
C4
C1
C1
26/10/2010
27/10/2010
31/10/2010
01/11/2010
03/11/2010
04/11/2010
05/11/2010
06/11/2010
07/11/2010
11/11/2010
12/11/2010
13/11/2010
15/11/2010
01/12/2010
02/12/2010
14/12/2010
15/12/2010
31/12/2010
C2
C1
C2
C1
C3
C1, M1
C1, M1
C4, M1
C1
C6
C5
C2
C1
C1
C1
M8.3
C1
C1
Bảng 2.11: Những ngày có BNMT đầu năm 2011.
Thời gian Cấp độ Thời gian Cấp độ
03/01/2011
04/01/2011
14/01/2011
15/01/2011
21/01/2011
22/01/2011
24/01/2011
27/01/2011
28/01/2011
14/02/2011
C1
C1
C2
C1
C7
C1
C1
C2
C2, M1
X 2.2
23/03/2011
24/03/2011
25/03/2011
26/03/2011
27/03/2011
28/03/2011
29/03/2011
30/03/2011
31/03/2011
C1, M1
C4, M1
C3, M1
C1
C3
C1
C2
C1
C3
14/03/2011
15/03/2011
16/03/2011
21/03/2011
22/03/2011
C5, M1
C6, M1
C3
C3
C4
01/04/2011
06/04/2011
07/04/2011
09/04/2011
11/04/2011
12/04/2011
C2
C3
C3
C1
C3
C3
2.3.2.3. Thông lượng bức xạ F10,7 cm.
Vào những ngày Mặt trời hoạt động mạnh dẫn đến sự biến thiên của thông lượng bức
xạ F10,7 cm, tôi sẽ khảo sát giá trị trung bình F10,7 cm ở giai đoạn đầu của chu kỳ.
Theo số liệu lấy từ U
Bảng 2.12: Thông lượng bức xạ F10,7 cm từ tháng 12/2008 và năm 2009.
Tháng 12/08 01/09 01 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12
F10,7 71,4 69,9 70,1 69,3 69,7 70,6 68,3 68,3 67,4 70,4 72,4 73,6 76,8
Bảng 2.13 : Thông lượng bức xạ F10,7 cm năm 2010.
Tháng 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12
F10,7 81,1 84,8 83,3 76,0 74,0 72,6 79,9 79,7 81,1 81,7 82,6 81,8
Bảng 2.14: Thông lượng bức xạ F10,7 cm đầu năm 2011.
Tháng 01 02 03
F10,7 83,7 94,5 115,3
Ở giai đoạn đầu của chu kỳ, thông lượng F10,7 không có sự biến thiên nhiều trong
năm 2009, sang năm 2010 có sự tăng giảm đột ngột cùng với các vụ bùng nổ mặt trời.
Bảng 2.15. Những ngày tiêu biểu thông lượng F10,7 cm có giá trị cao.
Thời gian F10,7
09/01/2010
10/01/2010
11/01/2010
12/01/2010
13/01/2010
14/01/2010
15/01/2010
06/02/2010
07/02/2010
08/02/2010
09/02/2010
10/02/2010
11/02/2010
12/02/2010
13/02/2010
82
84
91
93
91
90
85
88
90
94
91
91
94
96
94
Bảng 2.16. Thông lượng bức xạ F10,7 cm từ ngày 4 đến 13/04/2011.
Thời gian Số vết đen F10,7
04/04/2011
05/04/2011
06/04/2011
07/04/2011
08/04/2011
09/04/2011
10/04/2011
11/04/2011
83
65
56
73
97
56
56
80
113
109
117
112
109
105
105
106
Theo các chuyên gia thời tiết vũ trụ dự báo số vết đen và thông lượng F10,7 cm trong 12
tháng tới.
Bảng 2.17. Dự báo của thông lượng F10,7 cm
Thời gian Số vết đen F10,7
04/2011
05/2011
06/2011
07/2011
08/2011
09/2011
10/2011
11/2011
12/2011
01/2012
02/2012
03/2012
05/2012
32
33
35
37
39
40
42
43
43
44
44
45
108.2
111.7
115.4
118.7
120.9
122.5
124.9
126.7
128.4
130.0
131.5
132.9
Bảng 2.18. Một số vụ nổ CME trong giai đoạn đầu của chu kỳ
Thời gian CME
2009
2010
Đầu 2011
4 vụ
5 vụ
5 vụ
Các trận CME ở những năm 2009 và 2010 xuất hiện rải rác, riêng năm 2011, chỉ mới
tính đầu năm đã có khá nhiều vụ với mức độ cao.
Các vụ BNMT, các tai lửa, CME tạo nên sự biến đổi từ trường Trái đất, gây nên các
trận bão từ.
Bảng 2.19. Số trận bão từ xảy ra ở giai đoạn đầu của chu kỳ thứ 24.
( theo 5TU
Thời gian Mức độ
05/04/2010
06/04/2010
02/05/2010
04/08/2010
11/03/2011
Ap = 55_ mạnh
Ap = 44_ yếu
Ap =36 _yếu
Ap = 49_ yếu
Ap =37_ yếu
T7Theo tính toán của các chuyên gia thuộc Viện Vật lý Địa cầu (Viện KHCN Việt Nam),
số trận bão từ trong năm 2011 sẽ gia tăng với khoảng từ 20-25 trận và có cường độ khoảng
150-200nT. Nhiều khả năng, càng về cuối năm các trận bão sẽ có cường độ mạnh hơn, xuất
hiện thường xuyên hơn.
Theo thông tin cập nhật, ngày 15/02/2011 ở Mặt trời xảy ra sự phóng vật chất ở nhật
hoa_CME với cường độ rất mạnh, tiếp sau đó vào ngày 27/02/2011, ở Chi Lê xảy ra động
đất với 8.8 độ Richter. Tiếp đó vào ngày 10/03/2011 Mặt trời lại tiếp tục có CME với mức
độ mạnh hơn cả ngày 15/02. Liền sau đó hôm 11/03/2011 ở Nhật Bản xảy ra thảm hoạ động
đất với cường độ 9 độ Richter. Một số người tin rằng có một mối liên hệ nào đó giữa những
vụ CME xảy ra ở Mặt trời hay nói khác hơn là những hoạt động Mặt trời, được cảnh báo là
đang mạnh dần lên, với những thiên tai, thảm hoạ mà Trái đất phải hứng chịu. Thêm vào đó,
hiện nay trên các mạng thông tin xã hội có rất nhiều thông tin về ngày tận thế, dựa trên
những thảm họa gần đây mà chúng ta đã biết, và một số hiện tượng thiên văn như sự xuất
hiện của hai Mặt trời vào ngày 05/03/2011, Trung Quốc, hay hiện tượng siêu Mặt trăng.
Vậy, tất cả những việc này có phải do Mặt trời của chúng ta gây nên hay không? Ngày tận
thế có thật không ?
Xuất phát từ lời tiên tri từ bộ lịch cổ của người Maya, một bộ tộc được xem là thông
thái nhất ở vùng Bắc Mỹ, Mêxicô, theo họ, ngày Đông chí năm 2012, tức là ngày
21/12/2012 là ngày trục Bắc - Nam của Trái đất nghiêng về phía Mặt trời ở phía Bắc, hay
Trái đất cách xa Mặt trời nhất; ngày 21/12/2012 là ngày mặt phẳng Mặt trời, mặt phẳng Trái
đất và mặt phẳng dải Ngân hà giao nhau tại 8 điểm. Sự kiện này gây nên một biến chuyển
đến cả Trái đất và Mặt trời, gây ra các thảm họa chết chóc trên Trái đất. Khi đó, lực hấp dẫn
tác động lên hệ Mặt trời sẽ là cực đại. Đồng nghĩa, nhiều thảm họa xuất hiện như bão Mặt
trời, đổi cực Trái đất, và Trái đất chịu nguy cơ diệt vong.
Theo giáo sư địa chất Don Palmer, Trường Đại học Kent, ông cho rằng tâm dải ngân
hà ở cách xa Trái đất đến 2.500 triệu tỷ km. Nếu ví trái đất giống như quả bóng đá, thì trái
đất ở cách xa 24 m còn tâm dải ngân hà ở cách xa hơn 40 triệu km, như vậy là quá xa để
Trái đất của chúng ta có thể bị chịu ảnh hưởng.
Theo thạc sĩ Nguyễn Đức Phường, Hội Thiên văn - Vũ trụ Việt Nam, dù cho Trái đất
và Mặt trời có thẳng hàng với tâm dải Ngân hà, thì các lực hấp dẫn các hành tinh, tiểu hành
tinh gây ra cũng rất nhỏ so với lực hấp dẫn của Mặt trăng và Mặt trời đối với Trái đất, nên
không thể có việc Trái đất có nguy cơ diệt vong vì hiện tượng này.
Điều đáng quan tâm đến hiện nay, tác nhân chính gây ảnh hưởng đến Trái đất chính là
động đất, được biết trận động đất vừa qua ở Nhật bản đã làm cho Trái đất xê dịch đi 10 cm
trên trục của nó, nhưng so với khối lượng và kích thước của nó thì xê dịch này là không
đáng kể nên vẫn không có ảnh hưởng gì.
Hiện nay, có nhiều thông tin, giả thuyết giải thích hiện tượng động đất và sóng thần ở
Nhật Bản. Theo Phó Giám đốc Viện địa lý thuộc Viện hàn lâm khoa học Nga, nhà khoa học
Arkady Tishkov cho rằng trận động đất kinh hoàng với cường độ 9 độ richter ở Nhật Bản
ngày 11/3 có thể do vị trí của Mặt trăng và các quá trình hoạt tính của Mặt trời gây ra.
Thứ nhất, hiện tại Mặt trăng đang ở cách Trái đất khoảng 350.000 km điều này có thể
ảnh hưởng đến hoạt động của những dòng hải lưu, làm thay đổi chế độ thủy triều ở Thái
Bình Dương, qua đó có thể ảnh hưởng đến chuỗi núi lửa được gọi "vành đai lửa" của Thái
Bình Dương, và đặc biệt là Mặt trăng sẽ có tác động rất mạnh đến từ quyển của Trái đất.
Hình 2.7. Thảm họa động đất tại Nhật Bản (Internet)
Thứ hai, trong thời điểm xảy ra động đất, Mặt trời đang bước vào thời kỳ hoạt động
mạnh, với các luồng proton từ Mặt trời phóng đến Trái đất gây nên các trận bão từ rất mạnh.
Như vậy, những hoạt động Mặt trời thực chất có liên quan đến thời tiết Trái đất nhưng
không phải hoàn toàn là do Mặt trời mà còn nhiều nguyên do khác nữa, hiện thời các nhà
khoa học vẫn chỉ đưa ra những giả thuyết mà thôi chứ chưa có một văn bản nào đưa ra kết
luận chính xác về các hiện tượng này. Theo cảnh báo của NASA, năm 2012 và 2013 Trái
đất sẽ hứng chịu những trận bão từ lớn. Khi bão từ xuất hiện ở cường độ cao nó có thể làm
tê liệt hoàn toàn các hệ thống cung cấp phân phối điện lưới quốc gia, đặc biệt là các thiết bị
viễn thông điện tử hiện đại như vệ tinh, máy tính, hệ thống ngân hàng, hàng không, định
vị, Theo các nghiên cứu y học, bão từ cũng có ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người,
đặc biệt là những người mắc bệnh tim mạch, cao huyết áp.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Theo lý thuyết, MT cấu tạo từ một khối khí plasma có tính chất phức tạp, được chia là
nhiều lớp với đặc điểm về nhiệt độ, cấu trúc và mức độ hoạt động khác nhau. Tâm MT được
xem là lò phản ứng hạt nhân, thực chất là một khối khí plasma chuyển động phức tạp, quá
trình tổng hợp hạt nhân và chuyển động của các dòng plasma này được xem là nguồn gốc
năng lượng và bức xạ của MT. Như những ngôi sao bình thường khác, MT cũng tự bản thân
nó quay xung quanh trục của nó, đặc biệt sự tự quay này chênh lệch theo vĩ độ, chính sự tự
quay này là nguồn gốc gây nên các dạng hoạt động MT.
Ngày nay, bên cạnh VĐMT người ta biết được HĐMT có thêm những dạng khác diễn
ra ở các lớp khác nhau của Mặt trời. HĐMT là những biến đổi điện từ của nó, theo khảo sát
những hoạt động này lại có tính quy luật theo chu kỳ 11 năm nhưng thực chất chu kỳ hoạt
động từ trường Mặt trời lại là 22 năm, chu kỳ 11 năm của VĐMT được xem là một chu kỳ
riêng của chu kỳ HĐMT, tuy nhiên, chu kỳ 11 năm vẫn được sử dụng phổ biến hơn. So với
trước đây, các chuyên gia trong lĩnh vực này đã khá nắm vững những tính chất hoạt động
Mặt trời trong chu kỳ 11 năm qua các định luật Sporer, Hale – Nicholson, Joy, hiệu ứng
Waldmeier.
MT có sự nhớ từ và hoạt động có tính chu kỳ, các chuyên gia thời tiết vũ trụ đã đưa ra
những dự đoán cho chu kỳ thứ 24 dựa trên việc khảo sát những chu kỳ trước đó, có khá
nhiều tiên đoán về cực đại MT theo những phương pháp khác nhau, có nhiều giả thuyết cho
rằng cực đại HĐMT sẽ rơi vào khoảng tháng 5 năm 2013, dự đoán này được đánh giá là dự
đoán có tính khả thi nhất, sau khi tiến hành khảo sát giai đoạn đầu của chu kỳ 24 người ta
thấy có sự phù hợp khá tốt tính cho đến thời điểm này. Hiện tại, MT đang tỏ ra hoạt động
mạnh mẽ, với những vụ bùng nổ, CME, nói chung là bão MT, gây ảnh hưởng rõ rệt đến từ
trường Trái đất, theo các chuyên gia có thể trong năm 2011 này, Trái đất chúng ta có thể sẽ
phải hứng chịu đến 20 trận bão từ nữa.
KIẾN NGHỊ VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO
Việc nghiên cứu mối quan hệ Mặt trời – Trái đất là một việc làm hết sức cấp thiết có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng, vì thời điểm này chỉ là mới bắt đầu chu kỳ thứ 24 nên ta chưa
thể đánh giá cụ thể về chu kỳ này. Vì vậy, cần thiết phải có những nghiên cứu tiếp theo, làm
nền cơ sở cho việc dự báo và nghiên cứu những chu kỳ sau nữa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Hữu Danh (1998), Tìm hiểu Hệ Mặt Trời, NXB Giáo dục.
2. Trần Quốc Hà (2004), Giáo trình thiên văn học đại cương, NXB ĐHQG TP HCM.
3. Nguyễn Quang Riệu, Phạm Viết Trinh, Nguyễn Đình Noãn, Nguyễn Đình Huân,
Donat G.Wentzel (2000), Thiên văn Vật lí, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Trịnh Xuân Thuận (2007), Những con đường của ánh sáng – Vật lý và siêu hình học
của ánh sáng và bóng tối, NXB trẻ.
5. Phạm Viết Trinh, Nguyễn Đình Noãn (1995), Giáo trình Thiên Văn, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
Tiếng Anh
1. David H.Hathaway, ROBERT M. WILSON, What The Sunspot Record Tells Us About
Space Climate Solar Physics 2004/08/31.
2. DAVID H. HATHAWAY, ROBERT M. WILSON and EDWIN J. REICHMANN,
GROUP SUNSPOT NUMBERS: SUNSPOT CYCLE CHARACTERISTICS,
NASA/Marshall Space Flight Center, Huntsville, AL 35812, U.S.A.pace Climate.
3. Dermott J. Mullan, Physic of the Sun, University of Delaware Newark, USA.
4. Jia-Long Wang, Jian-Cun Gong, Si-Qing Liu, Gui-Ming Le and Jing-Lan Sun (2002),
The Prediction of Maximum Amplitudes of Solar Cycles and the Maximum Amplitute
of Solar Cycle 24.
5. William Dean Pesnell (2008), Predictions of Solar Cycle 24.
Các trang wed
1. 5TU cho biết cấu tạo và các thông số về Mặt trời.
2. 5TU cho biết một số
tính chất của chu kỳ hoạt động Mặt trời.
3. 5TU cho biết chỉ số Ap, đánh giá hoạt động bão từ.
4. 5TU cho biết các trận BNMT.
5. 5TUwww.sidc.oma.beU5T: cho biết các số liệu về vết đen MT và hình ảnh chụp MT từ các vệ
tinh.
6. 5TU cho biết về các số liệu
thông lượng bức xạ F10,7 cm và các số liệu khác về MT.
PHỤ LỤC
Các thông số về Mặt trời (theo 5TU
# Sunspot Stanford GOES15
# Radio SESC Area Solar X-Ray ------ Flares ------
# Flux Sunspot 10E-6 New Mean Bkgd X-Ray Optical
# Date 10.7cm Number Hemis. Regions Field Flux C M X S 1 2 3
#---------------------------------------------------------------------------
2011 01 08 85 52 180 0 -999 A7.2 0 0 0 0 0 0 0
2011 01 09 83 50 150 2 -999 A7.2 0 0 0 0 0 0 0
2011 01 10 83 35 140 1 -999 A7.2 0 0 0 0 0 0 0
2011 01 11 83 26 130 0 -999 A6.5 0 0 0 0 0 0 0
2011 01 12 80 23 80 0 -999 A6.8 0 0 0 0 0 0 0
2011 01 13 80 14 10 0 -999 A 7.3 0 0 0 0 0 0 0
Chỉ số VĐMT hàng tháng từ tháng 12 năm 2008 đến đầu năm 2011
(1) (2) (3) (4)
200812 2008.958 0.8 1.7
200901 2009.043 1.3 1.8
200902 2009.123 1.4 1.9
200903 2009.205 0.7 2.0
200904 2009.287 0.8 2.2
200905 2009.372 2.9 2.3
200906 2009.454 2.9 2.7
200907 2009.539 3.2 3.6
200908 2009.624 0.0 4.8
200909 2009.706 4.3 6.2
200910 2009.791 4.8 7.1
200911 2009.873 4.1 7.6
200912 2009.958 10.8 8.3
201001 2010.042 13.2 9.3 *
201002 2010.122 18.8 10.6 *
201003 2010.204 15.4 12.3 *
201004 2010.286 8.0 14.0 *
201005 2010.371 8.7 15.5 *
201006 2010.453 13.6
201007 2010.538 16.1 *
201008 2010.623 19.6 *
201009 2010.705 25.2 *
Các chỉ số địa từ trong những ngày đầu năm 2011
:Product: Daily Geomagnetic Data DGD.txt
:Issued: 0030 UT 07 Feb 2011
#
# Prepared by the U.S. Dept. of Commerce, NOAA, Space Weather Prediction Center
# Please send comment and suggestions to SWPC.Webmaster@noaa.gov
#
# Last 30 Days Daily Geomagnetic Data
#
#
# Middle Latitude High Latitude Estimated
# - Fredericksburg - ---- College ---- --- Planetary ---
# Date A K-indices A K-indices A K-indices
2011 01 09 4 0 2 1 0 1 2 1 2 6 1 1 0 2 2 3 2 2 5 1 2 0 0 1 2 2 2
2011 01 10 4 3 1 1 1 1 0 1 0 7 2 1 3 3 3 0 1 0 5 3 1 1 1 1 0 1 1
2011 01 11 5 0 2 0 2 2 2 1 2 7 0 1 0 0 3 4 2 1 5 1 2 0 0 2 2 2 3
2011 01 12 5 1 2 1 2 1 1 2 1 5 1 1 1 3 3 0 1 0 6 2 2 1 2 1 1 1 1
2011 01 13 4 2 1 0 0 2 1 2 2 7 0 1 0 1 3 3 2 3 6 2 1 0 0 1 2 2 3
2011 01 14 6 2 1 2 2 2 2 1 1 13 1 1 4 2 4 4 2 1 7 1 2 2 1 2 3 1 2
2011 01 15 2 0 2 1 1 2 1 1 0 6 0 1 1 2 4 2 0 0 5 1 2 1 1 2 1 1 1
2011 01 16 3 1 1 0 0 2 2 1 0 2 1 0 0 0 1 1 1 1 3 1 0 0 0 2 1 1 1
2011 01 17 4 2 2 2 1 1 1 0 1 4 3 0 1 2 1 0 0 1 4 2 2 1 1 1 1 1 1
2011 01 18 3 2 1 1 0 1 1 1 1 2 1 1 1 0 0 0 1 1 3 2 0 1 0 0 1 0 2
2011 01 19 5 1 1 1 2 2 2 2 1 16 1 1 2 5 5 2 2 1 6 1 2 2 2 2 1 1 1
2011 01 20 4 0 1 1 2 1 2 1 0 7 0 0 1 4 3 0 0 0 3 0 1 1 2 2 0 0 0
2011 01 21 2 0 1 0 0 2 2 0 0 3 0 0 0 0 2 3 0 0 3 0 0 0 0 2 2 1 1
2011 01 22 3 1 2 1 0 1 2 1 0 2 1 0 1 0 2 0 0 0 2 1 1 1 0 1 0 0 0
2011 01 23 1 0 0 0 0 1 1 0 0 2 0 0 0 2 2 0 0 0 2 1 0 1 0 1 0 0 0
2011 01 24 2 0 0 1 1 1 1 1 1 1 0 0 1 0 0 1 1 0 3 0 0 1 1 0 1 1 2
2011 01 25 3 2 0 1 0 1 1 0 2 4 2 0 1 2 3 0 0 0 4 2 1 1 0 1 1 1 2
2011 01 26 2 1 1 0 0 1 1 1 0 2 1 0 0 1 0 1 1 0 3 1 1 1 0 0 1 1 1
2011 01 27 2 1 0 1 1 1 0 1 0 2 0 0 1 2 1 0 0 0 3 1 0 1 1 1 1 2 0
2011 01 28 4 1 0 0 1 1 2 2 2 1 0 0 0 1 0 1 1 0 4 2 1 0 1 0 2 2 1
2011 01 29 3 2 1 0 1 2 2 0 0 2 1 0 0 2 0 1 0 0 4 3 1 0 1 1 1 0 1
2011 01 30 2 0 1 0 0 1 2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 1
2011 01 31 4 0 1 0 0 0 2 3 2 1 0 0 0 0 0 1 1 1 5 0 0 0 0 0 3 3 2
2011 02 01 7 2 2 2 1 2 3 2 1 12 2 0 4 1 1 5 2 1 8 2 1 2 1 1 4 3 1
2011 02 02 5 3 1 1 1 2 1 1 0 9 1 1 2 4 4 2 0 0 5 3 1 1 1 2 1 1 0
2011 02 03 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0 0 0 0 1
2011 02 04 12 1 3 2 1 1 2 4 4 13 1 2 2 0 1 2 4 5 21 1 3 2 1 1 2 6 5
2011 02 05 11 4 3 3 1 1 1 3 1 19 4 3 3 5 3 3 3 2 13 4 3 3 2 1 2 3 2
2011 02 06 -1 -1-1-1-1-1-1-1-1 -1 -1-1-1-1-1-1-1-1 11 2 3 3 3 3 2 2 2
2011 02 07 -1 -1-1-1-1-1-1-1-1 -1 -1-1-1-1-1-1-1-1 -1 -1-1-1-1-1-1-1-1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5885.pdf